Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị của biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật glụcụm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.7 KB, 60 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Glụcụm là một bệnh phổ biến của nhãn khoa và cũng là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở nước ta cũng như trên thế giới.
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới năm 1990 trên thế giới có khoảng
22,5 triệu người mắc bệnh glụcụm trong đó có 5,2 triệu người bị mù. Harold
A năm 1996 đã làm một nghiên cứu cho thấy ước tính đến năm 2000 số người
mắc bệnh glụcụm sẽ lên đến 66,8 triệu người trong đó có khoảng 6,7 triệu
người bị mù [26]. Ở Việt nam năm 2007 được sự giúp đỡ của tổ chức
Attlantic, một cuộc điều tra dịch tễ học trên diện rộng ở 16 tỉnh thành của cả
nước tác giả Đỗ Như Hơn đã cho thấy nguyên nhân gõy mự do bệnh glụcụm
vẫn là 6,5% đứng thứ 2 trong các nguyên nhân gây mù lòa tại Việt nam sau
đục thể thủy tinh [17].
Bệnh glụcụm gây tổn hại các chức năng thị giác và có thể tiến triển đến
mất thị lực vĩnh viễn nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời.Từ trước
tới nay các nhà nhãn khoa trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã sử dụng
nhiều loại phẫu thuật khác nhau để điều trị bệnh glụcụm và nhiều phương
pháp tỏ ra có hiệu quả, tuy nhiên các biến chứng sau phẫu thuật như: xẹp tiền
phòng, xuất huyết tiền phòng, phản ứng viêm màng bồ đào…là rất thường
gặp. Đặc biệt xẹp tiền phòng là một trong những biến chứng nặng nề sau phẫu
thuật nội nhãn nói chung và phẫu thuật glụcụm nói riêng.
Tỷ lệ biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật glụcụm tại Việt Nam
dao động từ 5,88% đến 13,42% [5,8]. Kết quả nghiên cứu của các nhà nhãn
khoa thế giới cho thấy tỷ lệ dao động từ 2,9% đến 23,5% [30,21].
Biến chứng xẹp tiền phòng nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị
sẽ dẫn đến hậu quả nặng nề như: dớnh và đúng gúc tiền phòng vĩnh viễn gây
1
tăng nhãn áp thứ phát, loạn dưỡng giác mạc, đục thể thủy tinh gõy giảm sút
thị lực trầm trọng.
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới đó cú nhiều nghiên cứu về biến
chứng xẹp tiền phòng, nhưng chủ yếu là đỏnh giá về tỷ lệ, các hình thái,
những phương pháp điều trị riêng lẻ, tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào


đề cập một cách toàn diện, có hệ thống về đặc điểm lâm sàng và kết quả điều
trị của biến chứng xẹp tiền phòng, vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài:
“ Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị của biến chứng
xẹp tiền phòng sau phẫu thuật Glụcụm” nhằm 2 mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng của biến chứng xẹp tiền phòng sau
phẫu thuật glụcụm tại bệnh viện Mắt Trung ương trong thời gian 2
năm( từ 01/ 2008 – 10/ 2009).
2. Đánh giá kết quả điều trị biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật
glụcụm.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
. Giải phẫu tiền phòng và các thành phần liên quan
1.1.1. Tiền phòng
Tiền phòng là một khoang giới hạn bởi phía trước là giác củng mạc,
phía sau là mặt trước mống mắt và mặt trước thể thủy tinh ở vùng đồng tử.
Trong tiền phòng chứa đầy thủy dịch. Tiền phòng sâu nhất ở trung tâm
khoảng 3 mm và giảm dần ra ngoại vi [1,4,13]. Độ sâu tiền phòng trung bình
ở người Việt Nam bình thường là 2,69mm - 2,94mm và người bị glụcụm gúc
đúng là 1,98 ± 0,02mm tuỳ thuộc vào phương pháp đo [6, 15].
Hình ảnh tiền phòng
1.1.2. Góc tiền phòng
Góc tiền phòng là một góc thấm được giới hạn bởi giác củng mạc ở
phía trước, mống mắt và thể mi ở phía sau.
Góc tiền phũng gồm bốn thành phần quan trọng:
3
-Vựng rìa củng mạc tạo nên thành ngoài của góc là chỗ nối tiếp giữa
giác mạc trong suốt ở phía trước và củng mạc màu trắng đục ở phía sau. Vùng
này có mạng lưới mao mạch nối chắp nhau thành những mạng lưới dày đặc và
hệ thống bạch mạch Teismann.

-Chỗ nối mống mắt thể mi tạo nên thành sau của góc tiền phũng, chõn
mống mắt dính vào đáy thể mi, nằm sau của củng mạc, trước cơ thể mi và
vòng động mạch lớn của mống mắt. Vị trí của chỗ dính có thể cao hay thấp
tùy theo từng cá thể và quyết định độ sâu của tiền phòng. Đây là một thành di
động và nó chịu ảnh hưởng của Gradien áp lực [9].
-Vùng bè là một dải lăng trụ tam giác nằm trong chiều dày của vựng
rỡa củng giác mạc. Mặt cắt của vựng bố có hình tam giác và đỉnh quay về
phía chu biên của giác mạc, đáy dựa trên cựa củng mạc và thể mi. Mặt ngoài
tiếp giáp với ống Schlemm, còn mặt trong là giới hạn của tiền phòng [20].
- Ống Schlemm có hình nhẫn rỗng nằm trong máng củng mạc chạy
song song với vựng rỡa, dài khoảng 40 mm .Đường kính khoảng 200mm.
Ống Schlemm có cấu trúc mô học của mạch máu, thành trong và thành ngoài
được tạo bởi một hàng tế bào nội mô liên tục.
Góc mống mắt giác mạc là vùng quan trọng nhất để chẩn đoán chính
xác hình thái bệnh glụcụm và chỉ định điều trị đúng đắn. Khi soi góc tiền
phòng ở một mắt bình thường ta quan sát được các thành phần sau:
+ Vòng Schwalbe là một đường sáng rất nhỏ, hơi dày lên là nơi tận
cùng của màng Decemet.
+ Vựng bè Trabeculumm là một dải màu xám nhạt đôi khi có sắc tố rải
rác màu đen, ống Schlemm nằm phía sau chỉ thấy được khi nó chứa máu.
+ Cựa củng mạc là một đường trắng rất bé, ít khi quan sát được.
4
+ Dải thể mi: màu nâu thẫm.
+ Chân mống mắt.
Ảnh góc tiền phòng và độ mở góc tiền phòng
a. Vòng Schwalbe
b. Vựng bè Trabeculumm
c. Cựa củng mạc
d. Dải thể mi
e. Chân mống mắt

