Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

567 Một số biện pháp nhằm nâng cao lợi nhuận ở Công ty Thương mại Việt Phát Triển (63tr)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.69 KB, 78 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chính sách QLNH là một bộ phận hợp thành của chính sách Tài chính-Tiền tệ
quốc gia, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, đặc biệt là
với hoạt động kinh tế đối ngoại. Để tạo điều kiện phát triển hài hoà giữa kinh tế
đối nội và kinh tế đối ngoại, hội nhập và phát triển bền vững, các quốc gia đều
phải có chính sách Tài chính-Tiền tệ nói chung và chính sách QLNH nói riêng
phù hợp với thực tiễn mỗi nước.
Chính sách QLNH có vai trò rất quan trọng trong hoạt động hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ của NHTW, nhất là các nước đang trong quá trình
chuyển đổi kinh tế và cam kết hội nhập KTQT một cách sâu rộng như Việt
Nam. Chính sách QLNH có tác động và ảnh hưởng quan trọng đối với biến
động của các thành tố trên TK vãng lai cũng như TK vốn như: Kim ngạch XNK,
các luồng luân chuyển vốn (đầu tư cũng như vay nợ) quốc tế. Trong điều kiện
hội nhập KTQT ngày càng sâu sắc hơn, việc tác động và điều chỉnh được những
thành tố đó có ý nghĩa then chốt đối với việc ổn định và kích thích tăng trưởng
kinh tế quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách QLNH một cách có hệ thống
nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện phù hợp với tiến trình hội nhập KTQT
của Việt Nam là hết sức cần thiết và cấp bách. Xuất phát từ đó, "Hoàn thiện
chính sách Quản lý Ngoại hối ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế" đã được em chọn làm đề tài của bản luận văn.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Hệ thống hoá những nét tổng quát về ngoại hối và các hạn chế đối với GD
ngoại hối theo tiêu chí chung của IMF cũng như cụ thể đối với các nước đang
phát triển để rút ra kinh nghiệm.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chính sách QLNH ở Việt Nam qua từng giai
đoạn cụ thể.
1
- Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách QLNH của Việt Nam
trong xu thế hội nhập KTQT


3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Phạm vi nghiên cứu: chính sách QLNH ở Việt Nam qua các thời kỳ đến
nay, đặc biệt là các quy định hiện hành về QLNH và thực tiễn QLNH của Nhà
nước ta hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu: chính sách QLNH của Việt Nam.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin để luận giải các vấn đề
liên quan, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế của Đảng
và Nhà nước ta. Ngoài ra, khoá luận còn sử dụng một số phương pháp khác như
phân tích tổng hợp, diễn giải, quy nạp, so sánh,...và minh hoạ bằng các bảng
biểu, số liệu.
5. Kết cấu khoá luận
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chính sách quản lý ngoại hối
Chương 2: Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam
Chương 3: Hướng hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
Sau đây là nội dung chi tiết của từng chương:
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Văn Tiến_ Chủ nhiệm khoa Tiền
tệ-Tín dụng quốc tế đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2004
Sinh viên
Trần Mỹ Hạnh
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ
NGOẠI HỐI
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGOẠI HỐI VÀ NHỮNG
HẠN CHẾ NGOẠI HỐI
1.1.1 KHÁI NIỆM NGOẠI HỐI

Cùng với sự phát triển không ngừng của nền sản xuất hàng hoá, nhu cầu mở
rộng giao lưu thương mại không chỉ dừng lại ở phạm vi một quốc gia mà ngày
càng đòi hỏi mở rộng trên phạm vi toàn cầu. Để thúc đẩy hoạt động thương mại
trên thế giới, các phương tiện thanh toán quốc tế ngày càng được hoàn thiện-
bên cạnh phương tiện chi trả cổ điển như vàng- các phương tiện thanh toán hiện
đại đã được rất nhiều quốc gia chấp nhận và đưa vào sử dụng. Các phương tiện
thanh toán, dự trữ quốc tế này gọi chung là ngoại hối.
