ĐẶT VẤN ĐỀ
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới phát hiện năm 1981, sau
đó 6 năm, thuốc kháng vi rút (Anti Retrovirus - ARV) đầu tiên có tác dụng ức
chế HIV (Human Immunodìfficiency Virus) là Zidovudine (AZT) đã được
đưa vào điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS. Tính đến nay đó cú trờn 20
thuốc ARV được nghiên cứu và sử dụng. Trong những năm đầu, phác đồ điều
trị chỉ bao gồm một loại thuốc ARV, tuy nhiên kết quả điều trị đã không được
như mong đợi, vì vậy đến năm 1993 phác đồ 2 thuốc đã được đề xuất. Từ năm
1997 để nâng cao hiệu quả điều trị cỏc phỏc đồ điều trị kháng vi rút có hoạt
tính cao (HAART – Highly Acitve AntiRetrovirus) với ít nhất là 3 thuốc
ARV kết hợp đã được áp dụng. Cho đến nay kết quả điều trị của cỏc phỏc đồ
HAART vẫn đang được nhiều tác giả trên thế giới quan tõm nghiên cứu [29],
[37], [38]. Ngoài ra, theo các kết quả nghiên cứu, các phác đồ HAART không
chỉ có tác dụng điều trị mà cũn có những tác dụng phụ không mong muốn, đã
lần luợt được thông báo [20], [32], [34].
Tại Việt Nam, từ năm 2005 Bộ Y tế đã triển khai các chương trình
chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS trên toàn quốc. Dựa theo
các khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới, các phác đồ điều trị kháng vi rút
HAART đã được áp dụng tại Việt Nam [1], [3]. Cho đến nay đã qua 5 năm
triển khai việc điều trị bằng các phác đồ kháng vi rút, nhưng việc đánh giá
hiệu quả điều trị của các phác đồ trên người Việt Nam cũn rất hạn chế. Hơn
nữa, theo những thông báo ban đầu của Cục phòng chống HIV Việt Nam, một
số phác đồ đã xuất hiện các tác dụng phụ cần được thay thế. Đặc biệt là các
phác đồ có sử dụng D4T gõy nhiều tác dụng phụ không hồi phục như là rối
loạn phân bổ mỡ, mỡ máu cao, đường máu cao, điều này ảnh hưởng nhiều
1
đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Vì vậy từ năm 2009 Bộ Y tế Việt
Nam đã có khuyến cáo sử dụng các phác đồ ưu tiên, D4T được thay thế bằng
AZT. So với D4T thì AZT tương đối lành tính hơn, nếu tính đến tác dụng phụ
kéo dài thì chỉ có tác dụng ức chế tuỷ xương sinh mỏu gõy thiếu máu mạn
tính, đây là tác dụng có hồi phục, nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ có
thể phục hồi mà không cần ngừng AZT. Dù vậy vẫn có một số trường hợp
không những phải ngừng điều trị AZT mà còn phải nhập viện để truyền máu.
Để góp phần nõng cao chất lượng điều trị, cũng như đánh giá hiệu quả,
các tác dụng phụ của phác đồ mới được khuyến cáo chúng tôi tiến hành đề tài
“Đỏnh giá hiệu quả phác đồ điểu trị có AZT tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới
Trung ương” với hai mục tiêu sau:
1. Đánh giá hiệu quả điều trị của phác đồ HAART có AZT về lâm
sàng và cận lâm sàng.
2. Đánh giá tỷ lệ các tác dụng phụ thường gặp của AZT.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về HIV/AIDS:
Vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) là một vi rút ái lympho.
HIV có đặc điểm chung cua họ Retroviridea, có dạng hình cầu, kích thước
khoảng 80-120 nm, có genom là ARN một sợi và có enzyme sao chép ngược
RT. HIV1 và HIV2 gõy bệnh ở người, thuộc nhúm Lentivirus có thời gian ủ
bệnh kéo dài và tiến triển chậm.
Sau khi phơi nhiễm 5-7 ngày, những tế bào nhiễm HIV di chuyển đến
cơ quan lympho ngoại vi, tại đõy vi rút nhõn lên nhanh chóng. Vòng đời của
HIV trải qua 6 bước. Sau khi nhõn lên trong tế bào TCD4, vi rút được giải
phóng ra khỏi tế bào gõy ly giải tế bào.
Thời gian trung bình kể từ khi nhiễm vi rút HIV đến khi phát triển
thành AIDS thay đổi rất khác nhau giữa các bệnh nhõn khoảng từ 5-20 năm,
trung bình là khoảng 10 năm. Theo Hướng dẫn Quốc gia về chẩn đoán và
điều trị năm 2009 [3], chia diễn biến lõm sàng của bệnh nhõn thành 4 giai
đoạn. Giai đoạn lõm sàng được dùng để xác định tình trạng bệnh nhõn và để
chỉ định điều trị ART.
Chẩn đoán giai đoạn lõm sàng [3]:
a. Giai đoạn lâm sàng 1:
Không triệu chứng
Có thể mắc bệnh lý hạch toàn thân dai dẳng
Thang hoạt động 1: không triệu chứng, hoạt động bình thường
b. Giai đoạn lâm sàng 2:
Sút cân < 10% trọng lượng
Nhiễm Herpes Zoster (Zona) trong 5 năm qua
3
Biểu hiện bệnh da và niêm mạc nhẹ (viêm da tiết bã, ngứa, nấm múng,
loột miệng tái phát, viờm khoộ miệng)
Viêm đường hô hấp trên tái diễn (ví dụ viêm xoang)
Và/ hoặc thang hoạt động 2: có triệu chứng nhưng hoạt động bình thường
c. Giai đoạn lâm sàng 3:
Sút cân > 10% trọng lượng
Tiêu chảy mạn tính không rõ nguyên nhân kéo dài > 1 tháng
Sốt kéo dài không có nguyên nhân > 1 tháng (sốt thành cơn hoặc sốt
liên tục)
Nấm candida miệng
Bạch sản dạng lông ở miệng
Lao phổi 1 năm trước
Nhiễm khuẩn nặng (ví dụ viêm phổi, viêm cơ hoá mủ)
Và/ hoặc thang hoạt động 3: nằm liệt giường < 50% thời gian trong
tháng qua
d. Giai đoạn lâm sàng 4:
Hội chứng suy mòn do HIV (sút > 10% trọng lượng, cộng với tiêu chảy
mạn tính không rõ nguyên nhân > 1 tháng, hoặc sốt kéo dài không rõ nguyên
nhân > 1 tháng)
Các bệnh nhiễm trùng chỉ điểm AIDS
Lao ngoài phổi
Nhiễm Penicillium
Nhiễm Cryptococcosis ngoài phổi
Nhiễm Candida thực quản, khí quản, phế quản, phổi
Nhiễm mycobacteria không phải lao lan toả toàn thân
Viêm phổi do pneumocitis carinii (PCP)
Bệnh do Toxoplasmosis ở nóo
4
Tiêu chảy do Cryptosporidiosis kéo dài > 1 tháng
Bệnh do Cytomegalovirus (CMV)
Nhiễm Herpes simplex > 1 tháng
Viêm nóo chất trắng đa ổ tiến triển
Các bệnh nấm địa phương lan toả toàn thõn (ví dụ Histoplasmosis)
Nhiễm khuẩn huyết do Salmonella không phải thương hàn
U lympho
Sarcoma Kaposi
Bệnh lý nóo do HIV
Và/ hoặc thang hoạt động 4: nằm liệt giường > 50% thời gian trong
tháng trước.
