Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

đánh giá kết quả điều trị gãy góc hàm xương hàm dưới theo phương pháp champy phối hợp với nút chỉ thép áp lực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.21 MB, 74 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Chấn thương hàm mặt là một cấp cứu hay gặp trong cuộc sống hằng ngày,
gia tăng đáng kể trong những năm gần đây; trong các gãy xương mặt do chấn
thương thì gãy XHD chiếm tỷ lệ cao nhất (60 - 64%) và trong đó hay xảy ra gãy
ở vựng gúc hàm [28][16]. Góy góc hàm chiếm khoảng 23 – 42% cỏc góy XHD
và thường có tỷ lệ biến chứng cao nhất trong gãy XHD với tỷ lệ được ghi
nhận từ 0 – 32% [35]. Theo M. A. Kuriakose và cộng sự, góy góc hàm có
biến chứng sau phẫu thuật rất cao đến 52% [52].
Ngày nay cùng với xu thế phát triển chung, nhu cầu thẩm mỹ của bệnh
nhân góy gúc hàm ngày càng tăng cao, buộc các phẫu thuật viên có khuynh
hướng phẫu thuật đường trong miệng để điều trị góy gúc hàm ngày càng
nhiều. Gear AJ, Apasova E và Cs (2001) nghiên cứu các phương pháp điều trị
góy gúc hàm từ 127 phẫu thuật viên của AO/ASIF ở Châu Âu và Bắc Mỹ cho
thấy có 84% các phẫu thuật viên sử dụng đường rạch trong miệng và 51 %
KHX theo phương pháp Champy[40]. Đối với góy góc hàm, phương pháp
Champy được ưa chuộng nhất do có nhiều ưu điểm và kết quả tốt, giảm thời
gian phẫu thuật, không có sẹo ngoài da, giảm nguy cơ tổn thương thần kinh,
vận động chức năng hàm dưới sớm, ít biến chứng [35]. Tỷ lệ thành công của
phương pháp Champy khá cao (81 – 95%) và tỷ lệ biến chứng thấp khoảng
3,8% [35],[57].
Tuy vậy, do hình thái học vựng gúc hàm quá phức tạp nên việc KHX
góy góc hàm di lệch theo phương pháp Champy (đường trong miệng) gặp
nhiều khó khăn khi nắn chỉnh hai đầu xương gãy về đúng cấu trúc giải phẫu
và khó giữ được sự nộn ộp tốt giữa hai đầu gãy trước khi bắt nẹp vít để cố
định [24]. Đây là một nguyên nhân quan trọng góp phần làm cho tỷ lệ biến
chứng sau phẫu thuật góy gúc hàm rất cao. Để giải quyết vấn đề này B. – H.
Choi đã đưa ra kỹ thuật nắn chỉnh góy gúc hàm có hiệu quả bằng áp dụng cặp
nắn chỉnh xương cho vựng gúc hàm [23],[24]. Paolo Scolozzi, rồi sau đó là


Brendan A. Kluszynski cũng đã tiến hành áp dụng cặp nắn chỉnh xương đặc
2

hiệu cho góy gúc hàm cho kết quả rất tốt và giảm tỷ lệ biến chứng sau phẫu
thuật [26],[54]. Ở nước ta, hiện nay cũng đã bắt đầu sử dụng cặp nắn chỉnh
xương vựng gúc hàm nhưng chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả.
Đến nay, điều trị tốt nhất cho góy gúc hàm ở trên Thế giới vẫn đang
còn tranh luận. KHX theo phương pháp Champy không thể áp dụng với tất cả
các đường gãy góc hàm và thường phải cố định hai hàm sau phẫu thuật
khoảng 2 tuần. Mặt khác, Suh CH. nhận thấy sau khi hoàn thành KHX theo
phương pháp Champy thường có hiện tượng toác ra ở bờ dưới hai đầu góy
gúc hàm ảnh hưởng đến quá trình liền xương [65]; Để giải quyết vấn đề này
Robert C. Wang đã sử dụng nút chỉ thép áp lực ở bờ dưới hai góy góc hàm để
hỗ trợ cho phương pháp Champy và bệnh nhân không cần cố định hai hàm
sau phẫu thuật, ông kết luận đây là phương pháp đơn giản, nhanh, kết quả tốt
và giảm tỷ lệ biến chứng sau phẫu thuật [61]. Sau đó, nhiều tác giả cũng đã sử
dụng nút chỉ thép áp lực như Jung JH và Cs; Wang R. C. và Cs đều có kết
luận tương tự [48], [70].
Ở nước ta hiện nay, do nhu cầu phẫu thuật đường trong miệng đối với
góy gúc hàm ngày càng nhiều nên phương pháp Champy ngày càng phổ biến,
tuy nhiên do những hạn chế của phương pháp Champy như khó nắn chỉnh hai
đầu gãy, hở đường gãy ở bờ dưới sau khi KHX, phải cố định hai hàm sau
phẫu thuật,… nên phẫu thuật viên còn e ngại việc phẫu thuật điều trị góy gúc
hàm bằng phương pháp Champy. Để giải quyết một phần những hạn chế đó
chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Đỏnh giá kết quả điều trị góy gúc hàm
XHD theo phương pháp Champy phối hợp với nút chỉ thép áp lực” nhằm
2 mục tiêu:
1. Nhận xét kết quả nắn chỉnh xương góy gúc hàm XHD di lệch bằng
cặp nắn chỉnh đặc hiệu vựng gúc hàm
2. So sánh kết quả điều trị phẫu thuật góy gúc hàm XHD giữa phương

