Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
Học Viện Ngân Hàng
@& ?
BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề Tài: Thực Trạng Hoạt Động Cho Vay Khách Hàng Cá Nhân
Tại Ngân Hàng TMCP Công Thương Việt Nam - Chi Nhánh Hai
Bà Trưng
Thực tập sinh: Nguyễn Thị Phương Mai
1
Hà Nội, 7/2012
2
MỤC LỤC
3
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế phát triển tỷ lệ thuận với nhu cầu tiêu dùng của người dân, từ “ăn no,
mặc ấm” chuyển sang “ăn ngon, mặc đẹp”, do vậy nhu cầu chi tiêu cũng ngày càng
tăng, không những sử dụng khoản tài chính của mình mà họ còn có nhu cầu vay để
tài trợ cho tiêu dùng và nâng cao chất lượng cuộc sống. Quá trình cải cách mở cửa
và hội nhập kinh tế cũng cho thấy ngày càng rõ vai trò của các lực lượng kinh tế,
các chủ thể kinh tế ngoài quốc doanh như kinh tế hộ, kinh tế tư nhân, kinh tế cá
thể, kinh tế tổ nhóm…Các lực lượng này có đóng góp rất lớn vào công cuộc phát
triển của xã hội. Tuy nhiên, để lực lượng này phát triển về mặt tài chính phải có sự
hỗ trợ từ phía Nhà nước và cụ thể là hệ thống Tài chính – Ngân hàng.
Thực tế trong những năm gần đây các NHTM đã chú trọng hơn đến đối tượng
này. Đã có những sự điều chỉnh nhất định, đặc biệt về mô hình tổ chức cũng như
chiến lược hoạt động nên đã gặt hái được kết quả rất khả quan cả về tỷ trọng cũng
như chất lượng tín dụng. Nhờ vốn cho vay của ngân hàng mà hàng triệu hộ nông
dân, hàng vạn kinh tế trang trại, hợp tác xã, nhiều làng nghề thủ công truyền thống,
hàng vạn cán bộ công nhân viên, sinh viên đã giải quyết được rất nhiều khó khăn
về mặt tài chính, bổ sung thêm nguồn lực tăng khả năng đầu tư, kích thích tiêu
dùng nội địa, thúc đẩy phát triển sản xuất nhằm tạo thêm nhiều sản phẩm đa dạng
cho nền kinh tế.
Cũng giống như bất cứ loại hình doanh nghiệp nào, mục đích chính của ngân
hàng là lợi nhuận. Và cho vay chính là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi
nhuận giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Cho vay khách hàng cá nhân không chỉ
mang lại thu nhập từ lãi mà còn giúp ngân hàng phân tán rủi ro.
Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Hai Bà Trưng đã
đạt được kết quả khả quan từ mảng hoạt động này. Cho vay khách hàng cá nhân trở
thành khoản mục mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng, chất lượng từ hoạt động
cho vay không ngừng được nâng cao. Đây chính là lý do mà tôi lựa chọn đề tài:
4
“Thực trạng hoạt động cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP
Công Thương VN chi nhánh Hai Bà Trưng”.
Báo cáo thực tập gồm ba phần chính sau:
Chương 1 – Khái quát về hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân tại
các NHTM
Chương 2 – Thực trạng cho vay khách hàng cá nhân tại Ngân hàng TMCP
Công Thương VN chi nhánh Hai Bà Trưng
Chương 3 – Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay KHCN tại chi nhánh Hai
Bà Trưng
5
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG BÀI
NHTM Ngân Hàng thương mại
NHCT Ngân Hàng Công Thương
NHNH Ngân Hàng Nhà Nước
KHCN Khách hàng cá nhân
KHDN Khách hàng doanh nghiệp
CV Cho vay
NH TMCPCT VN Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương Việt
Nam
HĐMB Hợp đồng mua bán
VTC Vật thế chấp
PAKD Phương án kinh doanh
TCTD Tổ chức tín dụng
GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
SXKD Sản xuất kinh doanh
6
CHƯƠNG 1 – KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI
KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI CÁC NHTM
1.1 Tổng quan về hoạt động cho vay của NHTM.
1.1.1 Khái niệm
Theo quyết định1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNN về
qui chế cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng, cho vay được hiểu là “một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản
tiền để sử dụng với mục đích và thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi”.
1.1.2 Đặc điểm
Căn cứ vào bảng tổng kết tài sản của các NHTM, chúng ta thấy rằng cho vay luôn
là khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng tài sản của ngân hàng và là hoạt động
kinh doanh chủ chốt, mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng.
Tuy nhiên rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục
các khoản cho vay. Tiền cho vay là một món nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp
đi vay nhưng lại là một tài sản đối với ngân hàng. So sánh với các tài sản khác
khoản mục cho vay có tính lỏng kém hơn vì thông thường chúng không thể chuyển
thành tiền mặt trước khi các khoản cho vay đó mãn hạn. Hoạt động cho vay chứa
đựng nhiều rủi ro và sự vỡ nợ có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động, đến sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chính vì vậy mà các NHTM rất coi trọng công
tác quản lý tín dụng nhằm đảm bảo lợi nhuận và hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3 Vai trò
1.1.3.1 Đối với ngân hàng
Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài
sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt
động ngân hàng có xu hướng tập trung vào các khoản cho vay. Tình trạng khó
7
khăn của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn
từ một số nguyên nhân sau: Quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc
tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến
của nền kinh tế. Chính vì thế mà thanh tra ngân hàng thường xuyên kiểm tra các
danh mục cho vay của các ngân hàng.