1.2. Tình hình nhiễm HIV trên thế giới và tại Việt Nam:
1.2.1. Tình hình nhiễm HIV trên thế giới [7]:
Năm 1981, CDC thông báo sự không giải thích được về việc xuất hiện
viêm phổi do PCP ở 5 nam thanh niên đồng tính tại Los Angeles và 226 nam
thanh niên đồng tính mắc Sarcoma Kaposi.
Cuối năm 1982, 100 trường hợp có hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(AIDS) đầu tiên được CDC thông báo, xác định các tiêu chuẩn lõm sàng để
chẩn đoán một trường hợp AIDS với mục đích giám sát dịch tễ.
Năm 1993, CDC đưa ra các tiêu chuẩn để xác định một trường hợp AIDS [10]
Tớnh từ khi xuất hiện ca nhiễm đầu tiên (năm 1981) đến nay đã có
khoảng 60 triệu người trên hành tinh nhiễm HIV, trong đó có khoảng 25 triệu
người đã chết do các bệnh có liên quan đến AIDS. Các số liệu dịch tễ cho
thấy, sự lõy lan của HIV trên phạm vi toàn cầu đạt “đỉnh” vào năm 1996 khi
có tới 3,5 triệu ca mới nhiễm. Như vậy tính đến năm 2008, số ca mới nhiễm
HIV đã giảm 30% (2,7 triệu người vào năm 2008 so với 3,5 triệu người vào
năm 1996). Trong 4 năm trở lại đõy, số người tử vong do AIDS đã 10% (2
5
triệu vào năm 2008 so với 2,2 triệu năm 2004). Tín hiệu khả quan là số trẻ em
mới nhiễm HIV trong năm 2008 đã giảm 18% so với năm 2001 nhờ những nỗ
lực dự phòng lõy truyền từ mẹ sang con.
Nhìn chung, cho đến năm 2008, dịch HIV đã bị hạn chế ở mức ổn định
tại nhiều khu vực trên thế giới, tuy nhiên tỷ lệ nhiễm HIV vẫn tiếp tục gia
tăng ở một số khu vực khác như Đông Âu, Trung Á và một số vùng của Chõu
Phi. Khu vực Cận Sahara của Chõu Phi vẫn là nơi chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất bởi dịch HIV. Gần 71% tổng số trường hợp nhiễm HIV trong năm 2008
là dõn của các nước khu vực này (với khoảng 1,9 triệu người mới nhiễm HIV
năm 2008). Tiếp theo, đứng thứ hai vẫn là khu vực Đông Nam Á, với 280.000
người mới nhiễm HIV, cao hơn 110.000 người so với khu vực đứng thứ ba là
Mỹ La Tinh trong cùng năm 2008.
1.2.2. Tình hình nhiễm HIV tại Việt Nam:
Tháng 12/1990, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại
thành phố Hồ Chí Minh. Dịch HIV thật sự bùng nổ ở nước ta năm 1993 với
số ca nhiễm mới tăng vọt. Đến tháng 10/2001, HIV đã lan ra khắp các tỉnh
thành trong cả nước. Lây nhiễm chủ yếu vẫn qua đường tiờm chớch ma tuý,
nhưng có khuynh hướng trẻ hoá (lứa tuổi 20 - 29 chiếm 29% vào năm 1977,
60,4% vào năm 2002) và lan sang nhúm cú nguy cơ thấp như thai phụ (tăng
từ 0,08% vào năm 1999 lên đến 0,2% vào năm 2000, 0,39% vào năm 2002),
thanh niên đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự (0,04% vào năm 1996, 0,15% vào
năm 1998, 1,31% vào năm 2001).
Tính đến ngày 30/9/2009, cả nước có 180.312 người nhiễm HIV/AIDS
đang cũn sống được báo cáo, trong đó có 42.339 bệnh nhõn AIDS và tổng số
người chết do AIDS đã được báo cáo là 48.368 người [4]
6
Phân tích hình thái nguy cơ cho thấy, trong số người mới được phát
hiện nhiễm HIV trong 9 tháng đầu năm 2010 có 49% bị nhiễm qua đường
mỏu, 38% qua đường tình dục, 3% qua đường mẹ-con và 10% không rừ
đường lõy. Tỷ lệ người nhiễm HIV là nam chiếm 70,8% và nữ chiếm 29,2%;
phần lớn ở độ tuổi từ 20-39 (chiếm 82%) [4]