pháp Champy đơn thần và Champy phối hợp với một nút chỉ thép áp lực.
Từ đó đề xuất giải pháp hỗ trợ can thiệp cho phương pháp Champy.
3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Lịch sử của phương pháp Champy trong điều trị góy gúc hàm XHD
Trong lĩnh vực điều trị phẫu thuật gãy XHD nói chung và góy gúc hàm
nói chung, năm 1958 có hai trường phái ra đời, trường phái đầu tiên là hiệp
hội nghiên cứu về cố định xương bên trong AO/ASIF (Arbeitgemeinshaft fur
Osteosynthesefragen/Association for the Study of Internal Fixation) thành lập
tại Biel, Thụy sĩ; hiệp hội này nhấn mạnh sự cần thiết của cố định xương bên
trong vững chắc, cùng với tạo sức ép lên hai đầu xương gãy để đẩy mạnh quá
trình liền xương nguyờn phỏt và đã đề ra những nguyên lý cơ bản của kết hợp
xương mở. Trường phái thứ hai, Champy, Michelet chủ trương dùng nẹp nhỏ
không tạo sức ép bán cứng đặt dọc theo đường KHX lí tưởng trên XHD
[21],[35].
Năm 1973, Michelet và cộng sự bắt đầu thử nghiệm với nẹp vít nhỏ
không tạo sức ép bắt vít một bản xương trong điều trị gãy XHD. Sau đó,
Champy và cộng sự sử dụng mô hình đòn cân bằng đơn giản Cantilever để
nghiên cứu và kết luận bờ trên của XHD phải chịu lực căng giãn, xoay ngoài
và bờ dưới thì chịu lực nộn ộp. Vựng chuyển tiếp giữa vùng căng giãn và nộn
ộp được xem như là đường cân bằng lực, nó chạy dọc theo thần kinh huyệt
răng dưới. Dựa trên những phát hiện về cơ sinh học này, Champy đề nghị sử
dụng một nẹp vít nhỏ không tạo sức ép đặt theo bờ trên đối với gãy góc hàm
XHD (phương pháp Champy) [41].
Năm 1983, Gerlach và Cs, nghiên cứu về KHX theo phương pháp
Champy và kết luận đây là phương pháp rất tốt. J .I. Cawood (1985) điều trị
100 trường hợp góy gúc hàm bằng phương pháp Champy và kết luận nhóm

4

bệnh nhân điều trị bằng ORIF và không cố định hai hàm thì ít xảy ra biến
chứng hơn nhóm đối chứng [39],[53].
Năm 1998, Robert C. Wang và Cs nghiên cứu áp dụng phương pháp Champy
có phối hợp với nút chỉ thép áp lực trong điều trị góy gúc hàm và họ kết luận
đây là phương pháp đơn giản, nhanh, hiệu quả và làm giảm tỉ lệ biến chứng
sau phẫu thuật [61]. Sau đó, Wang R. C và Cs (1998); Jung JH và Cs (2003),
cũng đã sử dụng nút chỉ thép áp lực trong điều trị góy gúc hàm XHD và đều
kết luận đây là phương pháp đơn giản và có kết quả tốt [70],[48]. Gerlach.
K.L, Schwarz.A (2004) đánh giá sự kháng lại lực tải của các đường góy gúc
hàm XHD khi điều trị bằng KHX nẹp vít nhỏ theo phương pháp Champy và
kết luận đây là phương pháp an toàn và cố định xương đủ vững chắc.
Ở Việt Nam, Phạm Văn Liệu (2008) nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học
góy gúc hàm XHD và so sánh hai phương pháp điều trị góy gúc hàm. Trong
đó so sánh giữa phương pháp điều trị phẫu thuật KHX bằng 2 nẹp vít nhỏ và
phương pháp chỉnh trong miệng bằng buộc chỉ thép [12]. Chưa tìm thấy
nghiên cứu nào đánh giá kết quả điều trị góy gúc hàm XHD bằng phương
pháp Champy.
1.2. Đặc điểm giải phẫu vựng gúc hàm
1.2.1. Mặt ngoài: liên quan với Da, mô dưới da. Cơ bám da cổ: các sợi trung
gian và sau chạy từ dưới lên trên, đi vào trong trong mô dưới da, bắt chéo XHD
và phần trước của cơ cắn rồi một phần bám vào góc hàm và bờ dưới thân XHD,
phần còn lại chạy tới bám vào da phần dưới của mặt. Cực dưới tuyến mang: nằm
giữa góc hàm và cơ ức đòn chũm [6]. Cân cổ sâu. Cơ cắn: bám tận vào mặt
ngoài góc hàm, nửa trên ngành lên, mỏm vẹt.
1.2.2. Mặt trong: có cơ chân bướm trong bám vào phần sau dưới mặt trong
của góc hàm và ngành lên XHD [38].
5




1.2.3. Phía dưới: liên quan với phần sau của tam giác dưới hàm dưới.
* Tam giác dưới hàm dưới được giới hạn bởi: cạnh trước là bụng trước
cơ nhị thân; cạnh sau: bụng sau cơ nhị thân và cơ trõm múng; cạnh trên hay
đáy tam giác: bờ dưới góc hàm và thân XHD [2]
* Phần sau của tam giác dưới hàm dưới: có tuyến dưới hàm nằm trong
khoang dưới hàm được giới hạn như sau:
+ Thành trên ngoài: là mặt trong của thân XHD, có hố dưới hàm và
phần dưới của cơ chân bướm trong, ở sỏt gúc hàm [2].
+ Thành dưới ngoài: gồm các lớp nông (da, mô dưới da, cơ bám da cổ,
tĩnh mạch mặt và cỏc nhỏnh cổ dây thần kinh mặt), rồi đến lỏ nụng mạc cổ.
+ Thành trong: liên quan với mặt sâu của tuyến, gồm 3 lớp cơ trờn
múng lần lượt từ nông vào sâu gồm: cơ nhị thân và cơ trõm múng, cơ hàm
móng, cơ móng lưỡi và cơ cằm móng [4],[41].
1.2.4. Nhánh bờ hàm dưới của dây thần kinh mặt
Nhánh bờ hàm dưới là một trong số cỏc nhỏnh tận của thần kinh mặt,
nó chạy ra trước, xuống dưới để đi đến chi phối vận động cho các cơ mặt ở
môi dưới và cằm, nó là một chướng ngại giải phẫu quan trọng nhất khi thực
hiện đường rạch dưới hàm đối với XHD [38].
Hình 1.1: Mặt cắt đứng ngang qua đường rạch
dưới hàm ở vùng góc hàm XHD:
PM: cơ bám da cổ
SLDCF: lớp bề mặt cân cổ sâu
SG: tuyến dưới hàm
P: màng xương
Mand: xương hàm dưới
FA: động mạch mặt
MM: cơ cắn
ZA: cung tiếp

VII: nhánh bờ hàm dưới của dây thần
kinh mặt.(Theo Edward Ellis III, Michael F.
Zide, pp.130 [38])
6