5
1.1.3 Mống mắt
Mống mắt hình đồng xu, có một lỗ thủng ở trung tâm gọi là đồng tử.
Mống mắt nằm ở ngay trước thể thủy tinh, ngăn cách giữa tiền phòng phía
trước và hậu phòng phía sau. Chân mống mắt tiếp giáp với thể mi.
Từ trước ra sau, mống mắt có 5 lớp tổ chức nhưng 4 lớp trước đều là tổ
chức liên kết có cùng hệ thống mạch máu và thần kinh dày đặc.
Đồng tử là một lỗ thủng ở trung tâm mống mắt, bình thường đồng tử ở
hai mắt đều nhau, có hình tròn đường kính 2-4 m m. Đồng tử có thể thay đổi
đường kính do tác động của nhiều yếu tố: ánh sáng, nhìn xa, nhìn gần, các
kích thích thần kinh cảm giác.
Mống mắt có nhiệm vụ như một màn chắn để điều chỉnh lượng ánh
sáng vào trong nhãn cầu nhờ thay đổi đường kính đồng tử do hoạt động của
các cơ vòng và cơ xòe của mống mắt [3].
1.1.4.Thể thuỷ tinh
Thể thủy tinh là một thấu kính trong suốt hai mặt lồi đường kính 9mm,
trục trước sau trung bình là 4mm. Độ cong của thể thủy tinh tăng dần theo
tuổi, bán kính độ cong mặt trước là 10mm, khi điều tiết là 6mm. Bán kính mặt
sau 6mm, khi điều tiết là 5,5mm. Mặt trước áp sát vào biểu mô mống mắt,
cách trung tâm của giác mạc khoảng 4mm, mặt sau tiếp giáp với dịch kính. Ở
vùng xích đạo thể thủy tinh được nối tiếp với thể mi nhờ hệ thống dây chằng
Zinn, dây chằng này có tác dụng giữ thể thủy tinh tại chỗ và truyền hoạt động
của cơ thể mi đến màng bọc thể thủy tinh [2]. Vị trí kích thước của thể thủy
tinh đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế gây bệnh glụcụm gúc đóng, theo
báo cáo của Gohdo T và cộng sự (2000) bề dày của thể thủy tinh càng tăng vị
trí của thể thủy tinh càng nhô ra trước [24]. Theo kết quả nghiên cứu của
6
Nguyễn Thị Tuyết năm (2001) ở mắt glụcụm gúc đóng thể thủy tinh dày hơn
và chiều dài trục nhãn cầu ngắn hơn so với mắt bình thường [15].
1.1.5 Thủy dịch và sự lưu thông thủy dịch

Ảnh sự lưu thông thủy dịch
Khối lượng thủy dịch khoảng 100 – 400mm
3
được phân bố như sau: 4/5
ở tiền phòng và 1/5 ở hậu phòng [8]. Đõy chớnh là khối lượng thủy dịch cần
thiết để duy trì độ sâu tiền phòng.
Thuỷ dịch do các nếp thể mi tiết ra liên tục với lưu lượng 2,2ml/phỳt đi
vào hậu phòng sau đó lưu thông từ hậu phòng qua đồng tử ra tiền phòng. Từ
tiền phòng thủy dịch chảy qua vựng bố đi vào ống Schlemm rồi vào tĩnh
mạch nước, đổ vào đám rối tĩnh mạch thượng củng mạc và đi vào hệ thống
tuần hoàn chung. Thủy dịch lưu thông qua hai con đường chính là:
Lưu thông qua vựng bố: phần lớn thủy dịch được thoát ra khỏi mắt qua
hệ thống vựng bố - ống Schlemm – tĩnh mạch (80%) [35].
7
Vựng bè chia làm ba khu vực: bè màng bồ đào, bè củng giác mạc và bè
cạnh ống Schlemm. Vựng bố hoạt động theo kiểu van một chiều, nó cho phép
một lượng lớn thủy dịch ra khỏi mắt nhưng lại hạn chế dòng chảy ngược lại.
Lưu thông qua màng bồ đào - củng mạc: ở mắt bình thường lượng thủy
dịch không lưu thông qua vựng bè sẽ được thoát qua màng bồ đào – củng mạc
theo nhiều cơ chế, chủ yếu là thủy dịch đi từ tiền phòng vào các cơ thể mi rồi
đi vào các khoang trên thể mi thượng hắc mạc từ đó thủy dịch đi ra khỏi mắt
qua củng mạc hoặc đi theo các dây thần kinh và các mạch máu xuyên củng
mạc, lượng thủy dịch lưu thông qua con đường này không phụ thuộc vào áp
lực và chiếm khoảng 20% lượng thủy dịch thoát ra khỏi mắt bình thường.
Khi thể mi giảm tiết hoặc thủy dịch bị dò rỉ ra ngoài nhãn cầu qua vết
mổ, khối lượng thủy dịch ở tiền phòng giảm đi, dẫn đến sự thay đổi độ sâu
của tiền phòng. Độ sâu tiền phòng giảm nhiều hoặc ít phụ thuộc vào khối
lượng thủy dịch mất đi. Nếu thủy dịch đi ra phía sau và tích tụ ở khoang giữa
hắc mạc và củng mạc sẽ gây nên hiện tượng bong hắc mạc, sự tích tụ dịch này
sẽ tạo ra một sự di chuyển đẩy ra phía trước của màn ngăn mống mắt thể thủy

tinh làm xuất hiện xẹp tiền phòng hoặc tiền phũng nụng [22,37].Mặt khác nếu
thủy dịch đi ra sau mà tích tụ lại ở khoang dịch kính ngày càng nhiều làm áp
lực trong buồng dịch kính ngày càng tăng rồi đẩy thể thủy tinh ra trước gõy
bớt gúc tiền phòng làm cho thủy dịch không lưu thông được làm cho nhãn áp
ngày càng tăng và gây nên hiện tượng xẹp tiền phũng cú tăng nhãn áp tức là
glụcôm ác tính [14].
1.1.6. Các yếu tố liên quan đến độ sâu tiền phòng:
- Tuổi: Độ sâu tiền phòng biến đổi theo tuổi và tương quan ngược chiều với
tuổi. Tuổi càng cao độ sâu tiền phòng càng giảm và ngược lại. Độ sâu tiền
phòng lớn nhất lúc 20 tuổi và giảm dần từ lúc 40 tuổi trở đi, chính vì vậy
mà tỷ lệ glụcụm góc đúng tăng cao ở người trên 40 tuổi [6,15].
8
- Giới: độ sâu tiền phòng sâu hơn ở nam so với nữ cả ở người bình thường
và bệnh nhân glụcụm gúc đóng [6,15].
- Tật khúc xạ: người cận thị thường có tiền phòng sâu hơn người viễn thị,
khi điều tiết tiền phòng càng nông hơn. Theo kết quả nghiên cứu của
Garner LF (1997) khi mắt điều tiết tối đa độ sâu tiền phòng giảm
0,24mm [25].
- Chiều dày thể thủy tinh: ở mắt người bình thường và mắt người bị glụcụm
gúc đúng cú mối tương quan chặt chẽ ngược chiều giữa độ sâu tiền phòng
với bề dày thể thủy tinh, độ sâu tiền phòng càng giảm khi bề dày thể thủy
tinh càng tăng. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuyết cho thấy chiều
dày TTT ở người bình thường và người glụcụm gúc đúng nguyờn phỏt là:
4,23 ± 0,05 mm và 4,80 ± 0,04mm [15].
- Trục nhãn cầu: độ sâu tiền phũng cú mối tương quan thuận chiều với chiều
dài trục nhãn cầu, trục nhãn cầu càng dài thì độ sâu tiền phòng càng tăng
và ngược lại [15]. Trục nhãn cầu ở người bình thường và người bị glụcụm
góc đúng nguyờn phỏt là: 22,26 ± 0,10 mm và 21,60 ± 0,12 mm[15].
- Thuốc: Mehnora- AS và cộng sự (1992) đã chứng minh rằng pilụcacpin
2% làm cho tiền phũng nụng hơn 0,26mm nhưng lại làm cho góc tiền