1.1.3.2 Đối với người đi vay và nền kinh tế nói chung
- Thứ nhất, góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội.
Hoạt động cho vay giúp cung ứng nguồn vốn kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Vốn được luân chuyển từ chủ thể thừa vốn
sang chủ thể thiếu vốn, nhờ vậy các chủ thể thiếu vốn có thể nhanh chóng có được
lượng vốn cần thiết để thúc đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tiêu thụ.
- Thứ hai, góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã
hội.
Hoạt động cho vay của ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu của các doanh
nghiệp mà còn phục vụ các tầng lớp dân cư có nhu cầu. Ngân hàng sẵn sàng tài trợ
cho nhu cầu tín dụng của các cá nhân, hộ gia đình về nhu cầu mua sắm, cải thiện,
nâng cao chât lượng cuộc sống. Nhờ có hoạt động cho vay của ngân hàng mà chất
lượng cuộc sống của dân cư được nâng cao, cùng với hoạt động tài trợ cho các
doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho bộ phận dân cư, ngân
hàng đã cùng với xã hội góp phần ổn định đời sống.
- Thứ ba, công cụ thực hiện các chính sách xã hội.
Các chính sách xã hội về bản chất được đáp ứng bởi nguồn tài trợ không hoàn lại
từ ngân sách nhà nước, song phương thức tài trợ không hoàn lại này thường bị hạn
chế về số lượng, quy mô và hiệu quả kém. Chính vì nguyên nhân này mà phương
thức tài trợ có hoàn lại của hoạt động cho vay sẽ thay thế phương thức này bởi
phương thức có hoàn lại vừa đảm bảo được cung ứng nguồn tài chính vừa phát huy
hiệu quả sử dụng vốn.
8
1.1.4 Phân loại các khoản vay
1.1.4.1 Phân loại theo thời hạn vay
Theo thời hạn vay, cho vay được phân loại thành:
a) Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống
b) Cho vay trung hạn: là các khoản cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm
c) Cho vay dài hạn: là các khoản cho vay từ 5 năm trở lên
Theo tiêu thức này ngân hàng có thể quản lý tốt hơn về mặt thời gian của các
khoản vay như là thời hạn giải ngân, thời hạn thu nợ…, qua đó có thể quản lý tốt
khả năng thanh khoản.
1.1.4.2 Phân loại theo phương thức cho vay
a) Cho vay thấu chi: Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép người đi
vay được chi vượt trên số dư tài khoản của mình đến một giới hạn nhất định và
trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
b) Cho vay trả góp: Là hình thức cho vay qua đó ngân hàng cho phép khách hàng
trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Ngân hàng thường
cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. Đây là loại
hình cho vay có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả
góp, vì vậy nên lãi suất cho vay trả góp thường là lãi suất cao nhất trong khung lãi
suất cho vay của ngân hàng.
c) Cho vay theo hạn mức: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng đồng ý cấp cho
người vay một hạn mức tín dụng đã thỏa thuận tài trợ dựa trên kế hoạch chuyển
hàng hóa và ngân quỹ của khách hàng. Hình thức này phù hợp với các doanh
nghiệp thương mại hoặc các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có chu kì tiêu thụ
sản phẩm ngắn, cần vay mượn thường xuyên.
d) Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá.
Doanh nghiệp khi mua hàng hóa có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua
9
hàng và sẽ thu nợ khi bán được hàng. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng với
các doanh nghiệp thương nghiệp, hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì kinh doanh
ngắn, có quan hệ trả nợ thường xuyên đối với ngân hàng.
e) Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay mà mỗi lần vay khách hàng
phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Đây là hình thức
tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay
thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách
hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu
cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân
hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
1.1.4.3 Phân loại theo mục đích sử dụng vốn
Theo cách phân loại này hoạt động cho vay được phân thành:
a) Cho vay kinh doanh: Là hoạt động cho vay mà vốn vay được sử dụng cho mục
đích kinh doanh. Đối tượng khách hàng vay kinh doanh có thể là cá nhân hoặc là
đơn vị kinh doanh, trong đó chủ yếu là các đơn vị kinh doanh.
b) Cho vay tiêu dùng: Là hoạt động cho vay mà vốn được sử dụng cho mục đích
tiêu dùng là chủ yếu. Đối tượng vay chủ yếu là các cá nhân (phục vụ cho nhu cầu
tiêu dùng) và Chính phủ (phục vụ cho mục đích chi thường xuyên) .
Phân loại theo phương thức sử dụng vốn vay giúp các nhà quản lý ngân hàng nâng
cao chất lượng quản lý đối với từng khoản vay của ngân hàng, hạn chế rủi ro cho
ngân hàng.
1.1.4.4 Phân loại theo phương thức đảm bảo khoản vay
a) Cho vay không có tài sản đảm bảo: Có thể được cấp cho khách hàng có uy tín,
thường là khách hàng thường xuyên làm ăn có lãi, tình hình tài chính vững mạnh,
ít xảy ra tình trạng nợ nần, dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của
người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu,
không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn,
10
các công ty lớn , hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có
khả năng giám sát việc bán hàng… cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
b) Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân
hàng đều có bảo đảm. Tuy nhiên ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại
đảm bảo mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Cam
kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản của mình
đang sở hửu hoặc sử dụng hoặc tài sản của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
Khách hàng có thể bảo đảm bằng nhiều loại tài sản khác nhau:
Bảo đảm bằng tài sản thuộc sở hữu hay sử dụng lâu dài của khách
hàng.