1.3. Giải pháp điều trị HIV/AIDS.
1.3.1. C ác thuốc ARV và cơ chế tác dụng:
Có ba nhóm thuốc ARV chính:
- Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược
Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược nucleoside (NsRTI)
Gồm: AZT, d4T, 3TC, ddI, ABC, emtricitabine
Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược nucleotide (NtRTI)
Tenofovir (TDF)
- Thuốc ức chế enzyme sao chép ngược non- nucleoside (NNRTI)
Efavirenz (EFV), nevirapine (NVP)
- Thuốc ức chế protease (PI)
Loperavir, ritronavir, atazanavir, indinavir, saquinavir, fos-amprenavir
PIs duy nhất hiện có tại Việt Nam là Loperavir/r (Aluvia)
- Ngoài ra cũn cú một số nhóm thuốc ARV khác, hiện Việt Nam chưa
có
Thuốc ức chế hoà màng : Enfuvirtide (Fuzeon)
Thuốc ức chế CCR5: Maraviroc (Selzentry)
Thuốc ức chế tích hợp: Raltegravir (Isentress)
7
Cơ chế tác dụng của các ARV:
Hình 1.3 Sơ đồ minh hoạ cơ chế tác dụng của các thuốc ARV
Các thuốc ARV có tác dụng ức chế vi rút do tác động vào quá trình gắn
kết, xõm nhập tế bào đích của HIV và ức chế các men cần thiết cho sự nhõn
lên của vi rút.
Đích tác động của các thuốc thuộc nhúm NRTIs là men sao chép ngược
của HIV. Nhưng do các thuốc có cấu trúc tương tự nucleoside (hoặc
nucleotide) nên chúng là cơ chất thay thế cho các phõn tử này và hoạt động
theo cơ chế cạnh tranh. Khi có mặt các thuốc này trong phõn tử ADN sẽ
không thể hình thành liên kết phosphodiester để hình thành sợi ADN xoắn
kép, và kết quả là ADN không được tổng hợp.
Cũng giống như các thuốc nhúm NRTIs, đích tác dụng của các thuốc
nhúm NNRTIs cũng là men sao chép ngược của vi rút, nhưng NNRTIs gắn
trực tiếp và không cạnh tranh với men gần sát với nơi gắn các nucleoside, kết
RT
Tiền virus
Protein
RNA
DNA
RNA
DNA
DNA
RT
RNA
RNA
DNA
DNA
DNA
Thuốc ức chế
protease
Thuốc ức chế
men
sao chép ngược
Thuốc ức chế
hoà màng
8
quả là phong bế hoà toàn vị trí gắn các chất xúc tác giúp hoạt hoá men sao
chép ngược, làm giảm đáng kể quá trình tổng hợp nucleic.
Các thuốc thuộc nhúm PIs ức chế men protease của vi rút. Men
protease của vi rút cắt các gag-pol polyprotein của vi rút thành các tiểu phần
chức năng. Men protease bị ức chế và quá trình phõn cắt bị ngăn trở sẽ khiến
tạo ra các tiểu phần không có khả năng lõy nhiễm.
Theo Hướng dẫn 3003 – QĐ BYT [3], cỏc phác đồ HAART bậc 1 được
sử dụng gồm có:
Phác đồ chính Cỏc phác đồ thay thế
AZT + 3TC + NVP
hoặc D4T + 3TC + NVP
AZT + 3TC + EFV
D4T + 3TC + EFV
TDF + 3TC + NVP hoặc EFV
AZT + 3TC + TDF
1.3.2. Mục đích điều trị
- Ức chế sự nhân lên của vi rút và kìm hãm lượng vi rút trong máu ở
mức thấp nhất.
- Phục hồi chức năng miễn dịch, giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm
trùng cơ hội.
- Cải thiện chất lượng sống và tăng khả năng sống sót cho người bệnh
1.3.3. Nguyên tắc điều trị
- Điều trị ARV là một phần trong tổng thể các dịch vụ chăm sóc và hỗ
trợ về y tế, tâm lý và xã hội cho người nhiễm HIV/AIDS.
- Điều trị ARV chủ yếu là điều trị ngoại trú và được chỉ định khi người
bệnh có đủ tiêu chuẩn lâm sàng, và/hoặc xét nghiệm và chứng tỏ đã sẵn sàng
điều trị.
9
- Bất cứ phác đồ điều trị nào cũng phải có ít nhất 3 loại thuốc. Điều trị
ARV là điều trị suốt đời; người bệnh phải tuân thủ điều trị tuyệt đối để đảm
bảo hiệu quả và trỏnh khỏng thuốc.
- Người nhiễm HIV được điều trị ARV vẫn phải áp dụng các biện pháp
dự phòng lây nhiễm vi rút cho người khác.
- Người nhiễm HIV được điều trị ARV khi tình trạng miễn dịch chưa
phục hồi cần tiếp tục điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng cơ hội.
1.3.4. Chỉ định điều trị ART:
Theo Hướng dẫn 3003 của Bộ Y tế [3]
Giai đoạn lõm sàng 1,2: TCD4 ≤ 250 TB/mm
3
Giai đoạn lõm sàng 3: 250 < TCD4 < 350
Giai đoạn lõm sàng 4: bất kể TCD4 là bao nhiêu
Ngoài ra, bệnh nhân cần có chức năng gan, thận bình thường và đang
không mắc bất cứ nhiễm trùng cơ hội nào.
Đánh giá trước điều trị ART
Ngay sau khi có đủ tiêu chuẩn điều trị ART về lâm sàng và/ hoặc xét nghiệm,
bệnh nhân cần được đánh giá trước điều trị ARV theo các bước như sau:
- Ghi nhận giai đoạn lõm sang và số TCD4 trước điều trị
- Sàng lọc lao và các bệnh NTCH, điều trị lao và các bệnh nhiễm trùng
cơ hội nếu có.
- Làm các xét nghiệm cơ bản và các xét ghiệm để lựa chọn phác đồ
như: CTM/ Hb và men gan
- Hỏi tiền sử dung thuốc ARV trước đó: lý do sử dụng, nơi cung cấp,
phác đồ cụ thể, lưu ý tiền sử dùng các phác đồ không đúng, sự tuõn thủ…
- Đánh giá mong muốn được điều trị của người bệnh và khả năng có
người hỗ trợ điều trị
10
- Dự kiến phác đồ ARV thích hợp cho bệnh nhõn
- Dự phòng cotrimoxazole nếu có chỉ định
Đánh giá sẵn sàng điều trị:
- Đánh giá hiểu biết của ngời bệnh về nhiễm HIV, về điều trị ARV và
tầm quan trọng của tuõn thủ điều trị và cách xử trí khi quên uống thuốc.