phòng mở rộng hơn. Tra Homatropin 2% làm cho tiền phòng sâu hơn 0,33
- 0,36mm do làm dẹt thể thủy tinh [25].
1.1.7. Các phương pháp đánh giá độ sâu tiền phòng
Có 3 phương pháp chính như sau:
* Đo độ sâu tiền phòng bằng phương pháp quang học dựa trên nguyên
lý của Jaeger (1952):Ánh sỏng đốn khe đi dọc theo trục thị giác của mắt,
chựm sỏng này xuyên qua giác mạc và thể thủy tinh tạo nên các vệt sỏng trờn
giác mạc và mặt trước thể thủy tinh khi ta quan sát bằng kính của máy soi
sinh hiển vi từ một góc cố định 45º phía bên phải. Khoảng cách giữa các vệt
9
mặt sau giác mạc và mặt trước thể thủy tinh là độ sâu tiền phòng đo được
[29].
Phương pháp Smith đánh giá độ sâu tiền phòng do Smith-RTH đưa ra
năm 1952 [32] dựa trên nguyên lý của Jaeger. Phương pháp này sử dụng đèn
khe của sinh hiển vi để đánh giá độ sâu tiền phòng mà không đòi hỏi bất cứ
thiết bị nào đi kèm. Osuobeni-EP (2000) đã sử dụng phương pháp Smith và so
sánh với siêu âm A, tác giả thấy phương pháp Smith có thể được sử dụng để
đo độ sâu tiền phũng trờn lâm sàng nhanh và đáng tin cậy [32].
Kỹ thuật đo trên sinh hiển vi của phương pháp Smith là:
Để tia sáng đèn khe nằm ngang tạo một góc 60º với trục chính của
mắt, khi đó sẽ nhìn thấy 2 vạch sáng, vạch sỏng nột phản chiếu từ giác mạc và
vạch sáng mờ trên diện mống mắt và thể thủy tinh, 2 vạch cách nhau một
khoảng tối. Điều chỉnh độ dài của vạch sáng cho đến khi chúng vừa chạm
nhau. Đọc độ dài trên thước đo, nhân với 1,4 được độ sâu tiền phòng.
Phương pháp Van Herick dùng để ước lượng độ sâu tiền phòng ở ngoại vi
độ mở góc tiền phòng.
Kỹ thuật đo: đặt trục sinh hiển vi thẳng trước mặt bệnh nhân, đèn khe
để nghiờng trỏi hoặc nghiêng phải 30
o
so với trục sinh hiển vi, để đèn khe hẹp

tối đa đủ để nhận thức được hai mặt cắt trước và sau của giác mạc. Đưa đèn
khe vào vùng giác mạc sỏt rỡa ở kinh tuyến 3h và 9h. Quan sát và so sánh
khoảng cách giữa tia sáng cắt mặt sau của giác mạc và mặt trước mống mắt,
với khoảng cách giữa tia sáng cắt mặt trước và mặt sau của giác mạc. Căn cứ
vào tỷ lệ so sánh các kích thước đó và ghi kết quả:
- >= (lớn hơn hoặc bằng) độ dày giác mạc, góc tiền phòng mở rộng.
- =1/2 (bằng ẵ) độ dày giác mạc, góc trung bình hiếm xảy ra đúng gúc
- =1/4 (bằng ẳ) độ dày giác mạc, góc tiền phòng hẹp, khả năng đúng
gúc có thể xảy ra.
10
- <1/4 (ít hơn ẳ) độ dày giác mạc, góc tiền phòng rất hẹp và sẽ có khả
năng đúng gúc khi dãn đồng tử.
Phương pháp này hiện nay vẫn được dùng trong lâm sàng để ước lượng
mức độ đóng mở của góc tiền phòng. Nó có ưu điểm là đơn giản, dễ tiến hành
để ước lượng đo độ sâu tiền phòng nhanh, nhưng nhược điểm của nó là độ
chính xác không cao
* Đo độ sâu tiền phòng bằng phương pháp chụp ảnh dựa trên nguyên lý
của Scheimplug-T(1906) [33].
Năm 1966 Matthaus và Grotzeck đã giới thiệu phương pháp chụp
ảnh bằng tia hồng ngoại đo được độ sâu tiền phòng cả khi giác mạc đã mất
tính trong suốt. Hiện nay phương pháp này ít dùng vì không tiện lợi, đắt tiền
và độ chính xác không cao.
* Đo độ sâu tiền phòng bằng phương pháp siêu âm
- Siêu âm là một kỹ thuật mới tiến bộ và hiện đại được áp dụng vào ngành
nhãn khoa năm 1956 bởi Mudt và Hugues [33]. Siêu âm được sử dụng rộng
rãi trong lâm sàng gồm hai hệ thống A và B. Siêu âm B được sử dụng chủ yếu
cho mục đích chẩn đoán, để đo các chỉ số sinh học. Hamidraza. WA và
Osuobeni (1995) đã sử dụng hai hệ thống siêu âm và khẳng định rằng siêu âm
A cho kết quả đo chính xác hơn siêu âm B [29].
Đo sinh học bằng siêu âm A cho chúng ta những số đo cụ thể về kích