Đối với Việt Nam, khái niệm ngoại hối được đề cập cụ thể trong Thông tư số
01/1999/TT-NHNN7 ngày 16/4/1999 của NHNN hướng dẫn Nghị định
63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về QLNH như sau:
Ngoại hối bao gồm:
- Các đồng tiền hợp pháp của nước ngoài hiện đang được lưu hành dưới các
hình thức tiền giấy, tiền kim loại.
- Công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài như: séc, hối phiếu, thẻ thanh toán
và các công cụ thanh toán khác.
- Các loại GTCG bằng tiền nước ngoài như trái phiếu chính phủ, trái phiếu
công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại GTCG khác.
- Quyền rút vốn, đặc biệt là đồng tiền do IMF phát hành dùng để dự trữ và
thanh toán quốc tế cho các nước hội viên, được kí hiệu là SDR.
- Đồng tiền chung Châu Âu là đồng tiền chung của các nước thuộc cộng
đồng Châu Âu dùng để dự trữ và thanh toán giữa các nước thành viên đó.
- Các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và khu vực.
3
- Vàng tiêu chuẩn quốc tế.
- Đồng tiền đang lưu hành của nước cộng hoà XHCN Việt Nam (đồng Việt
Nam) trong trường hợp chuyển vào và ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử
dụng làm công cụ trong thanh toán quốc tế.
1.1.2 CÁC GD NGOẠI HỐI
Các GD ngoại hối là các GD có liên quan đến hoạt động mua bán, cho vay,
bảo lãnh, các hoạt động đầu tư và các GD về ngoại hối.

Các hoạt động ngoại hối liên quan đến GD kinh tế giữa người cư trú và người
không cư trú, thể hiện giữa các GD vãng lai và các GD vốn trong phạm vi một
quốc gia.
a/ GD vãng lai
Là các GD ngoại tệ giữa người cư trú và người không cư trú về XNK hàng
hóa, dịch vụ, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào các GTCG, lãi
vay và lãi tiền gửi ở nước ngoài, chuyển tiền một chiều và các GD khác liên
quan đến các hạng mục của cán cân vãng lai.
Trong các GD vãng lai thì GD mua bán, thanh toán XNK có vai trò quan
trọng. Nó phản ánh tình hình cán cân thương mại của một quốc gia bội thu hay
bội chi và có tác động ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Do
đó, trong điều kiện nền kinh tế căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, một số nước áp
dụng biện pháp kết hối đối với nguồn thu ngoại tệ từ XK (quy định bắt buộc
phải bán một phần hoặc toàn bộ nguồn thu từ XK).
Ngoài ra, GD chuyển tiền một chiều dưới các hình thức chuyển tiền kiều hối,
chuyển tiền cho các mục đích du học, trợ cấp thân nhân hoặc cho các mục đích
định cư cũng đóng vai trò quan trọng, đặc biệt đối với các nước đang phát triển.
b/ GD vốn
Là các GD chuyển vốn vào và ra khỏi một quốc gia trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp, đầu tư vào các GTCG, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ
4
nước ngoài, các hình thức đầu tư khác làm tăng hoặc giảm tài sản Có hoặc tài
sản Nợ giữa người cư trú và người không cư trú .
Dòng vốn trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp thường có tính ổn định tương đối, do
đó các nước đang phát triển và kém phát triển thường có những chính sách
nhằm thu hút tối đa trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Còn nguồn VĐT gián tiếp
vào các GTCG lại có tính nhạy cảm cao với những biến động kinh tế chính trị,
do đó rất dễ bị đảo chiều với sự rút vốn ồ ạt, dễ gây ra những “cú sốc” cho nền
kinh tế. Vì vậy, các nước đang và kém phát triển luôn có quy định chặt chẽ để
quản lý chặt chẽ, hạn chế tác động xấu của luồng vốn gián tiếp đến nền kinh tế.

