ĐẶT VẤN ĐỀ
Sa lệch thể thuỷ tinh (TTT) tiền phòng do chấn thương đụng dập nhãn
cầu là một cấp cứu thường gặp trong nhãn khoa. Nguyên nhân đa dạng, diễn
biến phức tạp, hiệu quả sau điều trị hạn chế, phụ thuộc vào nhiều yếu tố (bệnh
nhân đến sớm hay muộn, lệch nhiều hay ít, mức độ tổn thương, thái độ xử trí
ban đầu).
Sa lệch thể thuỷ tinh tiền phòng bên cạnh đặc điểm chung của một chấn
thương đụng dập như: phù giác mạc, biến đổi góc tiền phũng, tỏch thể mi, đứt
chân mống mắt, máu tiền phòng, đĩa máu giác mạc, đụng dập mống mắt, xuất
huyết dịch kớnh, phự võng mạc … Nó còn đặc điểm riêng đó là: sa lệch thể
thuỷ tinh ra khỏi vị trí giải phẩu bình thường.
Khi lệch thể thuỷ tinh, dây Zinn có thể đứt hoặc mất một phần, thể thuỷ
tinh không còn nằm ở trung tâm trục thị giác nó chỉ còn một phần ở vùng
đồng tử hoặc sau mống mắt, sa TTT là khi toàn bộ dây zinn bị đứt, vì vậy thể
thuỷ tinh có thể rơi ra tiền phòng hoặc bờ đồng tử, rơi vào buồng dịch kính
hoặc ra khỏi nhãn cầu. Sa lệch TTT có rất nhiều nguyên nhân, cũng có thể là
triệu chứng của một bệnh toàn thân, bẩm sinh, di truyền, hay thứ phát sau
bệnh lý của nhãn cầu. Song chấn thương là nguyên nhân hàng đầu gây sa lệch
TTT. Theo báo cáo của Amaud B và Duperon G năm 1981, sa lệch TTT sau
chấn thương chiếm 1% số bệnh nhân vào viện điều trị, và 4% trong số bệnh
nhân chấn thương |13 |. Tiến triển của sa lệch TTT thường rất nặng, nó phụ
thuộc vào hình thái lâm sàng và gây rất nhiều biến chứng để lại hậu quả trầm
trọng, tổn hại về thị lực có thể dẫn tới mù loà do những biến chứng như: Viêm
màng bồ đào, Glocom thứ phát, phù nề loạn dưỡng giác mạc, đục TTT, ngoài ra
còn kèm theo những tổn thương phối hợp như: Xuất huyết tiền phòng, xuất
huyết dịch kính, bong võng mạc, tổn thương góc tiền phòng, làm cho tình trạng
bệnh cảnh nặng nề, phức tạp khó khăn trong chẩn đoán, điều trị và tiên lượng.
Đây là vấn đề có tính chất thời sự, gây nên sự quan tâm, thu hút, tranh
luận sôi nổi trong và ngoài nước.
Việt Nam là một nước đang phát triển, trong những năm qua cùng với
sự phát triển của kinh tế xã hội, chấn thương mắt đang có xu hướng tăng lên
trong đời sống sinh hoạt, trong lao động sản xuất, và đặc biệt trong tai nạn
giao thông. Song song với sự phát triển của kinh tế xã hội thì trang thiết bị,
máy móc, phục vụ cho chẩn đoán và điều trị cùng với đội ngũ các thầy thuốc
lành nghề, có trình độ kỹ thuật cao, đã góp phần to lớn trong việc khám, chẩn
đoán, điều trị và phẫu thuật, hạn chế tới mức thấp nhất các biến chứng, nhằm
cải thiện thị lực, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu,
đã đề cập đến một số lĩnh vực của khía cạnh này, tuy nhiên các tác giả chủ
yếu đi sâu vào các hình thái lâm sàng, kết quả phẫu thuật của sa lệch TTT nói
chung, đã đóng góp những thành tựu thật sự có ý nghĩa nhằm tìm hiểu rõ hơn
về đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị của sa, lệch TTT tiền phòng do chấn
thương đụng dập nhãn cầu. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị sa, lệch TTT tiền phòng
do chấn thương đụng dập nhãn cầu, tại bệnh viện mắt trung ương từ 2006
- 2010” với 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của sa, lệch TTT tiền phòng do chấn thương
đụng dập nhãn cầu.
2. Đỏnh giá kết quả điều trị của sa lệch TTT tiền phòng.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan
1.1.1. Thể thuỷ tinh bình thường [1],[ 22], [3], [6], [7], [8], [26]
Thể thuỷ tinhh là một thấu kính hội tụ có công suất là 20 Diốp. Chiếm
1/3 công suất khúc xạ của mắt, là môi trường trong suốt 2 mặt lồi, mặt sau lồi
hơn mặt trước, bán kính mặt trước là 10mm, bán kính mặt sau là 6mm, đường
kính 8 – 10 mm. Dầy 4 – 5 mm. Nó hoàn toàn không mạch máu, không có sợi
thần kinh. Dinh dưỡng của TTT dựa vào sự thẩm thấu thuỷ dịch qua màng
bọc TTT, ở người trẻ TTT mềm, có thể thay đổi độ cong để tăng công suất,
trong khi điều tiết, giúp cho mắt nhìn được tốt nhất.
Mặt trước TTT tiếp giáp với mặt sau của mống mắt, tiền phòng. Trung
tâm mặt trước TTT cách trung tâm mặc sau giác mạc 4 mm.
Mặt sau TTT tiếp giáp với màng dịch kớnh trờn một vùng rộng, đường
kính khoảng 5 mm, gọi là khoang Vogt giữa màng dịch kính và TTT quanh
vùng Vogt có một khoảng dính gọi là dây chằng Berger và Wieger. Ở người
trẻ, dây chằng này lỏng lẻo, vì vậy người ta không có chỉ định lấy TTT trong
bao đối với người trẻ, vì dễ gây biến chứng thoát dịch kính.
1.1.2. Bao thể thuỷ tinh [22], [8].
Bao TTT là một màng bọc bao quanh TTT, có cấu trúc là một màng
đáy trong suốt, có tính chất đàn hồi, được cấu tạo bởi các sợi collaren týp IV,
V. Do các tế bào biểu mô sản sinh ra, bao TTT có khả năng biến đổi hỡnh thù
trong khi điều tiết, giúp cho mắt có khúc xạ tốt nhất trong khi nhìn, và cũng là
nơi treo bám của TTT, từ xích đạo trở về trước gọi là bao trước, từ xích đạo
trở về sau gọi là bao sau. Độ dầy của bao thể thuỷ tinh tuỳ theo vị trí, dầy nhất
là ở vùng xích đạo, bao trước dầy hơn bao sau, và trung tâm bao sau là nơi
3
mỏng nhất. Độ dầy của bao TTT sẽ tăng dần theo độ tuổi. Dưới bao trước là
lớp đơn tế bào biểu mô, lớp này có khả năng tái tạo nhanh, vì vậy khi bao
trước của TTT bị vết rách nhỏ, biểu mô có thể pháp triển, tái tạo và hàn kín
vết thương.