Nhiều nghiên cứu đã cho thấy rất ít trường hợp có nhánh bờ hàm dưới
đi qua dưới bờ dưới XHD. Trong 100 trường hợp phẫu tích cổ điển nửa mặt
của Dingman và Grabb, nhánh bờ hàm dưới nằm dưới bờ hàm dưới tối đa
1cm chiếm khoảng 19% các trường hợp. Trước điểm mà nhánh bờ hàm dưới
bắt chéo động mạch mặt, toàn bộ các phẫu tích cho thấy nhánh thần kinh này
nằm phía trên bờ dưới XHD [38].
Theo Ziarah và Atkinson thì số trường hợp có nhánh bờ hàm dưới
chạy dưới bờ dưới XHD chiếm tỷ lệ cao hơn. Trong 76 trường hợp phẫu tích
nửa mặt, 56% có nhánh bờ hàm dưới chạy dưới bờ dưới đến tận các mạch
máu mặt và có 6% nhánh thần kinh này tiếp tục đi xa hơn đạt tối đa là 1,5
cm trước khi nó quay lên phía trên để bắt ngang XHD. Khoảng cách xa nhất
giữa nhánh bờ hàm dưới và bờ dưới XHD là 1,2 cm. Chớnh vỡ những khám
phá này mà hầu hết các phẫu thuật viên khuyến cáo rằng đường rạch da và
búc tỏch sõu phải cách bờ dưới XHD ít nhất là 1,5 cm. Theo Dingman và
Grabb thì chỉ có 21% các trường hợp có một nhánh bờ hàm dưới nằm giữa
góc hàm XHD và mạch máu mặt (Hình 1.3); 67% có hai nhánh bờ hàm dưới
(Hình 1.2); 9% có 3 nhánh và 3% có 4 nhánh [38].

Hình 1.2 Hình 1.3
7

Hình 1.2: Phẫu tích một bên mặt cho thấy mối liên quan giữa tuyến
mang tai, tuyến dưới hàm, động mạch mặt (FA) và tĩnh mạch mặt (FV) và
nhánh bờ hàm dưới của dây thần kinh mặt (VII). Có hai nhánh bờ hàm dưới
trờn hỡnh này, một nhánh chạy ở phía dưới của bờ dưới XHD. (Theo Edward

Ellis III, Michael F. Zide, pp.124, [38]).
Hình 1.3: Phẫu tích một bên mặt cho thấy mối liên quan giữa tuyến
mang tai, tuyến dưới hàm, động mạch mặt, tĩnh mạch mặt, tĩnh mạch sau hàm
dưới (RV) và nhánh bờ hàm dưới của dây thần kinh mặt (VII) (tuyến mang tai
đã được lấy bỏ). Chỉ có một nhánh bờ hàm dưới trờn hỡnh này, nó ở phía trên
của bờ dưới XHD. (Theo Edward Ellis III, Michael F. Zide, pp.125, [38]).
1.3. Cơ sở khoa học cho việc áp dụng phương pháp Champy và nút chỉ thộp
ỏp lực (tension wire loop) trong điều trị góy gúc hàm [46]:
1.3.1. Mô tả thí nghiệm: nghiên cứu ở phòng thí nghiệm và trên lâm sàng
Hơn 3 thập kỷ qua, hệ thống nẹp vớt cú tạo sức ép động học lên hai đầu
gãy và nẹp vít nhỏ được sử dụng rất thành công trong điều trị gãy XHD. Để
hình thành tiêu chuẩn về loại, số lượng, vị trí và đặc tính cơ học của hệ thống
nẹp vít cần phải phân tích được các lực đi qua đường gãy. Những nghiên cứu
toán học trên không gian ba chiều của XHD trước đây đã kết luận lực đi qua
đường gãy XHD rất nhiều, phức tạp và chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi vị trí các
điểm cắn và vị trí của đường gãy. Để xác định kết quả chính xác về mặt toán
học của các loại lực này J.Tams và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu ở phòng
thí nghiệm với mục tiêu xác định và so sánh mô men xoắn và uốn đi qua
đường gãy XHD đối với những vị trí khác nhau của các điểm cắn và các vị trí
khác nhau của đường gãy XHD.
Trên mô hình thí nghiệm XHD, các tác giả đã cắt ngang qua vựng gúc
hàm (như đường gãy) ở phía xa của răng khôn hàm dưới, tạo đường góy vựng
cành ngang qua răng số 5, 6 và đường góy vựng cằm qua hai răng cửa giữa.
8

Để hở một khoảng 3 mm giữa hai đầu gãy sau khi đường gãy được KHX bằng
một nẹp vít theo đường KHX lí tưởng của Champy (hình 1.4).


XHD được đặt vào khung đỡ, sơ đồ minh họa mô hình kết cấu ở phòng thí

nghiệm như sau: (Hình 1.5)


((Theo J. Tams và Cs, pp.384 [46])


Hình 1.4: Đường gãy góc hàm (I), cành
ngang (II) và vùng cằm (III) với khoảng
hở giữa hai đầu gãy 3mm. Một nẹp được
KHX cho đường gãy cành ngang. Đối với
mỗi vị trí gãy nẹp được đặt vào giữa mặt
ngoài của XHD (đường không liên tục).
(Theo J. Tams và Cs, pp.384 [46])
9

1.3.2. Tính mô men xoắn và mô men uốn (bending and torsion moments)
trong góy gúc hàm XHD:
Đối với mỗi điểm cắn, cần tính di lệch trung bình. Những góc xoắn và
uốn được tính bằng cách phân chia mức độ di lệch bởi khoảng cách giữa điểm
xoay của nẹp và bộ phận cảm biến (sensor)
Mô men uốn (Mb) được tính theo công thức:
Mb =
I = ; : góc uốn; E: mô đun đàn hồi của chất liệu cấu tạo nẹp; I: mô
men quán tính diện tích của tiết diện cắt ngang (cross-sectional moment of
inertia); l: chiều dài hiệu quả của nẹp.
Mô men xoắn (Mt) được tính theo công thức:
Mb =
G = ; J: mô men quán tính độc cực ( polar moment of inertia); : góc
xoay; l: chiều dài hiệu quả của nẹp; : tần số Poisson (Poisson’ ratio).
Xác định lực cắn trên bệnh nhân ở mỗi điểm cắn dựa vào việc điều

chỉnh lực cắn cố định (5 Nui-tơn) theo tỷ lệ mà J. Tams, J P.van Loon và
cộng sự xác định qua nghiên cứu trên bệnh nhân. Qua nghiên cứu, các tác giả
này đã xác định được trong giai đoạn liền xương, lực cắn tối đa trung bình
Hình 1.5: A: XHD đặt trong khung đỡ; S: bộ phận cảm biến có điện trở
từ tính; trên nhánh L được bắt vít vào đoạn gãy phía sau đường gãy ở
mức các răng; M: nam châm được gắn vào đoạn gãy phía trước cũng ở
cùng độ cao. B: Di lệch của hai đầu đoạn gãy, bao gồm: mô men uốn
(B) vòng quanh trục vuông góc với bề mặt xương, mô men xoắn (T) vòng
quanh trục chiều dài của nẹp. Một cảm biến ghi nhận di lệch uốn và một
cảm biến khác ghi nhận di lệch xoắn.
10