- Đánh giá hiểu biết của người bệnh về cách sử dụng thuốc, các tác
dụng phụ thường gặp và hướng xử trí.
- Đánh giá khả năng tuõn thủ của bệnh nhõn qua các buổi tư vấn, tái
khám, khi uống thuốc dự phòng và bệnh nhõn đồng ý và cam kết tham gia
điều trị.
1.3.5. Thất bại điều trị ARV và cỏc phỏc đồ bậc hai
a/ Đánh giá thất bại điều trị:
Chỉ xem xét thất bại điều trị khi người bệnh đã uống ARV đỳng phỏc
đồ 3 thuốc trong ít nhất 6 tháng; người bệnh tuân thủ tốt. Các biểu hiện xuất
hiện trong vòng 6 tháng sau khi bắt đầu điều trị ARV thường là nhiễm trùng
cơ hội, hội chứng viêm phục hồi miễn dịch, hoặc các tác dụng phụ của thuốc.
Tiêu chuẩn dỏnh giỏ thất bại điều trị:
Bảng 1.1: Tiêu chuẩn đánh giá thất bại điều trị ARV
Thất bại về lâm
sàng
Xuất hiện mới hoặc tái phát các bệnh lý giai đoạn lâm
sàng 4 sau điều trị ít nhất 6 tháng
Thất bại về
miễn dịch học
• CD4 giảm xuống bằng hoặc dưới mức CD4 ban đầu
trước điều trị, hoặc
• CD4 giảm dưới một nửa so với mức CD4 cao nhất đạt
được (nếu biết giá trị này), hoặc
• CD4 dưới 100 tế bào/mm
3
máu liên tục trong 1 năm liền,
không tăng
11
Thất bại về vi
rút học
Tải lượng vi rút đo được trên 5.000 phiên bản /ml
b/ Quyết định thay đổi phác đồ điều trị
Quyết định thay đổi phác đồ điều trị được đưa ra trên cơ sở xem xét các
tiêu chuẩn lâm sàng, miễn dịch học và vi rút học (nếu có).
Bảng 1.2: Quyết định thay đổi phác đồ điều trị trên cơ sở kết hợp tiêu
chuẩn lâm sàng, miễn dịch và virus học
Tiêu chuẩn
thất bại
Giai đoạn lâm sàng 1-2 Giai đoạn
lâm sàng 3
Giai đoạn
lâm sàng 4
Thất bại về
CD4 (không
có xét nghiệm
virus học)
Không thay đổi phác đồ.
Theo dõi người bệnh xem có
tiếp tục xuất hiện các biểu hiện
lâm sàng mới hay không.
Làm lại xét nghiệm CD4 sau 3
tháng.
Xem xét thay
sang phác đồ
bậc hai.
Thay sang
phác đồ bậc
hai.
Thất bại về
CD4 và virus
học
Thay sang phác đồ bậc hai. Thay sang
phác đồ bậc
hai.
Thay sang
phác đồ bậc
hai.
1.3.6. Tình hình điều trị AIDS trên thế giới:
Tháng 7 năm 1987 FDA chấp nhận AZT là thuốc ARV đầu tiên được
sử dụng trong điều trị cho bệnh nhân AIDS. Sau đó lần lượt các thuốc ARV
tiếp theo được tìm ra và được FDA chấp nhận. Khởi đầu người ta dựng phỏc
đồ một thuốc để điều trị cho bệnh nhân, sau đó nhận thấy hiệu quả kộm nờn
chuyển sang dùng phác đồ phối hợp hai ARV. Kể từ năm 1996 đến nay, Tổ
chức Y tế Thế giới đã đưa ra hướng dẫn liệu pháp điều trị kháng retrovirus
12
hoạt tính cao - HAART, sử dụng ít nhất là ba thuốc ARV trong một phác đồ
và nhận thấy rằng hiệu quả hơn hẳn so với phác đồ một hay hai thuốc.
Theo thông báo của UNAIDS năm 2005, cả thế giới có khoảng 6,5
triệu người nhiễm HIV cần điều trị đặc hiệu nhưng chỉ có khoảng 15% được
tiếo cận với ARV. Năm 2007 số người được tiếp cận với ARV tăng lên đến
35%. Năm 2008 thì con số này đã là 42% (khoảng 4,7 triệu người), tuy nhiên
là vẫn cũn hơn một nửa số người nhiễm cần điều trị chưa được điều trị.
Ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh… các thuốc ARV rất sẵn có
và phong phú nên đã không còn sử dụng D4T trong phác đồ điều trị cho bệnh
nhân HIV/AIDS. Thay vào đó họ có những thuốc ức chế hoà màng, ức chế
đồng thụ thể CCR5, ức chế tích hợp đánh vào cỏc khõu khác nhau của quá
trình tổng hợp vi rút HIV.
Ở các nước đang phát triển và nghèo như các quốc gia Nam Á hay chõu
Phi thì vẫn sử dụng D4T trong phác đồ, tuy nhiên cũng đã có những nghiên
cứu đánh giá về tác dụng phụ lõu dài do D4T ở những quốc gia này [15][17]
[18] nên cũng có xu hướng hạn chế dùng D4T.
1.3.7. Tình hình điều trị AIDS ở Việt Nam:
Hiện tại ở nước ta chỉ có các thuốc thuộc nhóm NRTIs, NNRTIs, và
PIs sẵn có chỉ là LPV/r (Aluvia)
Tớnh đến tháng 7/2010, cả nước đã điều trị cho 44.847 bệnh nhõn
AIDS, trong đó 42.449 bệnh nhõn người lớn và 2.398 bệnh nhõn trẻ em. Như
vậy, ước tớnh mới chỉ có hơn 50% số bệnh nhõn AIDS cần điều trị là đã được
điều trị.
Theo báo cáo của Cục Phòng chống HIV/AIDS tháng 3 năm 2010 thì
chỉ khoảng 3% bệnh nhân được điều trị theo phác đồ bậc 2, còn lại 97% bệnh
nhân điều trị theo phác đồ bậc 1. ARV ở nước ta chủ yếu được cung cấp miễn
phí cho bệnh nhân, do các chương trình tài trợ như Quỹ Quốc gia, chương
trình PEPFAR, Quỹ Toàn cầu, ESTHER, Quỹ Clinton… Trong đó chương
13
trình PEPFAR cung cấp khoảng 70% số lượng ARV, Quỹ Toàn cầu cung cấp
khoảng 15%, Quỹ Quốc cung cấp khoảng 8%.