1.1.3. Các sợi dây zinn [22], [6,] [8], [26]
- Thể thuỷ tính được đeo bám và nâng đỡ bởi các sợi dây zinn, là một
hệ thống những sợi có cấu trúc dạng gel, gần giống như dịch kớnh, cỏc sợi
này suất phát từ lớp đáy của biểu mô không sắc tố pars Plana và pars Plicata
của thể mi bám vào vùng chu biên của bao TTT (vùng xích đạo). Các sợi xếp
theo hình nan hoa dầy đặc.
- Ở bao trước dây zinn nhiều và chắc hơn, lấn ra trước 1,5 mm. Bao sau
lấn ra sau 1,5 mm. Các sợi dây zinn không đi xuyên qua bao TTT mà bám
vào lá mỏng dây chằng trên bao của TTT. Do cấu tạo mỏng và yếu của TTT ở
vùng này nên khi bị chấn thương, dây chằng zinn bị đứt một phần hay toàn
bộ, gây sa lệch TTT. Các sợi dây chằng xếp thành một vành đai xung quanh
xích đạo TTT, mặt cắt của vành đai này hình tam giác, đỉnh quay ra phía thể
mi, đáy quay vào trong tiếp giáp với TTT. Ở phía trước dây chằng tạo giới
hạn sâu của hậu phòng. Ở phía sau của dây chằng tiếp giáp với màng dịch
kính và chỉ cách lớp này bởi lớp giới hạn trong của dịch kính. Lớp trước và
lớp sau của các dây chằng hình thành quanh một khoảng gọi là ống Hanover.
Giữa lớp dây chằng sau và màng bọc dịch kính là khoảng Petit, các sợi dây
chằng zinn rất đàn hồi đan chéo để giữ TTT ở vị trí ổn định, khi điều tiết cơ thể
mi co, làm dây chằng zinn chùng lại. Đường kính trước sau của TTT tăng,
đường kính ngang giảm, làm tăng công suất hội tụ và ngược lại nhưng TTT
không bị di chuyển. Như vậy những sợi dây chằng này không những có ý nghĩa
về mặt sinh lý của sự điều tiết mà nó cũn hết sức quan trọng về mặt giải phẫu.
4
1.2. Sinh lý bệnh của chấn thương đụng dập.
- Dưới tác nhân là một vật tày tác động tạo nên một làn sóng ép vào vỏ
giác củng mạc, đi từ trước ra sau, đẩy lùi thuỷ dịch làm cho màn mống mắt
tiếp cận với TTT, đồng thời làm di chuyển cả khối dịch kớnh, gây co kéo vào
các chỗ bám, lực tác động này làm cho mắt bè ra, trục nhãn cầu ngắn lại, đồng
thời giãn rộng đường kính ngang.
- Năm 1969 Delori Domerat, Zeff và Cox nghiên cứu thực nghiệm trên
khỉ nhận thấy đường kính trước sau ngắn lại 28%, cùng với sự biến dạng này,
đường kính xích đạo tăng lên 8 – 10%, gây co kéo đột ngột vào đáy dịch kính
làm đứt tuột vùng Oracsarata. Theo Frenket (1916 – 1931). Zoldal (1924) và
cả Delori (1969) cũng đã cho thấy trên thực nghiệm có sự thay đổi gây ra do
hậu quả của chấn thương kớn trờn mắt lợn. Trong nghiên cứu này, tác giả đó
dựng súng ngắn bắn bằng khí nén, kết quả ghi được là : Chấn thương trực tiếp
làm giảm đường kính trước sau, có thể lên tới 59%, tương đương với sự lõm
vào của giác mạc từ 8 – 5 mm |26|. Do sự dồn nén trước sau làm dẹt giác mạc,
đảo ngược độ cong giác mạc, đẩy mống mắt về phía sau, vùng xích đạo bị
căng đột ngột và mạnh, gây đứt một phần hoặc toàn bộ dây zinn. Dây zinn bị
đứt thì TTT sẽ bị lệch hoặc trệch ra khỏi vị trí giải phẫu. Nên nếu giây zin bị
đứt trên 25% thì TTT bị lệch sang phải hoặc sang trái, cũng có thể ra trước
hoặc sau, gây cận thị, loạn thị, song thị một mắt do lệch tâm của TTT. Nếu
toàn bộ dây zinn bị đứt thì TTT có thể bị sa vào buồng dịch kính ra trước ở
diện đồng tử, hoặc ở tiền phòng |22, 5, 8, 16, 18, 20|. Sóng phản hồi xuất hiện
sau 0,4 ms đưa trục trước sau nhãn cầu về vị trí bình thường, trong khi sóng
sung kích lan ra ở ẵ sau xích đạo của nhãn cầu, nó gõy nhiều rối loạn vận
mạch. Các phản ứng vận mạch xuất hiện sau làn sóng phản hồi gây thiếu máu,
làm chậm tuần hoàn vận mạch, gây tổn thương tiêu huỷ, hoặc hoại tử tế bào
võng mạc.
5
- Sau gây co mạch là giãn mạch, làm tăng quá trình thẩm thấu, làm
thoát huyết tương, gây xuất huyết, ngoài ra chấn thương đụng dập còn gây ra
hàng loạt những tổn thương như: Rách màng Descemet, tổn thương mống
mắt, đứt cơ co đồng tử -> gõy gión đồng tử, đục TTT
- Tổn thương góc tiền phũng, vựng bố làm bong thể mi - > gõy tỏch
thể mi -> lựi gúc kèm theo tổn thương thể mi - > gây xuất huyết tiền phòng,
xuất huyết dịch kính, phù võng mạc, rách võng mạc, xuất huyết võng mạc,
bong võng mạc, có thể rách hắc mạc.
1.3. Sa lệch TTT do chấn thương đụng dập nhãn cầu.
• Định nghĩa sa lệch TTT :
Lệch TTT : Là khi dây Zinn chỉ bị đứt một phần, thể thủy tinh dii lệch
khỏi vị trí giải phẫu bình thường, nhưng vẫn còn nằm ở sau bờ đồng tử.
Sa TTT : Là khi toàn bộ dây Zinn bị đứt, thể tinh bị rơi tự do về phía
sau vào buồng dịch kính hoặc sa ra phía trước, sa tiền phũng ô Cưỡi ngựa ằ ở
bờ đồng tử hoặc sa ra ngoài nhãn cầu.