c/ Các GD ngoại hối trong phạm vi một quốc gia.
Thông thường, các GD ngoại hối trong một quốc gia đề cập đến những vấn đề
về quyền sở hữu, mua, bán và phạm vi sử dụng ngoại tệ của người cư trú và
người không cư trú; hoạt động ngoại hối của các NHTM như mua bán ngoại tệ,
vay và cho vay ngoại tệ trong nước, thực hiện các quy định về trạng thái ngoại
tệ.
Đối với các nước đang và kém phát triển, khi đồng bản tệ chưa có khả năng
chuyển đổi và luôn phải đối mặt với sự biến động của tỷ giá, lạm phát cao luôn
đe doạ, việc sử dụng ngoại tệ làm công cụ cất trữ, thanh toán rất phổ biến dẫn
đến tình trạng đôla hoá nền kinh tế; mặc dù các nước này đã áp dụng các quy định về
hạn chế việc thanh toán, cho vay với nhau bằng ngoại tệ.
1.1.3 NHỮNG HẠN CHẾ ĐỐI VỚI GD NGOẠI HỐI THEO
TIÊU CHÍ CỦA IMF.
Các nước tuỳ theo mức độ phát triển của thị trường Tài chính-Tiền tệ nói riêng
và nền kinh tế nói chung đều có những quy định về một số hạn chế đối với GD
ngoại hối. Các nước phát triển với chính sách tự do hoá thương mại, dịch vụ và
đầu tư thì các GD ngoại hối căn bản được tự do hoá, các hạn chế ngoại hối được
dỡ bỏ gần như hoàn toàn; nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế ngoại hối liên quan
đến những vấn đề như mang ngoại tệ khi xuất nhập cảnh với mục đích chống
5
rửa tiền hoặc những hạn chế về thanh toán, đầu tư liên quan đến lý do an ninh
quốc phòng, chính trị... Đối với các nước kém phát triển hoặc đang phát triển,
nhu cầu ngoại tệ để trang bị cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ
luôn lớn hơn nguồn thu từ XK; cán cân thương mại thường xuyên trong tình
trạng bội chi và phải tài trợ bằng vốn nước ngoài...Trong bối cảnh đó, cần phải
áp dụng các hạn chế ngoại hối nhằm thu hút nguồn ngoại tệ vào, hạn chế nguồn
ngoại tệ ra và kiểm soát các GD vay trả nợ nước ngoài góp phần ổn định tỷ giá
và hỗ trợ cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Các hạn chế ngoại hối đối với
các nước này được quy định bằng hệ thống các văn bản pháp lý cùng với các
quy định về quyền và phạm vi sử dụng ngoại tệ được gọi là chính sách QLNH.

Để có những thông tin cần thiết về cơ chế QLNH và cơ chế tỷ giá của các
nước thành viên, IMF hàng năm biên soạn và phát hành Báo cáo thường niên về
các hạn chế ngoại hối và chế độ tỷ giá; trong đó mô tả những nét khái quát về
những hạn chế liên quan đến ngoại hối và chế độ tỷ giá theo những tiêu chí
chung sau.
a/ Những hạn chế liên quan đến các GD vãng lai
* Quy định chế độ thanh toán và nhận thanh toán
- Các quy định ảnh hưởng đến việc lựa chọn đồng tiền và phương pháp thanh
toán các GD với nước khác. Khi một nước đã kí kết Hiệp định thanh toán với
các nước khác thì những điều kiện của các Hiệp định thường bao gồm các nội
dung quy định về đồng tiền thanh toán với nước liên quan. Ví dụ Hiệp định
thanh toán của Việt Nam kí với Trung Quốc trong đó quy định đồng tiền thanh
toán là các loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, VND và CNY, sử dụng các hình thức
thanh toán qua ngân hàng và theo thông lệ quốc tế.