1.4. Các đặc tính dược lý và các tác dụng phụ của AZT theo nhà sản xuất:
1.4.1. Đặc tính dược lý học của AZT[5]:
Mô tả:
Zidovudine (tên chính thức là Azidothymidine - AZT) là một chất đồng
đẳng nucleoside của pyrimidine, chất này có hoạt tính kháng vi rút gây suy
giảm miễn dịch ở người (HIV). Danh pháp hoá học của AZT là 3’-
ZIDOVUDINE-3’deoxythymidine. Công thức phân tử của AZT là
C10H13N5O4
Zidovudine là một chất tổng hợp đồng đẳng với một nucleoside được
tỡm thấy trong tự nhiên là thymidine, trong đó nhúm 3’-hydroxy (-OH) được
thay thế bằng một nhóm Azido (-N3). Khi vào trong tế bào, Zidovudine được
chuyển thành zidovudine 5’-triphosphate (AztTP) do tác động của hàng loạt
enzyme tế bào. Zidovudine 5’-triphosphate ức chế hoạt động của men sao mã
ngược HIV (RT) bằng cả hai cách, vừa cạnh tranh sử dụng với cơ chất tự
nhiên deoxythymidine 5’-triphosphate (dTTP) vừa xõm nhập vào AND của vi
rút. Do phõn tử nucleoside giả thiếu nhúm 3’-OH xõm nhập vào AND của vi
rút ngăn chặn việc tạo thành liên kết chớnh để kéo dài AND, đó là liên kết 3’-
5’ phosphodiester, nên sự phát triển AND của vi rút bị dừng lại. Chất chuyển
hoá có hoạt tớnh AztTP cũng là một chất ức chế yếu đối với men AND
polymerase α của tế bào và polymerase γ của ty thể va cũng được báo cáo là
có xõm nhập vào AND của những tế bào khi nuôi cấy.
Hoạt tính kháng HIV in vitro của zidovudine đã được đánh giá bằng những
dòng tế bào tạo lympho bào và tế bào gốc bạch cầu đơn nhân và lympho bào
14
trong mỏu ngoại vi bị gõy nhiễm bằng vi rút HIV phõn lập trong phòng thí
nghiệm và từ bệnh phẩm. Zidovudine thể hiện hoạt tớnh kháng vi rút trên tất
cả các dòng tế bào bị nhiễm cấp tớnh; tuy nhiên hoạt lực thực sự yếu hơn ở
những dòng tế bào nhiễm món tớnh.
Trong những nghiên cứu phối hợp thuốc với zalcitabine, didanosine,
lamivudine, saquinavir, indinavir, ritonavir, nevirabine, delavirdine hoặc
interpheron alpha, zidovudine thể hiện khả năng phối hợp từ cộng lực đến
hiệp lực trong nuôi cấy tế bào. Mối liên hệ tớnh nhạy cảm in vitro của HIV
với những chất ức chế men sao mã ngược (RT) và sự ức chế quá trình sao mã
của HIV ở người chưa được xác định.
Các mẫu phân lập HIV có độ nhạy cảm với zidovudine bị giảm đã được
chọn lọc trên in vitro và cũng được tỡm thấy trên bệnh nhõn đã được điều trị
bằng zidovudine.
Khả năng đề kháng chéo giữa các chất ức chế men sao mã ngược của
HIV và những chất ức chế protease thì thấp do sự khác nhau của điểm đích
liên quan tương ứng trên enzyme. Liệu pháp phối hợp zidovudine với
zalcitabine hoặc didanosine có vẻ không ngăn chặn được sự xuất hiện các đột
biến gõy đề kháng zidovudine. Liệu pháp phối hợp zidovudine và lamivudine
kéo dài thời gian xuất hiện các đột biến dẫn đến đề kháng zidovudine. Ở một
số bệnh nhõn mang vi rút đề kháng zidovudine, liệu pháp điều trị phối hợp
bằng zidovudine + lamivudine phục hồi được sự nhạy cảm với zidovudine
trên kiểu hình sau khoảng 12 tuần điều trị. Khi điều trị bằng phác đồ phối hợp
zidovudine và didanosine hoặc zalcitabine trong thời gian ngắn hơn 1 năm,
người ta đã tỡm thấy các mẫu phõn lập HIV đa kháng thuốc đề kháng với
zidovudine, didanosine, zalcitabine, stavudine và lamivudine trong một lượng
nhỏ các bệnh nhõn đã được điều trị. Những nghiên cứu định vị đột biến cho
15
thấy những đột biến này cũng có thể đưa tới hậu quả đề kháng với zalcitabine,
lamivudine và stavudine.
1.4.2. Các tác dụng phụ của AZT[5]:
a) Thiếu máu và các phản ứng bất lợi khác về huyết học:
Hay gặp là thiếu mỏu và giảm bạch cầu hạt hoặc giảm số lượng bạch
cầu nói chung.
Thiếu mỏu là tác dụng phụ phổ biến nhất của AZT, do giảm sản sinh
các tế bào hồng cầu, thường quan sát thấy sau điều trị AZT từ 4 tuần trở lên.
Triệu chứng cơ năng là bệnh nhân sẽ mệt mỏi, thở nông, khó thở, da xanh,
niêm mạc nhợt, hoa mắt, chóng mặt.
Thiếu máu có vẻ có liên quan đến dự trữ tuỷ xương thấp trước khi bắt
đầu điều trị, liều dùng và thời gian điều trị. Ở những bệnh nhân có dự trữ tuỷ
xương thấp, nhất là những bệnh nhân đã ở giai đoạn tiến triển triệu chứng
AIDS thường gặp thiếu mỏu hơn, cần phải theo dõi thường xuyên các chỉ số
huyết học để có thể phát hiện thiếu máu nặng, ít nhất là hai tuần 1 lần trong 3
tháng đầu điều trị và ít nhất một lần mỗi tháng sau đó.