1.3.1. Nguyên nhân
Khi chấn thương đụng dập gây áp lực mạnh đột ngột, gõy gión nhanh ở
vùng xích đạo, làm đứt dây chằng zinn, gây sa lệch TTT.
Có thể ước tính khi dây Zinn bị đứt > 25% sẽ dẫn tới lệch TTT. Thể
thuỷ tinh lệch nhiều, ít, hay sa TTT, nó phụ thuộc vào số dây zinn bị đứt
nhiều, ít hay toàn bộ. Sa lệch TTT chiếm 35.2% trong các trường hợp đục
TTT sau chấn thương đụng dập |4, 6, 15, 16, 18|. Chấn thương có thể xảy ra
trên mắt có bệnh lý khác :
+ Di lệch TTT có tính chất gia đình
+ Các bệnh bẩm sinh có rối loạn chuyển hoá : Hội chứng Marfan, hội
chứng Homoocystme niệu, hội chứng Weill – Marchesanie.
Một số trường hợp ít gặp như :
6
- Không có mống mắt bẩm sinh
- Hội chứng loạn sản sợi đàn hồi (Ehlers – Danlos).
- Hội chứng viêm thận di truyền điếc thần kinh (Alport).
- Loạn sản xương sọ mặt (bệnh Clouzon).
Theo một số tác giả người ta phân loại dị thường vị trí TTT thành 3 nhóm :
- Bẩm sinh
- Chấn thương
- Thứ phát sau bệnh lý của nhãn cầu.
Và một số tác giả cho rằng nguy cơ sa lệch TTT có cơ hội lớn hơn ở những
bệnh nhân có hội chứng : Marfan, Marchesamie, Homoocystme niệu hoặc ở
những bệnh nhân có cận thị cao, sau viêm màng bồ đào… |4, 6, 9, 18, 20|.
1.3.2. Các hình thái lâm sàng sa lệch TTT [1],[ 4],[ 6], [13], [17],[20].
1.3.2.1. Lệch TTT
• Là thể lâm sàng hay gặp nhất chiếm khoảng từ 48- 50% trong tổng số
bệnh bị nhân sa lờch TTT do dây zinn bị đứt một phần. Thể thuỷ tinh bị lệch
ra khỏi trục nhìn, nhưng vẫn còn được treo vào thể mi bởi cỏc dõy zinn còn
lại và nằm sau mống mắt.
Lệch TTT có thể nhẹ kín đáo do đứt một phần của dây zinn. Trên người
trẻ những sợi dây zinn có thể đứt toàn bộ nhưng TTT vẫn giữ nguyên vị trí,
do những sợi dây chằng giữa bao sau của TTT và màng hyaloyd.
Theo Boudel C (1979) gặp 24/50 ca chiếm 48% |25|. Nguyễn Ngọc
Trung (1991) nghiên cứu 39 ca sa lệch TTT sau chấn thương tại Bệnh viện
Mắt Trung ương, lệch TTT 34/39 ca |12|. Theo Lê Công Đức năm 2002
nghiên cứu 87 ca sa lệch TTT sau chấn thương tại Bệnh viện Mắt Trung
ương, lệch chiếm 67/87 ca (77,01%).
• Lệch ít thường kín đáo khó phát hiện, thấy các triệu chứng chủ quan
như nhìn mờ (thị lực có thể giảm hoặc giảm ít) thường dẫn tới các rối loạn thị
7
giác như biến dạng hình ảnh, cận thị nhẹ, loạn thị không đều, khó điều chỉnh,
thường gặp các triệu chứng chủ quan như rung rinh mống mắt, rung rinh thể
thuỷ tinh, mất tính song song khi cắt cúp quang học của giác mạc, mống mắt,
TTT. Trong một số trường hợp sử dụng đèn khe ta thấy bờ đồng tử cách
mống mắt một khoảng, độ sâu tiền phòng không đều có sự khác biệt giữa độ
sâu tiền phòng và hình dáng lựi gúc giữa 2 mắt. Có thể thấy thoát dịch kính
khu trú ra tiền phòng hoặc bờ đồng tử, đây là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán, vị
trí thoát dịch kính tương ứng với vị trí đứt dây zin. Khi bệnh nhân thay đổi tư
thế, có thể thay đổi vị trí của TTT. Khi soi góc tiền phòng có thể thấy chỗ
TTT còn bám vào dây chằng và góc hẹp phía đối diện thỡ gúc mở rộng, có thể
kèm theo triệu chứng tổn thương khác của góc (Lùi gúc, rỏch bố, bong thể
mi) |20;24| cho thấy nơi chân mống mắt bị đứt qua chỗ đứt có thể thấy vựng
dõy zinn bị tổn thương và dịch kính.
• Lệch nhiều gây rối loạn thị giác một cách trầm trọng thường gặp:
cận thị, viện thị cấp, loạn thị nặng. Khám thấy xích đạo TTT ở diện đồng
tử,gây song thị một mắt làm cho bệnh nhân khó khăn trong sinh hoạt và học
tập. Có thể thấy dịch kính ở diện đồng tử hoặc ra tiền phũng. Rìa của TTT có
thể xuất hiện ở đáy mắt như một bóng đen hình lưỡi liềm vì sự phản xạ bên
trong của ánh sáng khi khám. Có thể nhìn thấy hình ảnh của hai địa thị. Soi
ánh đồng tử có giá trị trong việc mô tả rìa của TTT. Các tổn thương như rung
rinh mống mắt làm thay đổi độ sâu tiền phòng rõ nét hơn rất nhiều.
1.3.2.2. Sa thuỷ tinh thể (Dislocation)
• Sa trước: Theo Arnaud B. và cộng sự năm 1982, trong 85 trường
hợp ở Montpellier có 8 ca |24|, chiếm 9,4%.
Theo Tôn Thị Kim Thanh 1995 |9|, chiếm 6,06%. Theo Trần Văn An 1999
|1|, chiếm 14,86%. Lê Công Đức 2002 chiếm 8,05%. Thể thuỷ tinh rơi khỏi
chỗ bám ra mặt trước của mống mắt, nằm ở trong tiền phòng, bệnh nhân đau
8
nhức dữ dội, thị lực giảm mạnh, nhãn áp tăng cao, khám thấy kết mạc cương
tụ, giác mạc phù nề, TTT nằm hoàn toàn trong tiền phòng, giữa giác mạc và
mống mắt, nếu TTT còn trong thì nhìn thấy như một giọt dầu, nếu TTT đã bị
đục nhìn giống như một đĩa mầu trắng lung lay và di động trong thuỷ dịch.
Hình thái này ngay từ đầu đã làm nhãn áp tăng cao cấp tính, do TTT làm
nghẽn đồng tử.
Theo Bouder C gặp 4/6 ca chiếm 67% tăng nhãn áp |25|. Trần Văn An
1999 |1| chiếm 21,62%. Trần Thị Phương Thu 2001 |11| chiếm 45%.