(average maximum bite force) ở vùng răng cửa, răng nanh, răng tiền hàm và
răng hàm lớn với tỷ lệ tương ứng là: 0,7 : 0,8 : 1,7 : 1,9.
Lực cắn (Nui – tơn)

Vị trí điểm cắn
(m: răng hàm; p: răng tền hàm; ca: răng nanh; inc: răng cửa)
Hình 1.6: Tái tạo lại lực cắn (đường nét đứt) của mỗi điểm cắn trên bệnh
nhân. Trung bình của lực cắn được tái tạo trên bệnh nhân bằng với lực cắn
cố định (5 Nui-tơn). (Theo J. Tams và Cs, pp.385 [46])
1.3.3. Ảnh hưởng của mô men xoắn và uốn lên sự di lệch của hai đầu gãy:
hướng của mô men uốn và mô men xoắn được mô tả ở sau đây (Hình 1.7)

Mô men uốn (bending moment)
11


Mô men xoắn (torsion moment)
Hình 1.7: Di lệch của đoạn gãy phía trước và phía sau đối với đường gãy là

do hậu quả của mô men xoắn và mô men uốn dương tính hay âm tính. (Theo
J. Tams và Cs, pp.385 [46])
- Mô men uốn dương tính (positive): được xác định bằng sự gia tăng khoảng
cách hay sức căng giữa hai đầu đoạn gãy ở vùng mào xương ổ răng (bờ trên)
và đồng thời làm giảm khoảng cách hay sự nộn ộp ở bờ dưới của XHD. Mô
men uốn âm tính (negative) thì ngược lại.
- Mô men xoắn dương tính: gây di lệch bờ dưới của đoạn gãy phía sau về phía
lưỡi phối hợp với di lệch bờ dưới của đoạn gãy phía trước ra phớa mỏ. Mô
men xoắn âm tính thì ngược lại.
1.3.4. Kết quả nghiên cứu và ứng dụng vào điều trị góy gúc hàm XHD:
J. Tams, J P. Van Loon và cộng sự qua nghiên cứu kết luận:
- Mô men uốn trong góy gúc hàm XHD với lực cắn cố định (5 Niu -
tơn): mô men uốn dương tính cao (toác ra ở bờ trên), cao gấp hơn 4 lần so
với mô men uốn âm tính, có giá trị tối đa khi lực cắn đặt ở vùng răng nanh
bên đối diện (bờn khụng góy). Mô men uốn trong góy gúc hàm XHD với lực
cắn trên bệnh nhân: vẫn có mô men uốn dương tính cao, cao gấp 3 lần so với
mô men uốn âm tính. Do góy gúc hàm có mô men uốn dương tính cao nên
12

thường bị toác ra ở bờ trên, để chống lại sự toác ra này cần phải đặt một nẹp ở
bờ trên XHD vựng gúc hàm. Đây là cơ sở của việc KHX góy gúc hàm XHD
theo phương pháp Champy tức là đặt một nẹp vít nhỏ ở bờ trên XHD để
chống lại mô men uốn dương tính này.
- Mô men xoắn trong góy gúc hàm XHD với lực cắn cố định (5 Niu -
tơn) là nhỏ nhất . Mô men xoắn trong góy gúc hàm XHD với lực cắn trên
bệnh nhân vẫn nhỏ nhất. Do góy gúc hàm có mô men xoắn nhỏ nhất nên nếu
đã nắn chỉnh tốt hai đầu gãy và đặt một nẹp ở bờ trên XHD vựng gúc hàm thì
khả năng di lệch ở bờ dưới của hai đầu đoạn gãy là rất ít. Mặt khác, trong góy
gúc hàm, giá trị tối đa của mô men uốn cao gấp 12 lần so với mô men xoắn, vì
vậy trong điều trị góy gúc hàm chủ yếu chống lại mô men uốn. Vì vậy, trong

góy gúc hàm XHD, sau khi đã KHX theo phương pháp Champy thì chỉ cần
phối hợp thêm 1 nút chỉ thép áp lực ở bờ dưới XHD là đủ vững chắc do vùng
này mô men xoắn nhỏ nhất nên khả năng di lệch ít xảy ra, mục đích của nút
chỉ thép áp lực là để chống lại sự toác ra ở bờ dưới sau KHX (chống lại mô
men uốn âm tính).
- Ngoài ra, qua nghiên cứu này còn cho thấy vị trí góy trờn XHD và vị
trí các điểm cắn có vai trò quan trọng trong việc xác định lực tác động lên
đường gãy. Sự di lệch hai đầu gãy là do hậu quả của sự biến dạng nẹp (độ đàn
hồi) sau khi áp dụng lực cắn. Vì vậy, để hạn chế sự biến dạng nẹp cần: chọn
nẹp có độ cứng cao (độ đàn hồi thấp), bắt vít để cố định nẹp vào xương phải
chắc chắn, những vùng xương bị mất chất hoặc biến dạng cần phải được thu
hẹp để phần nẹp bắt cầu qua vị trí vựng góy càng ngắn càng tốt. cần phải nắn
chỉnh hai đầu gãy tốt để khoảng hở giữa hai đầu gãy không được vượt quá 3
mm và cần sử dụng lực cắn tối thiểu sau phẫu thuật KHX.
- Trong đường góy gúc hàm để trung hòa được mô men uốn dương tính
làm đường góy toỏc ra ở bờ trên XHD (vùng xương ổ răng) và nộn ộp ở bờ
13

dưới thì nẹp vít cần phải được đặt ở vị trí “cao” tức là vùng xương ổ răng.
Qua nghiên cứu này cho thấy trong góy gúc hàm mô men uốn dương tính lớn
nhất cao gấp 3 lần so với mô men uốn âm tính lớn nhất, 10 trong số 13 điểm
cắn có mô men uốn dương tính với giá trị cao hơn so với mô men uốn âm
tính. Nếu KHX góy gúc hàm bằng một nẹp vớt thỡ nờn đặt ở vị trí cao thí dụ
như đặt ở mặt má của đường chéo ngoài XHD (phương pháp Champy). Nếu
KHX bằng 2 nẹp vớt thỡ nờn đặt một nẹp ở vị trí cao (bờ trên) và nẹp kia đặt
ở bờ dưới XHD.
- Trong điều trị góy gúc hàm XHD, không nhất thiết phải rõ ràng trong
việc KHX bằng 1 nẹp hay 2 nẹp mà điều quan trọng là cần phải nghiên cứu
chi tiết về đặc điểm của các đường góy. Cỏc lực đi qua đường gãy được
truyền một phần qua hai đầu gãy và một phần qua nẹp vít được KHX, vì vậy