Tỷ lệ bị giảm bạch cầu hạt cũng tăng lên ở nhúm bệnh nhân có số
lượng bạch cầu hạt, haemoglobin và vitamin B12 trong mỏu tương đối thấp ở
thời điểm bắt đầu AZT.
Ngoài ra cũn có thể gặp (tuy hiếm): giảm tiểu cầu, giảm toàn bộ các
dòng tế bào mỏu với giảm sản tế bào tuỷ xương; bất sản thuần tuý dòng hồng
cầu, thiếu mỏu bất sản.
Ở những bệnh nhân đã từng bị nhiễm độc huyết, sự giảm hemoglobin
có thể xảy ra rất sớm, khoảng 2-4 tuần. Ở những bệnh nhõn bệnh HIV giai
đoạn sớm các phản ứng bất lợi về huyết học không hay gặp.
Tất cả bệnh nhân đều phải được làm công thức máu trước khi điều trị
AZT và suốt quá trình điều trị.
16
Zidovudine chống chỉ định cho những bệnh nhõn có số lượng bạch cầu trung
tớnh thấp một cách bất thường (< 0,75 x 10
9
) hoặc nồng độ hemoglobin thấp
một cách bất thường (< 75 g/l).
Thiếu máu do AZT là tác dụng có phục hồi.
Xử trí:
- Điều trị triệu chứng, bổ sung sắt và vitamin nhóm B, truyền máu khi
có chỉ định
- Thiếu máu mức độ 3, 4: thay AZT bằng D4T hoặc một NRTIs khác
- Thiếu máu mức độ 1, 2: tiếp tục điều trị AZT, theo dõi xét nghiệm
Hb, nếu không cải thiện hoặc thiếu mỏu nặng hơn thì thay AZT bằng D4T.
b) Các tác dụng phụ khác của AZT:
- Các rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng: Chán ăn và nhiễm toan lactic
mà không có giảm oxy mỏu.
- Các rối loạn tõm thần: (hiếm) lo õu và trầm cảm.
- Các rối loạn hệ thần kinh:
Hay gặp: đau đầu, chóng mặt
Hiếm: mất ngủ, dị cảm, ngủ gà, mất sự hoạt bát tinh thần, co giật
- Các rối loạn tim mạch: (hiếm) bệnh cơ tim
- Các rối loạn hô hấp: (hiếm) khó thở, ho
- Các rối loạn tiêu hoá:
Hay gặp: buồn nôn, nôn, đau bụng, ỉa chảy
Không hay gặp: bụng chướng
Hiếm: sắc tố niêm mạc miệng, rối loạn vị giác và khó tiêu, viêm tuỵ
- Các rối loạn gan mật:
Hay gặp: tăng men gan và bilirubin mỏu
Hiếm: các rối loạn gan như gan to mức độ nặng có nhiễm mỡ.
- Các rối loạn da và dưới da:
17
Ít gặp: phát ban và ngứa
Hiếm: sắc tố móng và tay, mày đay và vã mồ hôi
- Các rối loạn cơ, xương và mô liên kết:
Hay gặp: đau cơ
Ít gặp: bệnh cơ
- Các rối loạn thận và tiết niệu: (hiếm) đái nhiều
- Các rối loạn hệ sinh sản và vú: (hiếm) vú to
- Các rối loạn toàn thõn và rối loạn tại nơi dùng thuốc:
Hay gặp: khó chịu
Ít gặp: sốt, đau toàn thõn và suy nhược
Hiếm: sốt, rét run, đau ngực và hội chứng giả cúm.
- Mẫn cảm với các thành phần của thuốc: hiếm
* Rối loạn chức năng ty thể(ty thể là bào quan rất quan trọng của tế
bào, sản sinh ra ATP - cung cấp năng lượng cho các hoạt động tế bào): hoạt
động của ty thể cần đến các nucleoside, do sử dụng nucleoside “giả” (các
thuốc núm NRTIs) dẫn đến sự thoái hoá của ty thể. Các chất tương tự
nucleoside và nucleotide đã được chứng minh in vitro và in vivo là gây huỷ
hoại ty lạp thể ở nhiều mức độ khác nhau. Zidovudine thuộc nhúm NRTIs nên
cũng có những tớnh chất tương tự các thuốc cùng nhúm. Do đó zidovudine
cũng gõy rối loạn chức năng ty thể, hậu quả là nhiễm toan lactic, viêm tuỵ, rối
loạn thần kinh khởi phát muộn hay rối loạn phõn bổ mỡ tuy nhiên với mức
độ nhẹ hơn và tỷ lệ thấp hơn những thuốc cùng nhúm khác. Liên quan đến các
tác dụng phụ này, tần suất hay gặp thay đổi như sau: D4T > DDI > AZT.
Các biến cố chính được báo cáo là các rối loạn huyết học (thiếu máu,
giảm bạch cầu trung tính), các rối loạn chuyển hoá (tăng lactat máu, tăng
lipase máu), những biến cố này thường là nhất thời. Có thể có một số rối loạn
thần kinh khởi phát muộn (tăng trương lực cơ, bất thường hành vi), hiện chưa
biết các rối loạn này là tạm thời hay vĩnh viễn.
18
1.5. Các nghiên cứu về tác dụng phụ của cỏc phỏc đồ có AZT trên thế
giới và ở Việt Nam:
Kể từ khi được FDA chấp thuận sử dụng như là một thuốc kháng
retrovirus trong điều trị HIV/AIDS đến nay, Zidovudine vẫn được sử dụng
rộng rói trên thế giới. Zidovudine khá lành tớnh so với stavudine, tuy nhiên
cũng có những tác dụng phụ được ghi nhận trên bệnh nhõn. Đã có nhiều
nghiên cứu về độc tớnh của thuốc ARV này.
Theo Huffam nghiên cứu bệnh nhõn điều trị AZT tại 15 địa điểm thuộc
các nước chõu Á Thái Bình dương [23] từ năm 2003 đến năm 2005, thiếu
mỏu xuất hiện ở 57/433 (13%) bệnh nhõn trong thời gian là 6 tháng đầu.