• Đây là hình thái rất hiếm gặp nó chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn sau đó TTT có thể sa vào tiền phòng, hay là buồng dịch kính.
• Thể thuỷ tinh sa ra sau : Theo Amaud B. và Dupeyron G. sa TTT
ra sau chiếm khoảng 30%. Trần Phương Thu 2001 là 22,5%. Trần Văn An
1999 là 4,05%. Thể thuỷ tinh sa ra sau do dây zin đứt toàn bộ, màng Hyaloit
rách trước, TTT rơi vào buồng dịch kính, nếu không có tổn thương bao TTT
thỡ nó có thể dung lạp tốt, nó có thể tồn tại nhiều năm trong buồng dịch kính
mà không gây biến chứng gì. Theo Lorier và Creuner có thể dung nạp tới 20
năm . Theo Phan Đức Khâm là 14 - 20 năm |4|, thậm chí cả khi TTT bị đục nó
vẫn có thể dung nạp trong buồng dịch kính sau nhiều năm, tuy nhiên nó phải
được theo dõi một cách cẩn thận, bởi lẽ biến chứng sẽ đến bất cứ khi nào.
Thường biến chứng tăng nhãn áp là rất cao. Theo Naciorie tăng nhãn áp
chiếm 10%, Boudel C. gặp tỷ lệ tăng nhãn áp khá cao (10/18 ca) |25|.
• Trên lâm sàng, vì không có TTT nên thị lực giảm sút nặng (viễn thị
nặng), điều chỉnh bằng kính +10D thị lực có thể tăng. Khám thấy tiền phũng
sõu bất thường, dịch kính trong tiền phòng, rung rinh mống mắt, soi đáy mắt
có thể thấy TTT di động trong buồng dịch kính trước võng mạc, vì vậy khi
thay đổi vị tri TTT cũng thay đổi theo. Thể thuỷ tinh có thể dính vào gai thị
hoặc vùng hoàng điểm, thường TTT ở vị trí 6 giờ, dựng kớnh tiếp xúc 3 mặt
9
gương cho phép xác định vị trí cũng như di động trong các vị trí khác nhau
của TTT và mức độ dính của TTT vào dịch kính và võng mạc, đối với những
trường hợp có xuất huyết nội nhãn, hay đục dịch kớnh, khụng xác định bằng
kính tiếp xúc 3 mặt thỡ dựng siêu âm sẽ có giá trị giúp ta chẩn đoán xác định.
• Thể Thuỷ Tinh sa ra ngoài nhãn cầu: Bệnh cảnh này thường hiếm
gặp. Theo Sedan 1963, trong suốt 30 năm chỉ có 5 trường hợp sa TTT ra khỏi
nhãn cầu. Theo B. Arnaud và cộng sự 1982, trong 85 trường hợp ở
Montpellier gặp 4 ca |25|. Theo Hoàng Việt Nga (1990) và Nguyễn Ngọc
Trung (1991) |12| không thấy gặp trường hợp nào.
• Khi chấn thương nhãn cầu bị vỡ thể thuỷ tinh có thể bị bắn ra
ngoài, nằm dưới kết mạc hoặc dưới bao Stenon, nó thường kèm theo cú phòi
kẹp mống mắt hoặc thể mi, qua vết rách của mạc. Nhưng thường gặp nhất ở
góc mũi trên phía sau vựng rìa, có thể thuỷ tinh nằm ẵ trong hoặc ẵ trờn vết
thương củng mạc. Khi khỏm trờn lâm sàng biểu hiện như một u kết mạc. Do
thể thuỷ tinh đội kết mạc lên, vị trí vết thương củng mạc thường gặp là trên
trong phía sau vựng rìa 3 – 4 mm, theo DuKer – Elder. Tuy nhiên cũng có thể
gặp ở những vị trí ẳ khỏc của nhãn cầu, gây sa TTT dưới kết mạc. Có thể
dung nạp tốt song những tổn thương khác kèm theo của nhãn cầu có thể gõy
lên những biến chứng nặng nề, để lại hậu quả về thị lực rất trầm trọng. Một số
trường hợp sa TTT dưới kết mạc mà gây tổn thương ở vùng thể mi, thường
gõy lờn tình trạng tăng nhãn áp.
• Sa TTT dưới bao Stenon: Là một chấn thương đụng dập mạnh vào
nhãn cầu làm rách củng mạc, chỉ cho phép ta chẩn đoán được khi dịch kớnh
cũn trong suốt, ta thấy mất TTT và có vết rách củng mạc (TTT không còn
trong nhãn cầu) |26|.
10
• Mất TTT thường gặp khi chấn thương làm vỡ nhãn cầu, gõy rỏch
củng mạc, giác mạc, làm phòi kẹt các tổ chức qua vết rách (dịch kính, thể mi,
giác mạc), có thể làm mất đi nhiều tổ chức làm cho nhãn cầu mềm ra, gây
xuất huyết toàn bộ, phù nề cực mạnh nên ta không nhìn thấy TTT, nếu muốn
chẩn đoán chắc chắn ta có thể dựng đèn soi đáy mắt hay siêu âm |26|.
1.3.3 Biến chứng của sa lệch TTT
1.3.3.1. Viêm màng bồ đào |22, 4, 24, 26|.
• Những trường hợp chấn thương sa lệch TTT, tức là TTT chưa bị đứt
toàn bộ, mà còn sót lại 1 hay vài sợi dây zinn dính vào thể mi. Khi TTT di
động gây co kéo, thể mi liên tục bị kích thích gây ra viêm màng bồ đào |4|.
• Hoặc do TTT quỏ chớn bao TTT bị tổn thương sau khi bi chấn thương
đụng dập nhãn cầu, làm giãn mỏng bao TTT giải phóng ra một lượng Protein
vào nội nhón, gõy phản ứng viêm màng bồ đào rất trầm trọng.
• Viêm màng bồ đào do kháng nguyên TTT, là một viêm u hạt thông
qua miễn dịch được khởi đầu bằng chất Protein thoát ra qua bao TTT bị tổn
thương, còn là viêm màng bồ đào phản vệ TTT, bệnh khởi phát muộn có thể
xuất hiện sau chấn thương một vài tuần.
• Triệu chứng: Mắt đỏ, cương tụ rìa dữ dội, kèm theo đau nhức, giác
mạc phự, cú tủa sau giác mạc, tiền phòng có nhiều tế bào viêm Tyndall (+),
đôi khi xảy ra Glocom thứ phát do tắc nghẽn vựng bố gõy dớnh gúc.
• Ngoài ra, cũn cú biến chứng muộn như, nhãn áp giảm, teo nhãn cầu.
Một điều đặc biệt quan trọng cần phải lưu ý là: Viêm màng bồ đào do kháng
nguyên TTT có thể gõy nhón viờm đồng cảm với mắt lành.
