Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao quyền tự chủ tài chính của các Trường dạy nghề trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 126 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục học thế giới đang có những chuyển biến mạnh mẽ và Việt Nam
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đổi mới giáo dục ở Việt Nam là một yêu
cầu cấp thiết đảm bảo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm cải cách giáo dục của
các nước có nền giáo dục phát triển là Chính phủ tăng quyền tự chủ tài chính
cho các trường công lập.
Thông qua các cuộc thảo luận về giáo dục Đại học, những vấn đề về tài
chính thường nổi bật do những quan điểm khác nhau của nhiều bên liên quan.
Các nhà hoạch định chính sách đang đặt ra câu hỏi liệu ngân sách Nhà nước
có thể tiếp tục chi bao nhiêu cho phát triển giáo dục giữa những đòi hỏi cấp
bách và cạnh tranh của rất nhiều mục tiêu khác (giáo dục phổ thông, chăm sóc
sức khỏe cộng đồng, phát triển giao thông công cộng, cải thiện môi trường ).
Nhu cầu về tri thức và đổi mới công nghệ, khoa học kỹ thuật ngày càng tăng
buộc các trường công lập phải tìm kiếm những nguồn thu ngoài ngân sách
Nhà nước để có thể nắm bắt kịp thời các cơ hội và vượt qua những thử thách
trong xu hướng hội nhập hiện nay. Vì vậy, để nâng cao chất lượng đào tạo thì
nhu cầu về đổi mới cơ chế quản lý trong công tác tài chính là rất cần thiết, đặc
biệt là đối với các trường đại học, cao đẳng.
Trong những năm qua, mặc dù điều kiện đất nước và ngân sách nhà
nước còn nhiều khó khăn, nhưng Nhà nước vẫn quan tâm dành một tỷ lệ ngân
sách đáng kể để đầu tư cho giáo dục. Với nguồn ngân sách đó, lĩnh vực giáo
dục và đào tạo đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong khi
nền kinh tế nước ta đã chuyển sang cơ chế thị trường được 20 năm, các cơ sở
giáo dục ngoài công lập ngày càng tăng, thì cơ chế tài chính giáo dục thực tế
2
vẫn chưa có thay đổi đáng kể về chất so với thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp.
Những kết quả bước đầu của cải cách tài chính công ở Việt Nam thời


gian gần đây đòi hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn
tới. Đồng thời, đó cũng là những bước đi mang tính thử nghiệm, nó cho phép
khẳng định khả năng cải cách tài chính công ở nước ta.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/6/2006 của Chính phủ ra đời với
chủ trương xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp, chuyển đổi cơ chế tài chính
của các cơ sở giáo dục đào tạo công lập theo hướng tự chủ, lấy nguồn thu sự
nghiệp để bù đắp chi phí cho đơn vị, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà
nước; tăng cường trách nhiệm và nâng cao tính chủ động sáng tạo của đơn vị
sự nghiệp và thủ trưởng đơn vị; tạo điều kiện tăng thu nhập, phúc lợi, khen
thưởng cho người lao động.
Sau một thời gian dài triển khai thực hiện, đối với các đơn vị sự nghiệp
giáo dục công lập trực thuộc Bộ Nông nghiêp và Phát triển nông thôn, Nghị
định 43/2006/CP đã đem lại kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện cho các đơn
vị trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài chính, đặc biệt là mở rộng quyền
được liên doanh liên kết với các tổ chức cá nhân, tổ chức hoạt động dịch vụ
phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao, được huy động vốn của cán bộ
viên chức trong đơn vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động
sự nghiệp.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cơ chế tài chính theo Nghị định
43/2006/CP vẫn còn một số tồn tại và khó khăn, đặc biệt là việc tìm kiếm
nguồn tài chính, Hơn nữa, phần lớn học sinh, sinh viên của các trường này là
ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, trong đó có nhiều đối
tượng ưu tiên được miễn, giảm học phí theo chính sách ưu đãi của nhà nước.
Vì thế cùng với mức học phí thấp, việc miễn, giảm học phí cho một bộ phận
3
không nhỏ học sinh, sinh viên làm các trường đã khó khăn lại càng khó khăn
hơn
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, tôi chọn đề tài: “Một
số giải pháp nhằm nâng cao quyền tự chủ tài chính của các Trường dạy
nghề trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn” làm đề tài luận

văn tốt nghiệp với mong muốn tìm hiểu thực trạng về quyền tự tài chính của
các Trường dạy nghề trực thuộc Bộ NN và PTNT với nghiên cứu điểm tại:
Trường cao đẳng nghề Cơ điện-Xây dựng và Nông lâm Trung Bộ và đề ra
một số giải pháp nhằm nâng cao quyền tự chủ tài chính tại đơn vị, đồng thời
hướng tới mục tiêu quyền tự chủ tài chính phù hợp với xu hướng phát triển
của đất nước và của nhà trường.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở đánh giá thực trạng về thực hiện quyền tự chủ tài chính, luận
văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao quyền tự chủ tài chính của các
Trường dạy nghề trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về tự chủ tài chính đối với hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Đánh giá thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền
tự chủ tài chính của các trường dạy nghề trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao quyền tự chủ tài chính của các
trường dạy nghề trực thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế tự chủ tài chính của các trường dạy nghề
công lập trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
4
Phạm vi nghiên cứu:
- Tình hình thực hiện cơ chế chủ tài chính của các trường dạy nghề công
lập trực thuộc Bộ NN và PTNT
- Khảo cứu thực tiễn về thực hiện quyền tự chủ tài chính của Trường cao
đẳng nghề Cơ điện-Xây dựng và Nông lâm Trung Bộ
Thời gian nghiên cứu: 3 giai đoạn
- Năn 2001, năm 2006 (NĐ 10/2002/CP) và năm 2010 (NĐ 43/2006/CP)

4. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận thực hiện quyền tự chủ tài chính của các đơn vị
sự nghiệp công lập.
Chương 2: Những đặc điểm cơ bản về đối tượng nghiên cứu và phương
pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao quyền tự chủ tài
chính của các Trường dạy nghề trực thuộc Bộ NN và PTNT.
- Kết luận
- Tài liệu tham khảo
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN QUYỀN TỰ CHỦ TÀI CHÍNH
CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.1.1. Khái niệm, phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
1.1.1.1. Khái niệm đơn vị sự nghiệp công lập
Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có cấp thẩm quyền
của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội thành lập theo qui
định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ
quản lý Nhà nước.
Đơn vị sự nghiệp công lập là những đơn vị sự nghiệp được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập, có tư cách pháp nhân,
có con dấu và có tài khoản riêng để thực hiện nhiệm vụ hoạt động sự nghiệp,
nhằm cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa, thể
dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy
lợi, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, Trong quá trình hoạt
động sự nghiệp các đơn vị sự nghiệp công lập được Nhà nước cho phép tạo
lập các nguồn thu như: Thu phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt động sản xuất

dịch vụ của đơn vị.
Theo các văn bản pháp quy. Để xác định ĐVSN công lập dựa vào các
tiêu chuẩn sau:
- Có quyết định thành lập đơn vị sự nghiệp của cơ quan có thẩm quyền ở
Trung ương hoặc địa phương.
- Được Nhà nước cấp kinh phí và tài sản để hoạt động thực hiện nhiệm
vụ chính trị, chuyên môn và được phép thực hiện các khoản thu theo chế độ
Nhà nước quy định.
6
- Được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và ngân hàng để hoạt động
về lĩnh vực tài chính.
- Được thành lập tổ chức bộ máy, biên chế và bộ máy quản lý tài chính
kế toán theo chế độ Nhà nước quy định.
1.1.1.2. Phân loại đơn vị sự nghiệp công lập
* Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động
- ĐVSN kinh tế: Là đơn vị sự nghiệp gắn liền với các hoạt động kinh tế
của từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế như: Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Ngư
nghiệp, Thủy lợi, Thủy sản, Giao thông, công nghiệp, Thương mại, địa chính,
khí tượng thủy văn
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực thể dục thể thao bao gồm:
trung tâm huấn luyện thể dục thể thao, các liên đoàn, đội thể thao, các câu lạc
bộ thể dục thể thao.
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa thông tin bao gồm:
Các đơn vị nghệ thuật, bảo tàng, cơ quan báo chí, tạp chí, thư viện công cộng,
trung tâm thông tin triển lãm.
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đào tạo bao gồm:
Các cơ sở giáo dục công lập thuộc hệ thống giáo dục quốc dân như các cơ sở
giáo dục mần non, các trường tiểu học, trung học, các trường dạy nghề, các
trường cao đẳng, đại học, học viện
- ĐVSN công lập hoạt động trong lĩnh vực y tế bao gồm: Các cơ sở

khám chữa bệnh, trung tâm điều dưỡng.
- ĐVSN công lập hoạt động trong vĩnh vực văn hóa nghệ thuật bao gồm:
Các đoàn nghệ thuật, trung tâm chiếu phim quốc gia, nhà văn hóa, thư viện,
bảo tồn, bảo tàng, đài phát thanh, trung tâm báo chí xuất bản
- ĐVSN khác như các trung tâm kiểm định an toàn lao động, các đơn vị
dịch vụ tư vấn, dịch vụ giải quyết việc làm.
7
* Căn cứ vào khả năng tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tài chính, tổ chức
bộ máy, nhân sự của đơn vị sự nghiệp công lập.
Đơn vị sự nghiệp công lập bao gồm:
- ĐVSN công lập được giao quyền tự chủ về thực hiện nhiệm vụ, tài
chính, tổ chức bộ máy, biên chế
- ĐVSN công lập chưa được giao quyền tự chủ về thực hiện nhiệm vụ,
tài chính, tổ chức bộ máy, biên chế
1.1.2. Đặc điểm của đơn vị sự nghiệp công lập
- ĐVSN công lập là tổ chức hoạt động không vì mực tiêu lợi nhuận.
ĐVSN công lập có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ xã hội công cộng và những
dịch vụ xã hội công cộng và những dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt bình thường
của các ngành trong xã hội. Với chức năng và nhiệm vụ như vậy, nên những
hoạt động của ĐVSN hoàn toàn mang tính chất phục vụ nhằm thực hiện các
chức năng của Nhà nước và hoạt động của ĐVSN đặc biệt là hoạt động tài
chính không nhằm mục tiệu lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường, các sản phẩm dịch vụ do hoạt động sự
nghiệp tạo ra đều có thể trở thành hàng hóa cung ứng cho mọi thành phần
trong xã hội. Mà các hoạt động sự nghiệp này do các ĐVSN công lập được
nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp cho thị trường. Nhà nước tổ chức, duy trì
và tài trợ cho các hoạt động sự nghiệp để cung cấp những sản phẩm, dịch vụ
cho thị trường trước hết nhằm thực hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân
phối lại thu nhập và thực hiện chính sách phúc lợi công cộng. Do đó việc
cung ứng các hàng hoá này cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi

nhuận như hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đặc điểm đầu tiên của ĐVSN công lập xuất phát từ tính chất của dịch
vụ công. Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ trực tiếp các lợi ích thiết
yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và người dân do Nhà nước
8
đảm nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm đảm
bảo trật tự và công bằng xã hội. Dịch vụ công được cung ứng trước hết nhằm
đáp ứng lợi ích chung và lâu dài cho cộng đồng, xã hội. Việc cung ứng dịch
vụ cho thị trường chủ yếu không vì mục đích lợi nhuận như hoạt động SXKD.
ĐVSN công lập trong quá trình hoạt động được phép thu các loại phí, lệ phí
để bù đắp một phần hay toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên của đơn vị
nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước đồng thời cũng khuyến
khích các đơn vị hoạt động có hiệu quả hơn để cung ứng dịch vụ công ngày
càng tốt cho xã hội.
- Nguồn lực tài chính phục vụ chi hoạt động của ĐVSN công lập được
lấy từ nhiều nguồn khác nhau với những hình thức và phương pháp khác
nhau, tuy nhiên nguồn lực tài chính chủ yếu phục vụ cho hoạt động và duy trì
sự tồn tại của bộ máy tổ chức từ ngân sách Nhà nước cấp. Sự tồn tại và phát
triển của Nhà nước đòi hỏi phải có nguồn lực tài chính đảm bảo duy trì sự
hoạt động bình thường của các đơn vị. Các đơn vị này có nhiệm vụ phục vụ
lợi ích công, không đòi hỏi người được phục vụ trả thù lao. Do đó NSNN phải
cấp kinh phí để duy trì hoạt động của đơn vị này. Trong xu thế cải cách tài
chính công trong tổng ngân sách Nhà nước cấp đang có xu hướng giảm không
nhiều vẫn là nguồn kinh phí chủ yếu.
- ĐVSN công lập được thành lập và hoạt động trên cơ sở của pháp luật,
là đơn vị thực hiện các công việc trên cơ sở chấp hành các nhiệm vụ của pháp
luật, chỉ đạo thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước. Các ĐVSN công
lập trực tiếp hoặc gián tiếp trực thuộc cơ quan quyền lực của Nhà nước, chịu
sự lãnh đạo, gián sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực Nhà nước, chịu
trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ quan quyền lực đó.

1.1.3. Vai trò của các đơn vị sự nghiệp công lập trong nền kinh tế thị
trường
9
Các ĐVSN công lập là các đơn vị thực hiện cung cấp các dịch vụ xã
hội công cộng và các dịch vụ nhằm duy trì sự hoạt động của các ngành kinh tế
quốc dân. Hoạt động của các đơn vị này không nhằm mục tiêu lợi nhuận mà
chủ yếu mang tính phục vụ. Các đơn vị này chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế có các đơn vị sự nghiệp của các ngành như: nông nghiệp, lâm nghiệp,
giao thông, thủy lợi…Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận của
nền kinh tế và có vị trí quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Trong
thời gian qua, các ĐVSN công lập đã có nhiều đóng góp cho sự ổn định và
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Điều đó được thể hiện:
- Giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ công về giáo
dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đáp ứng nhu cầu về phát triển nguồn
nhân lực, chăm sóc sức khoẻ, nâng cao thể lực cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu
về đổi mới, phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Các dịch vụ do ĐVSN
cung cấp phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của đông đảo nhân
dân.
- ĐVSN công lập thông qua việc điều tiết các hoạt động cung cấp dịch
vụ của mình giúp Nhà nước đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch
vụ này, nhằm khắc phục các khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường. Đơn vị
sự nghiệp công lập trực tiếp cung ứng các dịch vụ đòi hỏi vốn đầu tư cao, ít
lợi nhuận mà tư nhân không muốn đầu tư.
- Hoạt động của ĐVSN sẽ hỗ trợ cho các ngành, các lĩnh vực kinh
doanh hoạt động bình thường, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đảm bảo
nguồn nhân lực, thúc đẩy hoạt động kinh tế phát triển và ngày càng đạt hiệu
quả cao hơn, đảm bảo và không ngừng nâng cao đời sống, sức khoẻ, văn hoá
tinh thần của nhân dân.
10
- Thông qua hoạt động thu phí, lệ phí theo quy định của Nhà nước đã