Thiếu mỏu ngay từ trước khi điều trị AZT (thiếu mỏu nhẹ hoặc có chỉ số
huyết hoạc ngoại vi ở mức bình thường thấp) là yếu tố dự báo thiếu mỏu sẽ
xuất hiện khi điều trị bằng AZT. Cũng ít gặp thiếu mỏu ở những trường hợp
đã từng có tiền sử điều trị ARV trước đó.
Nghiên cứu của Moh năm 2005 trên 498 bệnh nhõn điều trị phác đồ
HAART có AZT [31], có 23 bệnh nhõn (4,6%) bị thiếu mỏu nặng mức độ 3-
4. Ngoài ra nghiên cứu chỉ ra rằng có tới 118 bệnh nhõn (23,7%) có giảm
bạch cầu hạt mức độ 3-4. Trong đó có 1 bệnh nhõn phải ngừng AZT vì giảm
bạch cầu hạt và 11 bệnh nhõn phải ngừng thuốc vì thiếu mỏu. Tác giả cũng
lưu ý rằng phần lớn những trường hợp có giảm bạch cầu hạt nặng đều phục
hồi hoàn toàn sau khi bệnh nhõn được ngừng cotrimoxazole, điều này gợi ý
có tác động qua lại mạnh mẽ giữa cotrimoxazole và AZT.
Trong nghiên cứu năm 2004 của Moyle [32] đã chỉ ra rằng
haemoglobin giảm trên bệnh nhõn điều trị với AZT và tăng trên bệnh nhõn
điều trị với D4T, mức độ thiếu mỏu và giảm bạch cầu hạt cũng hay gặp hơn
trên bệnh nhõn bắt đầu điều trị với phác đồ có AZT hơn là so với phác đồ có
19
D4T, tỷ lệ xuất hiện giảm bạch cầu hạt dao động trong khoảng từ 26% đến
43% trong nhúm thử nghiệm với AZT và từ 15% đến 31% trong nhúm thử
nghiệm với D4T.
Nghiên cứu tại Uganda năm 2006 của Ssali [40] với cỡ mẫu lên đến
3314, có tới 219 bệnh nhõn (6%) bị thiếu mỏu mức độ 4 trong vòng 48 tuần
đầu (2 năm đầu), bệnh nhõn nữ và những bệnh nhõn có các chỉ số về
haemoglobin, TCD4 và cõn nặng thấp hơn ở thời điểm ban đầu điều trị AZT
thì có nguy cơ bị thiếu mỏu cao hơn (p<0.05). Tác giả cũng kết luận rằng tỷ lệ
bị thiếu mỏu xảy ra cao hơn ở những đối tượng được điều trị AZT đến từ các
nước công nghiệp hoá, cũng như là phụ thuộc đặc điểm dõn số và tỷ lệ này
cũng cao hơn trên những bệnh nhõn mắc các bệnh liên quan đến HIV.
Tác giả Willig trong nghiên cứu năm 2009 tại Peru [42] trên 546 bệnh
nhõn đã phát hiện ra rằng bệnh nhõn có cõn nặng < 60 kg khi bắt đầu ART có
AZT thì có nguy cơ phải ngừng AZT cao gấp đôi; tỷ lệ phải ngừng thuốc
cũng tăng trong nhúm bệnh nhõn có cõn nặng ban đầu thấp (14% trong nhúm
bệnh nhõn nặng 70 kg, 16% trong nhúm bệnh nhõn nặng 60-70 kg, 26% trong
nhúm nặng 50-59 kg và 44% trong nhúm bệnh nhõn nặng 50 kg); AZT cũng
hay gặp hơn các NRTI khác như D4T/DDI trong việc gõy ra đau cột sống và
có nguy cơ phải ngừng thuốc vì bệnh nhõn không thể chịu được đau, tuy
nhiên sau 120 ngày uống AZT thì nguy cơ phải ngừng AZT lại thấp hơn so
với D4T/DDI nếu các thuốc này cũng gõy tác dụng phụ tương tự.
Trong 2 năm từ 2005 đến 2007 Curkendall và cộng sự đã tiến hành một
nghiên cứu trên 1494 bệnh nhõn thuộc 21 trung tõm y tế trên khắp Hoa Kỳ
[19], trong đó có 529 bệnh nhõn điều trị phác đồ có AZT và 965 bệnh nhõn
điều trị phác đồ không có AZT. Kết quả cho thấy rằng số trường hợp xuất
hiện thiếu mỏu ở 2 nhúm sau 6 tháng điều trị là 24,3% và 8,1% và sau 24
tháng điều trị là 12,5% và 5,3%. Yếu tố nguy cơ xuất hiện thiếu mỏu là bệnh
20
nhân được điều trị AZT, TCD4 200 tế bào/mm3 và tình trạng AIDS. Tác giả
kết luận trong nghiên cứu nguy cơ thiếu mỏu xuất hiện trong 6 tháng đầu cao
gấp 3 lần so với thời điểm sau 24 tháng điều trị.
Nghiên cứu trên 1256 bệnh nhõn điều trị AZT tại miền Tõy Ấn độ [20]
của Dipti năm 2009 cho thấy có tới 203 bệnh nhõn (16,2%) bị thiếu mỏu, tỷ lệ
này cao hơn hẳn so với các nghiên cứu trước đó. Số trường hợp bị thiếu mỏu
nặng (Hb < 65 g/l) được ghi nhận là 100 (7,9%), mức hemglobin trung bình
thấp nhất là 6,3 ± 1,4 g/dl. Thời gian trung bình tớnh từ khi bệnh nhõn bắt đầu
phác đồ AZT đến khi hemoglobin giảm xuống mức thấp nhất là 3.66 ± 3.9
tháng và thời gian trung bình tớnh từ khi đổi từ AZT sang D4T đến khi
heamoglobin phục hồi là 1,26 ± 0,78 tháng. Trong 102 bệnh nhõn bắt đầu
bằng phác đồ có D4T, sau đó vì tác dụng phụ mà phải đổi sang AZT, có 7
trường hợp (6.8%) xuất hiện thiếu mỏu (Hb < 6,5 g/dl) sau thời gian trung
bình là 3,2 ± 1,6 tháng. Tác giả cũng chỉ ra trong nghiờn cứu nguy cơ thiếu
mỏu cao hơn ở những bệnh nhõn có TCD4 ban đầu thấp, trọng lượng cơ thể
thấp và mức heamoglobin ban đầu thấp. Phụ nữ cũng có nguy cơ bị thiếu mỏu
do AZT cao hơn.