1.3.3.2. Glocom thứ phát
• Nó cũng là một trong những biến chứng nặng của sa lệch TTT sau
chấn thương đụng dập. Tình trạng tăng nhãn áp được biết đến từ rất lâu, song
nguyên nhân rất phức tạp, người ta thường quan tâm và đề cập đến sự cương
11
tụ phản ứng do giãn mạch toàn bộ nhãn cầu. Có thể cương tụ khu trú ở thể mi,
hoặc do giãn mạch gây kích thích hệ giao cảm làm tăng tiết thuỷ dịch gây
tăng nhãn áp theo Beeker, Bosschộtoille đã thực nghiệm đụng dập trên thỏ ở
phút thứ 2 sau chấn thương, nhận thấy nhãn áp đã tăng lên và nhãn áp tăng
đạt mức tối đa sau 10 – 15 phút, rồi giảm xuống sau 30 phút, để rồi giữ
nguyên nhãn áp cao trong giờ đầu. Đặc biệt các tác giả nhận thấy hiện tượng
tăng Prostaglandin (PG), nhất là PGE và cho rằng đụng dập đã giải phóng
PGE trong mắt và làm tăng nhãn áp |5|.
• Theo tác giả Arnaud (1982) đã gặp 30% tăng nhãn áp trong các ca sa
lệch TTT do chấn thương đụng dập |24|.
• Theo Trần Văn An (1999) |1| tăng nhãn áp gặp 21,62%.
• Theo Lê Công Đức (2002) tăng nhãn áp gặp 37,93%.
Nhãn áp có thể tăng ngay sau chấn thương nhưng cũng có thể xuất hiện đột
ngột sau một thời gian dài. Vì vậy cần phải theo dõi sát nhãn áp của bệnh nhân.
• Roberd – RiTch: Chia nguyên nhân tăng nhãn áp trong sa lệch TTT thành
2 nhúm, nhúm có liên quan đến TTT và nhóm không liên quan đến TTT.
+ Nhóm liên quan đến TTT:
- Nghẽn đồng tử bởi TTT.
- Nghẽn đồng tử bởi dịch kính ra tiền phòng.
- Nghẽn đồng tử bởi TTT và dịch kính.
- Tăng nhãn áp do tiêu TTT.
- Thể thuỷ tinh ra tiền phòng.
- Tăng nhãn áp do những đợt đóng góp bởi TTT lệch nhô ra trước,
làm tăng diện tiếp xúc của TTT với mặt sau mống mắt, gây
nghẽn đồng tử thứ phát. Thuỷ dịch bị ứ đọng ở hậu phòng, đẩy
vùng chu biên của mí mắt ra phía trước, làm cho tiền phũng nụng
12
gây ra gúc đúng, nếu tình trạng này kéo dài lập đi lặp lại nhiều
lần gây tổn hại vựng bố hoặc dớnh gúc.
+ Nhóm không liên quan đến TTT:
- Có bất thường ở góc tiền phòng.
- Cú lựi gúc.
- Trùng với Glocom góc mở mãn tính.
- Ngoài ra còn gặp các dạng Glocom khác như:
o Glocom do hồng cầu triết “Ghost – Cell Glaucoma”.
o Glocom do tiờu mỏu.
o Glocom do tân mạch.
Theo Demailly Ph. cho rằng có rất nhiều nguyên nhân gây tăng nhãn áp,
nhưng phần lớn là do nghẽn đồng tử bởi:
- TTT sa ra tiền phòng.
- TTT bán lệch ra trước.
- Dịch kính ra tiền phũng gõy nghẽn đồng tử.
- TTT sa vào buồng dịch kính. Dịch kính tạo thành nỳt hỡnh nấm
gây nghẽn đồng tử.
- Giãn dây chằng TTT nhô ra trước, gây ra tình trạng giống như là
bệnh cảnh điển hình của Glucom gúc đúng thứ phát.
- Phản ứng viêm màng bồ đào gây tăng nhãn áp.
- Theo Gundorova một số phản ứng màng bồ đào có thể gây tăng
nhãn áp, ví như khi chấn thương TTT lệch nó sẽ gõy kớch thớnh
cơ học lên thể mi, gây tăng tiết thuỷ dịch.
13
Theo VolKov và cộng sự 1986 đề cập đến vấn đề đặc điểm sinh học cơ
học của sự tác động qua lại giữa dẫn lưu thuỷ dịch và điều tiết. Cả 2 chức
năng này đều nhờ vào tính hoạt động của cơ thể mi, tính đàn hồi của màng bồ
đào, bao TTT và vựng bè. Vì vậy nên tác giả đã cho rằng : lệch TTT không
chỉ gây loạn thị do TTT mà còn dẫn tới thay đổi trương lực của cơ thể mi,
nhằm điều chỉnh loạn thị. Điều này làm cho thay đổi dẫn lưu thuỷ dịch và là
điều kiện thuận lợi hay tiền đề cho bệnh Glocom |6|.
1.3.3.3. Phù nề giác mạc
Bản chất của chấn thương đụng dập đã làm tổn thương lớp biểu mô giác
mạc, là hàng dào bảo vệ đầu tiên, nó làm cho giác mạc bị phù nề.
Do dịch kính tiếp xúc với nội mô giác mạc quỏ lõu, hay TTT nằm lâu
trong tiền phòng gây tổn thương lớp nội mô, gây loạn dưỡng giác mạc. Hay
do nhãn áp tăng cao, nếu không được điều trị cũng gây phù nề và loạn dưỡng
giác mạc.
1.3.3.4. Đục TTT tăng dần.
Trong nhãn cầu chứa rất nhiều chất dịch, khi bị chấn thương bị một sức ép
truyền theo các hướng vào TTT, làm cho tổn thương biểu mô của bao TTT,
các thớ TTT và gây đục TTT dưới nhiều hình thái như : Đục hình cánh hoa
hồng, đục hình vòng, đục hình toả lan, đục dưới bao.
1.3.4. Xử trí sa lệch TTT
• Nguyên tắc sử trí sa lệch TTT:
+ Điều trị nội khoa : Nếu TTT lệch ít không có biến chứng hay nguy cơ
biến chứng TL > 3/10 chưa có chỉ định điều trị bằng phẫu thuật mà điều trị
nội khoa và theo dõi.
+ Điều trị ngọai khoa : Chỉ định phẫu thuật khi lệch TTT có TL< 3/10 có
song thị một mắt. Hoặc lệch có đe doạ chuyển thành sa TTT hoặc có biến
14
chứng như : Tăng nhãn áp, bong võng mạc thì phải xử lý biến chứng hoặc đục
TTT thì phẫn thuật lấy TTT.
• Theo Arnaud B., Triby B., Esmenjaud E., Zaghroue K.(1982) |24|:
+ TTT sa ra tiền phòng: Lấy TTT cấp cứu.