thước các phần của nhãn cầu như: độ sâu tiền phòng, bề dày thể thủy tinh
chiều dài buồng dịch kính và chiều dài trục nhãn cầu trước sau.
*OCT(Optical Coherence Tomography) phần trước nhãn cầu.
Ngày nay người ta cũn dựng OCT để đo độ sâu tiền phòng một cách
nhanh chóng và chính xác. Phương pháp OCT hiện đang được sử dụng hết
sức rộng rãi trên thế giới và tại Việt Nam. Tuy nhiờn nú cũng đòi hỏi những
11
cơ sở nhãn khoa phải có trang bị máy đo này và kết quả phụ thuộc vào kỹ
năng của người đo.
1.2. Biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật điều trị glụcụm
1.2.1 Phẫu thuật điều trị bệnh glụcụm
Đã có nhiều các phương pháp phẫu thuật khác nhau được áp dụng để điều
trị bệnh glụcụm như: phẫu thuật cắt mống mắt (Iridectomie), phẫu thuật cắt
mống mắt- củng mạc kiểu Lagrange, phẫu thuật kẹt mống mắt, phẫu thuật cắt
mống mắt thấm, phẫu thuật cắt bè củng giác mac, phẫu thuật kẹt củng mạc 3
lớp, phẫu thuật kẹt củng mạc 2 lớp, phẫu thuật tách thể mi (Cyclodialyse),
phẫu thuật rạch mở góc tiền phòng (Goniotomie), phẫu thuật rạch mở ống
Schlemm (Sinusotomie), phẫu thuật rạch mở bố củng-giỏc mạc
(Trabeculotomie)…Phẫu thuật đặt van dẫn lưu thủy dịch điều trị glụcụm được
áp dụng trong những trường hợp như glụcụm tõn mạch, glụcụm tái phát phát
nhiều lần sau phẫu thuật cắt bố…phương phỏp này giúp điều trị những trường
hợp glụcụm khú nhưng nó cũng tốn kém và hiện cũng đang được áp dụng
nhiều trên thế giới và những trung tâm lớn ở Việt nam.
Từ những năm đầu của thập kỷ 60 một loạt các phương pháp phẫu thuật
lỗ dò điều trị glụcụm đã ra đời như phẫu thuật cắt bè mống mắt của Holth,
phẫu thuật cắt củng mạc mống mắt kiểu Largange, phẫu thuật Elliot… Thời
kỳ đú các phẫu thuật này đã được áp dụng rộng rãi và có tác dụng hạ nhãn áp
tương đối chắc chắn. Tuy nhiên các phẫu thuật này đều không có vạt củng
mạc che phủ phía trên, lỗ dũ thụng trực tiếp ra khoang dưới kết mạc nên dễ
xảy ra biến chứng vỡ sẹo phồng, dễ nhiếm khuẩn và gõy nhón viờm giao cảm.

Tiếp tục với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, các nhà phẫu
thuật nhãn khoa đã liên tiếp nghiên cứu tìm ra các phương pháp phẫu thuật ưu
việt hơn để điều trị glụcụm. Năm 1938 Barkan lần đầu tiên đã đề ra phương
pháp cắt bè củng giác mạc. Năm 1939 Sugar tiếp tục cải tiến kỹ thuật này.
12
Nhưng đến gần 30 năm sau, 1968 Cairns J.E (Anh) mới hoàn chỉnh kỹ thuật và
đưa ra công bố để điều trị cho những bệnh nhân glụcụm gúc mở.
Kỹ thuật này bắt đầu được áp dụng ở nước ta từ năm 1972. Cho tới
nay, ở Việt Nam cũng như trên thế giới phương pháp cắt bè củng giác mạc
đã và đang được áp dụng rộng rãi đề điều trị nhiều hình thỏi glụcụm và tỏ ra
có hiệu quả cao.
Kỹ thuật của phẫu thuật là một mẩu củng-giỏc mạc của vựng bố được
cắt bỏ sau khi đã tiến hành tạo vạt kết mạc và vạt củng mạc, các tác giả đã
nghiên cứu nhận thấy rằng thủy dịch được đi ra ngoài bằng hai con đường:
- Một phần thủy dịch đi vào ống Schlemm.
- Phần lớn thủy dịch đi qua lỗ cắt bè ra dưới vạt củng mạc để ra ngoài
nhãn cầu dưới kết mạc [38].
Theo tác giả, phẫu thuật này đã giải quyết được trở lưu ở trước bè và
sau bè (Trabeculum) và ống Schlemm.John Cairns cho rằng phẫu thuật sẽ tạo
điều kiện cho thủy dịch trực tiếp đi vào hai đầu của ống Schlemm đã bị cắt bỏ
để đi ra ngoài nhãn cầu vì vậy phẫu thuật này có tác dụng hạ nhãn áp tốt, do
có vạt củng mạc bảo vệ nên bọng kết mạc không dễ vỡ như các phẫu thuật lỗ
dò trước đây vì thế phẫu thuật cắt bè củng giác mạc có thể tránh được biến
chứng vỡ sẹo phồng dễ gây nhiễm khuẩn, xẹp tiền phòng và nhón viờm giao
cảm. [21,34].
Ngày nay với những bệnh nhân bị bệnh glụcụm và bị đục TTT đi kèm
người ta có nhiều phương pháp để điều trị là: cắt bè phối hợp lấy TTT ngoài
bao thông thường, cắt bè +phaco…Áp dụng phương pháp nào là tùy thuộc
vào bệnh cảnh lâm sàng của từng bệnh nhân cụ thể và sự cân nhắc của bác sỹ
phẫu thuật nhằm mang lại hiệu quả điều trị tốt nhất cho người bệnh.

Phẫu thuật glụcụm phổ biến là có can thiệp vào nội nhón nờn không thể
tránh khỏi các biến chứng như: xẹp tiền phòng, xuất huyết tiền phòng, nhãn
13
áp thấp, bong hắc mạc…vì vậy các nhà nhãn khoa cũng luôn quan tâm đến
vấn đề dự phòng và điều trị các biến chứng này.
1.2.2 Biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật điều trị glụcụm
Xẹp tiền phòng là tình trạng của tiền phòng khi khoảng cách giữa hai
thành của tiền phòng bị thu hẹp lại tới mức có thể áp sát lại nhau do khối
lượng thủy dịch chứa trong tiền phòng giảm sút dưới mức bình thường [8].
Theo tác giả Kitazawa 1996 xẹp tiền phòng có thể chia thành các mức độ:
+ Độ 1: Độ sâu TP chỉ cũn ẵ so với trước mổ và có áp sát giữa chu biên
mống mắt và mặt sau giác mạc.
+Độ 2: Khi có sự áp sát giữa bề mặt mống mắt và mặt sau giác mạc
+Độ 3: Khi có sự áp sát giữa bờ đồng tử và mặt sau giác mạc
Tỷ lệ biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật điều trị glụcụm ở Việt
nam dao động từ 5,88% theo nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nhân năm 1974
[5] đến 21,62% theo nghiên cứu của Chu Thi Vân năm 2002 [16]. Một số tác
giả khác như Khúc Thị Nhụn gặp 5,89% biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu
thuật cắt bè củng giác mạc [7], Nguyễn Thị Nhung trong nghiên cứu năm
1993 gặp biến chứng này là 13,42% [8], năm 1991 Trần Nguyệt Thanh, Đào
Lâm Hường và Trương Tuyết Trinh theo dõi phẫu thuật lỗ dũ trờn mắt
Glụcụm tái phát do sẹo sơ nhận thấy tiền phũng nụng là 10,5% [12].Năm
1992 Hoàng Ngọc Chương và cộng sự phẫu thuật trên 190 mắt tỷ lệ biến
chứng xẹp tiền phòng là 14%.
Tỷ lệ biến chứng xẹp tiền phòng sau phẫu thuật điều trị glụcụm trên
thế giới cũng rất khác nhau. Nghiên cứu của John Cairns (1972) có 23,5%
biến chứng tiền phũng nụng sau phẫu thuật cắt bè. Nhóm tác giả Jampel HD,
Much DC và cộng sự tại đại học Johns Hopkins Mỹ trong nghiên cứu (2005)
14
cho thấy biến chứng xẹp tiền phòng và tiền phũng nụng gặp ở 62 mắt (13%)