góp phần tăng cường nguồn lực cùng với nguồn ngân sách nhà nước đẩy
mạnh đa dạng hóa và xã hội hóa nguồn cung cấp các dịch vụ công.
1.2. CƠ CHẾ TÀI CHÍNH CỦA GIÁO DỤC
1.2.1. Khái niệm về cơ chế quản lý tài chính
Cơ chế quản lý tài chính được hiểu là tổng thể các nguyên tắc, phương
pháp và biện pháp tác động lên các hoạt động tài chính phát sinh của đơn vị
trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Như
vậy, về thực chất cơ chế tự chủ tài chính là một trong những phương thức của
cơ chế quản lý tài chính đơn vị sự nghiệp nói chung.
1.2.2. Nội dung của cơ chế tài chính giáo dục
Cơ chế tài chính của giáo dục được hiểu bao gồm 8 nội dung sau đây:
1. Xác định nhu cầu tài chính cho các mục tiêu phát triển giáo dục. Xác
định các nguồn lực từ ngân sách và xã hội và các giải pháp huy động và sử
dụng tài chính khả thi và hiệu quả, từ đó đảm bảo cân đối nhu cầu và nguồn
lực tài chính bền vững cho phát triển hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Quy định về trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà
nước trung ương và địa phương trong việc lập và thực hiện kế hoạch ngân
sách giáo dục.
3. Quy định về nguyên tắc xác định mức học phí mầm non, phổ thông,
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Quy định về thẩm quyền quyết
định mức học phí và xác định mức học phí của các cơ quan trung ương, địa
phương và các cơ sở giáo dục.
4. Xây dựng các chính sách của nhà nước hỗ trợ việc học tập của nhân
dân, quy định đối tượng không phải đóng học phí, miễn giảm học phí, đối
tượng được hỗ trợ chi phí học tập; đối tượng được hưởng học bổng chính sách
11
và trợ cấp xã hội; đối tượng được vay vốn ưu đãi để đi học. Quy định cơ chế
thực hiện miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập.
5. Xây dựng cơ chế và chính sách khuyến khích xã hội đầu tư cho giáo dục.
6. Quy định về lương và các chính sách khuyến khích đối với nhà giáo

và cán bộ quản lý giáo dục.
7. Quy định các nghĩa vụ và quyền hạn về tài chính của các cơ sở giáo dục.
8. Quy định về trách nhiệm và quyền giám sát, kiểm tra của các Bộ và
cơ quan quản lý nhà nước, người học, gia đình người học và xã hội đối với
việc sử dụng ngân sách giáo dục.
1.2.3. Đánh giá chung về cơ chế tài chính giáo dục của nước ta
Đầu tư cho giáo dục đào tạo của nước ta hiện nay bao gồm các nguồn
kinh phí sau: Ngân sách nhà nước (bao gồm cả: công trái giáo dục, vay nợ,
viện trợ); Các nguồn ngoài ngân sách nhà nước (học phí, các nguồn thu dịch
vụ khoa học công nghệ, đóng góp hảo tâm của các cá nhân, tổ chức ); trong
đó nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định.
Từ năm 2001 đến 2008, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đều tăng
hàng năm, năm sau cao hơn năm trước. Tỷ trọng chi của ngân sách Nhà nước
cho giáo dục trong GDP năm 2001 là 4,1% (bằng 15,5% tổng chi ngân sách
nhà nước), năm 2006 là 5,6% (bằng 18,4% tổng chi ngân sách nhà nước). Từ
năm 2008, Chính phủ đã dành 20% chi ngân sách cho giáo dục. Điều này thể
hiện rõ sự quan tâm của nhà nước đối với giáo dục, tuy nhiên GDP của nước
ta còn rất thấp trong khi cơ sở vật chất của ngành còn hết sức thiếu thốn, lạc
hậu, đời sống của giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục còn rất khó khăn
nhưng phải đảm bảo đáp ứng qui mô giáo dục tăng nhanh hàng năm với yêu
cầu nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Đây là mâu thuẫn rất lớn mà
ngành giáo dục đã và đang phải đối mặt.
12
Các kết quả đã đạt được:
- Nhà nước đã ưu tiên đầu tư cao cho giáo dục trong suốt 10 năm qua,
đến năm 2008 đã đạt 20% tổng chi ngân sách như Nghị quyết của Quốc hội.
Phần chi của nhà nước giữ vai trò quyết định sự phát triển của hệ thống giáo
dục quốc dân (chiếm 92,7% tổng chi ở các trường công lập và chiếm 78,2%
tổng chi toàn xã hội tại các trường công lập và ngoài công lập).
- Ngân sách nhà nước bước đầu đã tập trung cho các cấp học phổ cập,

vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn và phát triển đội ngũ nhà giáo.
- Nhà nước đã ban hành một số định mức phân bổ ngân sách chi
thường xuyên và chi đầu tư cho giáo dục.
- Đã ban hành một số văn bản về phân cấp quản lý và sử dụng ngân
sách giáo dục nhằm tăng quyền tự chủ tự, chịu trách nhiệm về tài chính của
các cơ sở giáo dục.
- Chính sách xã hội hóa giáo dục gần đây đã khuyến khích đầu tư của
xã hội cho giáo dục, nhất là việc phát triển các trường ngoài công lập ở giáo
dục mầm non, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và cao
đẳng, đại học đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
- Bên cạnh các chính sách tiền lương chung, nhà nước đã ban hành phụ
cấp theo lương đối với nhà giáo, tạo điều kiện để đảm bảo thu nhập cho giáo
viên, nhất là đối với giáo viên công tác tại vùng đặc biệt khó khăn.
- Một số chính sách cấp học bổng, miễn giảm học phí và cho vay đi học
đối với học sinh, sinh viên thuộc diện chính sách và người nghèo đã mang lại
hiệu quả thiết thực trong việc thực hiện công bằng xã hội.
- Một số quy định về kiểm tra, giám sát và công khai sử dụng tài chính
ở các cơ sở giáo dục bước đầu đã có tác động tích cực đến nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục.
13
Những tồn tại:
- Chậm đổi mới, chậm ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị
sự nghiệp công lập. Các Bộ chủ quản chưa phối hợp với Bộ Tài chính để ban
hành các văn bản hướng dẫn các đơn vị sự nghiệp trực thuộc, chưa có các quy
định cụ thể về việc liên doanh liên kết, về tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thành, chất lượng và kết quả hoạt động của đơn vị được giao quyền tự chủ
nên các đơn vị còn nhiều vướng mắc.
- Mức phân bổ ngân sách chi thường xuyên còn thấp, ở hầu hết các địa