lực tác động lên nẹp không phải là lực đi qua đường gãy. Đối với đường gãy
đơn thuần, mặt gãy hình răng cưa, sau khi nắn chỉnh về đúng cấu trúc giải
phẫu thì sự vững ổn của hai đầu gãy có thể trung hòa được một phần mô men
xoắn vì thế chỉ cần KHX bằng 1 nẹp vít theo phương pháp Champy là đủ
vững chắc. Đối với đường gãy mà mặt gãy phẳng thì sau nắn chỉnh, sự vững
ổn giữa hai đầu góy kộm cần phải sử dụng nẹp sao cho chịu được phần lớn
lực đi qua đường gãy do đó ngoài KHX theo Champy cần phải hỗ trợ thêm
phương tiện KHX. Đối với góy gúc hàm phối hợp nhiều đường góy khỏc của
XHD hoặc gãy vụn thỡ nờn dựng 2 nẹp (hoặc nẹp vít tái tạo XHD).
1.4. Nút chỉ thép áp lực (tension wire loop)
1.4.1. Cấu tạo của nút chỉ thép áp lực: gồm hai thành phần:
- Hai vít: có thể bằng kim loại không rỉ (stainless-steel screws), loại
đường kính 2.0mm, độ dài 4 – 6 mm; Hoặc bằng titanium (vít neo chặn) tự
xoắn vào xương, loại đường kính 1.6 – 2.0mm, dài 4 – 6mm. Hai vít này được
bắt vào hai đầu xương gãy.
14

- Nút chỉ thộp: dựng chỉ thép số 2, buộc vòng quanh dưới hai đầu vít
(hoặc trong khe của đầu vít neo chặn) và siết chặt tạo sức ép lên hai đầu góy
giỳp nắn chỉnh và cố định hai đầu xương gãy.



Hình 1.8: (A): Sử dụng vít neo chặn (của hãng Dual Top) trong nút chỉ thép
áp lực; (B): KHX góy gúc hàm XHD bằng nút chỉ thép áp lực sử dụng 2 vít
kim loại không rỉ (theo Robert C. Wang, pp.451,[61]).
1.4.2. Sơ đồ và phân tích lực quay trờn nút chỉ thép áp lực
Vít R O R Nút chỉ thép

M M

Hình 1. 9. Phân tích lực quay của hai đầu gãy khi KHX nút chỉ thép áp
lực (theo Robert C. Wang, pp.450,[61]).
Lực quay (Torque) = F ì R
Phía lưỡi
Phía má
F
F
Nút chỉ thép
áp lực
A
B
15


Trong đó:
O: trục quay (Axis of Rotation)
F: lực do nút chỉ thép khi xoắn tạo ra
R: cánh tay mô men, được tính từ O vuông góc đến véc tơ lực F
M: lực co kéo cơ phía lưỡi trên bản XHD phía lưỡi.
Nút chỉ thép áp lực có lực quay lớn sẽ làm cho đường góy phớa lưỡi bị
hở (toác) ra ảnh hưởng đến quá trình liền xương. Vì vậy, để giảm tối đa lực
quay cần giảm tối đa cánh tay mô men (R) bằng cách: hai vít phải được bắt
trên mặt xương phẳng hoặc lồi, nút chỉ thép phải đặt sát với bề mặt xương.
1.4.3. Kỹ thuật thực hiện nút chỉ thép áp lực
- Khớp cắn được nắn chỉnh về đúng khớp cắn trung tâm bằng cách sử
dụng cung Tiguerstedt hoặc cỏc nỳt Ivy hai hàm và cố định hai hàm.
- Khoan 2 lỗ ở hai đầu gãy bằng cách sử dụng trocat xuyên qua má, sử
dụng mũi khoan loại đường kính 1.5mm với độ dừng ở 6 mm (để bắt vít một
bản xương), lỗ khoan cách đường gãy khoảng 4 – 6 mm, vị trí hai lỗ phải nằm
trên đường thẳng vuông góc với đường gãy và nằm trên bề mặt xương phẳng

hoặc lồi. Qua trocat, bắt mỗi đầu gãy 1 vít kim loại không rỉ (dùng trong phẫu
thuật hàm mặt) vào vị trí đã khoan, loại có đường kính 2.0mm và độ dài 4 – 6
mm, không vặn hết chiều dài của vít mà để lại khoảng 1,5mm cho buộc vòng
chỉ thép số 2. Nếu sử dụng vít neo chặn, loại đường kính 1.6 – 2.0 mm, dài 4
– 6mm, thì không cần khoan lỗ trước mà khi bắt vít sẽ tự xoắn vào xương.
- Từ đường trong miệng dùng sợi chỉ thép số 2 vòng dưới hai đầu vít
(hoặc vào khe ở đầu vít neo chặn) đã bắt của đoạn gãy phía xa, sử dụng hai đầu
của sợi chỉ thép để kéo nắn chỉnh đoạn gãy phía xa cho đúng vị trí giải phẫu.
Sau đó, vòng chỉ thép qua hai đầu vít và xoắn nút chỉ thép lại, vừa xoắn vừa
kéo để cho bờ dưới hai đầu gãy khít lại giúp nắn chỉnh và cố định hai đầu gãy.
16

- Nếu sử dụng vít kim loại không rỉ thì sau khi xoắn nút chỉ thép cần
vặn thờm vớt để ộp nỳt chỉ thộp sỏt bề mặt xương. Do đầu vít hình nón nên
khi vặn thêm sẽ làm cho nút chỉ thép chặt hơn và hai đầu góy khớt sỏt hơn.
1.4.4. Kết quả lâm sàng của nút chỉ thép áp lực trong KHX gãy XHD
Bảng 1.1. Kết quả lâm sàng của nút chỉ thép áp lực trong KHX gãy XHD
Tên tác giả
Cỡ mẫu
Tỷ lệ thành công
Robert C. Wang và Cs (1998) [61]
n = 33
100%
Jung JH, Kyeong HS (2003) [48]
n = 63
100%
Wang R. C.; Keech D. R. (1998) [70]
n = 29
98%