trong tổng số 465 mắt phẫu thuật cắt bè củng giác mạc [30].
Người ta chia nguyên nhân xẹp tiền phòng thành hai nhóm: nhóm xẹp
tiền phòng không có tăng nhãn áp và nhóm xẹp tiền phũng cú tăng nhãn áp.
a. Nhóm xẹp tiền phòng không có tăng nhãn áp: nguyên nhân thường
gặp là do hở mép mổ, lỗ dò dẫn lưu quá mức, phản ứng viêm màng bồ đào
gây ức chế thể mi và do bong hắc mạc [22].
- Dò, hở mép mổ: thường xuất hiện trong tuần đầu tiên sau mổ [22].
Sự dò thủy dịch sau phẫu thuật có thể ở đường rạch kết mạc đầu tiên hoặc ở
vị trí kết mạc khác [41]. Nguyên nhân chủ yếu là khi kết thúc phẫu thuật kết
mạc và bao tenon không được đóng đủ kín, hoặc do chỉ buộc quá lỏng. Việc
phát hiện dò thủy dịch khá dễ dàng nhờ nhỏ Fluorescein 2% tìm hiện tượng
Seidel (Test Seidel). Hiện tượng Seidel (+) khi thấy dòng thủy dịch chảy ra ở
vùng vết thương bị hở [41].
- Lỗ dò dẫn lưu quá mức: thường do tạo lỗ dũ quỏ lớn hay do khâu
vạt củng mạc quá lỏng làm thủy dịch thoát ra ngoài nhiều nằm dưới khoang
kết mạc. Trên lâm sàng xuất hiện sẹo bọng to, bọng trở nên có ranh giới rừ,
nhụ cao hình vòm trên bề mặt nhãn cầu. Để giảm đến mức tối thiểu nguy cơ
này, nhiều phẫu thuật viên đã sử dụng chỉ nylon đóng kín vạt củng mạc [28].
Theo Nguyễn Trọng Nhân và cộng sự (1978) trong số 41 ca tiền phũng nụng cú
dũ vết mổ 1 ca, bọng kết mạc quá to 4 ca. Tuy nhiên trong nghiên cứu của nhóm
B Edmunds (2002) tỷ lệ dò vết mổ là 17,8% trong đó 72,4% dò rỉ chậm từ từ,
15,7% dò nhanh nhiều, còn lại 11,9% được mô tả như một sự dò rỉ kết mạc.
- Phản ứng viêm màng bồ đào cũng có thể xảy ra ở những ngày đầu
sau mổ gây ức chế thể mi làm giảm tiết thủy dịch làm tiền phũng nụng hoặc
xẹp tiền phòng.
15
- Bong hắc mạc là nguyên nhân hay gặp gây biến chứng xẹp tiền
phũng. Thụng thường tiền phòng xẹp hoặc nông khi nhãn áp bình thường
hoặc thấp mà không tìm thấy dấu hiệu dò vết mổ, thì phải nghĩ đến bong hắc
mạc. Bong hắc mạc là tình trạng dịch bong tập trung ở giữa hắc mạc và củng

mạc tạo ra một sự di chuyển, đẩy ra phía trước của màn ngăn mống mắt thể
thủy tinh làm xuất hiện xẹp tiền phòng hoặc tiền phũng nụng [22, 37]. Hầu
như trên những mắt này nhãn áp thường hạ dưới 6mm Hg ( đo băng NA kế
Goldmann), điều này có thể giải thích do bong thể mi và giảm tiết thủy dịch
và cũng có khả năng do tăng sự vận chuyển thủy dịch qua con đường Màng
bồ đào – củng mạc. Hầu hết dịch bong này tự tiêu đi trong những trường hợp
nhãn áp trở về bình thường sau một vài ngày hoặc một vài tuần. Nếu có các
biểu hiện như phù giác mạc, có sự tiếp xúc giữa giác mạc và thể thủy tinh,
tăng phản ứng viêm, cần phải chích dẫn lưu dịch bong và tái tạo tiền phòng.
Bong hắc mạc có thể phát hiện trên lâm sàng bằng soi đáy mắt với đồng tử
dãn tối đa, nếu bong thấp khó phát hiện bằng soi đáy mắt thì phải dựa vào
siêu âm để chuẩn đoán [41]. Trên thực tế bong hắc mạc thường làm tiền
phũng nụng nhưng cũng có trường hợp tiền phòng vẫn được duy trì phụ thuộc
vào lượng thủy dịch thoát ra sau.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Trọng Nhân (1978) trong số 41 ca biến
chứng xẹp tiền phòng và tiền phũng nụng thỡ cú 9 ca do bong hắc mạc. Theo
Nguyễn Thị Nhung (1993) trong số 327 ca biến chứng xẹp tiền phũng thỡ cú
89 ca bong mạch mạc. Tỷ lệ bong mạch mạc của nhóm B.Edmunds (2002) là
14,1%.còn trong nghiên cứu của nhóm Guedes RA (2005) thì tỷ lệ bong hắc
mạc trong cắt củng mạc sõu khụng xuyờn thủng chỉ là 1%. Nhóm tác giả Wu
Dunn D, Ryser D, Cantor LB (B) năm 2005 gặp 16 mắt (25,4%) bong mạch
mạc trên tổng số 63 mắt biến chứng xẹp tiền phòng và tiền phũng nụng sau
phẫu thuật cắt bè [42].
16
b. Nhóm xẹp tiền phũng cú tăng nhãn áp.
Glụcụm ác tính với biểu hiện xẹp tiền phòng và tăng nhãn áp là một
biến chứng trầm trọng của phẫu thuật nội nhãn nguyên nhân là do dòng thủy
dịch đi ra sau và tích tụ vào khoang dịch kính gây nên. Cơ chế do nghẽn xích
đạo thể thủy tinh và thể mi làm cho khoảng cách giữa xích đạo thể thủy tinh
và thể mi rất nhỏ hay hầu như không cú nờn thủy dịch được tiết ra từ thể mi