phương không đảm bảo được cơ cấu chi 80% cho chi lương, các khoản có
tính chất lương, bảo hiểm và 20% chi ngoài lương theo Quyết định số
151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Mức chi đầu tư
xây dựng cơ bản còn thấp so với nhu cầu rất lớn của ngành.
- Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục chưa gắn chặt với các tiêu
chí đảm bảo chất lượng đào tạo (giáo viên, điều kiện về cơ sở vật chất ),
chưa làm rõ trách nhiệm chia sẻ chi phí đào tạo giữa nhà nước và người học ở
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, về cơ bản vẫn mang nặng tính bao
cấp và bình quân.
- Việc miễn, giảm học phí trong các cơ sở giáo dục do các trường phải
tự thực hiện. Còn thiếu những cơ chế cụ thể trong việc hỗ trợ học sinh thuộc
gia đình có hoàn cảnh khó khăn đi học được.
- Phương thức phân bổ và quản lý tài chính hiện nay giữa các bộ, ngành
trung ương và giữa trung ương với địa phương cho thấy sự bất cập trong quản
lý, giám sát nguồn ngân sách cho giáo dục. Việc kiểm tra, phê duyệt quyết
toán thu chi hàng năm là trách nhiệm của cơ quan chủ quản và cơ quan tài
14
chính đồng cấp. Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo không quản lý ngân sách
toàn ngành, thiếu thông tin để tổng hợp, theo dõi và đánh giá hiệu quả đầu tư
của ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục.
- Việc giao kế hoạch thu chi ngân sách hàng năm chưa gắn với kế
hoạch phát triển trung hạn và dài hạn của ngành, gây khó khăn cho việc chủ
động sắp xếp thứ tự ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính
sách và dự kiến kinh phí theo trần ngân sách được xác định trước để cân đối
giữa nhu cầu chi với khả năng nguồn lực tài chính công.
- Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài
chính trong các cơ sở giáo dục công lập chưa phát huy được hiệu quả. Với
nguồn ngân sách cấp hàng năm còn hạn hẹp và mức thu học phí rất thấp nên
các cơ sở giáo dục không thể có đủ nguồn lực để bổ sung thu nhập cho giáo
viên và tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng

giáo dục.
- Mặc dù đã có chủ trương và chính sách khuyến khích xã hội hoá giáo
dục, tuy nhiên vẫn chưa có cơ chế hữu hiệu nhằm huy động nhiều hơn nữa
các nguồn lực của xã hội đầu tư cho giáo dục.
Cơ chế tài chính giáo dục còn nhiều bất hợp lý, chưa góp phần tạo động
lực cho giáo dục và đào tạo tự phát triển nhanh với chất lượng ngày càng cao,
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Theo ý kiến của nhiều hiệu trưởng,
sự lệ thuộc về nguồn tài chính là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến khó khăn trong công tác quản lý. Trong tổng số nguồn lực tài chính của
các trường, ngân sách đào tạo chiếm 68%, học phí chiếm 26%, các khoản thu
khác chiếm 6% mà nguồn ngân sách phụ thuộc vào số lượng sinh viên nên để
gia tăng nguồn thu, các trường đều mở rộng quy mô đào tạo hoặc giảm hệ
chính quy, phát triển hệ đào tạo phi chính quy, trong khi không tăng được các
điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là về giáo viên. Phần lớn ngân sách ít ỏi
15
dành để chi thường xuyên, nhiều nhất là lương, nên không có tiền để đầu tư
phát triển. Kinh phí hạn chế tác động không nhỏ đến hoạt động nghiên cứu
khoa học, trả tiền dạy vượt giờ cho giáo viên… khiến cho mức thu nhập bình
quân của giảng viên tại các trường công lập thấp.
Không được tự chủ nên các trường khó huy động được những nguồn
lực khác, kể cả từ hợp tác quốc tế hoặc thậm chí có nguồn nhưng không có cơ
chế để chi.
Tóm lại: Trong những năm qua các quy định về cơ chế quản lý tài
chính cho quản lý giáo dục vẫn còn chậm đổi mới, còn nhiều bất hợp lý, hạn
chế sự năng động sáng tạo của các nhà trường. Trong khi đó, lẽ ra các trường
Đại học cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, tìm kiếm các nguồn
tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện có, đầu tư cho
tài sản tương lai và cân đối các nguồn tài chính thu và chi nhằm bảo đảm hệ
thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi.
Trước những bất cập nói trên và nhu cầu tăng chất lượng và quy mô