- Cho vay cầm cố.
Đây là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay với điều kiện là
khách hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho
ngân hàng trong thời gian cam kết. Danh mục và điều kiện của tài sản
cầm cố được ngân hàng quy định cụ thể dựa trên quy định của pháp
luật và chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Các tài sản cầm cố là
các tài sản mà ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc
chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh hưởng đến quy trình hoạt
động của khách hàng, chẳng hạn như: các loại giấy tờ có giá, kim loại
quý, ngoại tệ mạnh…
- Cho vay thế chấp.
Trong hình thức cho vay này, người vay phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận quyền sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang
cho ngân hàng nắm giữ trong thời hạn đã cam kết.
Đối với thế chấp bằng tài sản thì những tài sản mang thế chấp thường
là bất động sản như nhà cửa, quyền sử dụng đất… hoặc là những động
sản mà việc nắm giữ nó không thuận tiện như ô tô, xe máy… Việc thế
11
chấp bằng tài sản cho phép người nhận tài trợ tiếp tục được sử dụng
tài sản trong thời gian vay, tuy nhiên quá trình sử dụng có thể làm
biến dạng tài sản, hơn nữa khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của
ngân hàng bị hạn chế. Việc định giá tài sản đảm bảo thường theo một
quy trình định giá khăn đòi hỏi phải có sự thẩm định kỹ lưỡng, tránh
định giá quá cao gây thiệt hại cho ngân hàng hoặc định giá quá thấp
gây ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Tuy nhiên đối với
cho vay cá nhân thì tài sản đảm bảo cũng không quá lớn như nhà
xưởng, dây chuyền sản xuất… như đối với cho vay khách hàng doanh
nghiệp.
Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo, hoặc
tài sản đó không đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng có
thể yêu cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài
trợ của ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ô
tô, ngân hàng có thể yêu cầu lấy chính chiếc ô tô đó làm vật bảo đảm, khi
khách hàng không có khả năng hoàn trả thì ngân hàng sẽ phát mại ô tô đó để
thu nợ. Để đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán hoặc sử dụng không cẩn
thận, làm giảm giá trị của tài sản, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng
phải cam kết bảo quản tài sản, mua bảo hiểm và người thụ hưởng là ngân
hàng đồng thời chuyển toàn bộ giấy tờ sở hữu tài sản cho ngân hàng.
1.1.4.5 Phân loại theo đối tượng khách hàng
a) Cho vay khách hàng doanh nghiệp
Đây là loại hình cho vay của các NHTM mà các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế
là đối tượng được phục vụ. Tuy số lượng không nhiều, nhóm khách hàng này
thường có nhu cầu vốn với số lượng lớn, thời hạn vay thường là ngắn và có tính ổn
12
định cao (thường là mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh). Mỗi khoản vay đều đòi hỏi
một quy trình thẩm định cũng như phân tích phải hết sức nghiêm ngặt do giá trị
của mỗi khoản vay này là rất lớn. Bất kỳ một sự sai sót nào trong các khâu này có
thể dẫn đến hậu quả rất lớn tới kết quả hoạt động cua ngân hàng cho vay. Vì vậy
đối với nhóm khách hàng này các NHTM cần tạo dựng các mối quan hệ hiểu biết
lâu dài và liên tục.
b) Cho vay khách hàng cá nhân
Nhóm khách hàng cá nhân (bao gồm cá nhân, hộ gia đình, chủ trang trại ) được
ngân hàng áp dụng phương thức cho vay theo quy trình thủ tục cho vay KHCN.
Đối tượng này có số lượng lớn nhưng các khoản vay thường có quy mô nhỏ lẻ và
có tính không thường xuyên và không ổn định. Các khoản này thường hình thành
từ nhu cầu tức thời, vì vậy việc đáp ứng kịp thời các nhu cầu vay này là mục tiêu
mà các NHTM phải hướng tới. Cho vay đối với nhóm khách hàng này giúp các
NHTM phân tán được rủi ro thông qua việc cho vay được nhiều món vay đối với
nhiều khách hàng. Các đối tượng thường được các NHTM xếp vào đối tượng
khách hàng cá nhân không căn cứ vào giá trị của khoản vay là lớn hay nhỏ mà căn
cứ vào tư cách của đối tượng xin vay trước pháp luật. Do với tư cách là cá nhân
chứ không phải là một tổ chức nên đối tượng khách hàng cá nhân không có tư cách
pháp nhân, vì vậy quan hệ với khách hàng là quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng cho
vay với người đến xin vay. Còn cho vay đối với các tổ chức thì người đến xin vay
ngân hàng là người đại diện hợp pháp cho tổ chức, cá nhân này có tư cách của tổ
chức chứ không mang tư cách của một cá nhân.
Thông qua cách phân loại này các NHTM phân chia khách hàng của mình thành
các đối tượng khác nhau, từ đó lập ra các kế hoạch cũng như các chiến lược khác
nhau phù hợp với đặc điểm riêng của từng loại khách hàng.