1.5. Cơ sinh học vựng gúc hàm lên quan đến điều trị phẫu thuật góy gúc hàm
XHD theo phương pháp Champy
1.5.1. Vấn đề cơ sinh học vựng gúc hàm XHD
Mục đích của các phương pháp KHX khác nhau áp dụng cho điều trị
phẫu thuật góy gúc hàm nói riêng và gãy XHD nói chung là chống lại các lực
làm di lệch hai đầu xương gãy trong quá trình liền xương. Do đó, những hiểu
biết về cơ sinh học của vựng gúc hàm sẽ đảm bảo cho việc đặt phương tiện
kết hợp xương ở vị trí thuận lợi nhất về mặt cơ học để mang lại hiệu quả cố
định hai đầu xương gãy một cách tối ưu [41].
Những vùng khác nhau của XHD chịu tác động của các lực có độ lớn
và hướng khác nhau. XHD thường được xem như là một dạng đòn bẩy loại ba
với lồi cầu là điểm tựa, lực kéo lên của các cơ nâng hàm có vai trò như lực tác
động, lực kéo xuống của các cơ hạ hàm và lực nén xuống hệ răng hàm dưới
khi nhai gọi là trở lực. Với loại đòn bẩy này thỡ vựng mặt trên cánh tay đòn
(hay vùng xương ổ răng, bờ trên XHD) sẽ là vùng bị kộo gión, vựng dưới
cánh tay đòn (hay vùng bờ dưới XHD) là vùng bị nén ộp, cũn đường trung
17

gian (hay đường chéo ngoài và trong) là đường mà qua đó vựng nộn ộp bắt
đầu chuyển sang kộo gión và ngược lại [64].
Dựa trên cơ sở này mà Champy và Cs đã đề xuất phương pháp đặt một
nẹp vít nhỏ ở bờ trên XHD trong cố định góy gúc hàm XHD có kết quả rất tốt
do chống lại lực kéo của các cơ nhai, trung hòa có hiệu quả được các lực, duy
trì được sự đóng kín khoảng hở giữa hai đầu đoạn gãy [41].


Hình 1.10: Các lực chức năng tác động vào vựng gúc hàm và vựng thõn
XHD khi còn nguyên vẹn (A), sau khi có đường góy gúc hàm (B), đặt một nẹp
vít nhỏ dọc theo bờ trên (C, E) (phương pháp Champy), đặt một nẹp vít nhỏ dọc
theo bờ dưới (D). (Theo Edward Ellis III, Michael Miloro, pp.373 – 376 [41])

1.5.2. Cố định vững chắc về mặt chức năng (functionally stable fixation)
và phương pháp Champy trong phẫu thuật điều trị góy gúc hàm
Có nhiều dạng của cố định không vững chắc đã được công nhận và có
một dạng chuyển tiếp giữa cố định vững chắc và cố định không vững chắc, đó
là dạng cố định không vững chắc mà nó đủ mạnh để cho phép hoạt động của
bộ xương mặt trong giai đoạn liền xương nhưng lại không đủ mạnh để ngăn
ngừa sự di động giữa hai đầu đoạn gãy, được gọi là cố định vững chắc về mặt
E

A

B

C

D

18

chức năng, nghĩa là nó đủ vững chắc để cho phép hoạt động chức năng mặc
dù nó không đủ vững chắc cho sự liền xương trực tiếp. Trong phẫu thuật hàm
mặt có nhiều hệ thống cố định xương được sử dụng nó không thật sự vững
chắc mà chỉ vững chắc về mặt chức năng [39].
Vào cuối những năm 1950, Hiệp hội nghiên cứu về cố định trong tại
Thụy Sĩ (AO/ASIF) đã công bố 4 nguyên tắc về cơ sinh học trong xử lý gãy
xương là:
 Nắn chỉnh đúng về cấu trúc giải phẫu.
 Phương pháp mổ không sang chấn bảo tồn được sự sống của xương và
mô mềm
 Cố định trong vững chắc giúp cho đơn vị xương vững chắc về mặt cơ học

 Tránh được tổn thương mô mềm và “bệnh do gãy xương” bằng cách
cho đơn vị bộ xương vận động không đau, vận động chức năng.
Những nguyên tắc này cũng là mục đích của cố định xương vững chắc.
Sau việc khám phá ra cố định vững chắc về mặt chức năng được công
nhận, AO/ASIF đã thay đổi nguyên tắc cơ sinh học thứ ba từ cố định trong
vững chắc thành cố định vững chắc về mặt chức năng [41],[53].
Trong điều trị phẫu thuật góy gúc hàm XHD, phương pháp Champy là
đặt một nẹp vít cỡ nhỏ dọc theo bờ trên XHD là phương pháp cố định vững
chắc về mặt chức năng. Champy và Cs bằng cách thực hiện nhiều nghiên cứu
lâm sàng đã chứng minh được vị trí ổn định nhất để có thể đặt nẹp là “ đường
kết hợp xương tối ưu” đó là gồm một đường chính chạy ngay dưới cỏc chúp
răng, đi trên phần phẳng phía trên của đường chéo ngoài chạy ra phía sau đi
theo bờ trước của ngành lên XHD; từ đó nguyên tắc kết hợp xương hàm dưới
19

bằng hệ thống nẹp vít nhỏ được đặt như sau: đường góy gúc hàm đặt một nẹp
vớt vựng xương ổ răng hoặc bản ngoài- phía cao, đường góy thõn XHD đặt 1
nẹp vớt vựng xương ổ răng - trên đường chéo ngoài, đường góy vựng cằm hoặc
cạnh cằm đặt một nẹp vớt vựng xương ổ răng và một nẹp phía bờ nền XHD
[38],[41].


Theo Champy và Cs, nẹp đặt ở vị trí bờ trên XHD là có lợi nhất về mặt
cơ sinh học của vựng gúc hàm, một nẹp nhỏ có thể trung hòa được các lực
chức năng như trung hòa được lực làm tách rời hai đầu đoạn gãy hay lực căng
trên XHD, đảm bảo được lực tự nộn ộp xảy ra trong khi thực hiện chức năng
nhai và cho phép XHD vận động chức năng trong suốt quá trình liền xương.
Tuy nhiên, phương pháp này ổn định về mặt chức năng nhưng sự di động giữa
hai đầu đoạn gãy có thể xảy ra ở một chừng mực nào đó trong quá trình XHD
vận động chức năng; vì thế nú khụng phải là cố định vững chắc [41],[53].