không thoát ra được tiền phòng mà ứ đọng lại ở phía sau tạo thành một
khoang thủy dịch nằm trong buồng dịch kính, vì vậy áp lực buồng dịch kính
ngày càng tăng rồi đẩy thể thủy tinh ra trước gõy bớt gúc tiền phòng làm cho
thủy dịch không lưu thông được do đó nhãn áp ngày càng cao. Mặt khác ta
còn thấy trên những mắt glụcụm ác tính dây chằng Zinn chùng tạo điều kiện
cho thể thủy tinh nhô ra trước áp vào mặt sau mống mắt gay nghẽn góc [14].
Các tác giả Trương Tuyết Trinh, Phạm Thị Kim Thanh trong nghiên cứu năm
1995 đã đưa ra một số nhận xét sau 3 trường hợp glụcụm ác tính tại khoa
Tổng hợp Viện mắt là glụcụm ác tính là bệnh hiếm gặp, hay xảy ra trên mắt
glụcụm góc đúng và điều trị cũng rất khó khăn [14].
Theo một số tác giả biến chứng này hiếm gặp nhưng là biến chứng rất
trầm trọng, tỷ lệ khoảng 0,6-2% so với tổng số mắt bệnh nhân phẫu thuật. B
Edmunds (2002) gặp 2 ca glụcụm ác tính chiếm tỷ lệ 0,2% và Klin Oc Zka
(2004) cũng gặp 2 ca glụcụm ác tính sau phẫu thuật cắt bè . Các tác giả đều có
chung nhận xét là biến chứng glụcụm ác tính hay gặp trờn glụcụm gúc đúng
hơn là glụcụm góc mở và hậu quả của biến chứng là rất nặng nề, vì vậy việc
khám bệnh nhân sau phẫu thuật thường xuyên và chặt trẽ là rất cần thiết cho
việc can thiệp thuốc hoặc phẫu thuật kịp thời[31].
Triệu chứng lâm sàng của xẹp tiền phòng
Tùy thuộc vào nguyên nhân gây xẹp tiền phòng mà có các biểu hiện
lâm sàng của xẹp tiền phòng như:
17
Chủ quan: bệnh nhân thấy đau nhức mắt mổ, có thể đau ít hoặc nhiều
tùy thuộc vào nhãn áp, nhãn áp càng tăng thì đau sẽ càng nhiều trong glụcôm ác
tính, đau âm ỉ trong viêm màng bồ đào giảm tiết còn trong dò rỉ vết mổ hoặc
bong hắc mạc có thể không đau. Thị lực giảm nhiều hoặc ớt tựy từng bệnh nhân
do sự thay đổi khúc xạ của mắt gây nên do thủy dịch thoát ra ngoài , khi xẹp tiền
phòng hoàn toàn kết hợp với nhãn áp cao trong glụcụm ác tính thì thị lực giảm
rất nhiều do sự thay đổi khúc xạ cũng như nhãn áp cao, do phù đục giác mạc
gây nên. Thị trường thu hẹp tương ứng với vùng bong mạch mạc nếu có thường

gặp phía mũi và thái dương, và thị trường thu hep tùy thuộc vào giai đoạn của
bệnh glụcụm, ở giai đoạn gần mù hoặc mự thỡ không đo được thị trường.
Khách quan: Khám bằng máy sinh hiển thấy tiền phũng nụng hoặc
xẹp hoàn toàn có thể mống mắt áp sát mặt sau giác mạc hoặc thể thủy tinh áp
vào mặt sau giác mạc, nhãn áp thường hạ cũng có thể ở giới hạn bình thường,
nhón áp tăng trong glụcụm ác tính. Kết mạc, giỏc mạc có thể còn trong khi
mới bị xẹp tiền phòng, có thể bị loạn dưỡng gõy phự đục giác mạc khi xẹp
tiền phòng kéo dài. Làm nghiệm pháp Seidel có thể thấy dương tính khi cú rũ
dỉ vết mổ, sẹo bọng có thể kích thước bình thường hoặc quá to khi thoát thủy
dịch nhiều., mống mắt có thể bạc màu và dính mặt sau giác mạc. Thể thủy
tinh có thể còn trong hoặc đục ở các giai đoạn khác nhau, và có thể đục căng
phồng, soi đáy mắt và làm siêu âm để thấy được tình trạng lõm gai tìm bong
hắc mạc và độ sâu tiền phòng. Độ sâu tiền phòng còn được ước lượng theo
phương pháp Van Herick khi khỏm trờn máy sinh hiển vi với các mức độ
khác nhau, tiền phòng xẹp hoàn toàn khi mống mắt và thể thủy tinh áp sát vào
mặt sau giác mạc [41]. Dùng phương pháp: Smith, siêu âm và OCT phần
trước nhãn cầu cho kích thước chính xác của độ sâu tiền phòng.
18
Điều trị xẹp tiền phòng
* Điều trị nội khoa
Chỉ định điều trị nội khoa khi mà xẹp tiền phòng trong những ngày đầu sau
mổ nhãn áp bình thường hoặc hạ, chưa có sự tiếp xúc giữa mặt sau giác mạc
và mặt trước thể thủy tinh, khi không cú dũ dỉ vết mổ, giác mạc chưa bị loạn
dưỡng và chưa có chỉ định điều trị ngoại khoa cấp thiết…
Khi cú dũ rỉ vết mổ, bọng kết mạc quá mức, bong mạch mạc người ta điều trị
bằng băng ép mắt mổ, nhỏ atropin 1% hoặc 4%, uống uống nhiều nước vào
buổi sáng để tăng cường bài tiết thủy dịch, khi bong mạch mạc còn phải dựng
thờm thuốc hạ nhãn áp uống acetazolamid để ức chế lượng thủy dịch tiết ra và
làm giảm dòng thủy dịch đi ra sau tích tụ dưới khoang hắc mạc.
Trong viêm màng bồ đào giảm tiết gây xẹp tiền phũng thỡ điều tri chủ yếu là