+ Lệch TTT: Phẫu thuật nếu có biến chứng như đục TTT, glocom bong
võng mạc, đe doạ lệch sau.
+ Lệch sau: Chỉ phẫu thuật khi có biến chứng tăng nhãn áp, trước khi
phẫu thuật cần điều trị thử bằng thuốc giãn đồng tử, cho bệnh nhân nằm sấp
để TTT ra tiền phòng sau đó dùng co đồng tử và phẫu thuật ngay.
Theo Paton và Gloldhergs (1985) |17|:
+ Phẫu thuật cấp cứu trong những trường hợp TTT sa ra tiền phòng, cưỡi
ngựa ở bờ đồng tử gây tăng nhãn áp, rối loạn nộ mô giác mạc.
Sa TTT dịch kính là một biến chứng nặng của chấn thương đụng dập
nhưng ít nguy cơ tăng nhãn áp, những bệnh nhân này thường chờ đợi khi quá
trình viờm yờn, nếu trục nhìn sạch thì đặt kính tiếp xúc.
Theo Hiff, Kramer và Gundorova (1986) nên phẫu thuật trong những trường
hợp TTT sa ra tiền phòng đặc biệt là do chấn thương.
Theo Robert Ritch (1986) |20|:
+ Lệch TTT ra tiền phũng cú hai quan điểm đẩy vào hậu phòng và lấy
TTT. Nếu TTT còn trong bảo tồn là phương pháp an toàn hơn: Cho giãn đồng
tử, nằm ngửa, ấn vào giác mạc để TTT rơi ra sau mống mắt. Nếu TTT đục thỡ
nờn lấy TTT hoặc nếu có tổn thương phối hợp xử trí thỡ nờn lấy TTT kết hợp.
Nếu TTT dính chặt vào giác mạc thì lấy TTT kết hợp với ghép giác mạc.
+ TTT rơi vào buồng dịch kính: Nếu không có biến chứng thì không
phẫu thuật.
Theo Tôn Thị Kim Thanh (1995) |9|.
15
+ Sa TTT vào tiền phòng , TTT ở bờ đồng tử, TTT ở ngoài nhãn cầu thì
mổ cấp lấy TTT.
+ TTT trong buồng dịch kính: Đưa TTT ra tiền phòng sau đó lấy TTT,
nếu không “đưa” được thì điều trị nội khoa.
+ TTT lệch trong hậu phòng: Chỉ mổ lấy TTT khi có biến chứng.
Theo Phan Đức Khâm (1997) |4|: Chỉ định điều trị tuỳ thuộc hình thái di lệch
TTT và tuổi người bệnh:
+ Lệch TTT từng phần:
- Lệch nhẹ: Không tiến triển, thị lực được bảo tồn, nhãn áp bình
thường nên chời đợi, theo dõi người bệnh. Nếu TTT đục nên mổ
lấy TTT.
- Lệch TTT chiếm một phần diện đồng tử: Trong trường hợp này
người bệnh nhìn bằng hai mắt khó và có thể tăng nhãn áp, cần
lấy TTT ra.
+ TTT sa vào tiền phòng: Ở vị trí này TTT sớm muộn sẽ gây biến chứng
nặng đặc biệt là tăng nhãn áp nên can thiệp sớm. Phải mổ trong điều kiện làm
hạ nhãn áp, trước đó cho thuốc co đồng tử mạnh để tránh làm di chuyển TTT
vào dịch kính.
Nhìn chung các tác giả thống nhất về chỉ định lấy TTT sa, lệch trong các
trường hợp sau:
- TTT trong tiền phòng.
- TTT cưỡi ngựa ở bờ đồng tử.
- TTT đục, lệch gây giảm thị lực nhiều, song thị.
- TTT lệch là nguyên nhân chớnh gõy tăng nhãn áp điều trị nội
khoa không kết quả.
- Nguy cơ tổn hại nội mô giác mạc.
- Lệch TTT tiến triển.
16
• Phương pháp lấy TTT sa, lệch: Có nhiều
phương pháp lấy TTT sa lệch. Tuy nhiên kết quả thường rất hạn chế vì tỷ lệ
biến chứng trong và sau phẫu thuật khá cao |27|. Sự phát triển của kỹ thuật cắt
dịch kính và vi phẫu thuật thực sự là cuộc cách mạng trong phẫu thuật lấy
TTT sa, lệch |7, 27|. Sử dụng các dụng cụ chuyên dụng của phẫu thuật dịch
kính, võng mạc, vết mổ nhỏ đi qua đường Pars Plana tránh được rất nhiều các
biến chứng. Việc lựa chọn phương pháp lấy TTT phụ thuộc vào tuổi của bệnh
nhân, hình thái sa lệch, tình trạng TTT, dịch kính và võng mạc. Gholam
A.Peyman (1994) |19| đã phân loại sa, lệch TTT theo phương pháp xử lý như
sau:
+ Lệch TTT nhân mềm.
+ Lệch TTT nhân cứng.
+ Sa TTT nhân mềm vào dịch kính.
+ Sa TTT nhân cứng vào dịch kính.
+ Sa TTT nhân cứng và mềm vào tiền phòng.
+ Sa TTT – biến chứng của phẫu thuật lấy TTT.
TTT nhân cứng lệch hoặc sa ra tiền phòng có thể lấy trong bao hoặc lạnh
động, bằng anse qua đường giác mạc, cắt dịch kính trước. Nếu TTT nhân
mềm lệch ra trước hoặc ra sa ra tiền phũng thỡ có thể cắt TTT và dịch kính
qua giác mạc, lấy chất TTT trong bao trước, cắt bao và cắt dịch kính sau.
1.3.5. Vấn đề quang học trong xử lý sa lệch TTT.
1.3.5.1. Loạn thị
- Loạn thị thường có sau phẫu thuật, tuy nhiên độ loạn thị này sẽ giảm đi
nhờ quá trình hoạt động của mi mắt, nó cọ sát dần lên bề mặt của giác mạc.
- Mất khả năng điều tiết: Khả năng điều tiết của mắt nhờ vào sự biến đổi
độ cong hai mặt lồi của TTT để nhỡn rừ vật. Khi mất TTT thì mắt không còn
khả năng điều tiết.
17
- Viễn thị cao: Là một vấn đề quan trọng bởi TTT bị loại bỏ, làm cho mắt
chỉ còn lại lực khúc xạ của giác mạc. Vì mắt không còn TTT lên gây ra viễn
thị cao. Hình ảnh không còn nằm đúng võng mạc, mà nằm sau giác mạc
khoảng 7mm.
- Rối loạn sắc giác: TTT như một bộ phận lọc tia tử ngoại và một phần tia
hồng ngoại, khi không còn TTT xu hướng màu sắc thiên về màu tím và giảm
về màu xanh.