Mặc dù, phương pháp Champy cho phép sự chuyển động giữa hai đầu
đoạn gãy nhưng kết quả lâm sàng rất tốt, điều đó cho thấy rằng sự bất động
tuyệt đối hai đầu đoạn gãy là không cần thiết cho việc đem lại kết quả mong
muốn của điều trị phẫu thuật góy gúc hàm mà chỉ cần cố định bán vững chắc
Hình 1.11: Phương pháp Champy
bằng sử dụng một nẹp vít nhỏ, không
tạo sức ép 2.0mm và bắt vít một bản
xương để cố định nẹp, tránh gây tổn
thương răng bên cạnh và bó mạch thần
kinh huyệt răng dưới.(Theo Edward
Ellis III, pp.373 [55] và David M.
Saito, pp.125 [35])
20

1.5.3. Kết quả của phương pháp Champy trong KHX góy gúc hàm
Bảng 1.2. Kết quả của phương pháp Champy trong KHX góy gúc hàm
Tác giả
Cỡ mẫu
Tỷ lệ thành
công
Biến
chứng
Idelmo R. Garcia Junior (2008) [43]
n = 21
85,71%

Fox and Kellman (2003) [20]
n = 68
82%
18%

Kay-Uwe Feller, Matthias Schneider
(2003) [50]
n = 175
85%
15%
Lamphier et al (2003) [57]
n = 65
75,6%
24,4%
Jason Potter, Edward Ellis III (1999)
[44]
n = 51
84,8%

Ellis and Walker (1996) [36]
n = 81
97,5%
2,5%
Ellis and Walker (1994) [57]
n = 54
72%
28%

1.6. Lực cắn của bệnh nhân sau KHX theo phương pháp Champy [49].
1.6.1. Lực cắn ở bệnh nhân giảm nhiều sau điều trị KHX góy góc hàm theo
phương pháp Champy: là yếu tố giúp cho việc liền đường gãy mà không có
biến chứng.
Từ khi Champy giới thiệu phương pháp KHX bằng nẹp vít nhỏ trong
điều trị gãy XHD thì hiệu quả và ưu thế của phương pháp này đã được chứng
minh qua nhiều nghiên cứu lâm sàng. SCHIERLE điều trị 31 bệnh nhân góy

gúc hàm có sử dụng phương pháp KHX bằng 1 nẹp vít nhỏ và phương pháp
KHX bằng 2 nẹp vít nhỏ, họ kết luận kết quả của 2 phương pháp này không
có sự khác biệt. Ellis và Walker điều trị KHX theo phương pháp Champy 81
trường hợp góy gúc hàm XHD thấy chỉ có 2 trường hợp biến chứng, tỷ lệ biến
chứng này thấp nhất so với những nghiên cứu trước đây có sử dụng các
21

phương pháp KHX khác nhau, từ đó họ kết luận lực cắn giảm sau khi điều trị
KHX có thể là yếu tố giúp cho việc liền đường gãy mà không có biến chứng.
1.6.2. Thực hiện nghiên cứu trên lâm sàng:
Trên cơ sở đó K.L. Gerlach và cộng sự tiến hành nghiên cứu để đánh
giá sự kháng lại lực tải của góy gúc hàm XHD khi điều trị KHX bằng nẹp vít
nhỏ theo phương pháp Champy. Nhóm can thiệp gồm 22 bệnh nhân góy gúc
hàm XHD được điều trị KHX bằng nẹp vít nhỏ theo phương pháp Champy và
không cố định hai hàm sau phẫu thuật. Nhóm chứng gồm 15 bệnh nhân. Đo
lực cắn của bệnh nhân bằng phương pháp điện (electric method) thông qua
máy biến năng hiệu chỉnh (calibrated transducer) với giá trị đo bằng Niu-tơn
(N), lực đo tối đa đến 460 N. Đo vào các thời điểm sau sau phẫu thuật 1, 2, 3,
4, 5 và 6 tuần. Kết quả nghiên cứu cho thấy lực cắn tối đa trung bình ở nhóm
chứng giữa 2 răng cửa giữa 185,3 ± 81,3 N, giữa 2 răng nanh 191,2 ± 82,88
N, không có sự khác biệt giữa các răng hàm bên trái (250,7 ± 75,9 N) và các
răng hàm bên phải (211,9 ± 109,3N) với p = 0,386. So sánh với các giá trị đo
được ở nhóm can thiệp cho thấy lực cắn của bệnh nhân lúc 1 tuần sau phẫu
thuật giảm có ý nghĩa thống kê, chỉ bằng 31% lực cắn tối đa của bệnh nhân ở
nhóm chứng, sau đó tăng nhẹ vào tuần thứ 2, thứ 3 sau phẫu thuật (38% và
37%), nhưng đến 4 tuần sau phẫu thuật sự giảm không có ý nghĩa thống kê
(68%), đến tuần thứ 5 lại giảm có ý nghĩa (27%) và tuần thứ 6 thì tăng trở lại
lúc này lực cắn của bệnh nhân nhóm can thiệp bằng 58% lực cắn bệnh nhân ở
nhóm chứng. Sau đây là bảng ghi nhận trung bình lực cắn của 22 bệnh nhân
góy gúc hàm được điều trị KHX bằng nẹp vít nhỏ theo phương pháp Champy,

mức ý nghĩa chỉ ra sự khác biệt đối với những giá trị đo được ở nhóm chứng
22


Bảng 1.3: Lực cắn trung bình của bệnh nhân sau KHX (phương pháp
Champy) ở cỏc vựng răng khác nhau (Theo K. L. Gerlach và Cs pp.346 [49])
So sánh lực cắn trung bình giữa nhóm chứng (15 bệnh nhân) và nhóm
can thiệp (22 bệnh nhân) điều trị góy gúc hàm XHD bằng KHX theo phương
pháp Champy (Sơ đồ 1.1)
Lực cắn (N)

Nhóm chứng 1 2 3 4 5 6
Số tuần sau phẫu thuật

Sơ đồ 1.1. So sánh lực cắn trung bình giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng
(Theo K. L. Gerlach và Cs, pp.347 [49])
23

Dựa trên những đánh giá thực nghiệm sử dụng mô hình toán học không
gian 3 chiều của XHD, Champy và cộng sự đã xác định sức căng trong xương
(strains within the bone) do hoạt động của cơ. Ở vựng gúc hàm chỉ tìm thấy
được mô men uốn gia tăng từ vùng răng trước cho đến vựng gúc hàm và đạt
tối đa khoảng 600N ở vựng gúc hàm. Đường KHX lý tưởng tương ứng với
đường căng giãn dọc theo đường chéo ngoài của XHD. Tính chất cơ học của
phương tiện KHX có thể đảm bảo trung hòa được các lực sinh ra từ vựng gúc
hàm XHD. Khi phương tiện KHX đặt dọc theo đường KHX lý tưởng thì chỉ
cần một nẹp vít nhỏ có thể kháng lại được mô men uốn trên 600N và vì thế
nẹp vít nhỏ được sử dụng phổ biến và khuyên sử dụng trong lâm sàng.
K.L. Gerlach và cộng sự nghiên cứu trên những bệnh nhân góy gúc
hàm XHD được KHX bằng nẹp vít nhỏ, nẹp vít này được kết nối với máy đo

sức căng (strain gauges) và tiến hành đo sức căng của nẹp trong vòng 4 tuần
sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy lực co kéo tác động lên nẹp từ 135 – 300
N/mm
2
, giá trị này giảm dần dần trong 3 tuần