- Về tổ chức kiểm soát ngoại hối đưa ra một số thông tin về cơ quan chịu
trách nhiệm đối với chính sách ngoại hối, tổ chức kiểm soát và mức độ quyền
hạn mà họ được giao phó để phục vụ cho mục tiêu hoạt động. Thông thường,
NHTW được giao phó trách nhiệm đối với việc QLNH; tuy nhiên cũng có một
số trường hợp đặc biệt như Trung Quốc thành lập Tổng cục QLNH.
6
- Các hạn chế đối với thanh toán và chuyển tiền trong các GD vãng lai do các
nước có lý do an ninh quốc gia hoặc an ninh quốc tế.
* Quy định liên quan hoạt động thanh toán XNK
- Về thanh toán NK: + Quy định bản chất và mức độ hạn chế về ngoại hối và
ngoại thương đối với hàng NK. Bao gồm thông tin về sự tồn tại về việc phân bổ
ngoại tệ (thông thường hàng năm phân bổ trước một số lượng ngoại tệ nhất định
để phục vụ cho việc NK những hàng hoá thiết yếu, đôi khi còn xác định cả số lượng
ngoại tệ cho những nhà NK được chỉ định và đăng kí trước).
+ Quy định về tài trợ đối với NK (về thanh toán trước và sự tồn tại của
quy định về đặt cọc). Đặc biệt quan trọng là các quy định về chứng từ để bán

ngoại tệ cho các hoạt động NK hàng hoá, dịch vụ. Cụ thể như quy định về nghĩa
vụ tiến hành GD với một định chế tài chính chỉ định, kiểm tra trước khi gửi hàng
nhằm đảm bảo tính xác thực của GD NK về mặt số lượng, chất lượng và giá cả;
nghĩa vụ thanh toán bằng phương thức thư tín dụng, yêu cầu xuất trình giấy
phép NK để được mua ngoại tệ cho việc thanh toán hàng NK. Ngoài ra còn mô
tả thêm về giấy phép NK và các biện pháp phi thuế quan khác. Ví dụ như danh
mục hàng hoá được NK, hàng hoá hạn chế NK và các hàng hoá cấm NK.
- Về các quy định liên quan đến hoạt động XK và tiền thu từ XK: Phần này
chỉ ra các hạn chế đối với việc sử dụng tiền thu từ XK cũng như quy định đối
với hoạt động XK. Đặc biệt có ý nghĩa về quy định chuyển tiền về nước, đề cập
đến nghĩa vụ của người XK phải chuyển tiền thu được từ XK về nước hoặc bằng
cách bán trên TT ngoại hối hoặc gửi vào TK. Quy định này thường được các
nước áp dụng là kết hối, đề cập tới các quy định yêu cầu người nhận tiền thu từ
XK phải bán mọi khoản thu ngoại tệ lấy nội tệ, đôi khi với tỷ giá quy định cho
NHTW, NHTM hoặc người GD ngoại hối được uỷ quyền thực hiện việc này.
* Quy định về các GD chuyển tiền một chiều ra nước ngoài
Phần này quy định các thủ tục cho phép thanh toán chuyển tiền ra nước ngoài
trong các GD chuyển tiền một chiều, gồm các yêu cầu phê duyệt trước, những
hạn chế về số lượng, hạn mức định hướng hoặc kiểm tra nhu cầu hợp lý. Hạn
7
mức định hướng định ra số lượng ngoại tệ tối đa được phép mua khi khai báo
các mục đích GD được phép- chủ yếu phục vụ cho yêu cầu thống kê, phân tích
số liệu luồng ngoại tệ ra vào của một quốc gia. Khi số lượng vượt quá những
giới hạn này sẽ được phép GD nếu chứng minh được là có nhu cầu hợp lý thông
qua việc xuất trình các chứng từ phù hợp. Cũng có thể áp dụng kiểm tra nhu cầu
hợp lý đối với các GD chưa bị hạn chế số lượng.