chống viêm màng bồ đào bằng kháng sinh, cocticoid tại mắt và toàn thân .
Xẹp tiền phũng cú nhãn áp cao do glụcụm ác tính gây nghẽn thể mi, biến
chứng này ít gặp nhưng là biến chứng hết sức nặng nề. Điều trị đầu tiên là dãn
đồng tử với thuốc tra mắt như Atropin 1% có thể phải dùng đến Atropin 4%,
10%. Toàn thân có thể phải tiêm tĩnh mạch Manitol để giảm phù nề và kéo
nước trong buồng dịch kính ra ngoài.
*Điều trị ngoại khoa
Điều trị ngoại khoa được chỉ định khi có sự rò dỉ vết mổ, tiền phòng xẹp
và có sự áp sát của thể thủy tinh với mặt sau giác mạc, glụcụm ác tính mà
điều trị nội khoa thất bại, xẹp tiền phòng do các nguyên nhân khác mà điều trị
nội khoa thất bại.
- Khi cú rũ dỉ vết mổ cần phải khâu lại, có thể tái tạo tiền phòng bằng dung
dịch nước muối đẳng trương, chất nhầy, khí
19
- Sẹo bọng quá mức do tạo lỗ dũ quỏ to nếu băng ép không có hiệu quả cần
phải khâu lại và tái tạo tiền phòng.
- Bong hắc mạc khi điều trị nội khoa thất bại cần tháo dịch hắc mạc và tái
tạo tiền phòng.
- Khi xẹp tiền phũng cú tăng nhãn áp tức là glụcụm ác tính cần phải can
thiệp vào dịch kính trước (chọc hút dịch kính trước 1ml) khi thể thủy tinh
đục nhiều, tiền phòng vẫn không có cần phẫu thuật lấy thủy tinh thể để tái
tạo tiền phòng.
- Khi xẹp tiền phòng không có tăng nhãn áp nếu kiểm tra có sự dò ở sẹo mổ
và Seidel (+) cần phải khâu lại. Nếu sẹo mổ không dò cần phải băng ép và
cho uống nhiều nước vào buổi sáng và cho thuốc làm dãn đồng tử Atropin
1%-4%. Nếu tiền phòng không tái tạo, có bong hắc mạc, sau 1 tuần điều trị
nội khoa không có kết quả thì phải chọc tháo dịch dưới hắc mạc, bơm hơi
hoặc dịch tái tạo tiền phòng và tiếp tục điều trị cho đến khi tiền phòng ổn
định.
- Xẹp tiền phũng cú nhãn áp cao: Glụcụm ác tính do nghẽn thể mi, biến

chứng này ít gặp nhưng là biến chứng hết sức nặng nề. Điều trị đầu tiên là
dãn đồng tử với thuốc tra mắt như Atropin 1% có thể phải dùng đến
Atropin 4%, 10%. Toàn thân có thể phải tiêm tĩnh mạch Manitol kết hợp
thuốc dãn đồng tử tại mắt với mục đích thể thủy tinh chuyển dịch về phía
sau. Laser YAG được dùng đến nếu điều trị nội khoa không có kết quả.
Tia laser qua lỗ cắt mống mắt ngoại vi đốt vào thể mi với mục tiêu giải
quyết nghẽn thể mi. Nếu điều trị Laser thất bại cần can thiệp vào dịch kính
sau: chọc hút dịch kính lỏng 1ml tiếp tục dùng thuốc dãn đồng tử, trường
hợp can thiệp vào dịch kính không kết quả tiền phòng không có, nhãn áp
vẫn cao, thể thủy tinh đục nhanh thì phải mổ lấy thể thủy tinh.
20
1.2.3 Tình hình nghiên cứu xẹp tiền phòng sau phẫu thuật điều trị
Glụcụm trờn thế giới cũng như tại Việt Nam từ trước đến nay
* Trên thế giới
- Năm 1965, các tác giả L.Paufique, R.Etienne, M.Bonnei Lequin đó nờu
hai trường hợp mổ Glụcụm bị xẹp tiền phũng kốm bong mạch mạc. Tác
giả đã mô tả lâm sàng với các triệu chứng nhìn mờ, khuyết thị trường và
soi đáy mắt thấy bong mạch mạc, các tác giả đã đưa ra phương pháp điều
trị là băng ép mắt mổ, dùng thuốc hạ nhãn áp uống , sau 7 ngày điều trị 1
trường hợp tiền phòng tái tạo tốt, không còn bong hắc mạc. Trường hợp
còn lại tiền phòng vẫn nông và soi thấy còn bong hắc mạc đã phải tiến
hành tháo dịch hắc mạc và tiờp tục điều trị nội khoa sau 2 tuần thì tiền
phòng trở về bình thường và hết bong hắc mạc [8].
- Các tác giả khác Ph.Verin và Ed.Bessiere đã thấy biến chứng này xuất
hiện sau những phẫu thuật phối hợp Glụcụm và đục thể thủy tinh. Ở giai
đoạn này các tác giả đã đề xuất phương pháp điều trị xẹp tiền phòng, bong
mạch mạc kéo dài có kết quả là: chọc dịch màng bong, bơm hơi tiền phòng
và rạch dịch kính trước điều trị tiền phũng nụng ở mắt không có thể thủy
tinh [8].
- Nghiên cứu của John Cairns (1972) có 23,5% biến chứng tiền phũng nụng

sau phẫu thuật cắt bè.
- Nhóm tác giả Jampel HD, Much DC và cộng sự tại đại học Johns Hopkins
Mỹ trong nghiên cứu (2005) cho thấy biến chứng xẹp tiền phòng và tiền
phũng nụng gặp ở 62 mắt (13%) trong tổng số 465 mắt phẫu thuật cắt bè
củng giác mạc. Trong đó có 5 mắt cú rò dỉ kết mạc, 52 mắt bong hắc mạc
và những mắt còn lại là do những nguyên nhân khác. Các tác giả cũng
nhận xét những bệnh nhân cao tuổi hơn hay bị bong hắc mạc hơn những
21
bệnh nhân trẻ tuổi và những bệnh nhân mổ 2 mắt có nguy cơ biến chứng
nhiều hơn những bệnh nhân mổ 1 mắt và những biến chứng nhanh khỏi và
tự khỏi hay gặp ở thời gian hậu phẫu sớm nhưng ít gặp những biến chứng
gây nhiều tiềm năng làm giảm thị lực nặng [30].
- Các tác giả khác như Wu Dunn D, Ryser D, Cautor LB của Mỹ tại đại học
Indiana trong nghiên cứu (2005) đã điều trị dẫn lưu dịch hắc mạc cho 63
mắt bị bong hắc mạc sau phẫu thuật glụcụm gồm : 25 mắt xẹp tiền phòng,
22 mắt giảm thị lực, và 16 mắt kèm bong hắc mạc không đáp ứng với điều
tri nội khoa. Kết quả sau 1 thỏng cú 37 mắt (59%) khỏi hoàn toàn, sau 2
tháng 51 mắt (81%) và sau 4 tháng 57 mắt (90%) khỏi hoàn toàn. Tại thời
điểm 6 tháng và 12 tháng nhãn áp cao hơn và thị lực tốt hơn so với trước
dẫn lưu dịch hắc mạc. Các tác giả đã kết luận bong hắc mạc sau mổ
glụcôm có thể được điều trị bằng phẫu thuật dẫn lưu với những biến chứng
tối thiểu. Phẫu thuật dẫn lưu giúp cải thiện thị lực và điều chỉnh nhãn áp.
Đục TTT có thể tiến triển sau dẫn lưu nhưng có thể là do tình trạng nhãn
áp thấp trước phẫu thuật [42].
- Nhóm tác giả người Ấn độ Agarwal HC, Anuradha VK và cộng sự trong
nghiên cứu năm 2005 về đánh giá hiệu quả của việc bơm chất nhầy 2%
Hydroxypropyl Methylcellulose (HPMC) vào tiền phòng để duy trì độ sâu
tiền phòng và nhãn áp sau phẫu thuật cắt bố trờn những mắt bị glụcụm gúc
mở nguyờn phỏt nhãn áp không điều chỉnh. 30 mắt được chẩn đoán là
glụcụm gúc mở nguyờn phỏt cú chỉ định phẫu thuật cắt bè củng giác mạc