- Biến đổi hình ảnh võng mạc: Khi mắt không có TTT thì độ phóng đại
của hai mắt sẽ có sự khác nhau, làm cho hình ảnh trên võng mạc sẽ không
đều, dẫn tới sự mất cân đối hình giữa hai mắt. Khả năng hợp nhất hai hình
ảnh sẽ không còn và dẫn tới sự trung hoà ở mắt không có TTT, nó được hình
thành cộng với sự giảm thị lực của một mắt, thường gặp là bệnh nhân bị lác
ngoài, nhưng vấn đề này sẽ được khắc phục nhờ những thiết bị quang học
nhằm phục hồi thị lực tốt nhất, để trả lại thị giác hai mắt cho người bệnh.
1.3.5.2 Điều chỉnh quang học trên mắt mổ sau lấy TTT sa lệch [22],[9], [14],
[16], [19], [24].
Với mục đích để phục hồi thị lực trả lại thị giác hai mắt và quan trọng hơn
cả là tránh nhược thị cho trẻ em sau chấn thương, đã có một số phương pháp
điều chỉnh sau mổ TTT.
- Điều chỉnh quang học băng kính hội tụ: Đây là phương pháp được dùng
để phục hồi thị lực cho mắt không còn TTT, tiện lợi, để sử dụng, rẽ tiền. Tuy
nhiên hình ảnh bị phóng đại là 25 – 30% nờn nhỡn vật không được chính xác
và định hướng trong không gian bị sai lệch. Chỉ dùng tốt cho những bệnh
nhân mắt độc nhất hoặc đã phẫu thuật lấy TTT cả hai mắt.
- Đeo kính tiếp xúc: Là phương pháp điều chỉnh quang học khá tốt sau khi
đã mổ lấy TTT đặc biệt khi chỉ ở một mắt. Hình ảnh phóng đại giảm xuống
7% nờn nhỡn vật được rõ và chính xác, thị trường không thu hẹp mang lại
18
điều kiện quang học phù hợp cho việc phục hồi thị giác hai mắt. Loại kính
này khó có thể sử dụng cả ngày và đêm đồng thời, đồng thời nó có khả năng
gây ra những biến chứng về lâu dài như: Viêm kết mạc nhú khổng lồ, loét
giác mạc, viêm giác mạc chấm, đặc biệt là những sứ nóng nhiều gió bụi và ẩm
như ở nước ta. Hay nó gây ra tân mạch ngoại vi giác mạc. Mặt khác giá thành
sử dụng cao, khó khăn và phiền toái trong khi sử dụng và không được phép
dùng cho trẻ em.
- Epikeratophakia đã dùng giác mạc tươi đắp lên giác mạc của bệnh nhân
để làm tăng công suất hội tụ của giác mạc, phương pháp này không được phổ
biến rộng rãi bởi: Sau mổ khả năng phục hồi thị lực chậm, mụ ghộp có thể bị
mờ đục sau 6 tháng hoặc trên 6 tháng, lực khúc xạ không dễ thay đổi như
kính tiếp xúc và đặc biệt đối với trẻ em mắt chỳng luụn thay đổi khúc xạ. Vì
vậy đây chỉ là hướng nghiên cứu cho tương lai.
- Đặt TTT nhân tạo: Là phương pháp điều chỉnh quang học tốt nhất. được
sử dụng rộng rãi trên thế giới và những năm gần đây ở Việt Nam sau phẩu
thuật lấy TTT.
Đối với những mắt bao sau TTT rách rộng hoặc không còn bao sau phẫu thuật
lấy TTT sa, lệch. Người ta áp dụng các kỹ thuật.
- Khâu TTT nhân tạo vào mống mắt, phẫu thuật này có thể gõy thoỏi hoỏ
mống mắt, viêm mống mắt thể mi và lệch TTT nhân tạo, bởi những nhược
điểm này nên hiện nay nó không được sử dụng.
- Đặt TTT nhân tạo tiền phòng: Phẫu thuật đơn giản dễ làm hơn so với các
kỹ thuật đặt TTT nhân tạo khác, song nó cũng có thể gõy thoỏi hoỏ mống
mắt, loạn dưỡng giác mạc, phù giác mạc.
- Cố định TTT vào củng mạc: So với phẫu thuật đặt TTT nhân tạo tiền
phũng, nó tránh được các biến chứng như: thoỏi hoỏ mống mắt, phù giác mạc.
Vị trí của TTT nhân tạo sinh lý hơn.
19
1.4. Nghiên cứu sa lệch TTT do chấn thương đụng dập ở Việt Nam.
Ở nước ta có rất nhiều các tác giả đó cú những công trình nghiên cứu đến
vấn đề sa lệch TTT, đặc biệt là sa lệch TTT do chấn thương đụng dập nhãn
cầu. Các tác giả đã quan tâm và đi sâu đến các hình thái lâm sàng, phương
pháp và kỹ thuật xử trí cũng như phẫu thuật, đã đem lại những kết quả hết sức
có ý nghĩa.
Nguyễn Ngọc Trung 1991 |12| đã nghiên cứu và tổng kết 39 trường hợp sa
lệch TTT sau chấn thương đụng dập nhãn cầu trong năm 1990 cho thấy, 34 ca
lệch TTT, 3 ca sa TTT ra tiền phòng, 2 ca sa vào buồng dịch kính, hầu như
các trường hợp sa lệch TTT thường kèm theo các tổn thương phối hợp khác,
tác giả đã nêu lên được các phương pháp điều trị bằng phẫu thuật và kết quả
khi bệnh nhân ra viện, song chưa công bố được kết quả lâu dài cho điều trị và
phương pháp điều trị cho từng hình thái sa lệch.
Tôn Thị Kim Thanh nghiên cứu 165 ca sa lệch TTT tại Viện Mắt từ 1992
đến 1995 [9] nhận thấy: Nguyên nhân hay gặp là do chấn thương (52,72%), sa
lệch TTT do chấn thương thường kèm theo các tổng thương phối hợp khác
của nhãn cầu. Hình thái lâm sàng hay gặp là sa vào hậu phòng (82,4%). Tác
giả đã thống kê được các nguyên nhân, các hình thái lâm sàng và chỉ định
điều tri. Tuy nhiên tác giả không đi sâu nghiên cứu các hình thái lâm sàng và
chỉ định điều trị riêng cho các trường hợp sa, lệch TTT do chấn thương đụng
dập nhãn cầu.
Phan Đức Khâm 1997 [5] đã đề cập đến sự đi lệch TTT trong chấn thương,
các hình thái lâm sàng, biến chứng và các phương pháp điều trị.
Trần An 1998 [1] đã nghiên cứu các phương pháp điều trị phẫu thuật sa,
lệch TTT, trong đó bao gồm cả sa, lệch TTT chấn thương và sa, lệch TTT
bệnh lý.