Phân loại theo phương thức đảm bảo giúp các nhà quản lý ngân hàng có thể đưa ra
những biện pháp giám sát kiểm tra, thu hồi nợ phù hợp với từng khoản vay.
13
1.2 Hoạt động cho vay khách hàng cá nhân
1.2.1 Sơ lược về sự hình thành hoạt động cho vay KHCN
Cho vay là hoạt động cơ bản của các NHTM. Tuy nhiên, từ xưa tới nay, các NHTM
mới chỉ quan tâm tới cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa. Còn
đối với cá nhân, hộ gia đình, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay trong lĩnh
vực này vì họ tin rằng các khoản tín dụng này nói chung có quy mô rất nhỏ và chi phí
cao và do đó làm cho chúng có mức sinh lời tương đối thấp. Đến đầu thế kỉ 20, hầu
hết các khoản tài trợ cho các khoản tín dụng thương mại đều có nguồn gốc từ các
khoản tiền gửi của dân cư cùng với sự cạnh tranh khốc liệt, KHCN đã trở thành khách
hàng tiềm năng đối vời ngành ngân hàng.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hoạt động cho vay KHCN đã trở thành một trong
những loại hình tín dụng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và trở thành những dịch
vụ tài chính phổ biến nhất của ngân hàng trong những năm gần đây. Lợi ích mà các
dịch vụ này đem lại cho hoạt động ngân hàng là vô cùng to lớn: chúng giúp ngân
hàng đa dạng hóa cơ sở khách hàng, tạo ra môt luồng tiền gửi từ người tiêu dùng,
cá nhân, hộ gia đình và những nguồn thu để bổ sung, bù đắp rủi ro trong hoạt động
ngân hàng .
1.2.2 Khái niệm
Cho vay KHCN là hoạt động tín dụng của ngân hàng cho chủ thể là các cá nhân,
hộ gia đình. Ngân hàng tài trợ vốn cho cá nhân, phục vụ việc sản xuất kinh doanh,
tiêu dùng của cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc
hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi.
1.2.3 Đặc trưng của hoạt động cho vay KHCN
Đặc trưng về khách hàng vay: Thị trường KHCN tuy nhỏ hơn về quy mô nhưng
lại lớn hơn về số lượng đối với thị trường khách hàng là các doanh nghiệp. Nhu cầu
14
của KHCN rất đa dạng và phức tạp, các nhóm dân cư khác nhau về thu nhập, giới
tính, độ tuổi, địa vị xã hội, thói quen sẽ có những nhu cầu riêng. Điều này đòi hỏi
ngân hàng phải có những chiến lược marketing riêng biệt, cụ thể, mang lại sự gần
gũi, tin tưởng và yên tâm cho khách hàng về ngân hàng.
Đặc trưng về quy mô khoản vay: Các khoản cho vay đối với khách hàng cá nhân
thường là các khoản:
+ Có giá trị nhỏ, nhưng số lượng các khoản vay là rất lớn.
+ Quy mô khoản vay thường dựa vào tư cách người vay hơn là tài sản thế chấp.
Đặc trưng về chất lượng khoản vay: Về cơ bản các khoản cho vay với KHCN
thường là các khoản tín dụng có chất lượng tương đối tốt, tuy vậy các khoản tín
dụng này chỉ tốt khi ở phía khách hàng không xảy ra các biến cố.
Đặc trưng về thời hạn khoản vay: Thời hạn khoản vay chủ yếu là ngắn hạn, một
phần là trung hạn và một phần rất nhỏ là dài hạn. Nguyên nhân là do:
+ Các khoản vay này chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, một phần
phục vụ sản xuất kinh doanh nhưng thường là sản xuất vơi quy mô không lớn.
+ Đây là hình thức cho vay với mức lãi suất cao nhất trong các NHTM.
+ Các cá nhân đến xin vay ngân hàng các khoản để đáp ứng tức thời các nhu
cầu của họ mà ngay tức thời họ chưa có khả năng chi trả nhưng họ hoàn toàn đủ
khả năng ấy trong một khoảng thời gian ngắn, trung hạn.
Đặc trưng về mục đích vay vốn: Các khoản vay của khách hàng cá nhân thường
để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng. Họ mua sắm những hàng hóa có chất lượng tốt để
cải thiện đời sống như sửa chữa nhà cửa, mua ô tô, v.v Cho vay KHCN cũng phục
vụ nhu cầu sản xuất nhưng những khoản vay này thường là những khoản vay nhỏ
chủ yếu là mở rộng sản xuất của hộ gia đình.
15
Đặc trưng về nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ nguồn thu
nhập mà không nhất thiết phải từ kêt quả sử dụng những khoản vay. Do đó, nguồn
trả nợ của người đi vay có thể biến động lớn, nó phụ thuộc vào quá trình làm việc,
kĩ năng và kinh nghiệm đối với công việc của khách hàng. Vì vậy khi thẩm định
cho vay KHCN phải cân nhắc hoàn cảnh, lương bổng của người vay. Nghề nghiệp
của người vay phải được quan tâm thích đáng.