giáo dục, việc đổi mới cơ chế tài chính giáo dục trong thời gian tới là một yêu
cầu rất cấp thiết.
1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO QUYỀN TỰ CHỦ TÀI
CHÍNH TẠI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
1.3.1. Khái quát về sự cần thiết cải cách tài chính công
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, cải cách tài chính công là một đòi
hỏi khách quan và phù hợp với các điều kiện đảm bảo tính khả thi của cải
cách. Nó xuất phát từ thực trạng tài chính công hiện nay và yêu cầu về cải
cách hành chính nhà nước trong những năm tới.
Mục tiêu tổng thể về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-
2010 đã đặt ra yêu cầu cải cách tài chính công. Đó là: Tạo điều kiện cho chính
16
quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; phân biệt cơ
quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công; đổi mới cơ
chế phân bổ ngân sách, chuyển từ cấp kinh phí theo biên chế sang cấp kinh
phí căn cứ vào kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào kiểm soát đầu ra,
tăng quyền chủ động của đơn vị sử dụng ngân sách
Những kết quả bước đầu của cải cách tài chính công ở Việt Nam thời
gian gần đây đòi hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ hơn nữa trong giai đoạn
tới. Đồng thời, đó cũng là những bước đi mang tính thử nghiệm, nó cho phép
khẳng định khả năng cải cách tài chính công ở nước ta.
Nhận thấy cải cách tài chính công và cải cách hành chính nhà nước có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, những biến động của bộ phận này luôn tác
động kéo theo sự thay đổi của bộ phận kia. Do vậy, cải cách tài chính công
phải đặt trong mối quan hệ tổng thể của chương trình cải cách hành chính nhà
nước, phải đáp ứng được các yêu cầu của cải cách hành chính và hỗ trợ cho
quá trình này. Theo đó, cải cách tài chính công phải đáp ứng các yêu cầu sau:
* Phải tạo điều kiện tập trung nguồn lực tài chính nhà nước để giải quyết
các nhiệm vụ quan trọng, đúng với chức năng của nhà nước; sử dụng tập
trung nguồn lực cho các ưu tiên chiến lược với chính sách nhất quán, thống

nhất và thực tế.
* Phải nâng cao được tính chủ động, quyền hạn và trách nhiệm của các
đơn vị trong việc quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách và với vấn đề tài chính
của mình.
* Phải nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính nhà nước, bao
gồm hiệu quả quản lý, hiệu quả sử dụng NSNN trên bình diện vĩ mô và hiệu
quả sử dụng kinh phí ngân sách ở các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách.
* Phải hướng tới mục tiêu cuả cải cách hành chính nhà nước, đó là:
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng các
dịch vụ công được cung cấp.
17
1.3.2. Khái quát về những qui định của pháp luật về quyền tự chủ tài
chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Cải cách tài chính công là một trong bốn nội dung của chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 đã được Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001, trong đó,
cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với đơn vị sự nghiệp là bước đột phá. Để
triển khai chương trình này, ngày 16/01/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 10/2002/NĐ-CP về đổi mới cơ chế tài chính, trao quyền tự chủ cho
các đơn vị sự nghiệp có thu.
Mục đích của sự đổi mới này là thực hiện việc trao quyền tự chủ và tự
chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp trong việc sử dụng lao động và các
nguồn lực tài chính của đơn vị, tạo quyền tự chủ cho đơn vị sự nghiệp ; từ đó
tạo điều kiện cho các đơn vị chủ động sắp xếo lao động, tổ chức công việc,
quản lý tài chính.
Sau bốn năm thực hiện Nghị định 10/2001/NĐ-CP (2002-2005), cho
thấy cơ chế tài chính mới đã tạo hành lang pháp lý rộng hơn cho các đơn vị
trong việc quản lý tài chính ; các đơn vị rất phấn khởi, chủ động trong quá
trình sử dụng nguồn tài chính phục vụ cho các hoạt động của mình, thu nhập
của cán bộ, viên chức bước đầu được cải thiện đáng kể.

Bên cạnh những kết quả tích cực mà do cơ chế tài chính mới đem lại,
Nghị định 10/2002/CP cũng bộc lộ một số điểm bất cập. Để tháo gỡ những
khó khăn, vướng mắc đó, ngày 24/5/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập. Tại Nghị định này quy định các tổ chức khoa học và Công nghệ
(trước đây được gọi chung là các đơn vị sự nghiệp có thu và áp dụng cơ chế
18
tài chính theo Nghị định 10/2002/cp) thực hiện theo quy định tại Nghị định số
115/2005/NĐ-CP ngày 05/9/2005 của Chính phủ.
Nhằm khắc phục những hạn chế của Nghị định 10/2002/CP, ngày 25
tháng 4 năm 2006 Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ về tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập, đó là Nghị định số 43/2006/NĐ-CP.
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP có bốn mục tiêu, là:
- Trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho ĐVSN trong việc tổ chức
công việc, sắp xếp lại bộ máy, sử dụng lao động và nguồn lực tài chính để
hoàn thành nhiệm vụ được giao; phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung
cấp dịch vụ với chất lượng cao cho xã hội; tăng nguồn thu nhằm từng bước
giải quyết thu nhập cho người lao động.
- Thực hiện chủ trương xã hội hoá trong việc cung cấp dịch vụ cho xã
hội, huy động sự đóng góp của cộng đồng xã hội để phát triển các hoạt động
sự nghiệp, từng bước giảm dần bao cấp từ ngân sách nhà nước.
- Thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với ĐVSN, Nhà
nước vẫn quan tâm đầu tư để hoạt động sự nghiệp ngày càng phát triển; bảo
đảm cho các đối tượng chính sách xã hội; đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được cung cấp dịch vụ theo quy định
ngày càng tốt hơn.
- Phân biệt rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với ĐVSN với cơ chế quản
lý nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước.