20
Trần Thị Phương Thu 2001 [11] đã nghiên cứu sử dụng các máy cắt dịch
kính trong phẫu thuật điều trị sa, lệch TTT chấn thương trên 40 bệnh nhân tại
khoa chấn thương trung tâm Mắt Thành phố Hồ Chí Minh. Từ tháng 3 năm 1998
đến tháng 3 năm 1999 đã đạt được những kết quả hết sức có ý nghĩa.
Hiện nay ở Việt Nam chưa thấy có tài liệu nào nghiên cứu một cách chi
tiết cụ thể về hình thái lâm sàng và điều trị sa lệch TTT do chấn thương đụng
dập nhãn cầu. Các vị trí tổn thương hay gặp của dây zinn và các hướng lệch
của TTT liên quan đến vị trí tổn thương của dây zinn.
21
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên những bệnh nhân là người Việt Nam,
không phân biệt giới tính, sắc tộc, được chẩn đoán là sa lệch TTT tiền phòng
do chấn thương đụng dập nhãn cầu, đã được điều trị tại khoa chấn thương
Bệnh viện Mắt Trung ương từ 01/01/2006 đến 31/12/2010.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân.
- Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân bị sa lệch thủy tinh thể tiền phòng
- Có đủ thông tin cần thiết cho nghiên cứu
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ.
- Những hồ sơ bỏ viện, trốn viện.
- Những hồ sơ bị sa lệch TTT do những nguyên nhân khác như: Hội
chứng bẩm sinh, Marfan, cận thị cao…. Và những bệnh nhân có liên quan đến
bệnh tại mắt như viêm màng bồ đào, viêm nội nhãn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu.
• Đây là nghiên cứu mô tả hồi cứu đánh giá hình thái tổn thương,
kết quả điều trị.
- Mô tả đặc điểm hình thái sa lệch TTT tiền phòng.
- Đỏnh giá kết quả bước đầu về các phương pháp điều trị của sa lệch
TTT tiền phòng.
• Cách chọn: Lấy toàn bộ bệnh nhân đủ tiêu chuẩn lựa chọn điều trị
tại khoa chấn thương bệnh viện mắt trung ương từ 01/01/2006 – 31/12/2010
22
2.3. Phương tiện nghiên cứu.
- Hồ sơ bệnh án chấn thương mắt tại kho lưu bệnh viện Mắt Trung ương.
- Các tài liệu liên quan tham khảo khi nghiên cứu.
- Các bảng mẫu theo dự kiến kết quả.
2.4. Tiến hành nghiên cứu.
2.4.1. Phân loại hồ sơ bệnh án trong khoảng thời gian nghiên cứu.
- Số bệnh nhân sa lệch TTT tiền phòng trong tổng số bệnh nhân sa lệch
TTT do chấn thương đụng dập nhãn cầu.
- Phân loại hồ sơ bệnh nhân:
o Sa TTT tiền phòng.
o Lệch TTT tiền phòng
2.4.2. Tìm kiếm các thông tin trong hồ sơ bệnh án.
• Đặc điểm chung:
- Tuổi.
- giới.
- Nghề nghiệp.
- Lý do đến khám bệnh.
- Hoàn cảnh xảy ra chấn thương (trong sinh hoạt, thể thao, lao động, tai
nạn…).
- Tác nhân gây chấn thương như: quả bóng, cầu lông, đấm đá …
- Thời gian đến viện sau chấn thương.
- Tính chất của chấn thương: thẳng, trước, phía bên, trực tiếp, gián tiếp
….
- Tiền sử hai mắt trước chấn thương.
- Xử lý của tuyến trước: Phương pháp xử trí, kết quả xử trí.
23
2.4.3. Kết quả khám bệnh (trong hồ sơ)
• Theo mô tả tổn thương trên:
- Mi mắt. (xưng nệ, xuất huyết, rách gia mi, rách lệ quản
- Kết mạc.(phù nề, xuất huyết, rách kết mạc)
- Củng mạc.( rách)
- Giác mạc. (phù, trợt)
- Tiền phòng. (nông, sõu, mỏu, mổ)
- Đánh giá tổn thương góc tiền phũng: Lựi gúc, tỏch thể mi.
- Mống mắt. (đứt, rách)
- Đồng tử. (trũn méo, gián)
- Tình trạng TTT. (sa, lệch ít, lệch nhiều, rách bao, đục thể tinh)
- Tình trạng dịch kính. (xuất huyết dích kớnh, tổ chức hoá dịch kớnh)
- Tổn thương đáy mắt kết hợp.
2.4.4. Kết quả thị lực – nhãn áp.
• Kết quả thị lực trước và sau khi ra viện:
- Người lớn dùng bảng thị lực vòng hở Landolt.
- Trẻ em dùng bảng thị lực hình
• Kết quả nhãn áp trước và sau khi ra viện với quả
cân 10g của nhãn áp kế Maclakov.
2.4.5. Siêu âm điện võng mạc
- Nhằm đánh giá tình trạng dịch kính và võng mạc, đặc biệt có ý nghĩa
đối với những trường hợp bị đục TTT hay xuất huyết tiền phòng không cho
phép ta quan sát phía sau. Dùng siêu âm sẽ xác định được tổn thương và đáp
ứng của võng mạc.
24
2.4.6. Kết quả chụp ảnh
- Chụp ảnh toàn cảnh mắt bị chấn thương.
- Chụp cắt khe lấy các tổn thương tiền phòng, mống mắt, TTT.
2.4.7. Chẩn đoán
Thống kê đầy đủ các hình thái của sa lệch TTT tiền phòng, tính chất của
các tổn thương phối hợp, các biến chứng.
- Lúc vào viện.
- Trước phẫu thuật.
- Sau phẫu thuật.
- Ra viện.
2.5. Xử trí
Tuỳ theo từng cách xử trí của mỗi hình thái của sa lệch TTT:
• TTT sa ra tiền phòng hoặc cưỡi ngựa ở bờ đồng tử:
Lấy TTT cấp cứu. Cắt mống mắt chu biên, cắt dịch kính trước. Nếu bệnh
nhân đến muộn cú dớnh gúc thì phải cắt bè.
• Lệch TTT:
- Lệch ít:
o Thể thuỷ tinh còn trong: Không có biến chứng thì điều trị nội khoa
và theo dõi. Nếu có biến chứng tăng nhãn áp: Dớnh gúc trờn ẵ thỡ
cắt bố, dớnh gúc trờn ẵ thỡ cắt mống mắt chu biên.
o Thể thuỷ tinh đục: Lấy TTT ngoài bao, đặt TTT nhân tạo.
• Lệch nhiều:
o Nếu không có biến chứng điều trị nội khoa, theo dõi.
o Nếu có biến chứng viêm màng bồ đào thì lấy TTT cắt dịch kính.
25