1.2.4 Vai trò của cho vay KHCN
1.2.4.1. Đối với khách hàng cá nhân
Với mục đích tiêu dùng, nó giúp giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng
với khả năng thanh toán của khách hàng: người tiêu dùng được hưởng những lợi ích
của hàng hóa, dịch vụ trước khi họ tích lũy đủ tiền, giải quyết những nhu cầu cấp bách
một cách nhanh chóng. Đối với dân cư, đặc biệt thế hệ trẻ và người thu nhập thấp, họ
không thể đợi cho đến già mới tiết kiệm đủ tiền để mua nhà, mua ô tô và các đồ dùng
gia đình khác. Tín dụng tiêu dùng giúp họ có được một cuộc sống ổn định ngay từ khi
còn trẻ bằng việc mua trả góp những gì cần thiết, tạo cho họ động lực to lớn để làm
việc, tiết kiệm, nuôi dưỡng con cái. Như vậy, tín dụng tiêu dùng đã góp phần làm cải
thiện và nâng cao đời sống của nhân dân.
Với mục đích đầu tư, người vay có thể mở rộng đầu tư, sử dụng đòn bẩy tài
chính giúp họ tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng làm
các hộ gia đình, các cá nhân có thêm động lực và nguồn lực vượt qua những khó
khăn trong sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, cho vay KHCN dù là cho vay với mục đích tiêu dùng hay sản xuất, nó
đều ảnh hưởng trực tiếp đến các cá nhân cũng như nâng cao đời sống của các cá
nhân trong xã hội, tạo ra sự giàu mạnh cho xã hội.
16
1.2.4.2. Đối với các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ
Ngân hàng cho người tiêu dùng vay vốn đã tạo ra khả năng thanh toán cho họ
trước khi họ tích lũy đủ số tiền cần thiết. Vì vậy, tín dụng tiêu dùng kéo nhu cầu
tương lai về hiện tại, nhu cầu cá nhân tăng làm quy mô sản xuất tăng nhanh, mức
độ đổi mới và phong phú về chất lượng sản phẩm ngày càng lớn. Chính điều này
đã làm cho toàn bộ quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối của doanh nghiệp diễn ra
liên tục.
Mặt khác, cho vay KHCN giúp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của những
hộ nhỏ lẻ, các công ty tư nhân được mở rộng và diễn ra liên tục. Từ đó tăng thêm
nhiều nguồn cung các nguyên liệu đầu vào, làm giảm chi phí đầu vào và các doanh
nghiệp có thể hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh.
1.2.4.3. Đối với ngân hàng
- Giúp ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng: đối tượng là cá nhân và
hộ gia đình, mà họ là những khách hàng tiềm năng của ngân hàng trong nền kinh tế
hiện đại. Do đó, nếu như ngân hàng cung cấp cho KHCN những dịch vụ đáp ứng
nhu cầu chi tiêu khi chưa đủ khả năng tài chính giúp họ cảm nhận được những tiện
ích mà ngân hàng đem lại, nó sẽ giúp cho ngân hàng có được uy tín và hình ảnh
đẹp trong mắt khách hàng. Từ đó làm tăng khả năng huy động vốn từ các khoản
tiền gửi trong dân cư.
- Cho vay KHCN tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của ngân
hàng. Vì đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng là rủi ro cao, do đó đa
dạng hóa danh mục đầu từ là phương pháp để giảm thiểu rủi ro. Cho vay KHCN là
hình thức mới phát triển trong dịch vụ ngân hàng bán lẻ của ngân hàng. Đặc trưng
của loại hình này là số lượng khoản cho vay lớn nhưng giá trị khoản vay nhỏ đã
góp phần phân tán rủi ro cho ngân hàng. Các khoản cho vay KHCN đem lại lợi
nhuận rất lớn cho ngân hàng.
17
- Phát triển hoạt động cho vay KHCN là cách để ngân hàng gia tăng lợi nhuận
trong môi trường cạnh tranh khốc liệt: Ngân hàng ngày nay đang phải đối phó với
những áp lực cạnh tranh từ các tổ chức phi ngân hàng, sự mở rộng trong xu thế
quốc tế hóa thị trường ngân hàng và những thay đổi mới không ngừng trong công
nghệ và tự động hóa. Rất nhiều công ty lớn, là những khách hàng vay vốn lớn nhất
và tốt nhất của ngân hàng, những năm gần đây đã dần từ bỏ hệ thống ngân hàng để
tự huy động vốn hoặc trực tiếp từ thị trường mở hoặc thông qua các tổ chức phi
ngân hàng. Sự thay đổi đó làm doanh thu ngân hàng trong hoạt động cho vay giảm
dần và làm chuyển dịch cơ cấu danh mục cho vay trong đó các món cho vay lớn
với chất lượng cao giảm dần và các khoản cho vay doanh nghiệp nhỏ, chất lượng
thấp, rủi ro cao lại tăng dần. Trong tình hình đó, KHCN trở thành khu vực tiềm
năng cho ngân hàng. Những khoản vay có chất lượng tốt sẽ đem lại lợi nhuận lý
tưởng. Ngoài ra hoạt động cho vay KHCN hiệu quả, tạo uy tín, hình ảnh tốt trong
mắt khách hàng sẽ giúp phát triển những dịch vụ khác của ngân hàng dành cho
KHCN như dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý tiền mặt…
- Ngoài ra, cho vay KHCN còn giúp cho nhân viên ngân hàng có điều kiện
nghiên cứu tâm lý, nhu cầu khách hàng, trên cơ sở đó đưa ra những sản phẩm mới
hữu ích cho cả người tiêu dùng và ngân hàng. Đồng thời, kiến thực nghiệp vụ của
cán bộ tín dụng cũng được nâng cao và hoàn thiện.