Việc thực hiện quyền tự chủ theo Nghị định 43/2000/CP dựa trên bốn
nguyên tắc sau:
Một là, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đối với hoạt động sản xuất
hàng hoá, cung cấp dịch vụ phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao,
phù hợp với khả năng chuyên môn và tài chính của đơn vị.
19
Hai là, thực hiện công khai, dân chủ theo quy định của pháp luật.
Ba là, thực hiện quyền tự chủ phải gắn với tự chịu trách nhiệm trước cơ
quan quản lý cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về những quyết định của mình;
đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bốn là, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá
nhân theo quy định của pháp luật.
Điểm mới của Nghị định số 43/2006/CP quy định rõ, cụ thể tất cả các
loại hình ĐVSN gồm: ĐVSN có thu tự đảm bảo chi phí, ĐVSN đảm bảo một
phần chi phí và ĐVSN không có thu.
Các trường đại học, cao đẳng công lập trong hệ thống giáo dục quốc
dân là những đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động
thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp.
ĐVSN công lập được chia thành 3 loại hình như sau:
- Đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động gồm có các ĐVSN có mức thu
tự bảo đảm chi hoạt động thường xuyên bằng hoặc lớn hơn 100%
- Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động gồm các
ĐVSN có mức tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động thường xuyên từ 10%
đến 100%.
- Đơn vị sự nghiệp do ngân sách Nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí
hoạt động gồm có ĐVSN có mức bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên từ
10% trở xuống và các đơn vị không có nguồn thu.
Mức tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên được xác định theo
công thức sau:
Mức tự bảo đảm chi

phí hoạt động thường
xuyên của đơn vị (%)
Tổng số nguồn thu sự nghiệp
X 100%
Tổng số chi hoạt động thường xuyên
20
1.3.3. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đối với các trường
các trường dạy nghề công lập
Xuất phát từ nội dung cải cách tài chính công, phân biệt rõ cơ quan
hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 24/5/2006 quy định quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Trong đó các đơn vị sự nghiệp
công lập được trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tạo lập và sử
dụng nguồn tài chính để thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực hoạt động của
mình.
Đơn vị thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm phải là đơn vị dự
toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế toán theo quy
định của Luật Kế toán.
Các trường đại học, cao đẳng công lập trong hệ thống giáo dục quốc
dân là những đơn vị sự nghiệp có thu, tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động
thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp.
Theo Nghị định 43/2006/CP, quyền tự chủ về tài chính của các trường
dạy nghề công lập bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.3.3.1. Tự chủ về nguồn tài chính
a) Kinh phí do ngân sách nhà nước cấp, gồm:
- Kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
(sau khi đã cân đối nguồn thu sự nghiệp); được cơ quan quản lý cấp trên trực
tiếp giao, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền giao;

- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ (đối với đơn
vị không phải là tổ chức khoa học và công nghệ);
21
- Kinh phí thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Kinh phí thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Kinh phí thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đặt hàng (điều tra, quy hoạch, khảo sát, nhiệm vụ khác);
- Kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Kinh phí thực hiện chính sách tinh giản biên chế theo chế độ do nhà
nước quy định ;
- Vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua sắm trang thiết bị, sửa
chữa lớn tài sản cố định phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án được cấp có
thẩm quyền phê duyệt trong phạm vi dự toán được giao hàng năm;
- Vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài được cấp
có thẩm quyền phê duyệt;
- Kinh phí khác .
b) Nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, gồm:
- Phần được để lại từ số thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước theo
quy định của pháp luật;
- Thu từ hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên môn và khả
năng của đơn vị, cụ thể:
Sự nghiệp giáo dục đào tạo: Thu từ hợp đồng đào tạo với các tổ chức
trong và ngoài nước; thu từ các hoạt động sản xuất, tiền thu sản phẩm thực
hành thực tập, sản phẩm thí nghiệm; thu từ các hợp đồng dịch vụ khoa học và
công nghệ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
- Thu từ hoạt động sự nghiệp khác;
- Lãi được chia từ các hoạt động liên doanh, liên kết, lãi tiền gửi NH.
c) Nguồn viện trợ, tài trợ, quà biếu, tặng, cho theo quy định của pháp luật.
22
d) Nguồn khác, gồm:

- Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng, vốn huy động của cán bộ,
viên chức trong đơn vị;
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật.
1.3.3.2. Tự chủ về nội dung chi
Đi đôi với việc quy định nguồn tài chính thì Nghị định 43/2006/CP
cũng quy định rõ các nội dung chi cụ thể như sau:
a) Chi thường xuyên, gồm:
- Chi hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi phục vụ cho việc thực hiện công việc, dịch vụ thu phí, lệ phí;
- Chi cho các hoạt động dịch vụ (kể cả chi thực hiện nghĩa vụ với ngân
sách nhà nước, trích khấu hao tài sản cố định theo quy định, chi trả vốn, trả lãi
tiền vay theo quy định của pháp luật).
b) Chi không thường xuyên, gồm:
- Chi thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy và học tập;
- Chi thực hiện chương trình đào tạo bồi dưỡng cán bộ, viên chức;
- Chi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia;
- Chi công tác nghiên cứ khoa học;
- Chi vốn đối ứng thực hiện các dự án có nguồn vốn nước ngoài theo
quy định;
- Chi thực hiện các nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao;
- Chi thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ do nhà nước quy định;
- Chi đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn tài
sản cố định thực hiện các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
23
- Chi thực hiện các dự án từ nguồn vốn viện trợ nước ngoài;
- Chi cho các hoạt động liên doanh, liên kết;
- Các khoản chi khác theo quy định.
1.3.3.3. Tự chủ trong việc tạo lập các khoản thu và quy định mức thu
- Đơn vị sự nghiệp công lập có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các

tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để
đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt
động dịch vụ phù hợp với chức năng nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ
vay theo quy định của pháp luật.
- Các đơn vị sự nghiệp công lập được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giao thu phí, lệ phí phải thu đúng, thu đủ theo mức thu và đối tượng thu do
Nhà nước quy định.
Đối với những hoạt động liên doanh liên kết, đơn vị được quyết định
các khoản thu, mức thu cụ thể theo nguyên tắc bảo đảm đủ bù đắp chi phí và
có tích lũy.
1.3.3.4. Tự chủ về sử dụng nguồn tài chính
Căn cứ vào nhiệm vụ được giao và khả năng nguồn tài chính, thủ
trưởng đơn vị được quyết định một số mức chi quản lý, chi hoạt động nghiệp
vụ cao hơn hoặc thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy
định.
Căn cứ tính chất công việc, thủ trưởng đơn vị được quyết định phương
thức khoán chi phí cho từng bộ phận, đơn vị trực thuộc, quyết định đầu tư xây
dựng, mua sắm mới và sửa chữa lớn tài sản thực hiện theo quy định của pháp
luật và quy định tại Nghị định 43/2006/CP
Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động tuỳ theo lĩnh
vực và khả năng của đơn vị, được:
24
- Quyết định mua sắm tài sản, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất từ quỹ phát
triển hoạt động sự nghiệp, vốn huy động theo quy hoạch được cấp có thẩm
quyền phê duyệt.
- Tham dự đấu thầu các hoạt động dịch vụ phù hợp với lĩnh vực chuyên
môn của đơn vị.
- Sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết hoặc góp vốn liên doanh với các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để đầu tư xây dựng mua sắm trang thiết
bị phục vụ công việc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị theo quy

định hiện hành của nhà nước.
1.3.3.5. Quyền tự chủ trong việc huy động vốn và vay vốn tín dụng
Đơn vị sự nghiệp công lập có hoạt động dịch vụ được quyền vay vốn
của các tổ chức tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn
vị để đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức các
hoạt động dịch vụ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm
trả nợ vay theo quy định của pháp luật.
1.3.3.6. Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ
Với quan điểm trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự
nghiệp, Nhà nước đã cho phép các đơn vị sự nghiệp được chủ động xây dựng
quy chế chi tiêu nội bộ của mình, làm căn cứ để cán bộ, viên chức thực hiện
và cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện kiểm soát chi.
Quy chế chi tiêu nội bộ do thủ trưởng đơn vị sự nghiệp ban hành sau
khi tổ chức thảo luận rộng rãi dân chủ, công khai trong đơn vị và có ý kiến
thống nhất của đơn vị.
Nội dung quy chế chi tiêu nội bộ bao gồm các quy định về chế độ, tiêu
chuẩn, định mức, mức chi thống nhất trong đơn vị, đảm bảo hoàn thành
25
nhiệm vụ được giao, phù hợp với hoạt động đặc thù của đơn vị, sử dụng kinh
phí tiết kiệm có hiệu quả và tăng cường công tác quản lý.
Đối với đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động, thủ
trưởng đơn vị được quy định mức chi quản lý và chi nghiệp vụ cao hơn hoặc
thấp hơn mức chi do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Đối với một số tiêu chuẩn, định mức và mức chi đơn vị sự nghiệp phải
thực hiện đúng các quy định của Nhà nước:
- Tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô;
- Tiêu chuẩn, định mức về nhà làm việc;
- Chế độ công tác phí nước ngoài;
- Chế độ tiếp khách nước ngoài và hội thảo quốc tế ở Việt Nam;
- Chế độ quản lý, sử dụng kinh phí các chương trình mục tiêu quốc gia;

- Chế độ sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có
thẩm quyền giao;
- Chế độ chính sách thực hiện tinh giản biên chế;
- Chế độ quản lý, sử dụng vốn đối ứng dự án, vốn viện trợ thuộc nguồn
vốn ngân sách nhà nước;
- Chế độ quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí mua
sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định;
Thủ trưởng đơn vị căn cứ tính chất công việc, khối lượng sử dụng, tình
hình thực hiện năm trước, quyết định phương thức khoán chi phí cho từng cá
nhân, bộ phận, đơn vị trực thuộc hạch toán phụ thuộc sử dụng như: sử dụng
văn phòng phẩm, điện thoại, xăng xe, điện nước, công tác phí; kinh phí tiết
kiệm do thực hiện khoán được xác định chênh lệch thu chi và được phân phối,
sử dụng theo chế độ quy định.

×