21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Tất cả bệnh nhõn có chẩn đoán xác định nhiễm HIV/AIDS và được chỉ
định điều trị bằng ARV, phác đồ có AZT (kể cả bệnh nhõn đã từng điều trị
bằng AZT nhưng phải ngừng vì tác dụng phụ của thuốc).
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu:
Tại PKNT HIV/AIDS - Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương
2.2.2. Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 10 năm 2007 đến tháng 6 năm 2011. Chúng tôi chọn thời
điểm tháng 10 năm 2007 để bắt đầu thực hiện nghiên cứu này vì:
- Mặc dù PKNT bắt đầu điều trị bệnh nhõn từ tháng 5 năm 2005 nhưng
tại thời điểm đó Bệnh viện Hướng dẫn Quốc gia năm 2005 thì phác đồ chủ
yếu là D4T/3TC/NVP [1]
- Bắt đầu từ tháng 10 năm 2007 Bệnh viện thực hiện đo tải lượng vi rút
cho bệnh nhõn điều trị ARV tại PKNT định kỳ 6 tháng 1lần, vì vậy thuận lợi
cho chúng tôi đánh giá kết quả nghiên cứu này.
2.3. Phương pháp nghiên cứu:
Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu và tiến cứu.
Cỡ mẫu: tất cả bệnh nhõn đạt tiêu chuẩn nghiên cứu sẽ được chọn vào
nghiên cứu này (khoảng 300)
22
2.3.1. Phương pháp tiếp cận bệnh nhõn:
Giai đoạn hồi cứu:
- Từ tháng 10/2007 đến 12/2010
- Thu thập các chỉ số nghiên cứu dựa trên bệnh án ngoại trú của bệnh
nhõn đang được theo dừi tại PKNT.
Giai đoạn tiến cứu:
- Từ tháng 01/2011 đến tháng 06 năm 2011
- Tiếp tục nghiên cứu:
• Bệnh nhân thuộc giai đoạn hồi cứu mà vẫn đang duy trì phác đồ có AZT
• Đánh giá trên những bệnh nhân mới được chỉ định bằng phác đồ có AZT.
2.3.2. Các tiêu chuẩn được sử dụng trong nghiên cứu này
a/ Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân và tiêu chuẩn loại trừ:
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân:
Tất cả bệnh nhõn HIV/AIDS được chỉ định điều trị bằng phác đồ có
AZT, kể cả bệnh nhõn đã được dùng AZT nhưng phải thay thế bằng một
ARV khác vì tác dụng phụ của AZT.
Nghiên cứu được chia thành 2 nhúm:
Nhúm A: bệnh nhõn đang được điều trị bằng phác đồ có AZT
Nhúm B: bệnh nhõn đã từng điều trị bằng phác đồ có AZT nhưng đã
phải ngừng AZT và đã được thay thế bằng một NRTIs khác
Tiêu chuẩn loại trừ: không thu thập số liệu từ những bệnh nhân sau
- Bệnh nhõn mang thai
- Bệnh nhõn bị cao huyết áp không kiểm soát được
23
- Bệnh nhõn có rối loạn về mỏu do các nguyên nhõn khác (không do
HIV hay do liệu pháp AZT)
- Bệnh nhõn bị xuất huyết tiêu hoá
- Bệnh nhõn không đồng ý tham gia nghiên cứu (đối với các bệnh nhõn
tiến cứu)
b/ Các tiêu chuẩn chẩn đoán:
Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm HIV
Bệnh nhõn có kết quả xét nghiệm HIV 3 phương pháp dương tớnh theo
hướng dẫn của Bộ Y tế Việt Nam [1].
Tiêu chuẩn chẩn đoán giai đoạn lâm sàng theo Hướng dẫn Quốc gia
3003 của Bộ Y tế [3]
c/ Tiêu chuẩn chỉ định điều trị ARV bằng phác đồ HAART[3]:
Giai đoạn lõm sàng 1,2: TCD4 ≤ 250 TB/mm
3
Giai đoạn lõm sàng 3: 250 < TCD4 < 350
Giai đoạn lõm sàng 4: bất kể TCD4 là bao nhiêu
Ngoài ra, bệnh nhân cần có chức năng gan, thận bình thường và đang
không mắc bất cứ nhiễm trùng cơ hội nào.
Tiêu chuẩn điều trị bằng HAART có AZT
Bệnh nhân có đủ tiêu chuẩn điều trị ARV và kết quả xét nghiệm công
thức máu có Hb > 80 g/l [3]
2.3.3. Các chỉ số nghiên cứu:
a. Đánh giá một số đặc điểm chung:
- Số bệnh nhõn được đưa vào nghiên cứu
- Phõn bố về tuổi và giới
24
- Phõn bố về nơi sinh sống
- Tớnh chất nghề nghiệp của bệnh nhõn
- Cõn nặng
- Tình trạng nhiễm HIV: đường lây nhiễm, thời điểm chẩn đoán HIV+
- Tiền sử điều trị ART: đã từng sử dụng ART trước khi được điều trị tại
PKNT, các thuốc ARV đã từng uống
- Ngày bắt đầu điều trị ARV tại PKNT
- Phác đồ ART đầu tiên
- Phác đồ ART hiện tại
- Tuân thủ:
o Tốt: uống ≥ 95% số thuốc (quên thuốc ≤ 3 lần/tháng)
o Trung bình: uống từ 85 – 94% (quên thuốc 4-8 lần/tháng)
o Kém: uống < 85% (quên thuốc > 8 lần)
b. Đánh giá hiệu quả điều trị của phác đồ có AZT:
- Đánh giá về lâm sàng:
o Cõn nặng
o Vận động (Làm việc được: L; Đi lại được: Đ; Nằm tại giường: N)
o Các bệnh NTCH
- Đánh giá về cận lâm sàng:
o Miễn dịch học: tổng số tế bào TCD4, %TCD4
o Vi rút học: tải lượng vi rút.
c. Đánh giá các tác dụng phụ của AZT:
Đỏnh giỏ cỏc tác dụng phụ dựa theo khuyến cáo của Bộ Y tế [3].
25