* Quy định các GD chuyển tiền một chiều về nước gồm các quy định điều
chỉnh việc nhận ngoại tệ từ các GD chuyển tiền về nước, các hạn chế đối với
việc chuyển đổi sang nội tệ và sử dụng các khoản tiền nhận được. Thông thường
ở Việt Nam phần này được quy định trong các văn bản về chuyển tiền kiều hối.

b/ Những hạn chế liên quan đến các GD vốn
Gồm: + Các quy chế tác động tới sự di chuyển vốn như sự ngăn cấm, yêu cầu
phê duyệt trước, uỷ quyền và thông báo.
+ Quy định về lãi suất áp đặt bởi cơ quan quản lý việc kí kết và thực
hiện các GD hay chuyển tiền đối với việc chuyển vốn vào và ra nước ngoài.
+ Các quy định liên quan đến đầu tư trực tiếp đề cập đến việc đầu tư với
mục đích thiết lập quan hệ kinh tế lâu dài chủ yếu để sản xuất hàng hoá dịch vụ,
đặc biệt là đầu tư cho phép thực hiện kiểm soát quản lý có hiệu quả, bao gồm
việc cho phép thành lập hay mở rộng một DN, công ty trực thuộc hay chi nhánh
hoàn toàn thuộc sở hữu của chủ đầu tư và việc mua lại toàn bộ hay một phần
quyền sở hữu một DN dẫn tới khả năng kiểm soát hoạt động của DN này. Ngoài
ra còn liên quan đến việc theo dõi chuyển VĐT vào, chuyển lợi nhuận và VĐT
ra nước ngoài của các chủ đầu tư.
+ Các quy định liên quan đến kiểm soát đầu tư trên TTCK gồm việc theo
dõi luồng tiền vào và ra, các quy định liên quan đến việc chuyển đổi từ nội tệ
sang ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài.
c/ Những hạn chế liên quan đến các GD ngoại hối trong phạm vi quốc gia
8
- Quy định về việc mở và sử dụng TK của người cư trú và người không cư
trú. Những hạn chế đối với việc mở và sử dụng TK ngoại tệ của người cư trú
thường thể hiện ở các quy định về hạn chế số lượng TK, giới hạn mục đích sử
dụng. Đối với TK của người không cư trú là khả năng chuyển đổi từ đồng bản tệ
sang đồng ngoại tệ và các quy định về chuyển ngoại tệ ra nước ngoài.
- Các quy định liên quan đến những hạn chế trong hoạt động ngoại hối của
các TCTD như việc hoạt động trong khuôn khổ phạm vi giấy phép, hạn chế
trong một số GD nghiệp vụ hoán đổi, quyền lựa chọn... hoặc các quy định ràng
buộc việc mở TK kinh doanh ngoại tệ ở TT nước ngoài.
1.1.4 SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUY ĐỊNH CÁC HẠN CHẾ ĐỐI
VỚI GD NGOẠI HỐI
Đối với các nước phát triển, đồng tiền có khả năng chuyển đổi thì các GD

ngoại hối hầu như được tự do hoá trong giao lưu thương mại và tài chính quốc
tế. Vấn đề QLNH thực sự là yêu cầu quan trọng đối với các nước đang phát triển
và kém phát triển khi cung tiết kiệm nội địa thấp và thâm hụt TK vãng lai cao,
phải dựa vào nguồn vốn nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, các nước đang phát triển cần chi
nhiều ngoại tệ để NK trang thiết bị, nội địa hoá công nghệ sản xuất trong khi
hàng hoá sản xuất trong nước kém hiệu quả, sức cạnh tranh trên thương trường
quốc tế thấp nên kim ngạch XK hầu như không đáp ứng được nhu cầu chi cho
NK. Do đó, các nước đang phát triển thường xuyên phải đối mặt với tình trạng
thâm hụt TK vãng lai gây sức ép lên quan hệ cung cầu ngoại tệ trong nước và tỷ
giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định giá trị đồng bản tệ và gây tác
động xấu đến sự phát triển và tăng trưởng kinh tế quốc dân.