được chia thành 2 nhúm: Nhúm 1 gồm 15 mắt không bơm chất nhầy
HPMC và nhóm 2 có bơm chất nhầy HPMC vào tiền phòng khi phẫu
thuật. Tất cả các bệnh nhân được tái khám vào ngày 1,3,5,7,14 và tháng
1,3,6 sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy ở nhúm khụng bơm chất nhầy
22
HPMC thì xẹp tiền phòng và các biến chứng liên quan khác gặp ở 2 mắt
(13,3%), còn ở nhóm bơm chất nhầy thì không gặp mắt nào bị biến chứng
tương tự. Như vậy việc bơm chất nhầy HPMC 2% vào tiền phòng khi phẫu
thuật cắt bè cho phép duy trì độ sâu tiền phòng và giảm biến chứng do xẹp
tiền phòng sau phẫu thuật[43].
- Kết quả nghiên cứu của Guedes RA, Guedes VM Braxin năm 2005 cho
thấy ngay cả trong phẫu thuật cắt củng mạc sõu khụng xuyờn thủng điều
trị cho 111 mắt bị glụcụm góc mở nguyờn phỏt thì tỷ lệ biến chứng xẹp
tiền phòng vẫn gặp là 2,9%, bong hắc mạc 1% [44] .Nhưng rõ ràng phẫu
thuật này có tỷ lệ biến chứng xẹp tiền phòng thấp hơn hẳn so với phẫu
thuật cắt bè củng giác mạc điều trị glụcụm.Tuy nhiên kỹ thuật cắt củng
mạc sõu khụng xuyên thủng là một kỷ thuật khỏ khú nú đòi hỏi sự khéo
léo của phẫu thuật viên và kỹ thuật này cũng mới được đưa vào áp dụng tại
bệnh viện mắt Trung ương trong vài năm trở lại đây
- Một nghiên cứu gần đây nhất (2009) các tác giả De Barroos, Navaro T.B
tại viện mắt bang Philaden Phia của Mỹ đã điều trị cho 36 mắt xẹp tiền
phòng bằng ba phương pháp khác nhau: nhóm 1 điều trị bằng chất nhầy
bơm vào tiền phũng, nhúm 2 điều trị bằng dung dịch nước muối đẳng
trương đồng thời dẫn lưu dịch hắc mạc và nhóm 3 bằng Atropin tra,
phenylephrin và một số ca bằng uống Acetazụlamid đã đi đến kết luận
rằng xẹp tiền phòng gây ra do sự thoát quá mức của thủy dịch trong thời
gian sau mổ cắt bè, thì việc tái tạo tiền phòng cùng với dẫn lưu dịch hắc
mạc có liên quan đến thành công của phẫu thuật cắt bè [23].
* Tại Việt Nam
- Tôn Thất Hoạt nhận xét biến chứng xẹp tiền phũng khỏ phổ biến sau phẫu

thuật lỗ dò [4].
23
- Năm 1974 Nguyễn Trọng Nhân và cộng sự đã nhận xét tỷ lệ xẹp tiền
phòng sau phẫu thuật cắt bè củng giác mạc là 5,88% [5].
- Năm 1989 khoa mắt Việt Tiệp Hải Phòng gặp 5,89% sau phẫu thuật cắt bè
củng giác mạc [7].
- Năm 1991 Trần Nguyệt Thanh, Đào Lâm Hường và Trương Tuyết Trinh
theo dõi phẫu thuật lỗ dũ trờn mắt Glụcụm tái phát do sẹo sơ nhận thấy
tiền phũng nụng là 10,5% [12].
- Năm 1992 Hoàng Ngọc Chương và cộng sự phẫu thuật trên 190 mắt tỷ lệ
biến chứng xẹp tiền phòng là 14%.
- Năm 1993 Nguyễn Thị Nhung trong luận văn chuyên khoa cấp hai “Biến
chứng xẹp tiền phòng – bong mạch mạc sau phẫu thuật glụcụm và đục thể
thủy tinh” đã nhận xét xẹp tiền phòng sau phẫu thuật lỗ dò là 13.42% [8].
- Năm 2002 Chu Thị Vân và cộng sự gặp biến chứng xẹp tiền phòng trong
phẫu thuật đặt ống dẫn lưu thủy dịch tiền phòng điều trị tăng nhãn áp tái
phát và glụcụm tõn mạch là 21,62%(8/37 mắt phẫu thuật).Tác giả đả đưa
ra hai phương thức điều trị là điều trị nội khoa và điều trị ngoại khoa, điều
trị nội khoa là băng ép mắt mổ uống nhiều nước buổi sáng thì 4 mắt tiền
phòng phục hồi sau 2 đến 5 ngày, thành công là 50% . Cũn 4 mắt( 50%)
điều trị nội khoa thất bại phải chuyển sang điều trị ngoại khoa là tái tạo
tiền phòng bằng dung dịch nước muối 9‰, có 3 mắt tiền phòng được tái
tạo còn 1 mắt phải dùng chất nhầy để tái tạo tiền phòng nhưng mắt này
nhãn áp tăng trở lại và phải dùng thuốc hạ nhãn áp kết hợp. Tác giả nhận
thấy xẹp tiền phòng thường xảy ra ở thì đưa ống silicon vào tiền phũng
gõy thoỏt thủy dịch đột ngột. Về nguyên nhân gây xẹp tiền phòng tác giả
cho rằng có thể do thắt chỉ làm hẹp lòng ống bằng chỉ 7.0 không tiêu, độ
hẹp lòng ống ước lượng chưa đủ để hạn chế dòng chảy thủy dịch cho nên
24
lượng thủy dịch thoát quá nhiều hoặc chỉ 7.0 tiêu sớm ống mở ra cũng gõy

thoỏt thủy dịch làm xẹp tiền phòng , mặt khác biến chứng này phần lớn
xảy ra ở những ca phẫu thuật đầu tiên, sau này nhóm phẫu thuật tiến hành
làm đầy ống silicon và bấc silicon xốp bằng nước muối 9‰ trước khi đặt
ống và tạo đường hầm củng mạc thì biến chứng này giảm hẳn ở những
trường hợp phẫu thuật về sau.[16].
Từ đó đến nay ở Việt Nam chưa có thêm một nghiên cứu nào một cách
có hệ thống đề cập đến đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị của biến chứng
xẹp tiền phũng đõy chính là lý do để chúng tôi tiến hành nghiên cứu này.
25

×