- Nhược điểm cho vay KHCN là chi phí cao.
1.2.4.4. Đối với nền kinh tế
Cho vay KHCN không chỉ có vai trò quan trọng đối với khách hàng là những
cá nhân, các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ, bản thân ngân hàng mà nó còn có
vai trò rất lớn đối với nền kinh tế và cả xã hội:
- Các khoản cho vay KHCN có tác dụng kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Nếu các khoản vay nay được dùng để tài trợ cho các chi tiêu về
18
hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho sản xuất kinh doanh của hộ gia đình, trang trại
nhỏ lẻ, sẽ giúp cho quá trình tiêu thụ diễn ra nhanh chóng và thuận tiện hơn, vốn
của doanh nghiệp không bị ứ đọng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thúc đấy phát
triển kinh tế.
- Cho vay KHCN góp phần nâng cao đời sống người dân, hỗ trợ họ mua nhà,
xe… giúp người dân thỏa mãn nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần, giảm sự tách biệt
giữa người giàu với người nghèo.
- Là công cụ thực hiện các chính sách xã hội như cho vay ưu đãi đối với
người nghèo… Thông qua việc tiếp cận với những cá nhân đủ tiêu chuẩn ở dạng
nghèo, khó khăn, Nhà nước có thể thông qua các NHTM để thực hiện cho họ vay
ưu đãi, giúp họ có cơ hội có vốn để làm ăn, kinh doanh và có cơ hội làm việc, từ đó
góp phần thực hiện mục tiêu chính sách xã hội của Nhà nước.
- Đồng thời cho vay KHCN là một trong những kênh dẫn truyền hiệu quả
những tác động của Nhà nước đến nền kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, cho vay KHCN vẫn là một hình thức chứa đựng những rủi ro nhất
định. Nếu như các ngân hàng quá lạm dụng các khoản cho vay này sẽ dẫn đến suy
giảm kinh tế.
1.3 Mở rộng hoạt động cho vay KHCN
1.3.1 Sự cần thiết phải mở rộng hoạt động cho vay KHCN.
- Sự cần thiết mở rộng hoạt động cho vay KHCN được thể hiện trong chính
vai trò và lợi ích của hoạt động này như đã nêu ở trên.
Ngoài ra:
- Hoạt động cho vay KHCN có mức sinh lời ngày càng tăng. Cho vay KHCN
từ lâu đã được coi là một phần rất quan trọng của NHTM, đặc biệt là cho vay tiêu
dùng được coi là phần quan trọng nhất của ngân hàng bán lẻ. Theo Peter Drucker -
19
"Cha đẻ" của môn quản trị học hiện đại, cho vay KHCN trong đó có cho vay tiêu
dùng được coi là cứu cánh cuối cùng của NHTM từ thập niên 70, khi mà cho vay
khách hàng doanh nghiệp bị cạnh tranh khốc liệt bởi các công ty tài chính, các quỹ
đầu tư của thị trường chứng khoán. Theo khảo sát của tập đoàn tư vấn BCG cho
thấy mặc dù cho vay tiêu dùng chỉ chiếm 30-35% tổng dư nợ nhưng tạo ra trên
60% lợi nhuận của các NHTM hàng đầu châu Á. Chính sự cạnh tranh khốc liệt đã
khiến cho hoạt động cho vay KHDN có mức sinh lời ngày càng giảm, trái lại cho
vay KHCN có tốc độ tăng mạnh mẽ.
- Đời sống người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, nhu cầu chi tiêu
của người dân ngày càng tăng. GDP bình quân đầu người năm 2009 đạt 1100
USD, năm 2010 đạt 1168 USD, năm 2011 đạt 1300 USD cho thấy thu nhập của
người dân ngày càng tăng, chứng tỏ đời sống của người dân đã được cải thiện, theo
đó người dân ngày càng có nhiều nhu cầu sửa chữa, sửa sang nhà cửa, mua sắm, đi
du lịch… Đời sống được cải thiện, nhu cầu vay vốn nhỏ để kinh doanh cũng như
kinh doanh bất động sản cũng gia tăng mạnh. Trong bối cảnh như vậy, cho vay
KHCN là mảng tín dụng có nhiều tiềm năng, do đó mở rộng cho vay KHCN là
điều mà tất cả các ngân hàng đang hướng tới.
- Tỷ lệ người dân Việt Nam tiếp cận với dịch vụ ngân hàng còn ít. Với quy mô
dân số trên 80 triệu dân, trong đó phần lớn là dân số trẻ, trình độ dân trí ngày càng
cao, nền kinh tế tăng trưởng liên túc với tốc độ cao nhiều năm qua, thêm vào đó,
chưa đến 10% dân số tiếp cận với dịch vụ ngân hàng thì chúng ta có thể tin vào tiềm
năng của thị trường cho vay KHCN ở nước ta. Hơn thế nữa, có môt điều có thể nhận
thấy hiện người dân Việt Nam vay quá it so với nước có cùng thu nhập cá nhân bình
quân đầu người, tổng số tiền vay tín dụng cá nhân chỉ khoảng 5% GDP trong khi đó,
tổng số tiền vay tín dụng cá nhân của các nước khác trên thế giới đạt hơn 15% GDP.