đầu tiên sau phẫu thuật và giảm
còn 10% giá trị ban đầu lúc 4 tuần sau phẫu thuật. Đánh giá lúc 1 tuần sau
phẫu thuật, lực cắn của bệnh nhân giảm chỉ còn 31% lực cắn của nhóm chứng
và giá trị này tăng lên đến 58% lúc 6 tuần sau phẫu thuật. So với nghiên cứu
của TATE và cộng sự đánh giá lực cắn theo chiều đứng sau điều trị KHX góy
gúc hàm bằng 2 nẹp vít nhỏ cho thấy sau mổ 6 tuần, lực cắn của bệnh nhân
vùng răng hàm đạt được 52% so với nhóm chứng. Nghiên cứu của
SONNENBURG và VOELKER trên những bệnh nhân góy gúc hàm điều trị
KHX bằng nẹp vớt cú tạo sức ép lên hai đầu gãy, đánh giá sau mổ 6 tuần lực
cắn của bệnh nhân đạt 50% so với nhóm chứng.
Một số nghiên cứu khác về các phương pháp điều trị phẫu thuật góy
gúc hàm cũng khẳng định lực cắn của bệnh nhân ở dưới mức bình thường
trong thời gian liền xương 4 – 6 tuần sau chấn thương và sau 3 tháng tính từ
thời điểm phẫu thuật lực cắn của bệnh nhân trở về bình thường.

24

1.6.3. Giải thích lực cắn bệnh nhân giảm sau KHX theo Champy:
Lực cắn của bệnh nhân góy gúc hàm XHD sau phẫu thuật KHX giảm
một cách có ý nghĩa. Điều này có thể được giải thích là do cơ cắn bị chấn
thương hay sang chấn khi phẫu thuật; sau khi gãy xương thần kinh cơ của hệ
thống cơ nhai có cơ chế tự bảo vệ, hệ nơ ron của cỏc bú cơ hoạt động hay
không hoạt động để kiểm soát các lực nhai có hại cho xương. Ngoài ra, còn
một yếu tố quan trọng là bệnh nhân tránh được các lực nhai mạnh chẳng hạn

như một số bệnh nhân sợ vận động mạnh hàm dưới trong những tuần đầu sau
phẫu thuật; vấn đề này liên quan đến ý thức, thái độ và tình trạng răng của
bệnh nhân. Điều này giải thích tại sao lực cắn giữa các bệnh nhân trong các
nghiên cứu so sánh khác nhau có độ lệch chuẩn khá lớn.
Vì vậy, nghiên cứu trên thực nghiệm và những lời khuyên từ kết quả
nghiên cứu này không thể chuyển trực tiếp thành yêu cầu tất yếu cho việc
KHX trên lâm sàng bởi vì những nghiên cứu này chỉ dựa trên giả thuyết rằng
lực cắn của bệnh nhân là bình thường.
1.7. Nắn chỉnh góy gúc hàm di lệch có sử dụng cặp nắn chỉnh xương
1.7.1. Cơ sở về mặt cơ sinh học của cặp nắn chỉnh xương trong gãy XHD
Mục đích điều trị gãy XHD là tái lập lại được khớp cắn và chức năng
trước khi chấn thương, dự phòng được nhiểm trùng. Nắn chỉnh về đúng khớp
cắn có vai trò quan trọng trong ăn nhai, phát âm, và sự vận động hàm trong
giới hạn bình thường. Khoảng hở nắn chỉnh giữa bề mặt hai đầu đoạn gãy lớn
hơn 1mm dẫn đến liền xương thứ phát, điều này dẫn đến hình thành can xơ và
làm tăng nguy cơ không liền xương. Tiếp xúc đỳng khớt sỏt giữa hai đầu
xương gãy đẩy mạnh quá trình liền xương nguyờn phỏt, điều đó dẫn đến liền
xương và sự ổn định tại vị trớ góy sớm hơn. Sự sai lệch khớp cắn dưới 1mm
bệnh nhân có thể cảm nhận được. Nhiều nghiên cứu cho thấy nắn chỉnh hở
với tạo sức ép lên hai đầu đoạn gãy làm tăng diện tích tiếp xúc bề mặt giữa
hai đầu xương gãy, dẫn đến làm tăng sự ổn định và đẩy mạnh quá trình liền
xương. Kinh nghiệm lâm sàng của Brendan A. Kluszynski và cộng sự cho
25

thấy gãy xương mà nắn chỉnh không tốt thì làm tăng nguy cơ liền xương sai
và nhiễm trùng dẫn đến tỷ lệ biến chứng cao [26],[54].
Spiessl và Prein nhấn mạnh hai nguyên tắc cơ bản cần đạt được trong
cố định xương bên trong vững chắc cho gãy xương hàm dưới: thứ nhất là cần
phải cố định để trung hòa những lực căng (tensile forces) như làm ổn định hai
đầu xương gãy bằng sự nộn ộp tĩnh, làm tăng lực ma sát giữa hai đầu xương

gãy; thứ hai đạt được sự ổn định tuyệt đối giữa hai đầu xương gãy là điều kiện
tiên quyết để liền xương tốt và ít xảy ra nhiễm trùng [26].
Do vậy, để đạt kết quả tốt và giảm tỷ lệ biến chứng trong điều trị KHX
gãy XHD thì cần phải nắn chỉnh hai đầu đoạn gãy về đúng cấu trúc giải phẫu,
khít sát nhau và tạo sức ép lên hai đầu gãy. Để đạt được điều đó thì việc dùng
cặp nắn chỉnh xương phải là cần thiết và thường xuyên.
1.7.2. Cấu tạo của cặp nắn chỉnh xương cho vựng gúc hàm (mandibular
angle reduction forceps)


- Cấu tạo chung của cặp nắn chỉnh xương có tạo sức ép cho vựng gúc
hàm (Hình 1.10A) giống như cặp nắn chỉnh xương tiêu chuẩn trong chấn
D
Hình 1.12: Cặp nắn chỉnh xương
có tạo sức ép cho vùng góc hàm
(Theo Paolo Scolozzi và Cs
pp.498 [54]

×