Vì vậy có thể khẳng định rằng, thì trường KHCN là thị trường vẫn đang được bỏ
trống, chưa được khai thác nhiều ở Việt Nam. Do đó, việc mở rộng hoạt động cho
vay KHCN là xu thế tất yếu của các NHTM hiện nay.
20
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng cho vay KHCN
1.3.2.1 Các nhân tố chủ quan thuộc về phía ngân hàng
Thứ nhất: Chính sách tín dụng của ngân hàng.
Có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp nhất đến quy mô của hoạt
động tín dụng nói chung và của tín dụng ngắn hạn nói riêng. Bởi chính sách tín
dụng chính là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi vào đúng
quỹ đạo liân quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, nó có ý nghĩa quyết định
đến sự thành bại của một ngân hàng.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm
bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng đúng đắn phải
linh hoạt phù hợp với sự thay đổi của môi trường cũng như mục tiêu của ngân
hàng, phải đảm bảo khả năng sinh lời trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật,
đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước cũng như là đảm bảo sự kết hợp hài
hoà giữa quyền lợi của người gửi tiền, người vay tiền và của chính bản thân ngân
hàng.
Chính sách tín dụng của ngân hàng ảnh hưởng đến quy mô của tín dụng ngắn
hạn ở rất nhiều khía cạnh khác nhau song trực tiếp là ở 3 yếu tố đó là: lãi suất cạnh
tranh, phương thức cho vay và các tài sản bảo đảm tiền vay.
Lãi suất cạnh tranh
Đây là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến quyết định vay vốn của khách hàng đối với
ngân hàng. Ngân hàng nào có lãi suất cho vay thấp hơn sẽ thu hút được nhiều
khách hàng đến với mình. Tuy nhiên các ngân hàng không thể hạ lãi suất thấp hơn
hẳn so với các ngân hàng khác để thu hút khách mà lãi suất cạnh tranh này phải
được xác định trên cơ sở quy định chung về lãi suất của hệ thống ngân hàng, lãi
suất phải phù hợp với lợi nhuận của ngân hàng, đảm bảo trang trải được chi phí của
về quản lý, về trả lãi huy động, bù đắp được rủi ro có thể xảy ra
Quy trình thủ tục cấp tín dụng.
Khi ngân hàng áp dụng, quy trình thủ tục cấp tín dụng nhanh, gọn, hợp lý thì hoạt
21
động cho vay của ngân hàng có điều kiện mở rộng. Tuy nhiên quy trình tín dụng
vẫn phải đảm bảo chặt chẽ, thận trọng nhằm phòng ngừa, hạn chế rủi ro.
Tính đa dạng của hình thức cho vay KHCN
Trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, các ngân hàng không ngừng
nâng cao chất lượng và thực hiện đa dạng hóa sản phẩm củng cố và mở rộng thị
phần, duy trì khả năng cạnh tranh. Nếu những sản phẩm cho vay KHCN mà ngân
hàng cung cấp cho khách hàng đơn điệu, chất lượng không cao, đáp ứng chưa tốt
nhu cầu khách hàng thì ngân hàng đó ít có khả năng có được sự phát triển lớn
mạnh. Tóm lại, phương thức cho vay đa dạng phong phú, đáp ứng nhu cầu của
khách hàng tại từng thời điểm khác nhau là nhân tố quan trọng để mở rộng quy mô
hoạt động tín dụng.
Thứ hai: Công tác tổ chức của ngân hàng
Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ
nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân hàng, giữa các
ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan khác liên
quan đảm bảo cho ngân hàng hoạt động nhịp nhàng, thống nhất có hiệu quả, qua
đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng, theo dõi quản lý chặt chẽ
sát sao khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay, từ đó nâng cao hiệu quả
tín dụng.
Thứ ba: Nguồn lực của ngân hàng
Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế càng phức tạp, cạnh tranh ngày càng
gay gắt, đòi hỏi trình độ của người lao động ngày càng cao.
Đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức, có năng lực
trong việc quản lý đơn xin vay, định giá tài sản thế chấp , giám sát số tiền vay và
có các biện pháp hữu hiệu trong việc thu hồi nợ vay của ngân hàng giúp ngân
hàng có thể có được những khoản tín dụng đảm bảo, ngăn ngừa được những rủi ro
khi thực hiện một khoản tín dụng.
22
Như vậy, một ngân hàng có được một chính sách tín dụng hợp lý nhưng nếu không
có đội ngũ cán bộ tín dụng năng động sáng tạo, có đầy đủ kiến thức chuyên môn,
đạo đức nghệ nghiệp và tâm huyết với nghề thì cũng không thể đảm bảo được chất
lượng các khoản tín dụng cũng như mở rộng quy mô tín dụng và điều này tất yếu
sẽ ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngoài ra, cán bộ
ngân hàng phải khéo léo trong giao tiếp ứng xử và là người bạn đồng hành của
khách hàng.
Thứ tư: Cơ sở vật chất của ngân hàng
Trang thiết bị đầy đủ và hiện đại giúp cho ngân hàng có thể phục vụ tốt nhất các
nhu cầu của khách hàng về các nghiệp vụ thực hiện cũng như các dịch vụ bổ trợ,
tạo lòng tin, sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng và do đó thu hút khách
hàng đến giao dịch với ngân hàng.
Đặc biệt với sự phát triển như vũ bão về công nghệ thông tin như hiện nay, các
trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin và xử lý nhanh
chóng, kịp thời chính xác, trên cơ sở đó quyết định tín dụng đúng đắn, không bỏ lỡ
thời cơ trong kinh doanh giúp cho quá trình quản lý tiền vay và thanh toán được
thuận tiện, nhanh chóng, chính xác.
1.3.2.2 Các nhân tố khách quan
Thứ nhất: Các yếu tố từ khách hàng cho vay
Để đảm bảo khoản tín dụng sử dụng có hiệu quả, mang lại lợi ích cho ngân hàng
góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội thì khách hàng có vai trò
hết sức quan trọng.
Thu nhập
Mức thu nhập của người vay có vị trí quan trọng đối với nhu cầu vay của KHCN.
Đối với cá nhân đi vay thì triển vọng về thu nhập sẽ là một trong những cơ sở phát
sinh nhu cầu vay. Còn đối với ngân hàng, vấn đề thu nhập của khách hàng xin vay
sẽ có ảnh hưởng quyết định đến khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên thu
23
nhập là nhân tố biến động rất cao. Những rủi ro như sức khỏe, sinh mạng, năng lực
pháp lý… có thể khiến cho thu nhập của người đi vay thay đổi nhanh chóng.
Tài sản đảm bảo
TSĐB được xem là nguồn thu nhập thứ hai khi nguồn thu nhập thứ nhất không có khả
năng. Do đó, nó mang tính chất ngăn ngừa rủi ro và làm tăng tính an toàn của khoản
vay. Vì vậy, việc xem xét đánh giá TSĐB là vấn đề quan trọng.
Tư cách đạo đức
Đây là nhân tố quan trọng bởi khả năng hoàn trả nợ của khách hàng còn phụ thuộc
vào thái độ và sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng. Đôi khi có những khách hàng có thu
nhập, nhưng khả năng thu hồi nợ thấp vì họ không sẵn lòng trả nợ. Ngược lại, có
những khách hàng sẵn lòng trả nợ nhưng không có tiền để trả nợ.
Thứ hai: Các yếu tố môi trường vĩ mô
Môi trường pháp lý
Hoạt động tín dụng ngân hàng được qui định chặt chẽ bởi các văn bản qui phạm
pháp luật do NHNN ban hành. Các đối tượng khách hàng nằm trong chiến lược mở
rộng cho vay của ngân hàng cần được thừa nhận về mặt pháp lý. Đây là điều kiện
để người vay vốn yên tâm, mạnh dạn đầu tư, sản xuất còn ngân hàng thì thuận lợi
hơn khi ra các quyết định cho vay.
Mặt khác như đã phân tích, mở rộng cho vay nhưng vẫn phải duy trì chất lượng và
hiệu quả cho ngân hàng. Nếu hệ thống pháp luật không đồng bộ, việc thực thi pháp
luật không nghiêm sẽ tạo ra kẽ hở trong quản lý tín dụng, gây nên những rủi ro
trong hoạt động cho vay của ngân hàng như khách hàng có hành vi lừa đảo để vay
vốn, cán bộ ngân hàng có hành vi sai trái ảnh hưởng đến chất lượng cho vay.
Môi trường kinh tế.
Tình trạng hiện tại của một nền kinh tế có ảnh hưởng tới tất cả mọi hoạt động kinh
tế diễn ra trong nó, và hoạt động cho vay khách hàng cá nhân cũng không nằm
24
ngoài quy luật đó. Khi nền kinh tế trong trạng thái hưng thịnh thì hoạt động của các
NHTM cũng trong xu hướng diễn ra mạnh mẽ vì mức sống và nhu cầu người dân
tăng lên. Ngược lại, trong thời kì nên kinh tế suy thoái, trì trệ, việc làm của người
lao động giảm đi dẫn đến nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất kinh doanh cũng
giàm đi và kết quả là hiệu quả mở rộng cho vay KHCN của ngân hàng cũng giảm
theo.
Môi trường văn hóa, xã hội.
Môi trường văn hóa xã hội thể hiện ở tập quán, bản sắc dân tộc, tâm ý người tiêu
dùng giữa các vùng và văn hóa cộng đồng. Các yếu tố này ảnh hưởng đến cho vay
KHCN trong quá trình các cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu tiêu dùng hay nhu cầu
vay phục vụ sản xuất.
Môi trường công nghệ.
Công nghệ được xem là một trong những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của
một ngân hàng. Việc nắm bắt triển khai và ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt
động kinh doanh của mình, đặc biệt là hoạt động cho vay KHCN như: công nghệ thẻ,
hệ thống máy tính, hệ thống quản lý dữ liệu… là điều không thể thiếu.
Đối thủ cạnh tranh.
Hoạt động của ngân hàng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt.
Các đối thủ cạnh tranh bao gồm cả hiện tại và tương lai, cả trong nước và nước
ngoài. Nếu ngân hàng không có khả năng cạnh tranh thì thị phần, khách hàng cũng
như mục tiêu lợi nhuận… đều bị ảnh hưởng gây khó khăn trong hoạt động cũng
như kết quả kinh doanh của ngân hàng.
Nếu một ngân hàng phải đối đầu vối đối thủ cạnh tranh mạnh, có tiềm lực tài chính
vững mạnh, công nghệ hiện đại, danh mục sản phẩm đa dạng và có chất lượng thì
việc mở rộng hoạt động cho vay KHCN sẽ gặp phải những thách thức lớn.
25