Để tài trợ thâm hụt TK vãng lai, cần phải hạn chế có chọn lọc luồng ngoại tệ
đi ra và khuyến khích nguồn ngoại tệ đi vào quốc gia phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của nền kinh tế. Các hạn chế đối với hoạt động ngoại hối được thể
hiện ở một số nội dung liên quan đến chính sách hạn chế NK, chuyển tiền một
chiều trong nước ra nước ngoài, các quy định bắt buộc phải chuyển các nguồn
9
thu vãng lai về nước, thực hiện chính sách kết hối nhằm tập trung nguồn ngoại
tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng nhu cầu NK thiết yếu cho nền kinh tế.
Ngoài ra, để tài trợ thâm hụt TK vãng lai và có thêm nguồn lực để phát triển
kinh tế, các nước đã có nhiều biện pháp khuyến khích đầu tư, vay nợ nước
ngoài. Tuy nhiên, thâm hụt TK vãng lai không thể luôn tài trợ bằng cách tăng nợ
nước ngoài, làm như vậy sẽ dẫn đến tình trạng tăng luồng vốn ra (trả nợ gốc và
lãi) kéo theo tình trạng không có khả năng duy trì nợ nước ngoài dẫn đến khủng
hoảng nợ. Điển hình là cuộc khủng hoảng Tài chính ở Châu Á năm 1997 mang
đặc điểm của cuộc khủng hoảng Tài chính vốn mà nguyên nhân là phần lớn
lượng vốn chảy vào từ khu vực tư nhân có liên quan tới cán cân thanh toán và
mang tính ngắn hạn, tiếp theo là sự đảo lộn của luồng vốn ra một cách ào ạt. Để
khắc phục tình trạng trên đòi hỏi các nước tiếp nhận dòng vốn vào phải có sự

quản lý thận trọng đối với các GD vốn và quan tâm hơn nữa đến vấn đề thâm
hụt TK vãng lai và khả năng duy trì nợ.
1.2 CHÍNH SÁCH QLNH
1.2.1 KHÁI NIỆM VỀ CHÍNH SÁCH QLNH
a/ Khái niệm
Chính sách QLNH là bộ phận của chính sách tiền tệ quốc gia, là một trong
những công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế. Nó bao gồm
những quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động ngoại hối như mua bán, đầu tư,
vay, cho vay và các GD khác về ngoại hối của các bên liên quan nhằm thực hiện
được các mục tiêu QLNH trong từng thời kỳ.
Thông thường, Chính phủ các nước uỷ nhiệm chức năng QLNH và hoạt động
ngoại hối cho một cơ quan Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ đảm trách nhiệm vụ này.
Phần lớn trên thế giới, NHTW giữ trọng trách QLNH và hoạt động ngoại hối.
Tại Việt Nam, Chính phủ giao cho NHNN là cơ quan chủ quản và phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan để thực hiện việc QLNH.
10
b/ Đối tượng QLNH
Là tất cả các tổ chức, cá nhân có những hoạt động liên quan đến ngoại hối trên
phạm vi một quốc gia và các tổ chức, cá nhân của quốc gia đó ở nước ngoài. Để
tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý, đối tượng QLNH thường được phân
thành người cư trú và người không cư trú.
c/ Phạm vi QLNH
Bao gồm các hoạt động liên quan đến ngoại hối: đó là các hoạt động làm nảy
sinh cung cầu ngoại tệ như GD thương mại, chuyển tiền một chiều, đầu tư và
hoạt động vay, trả nợ nước ngoài. Đó là hoạt động ngoại hối của các TCTD liên
quan đến trạng thái ngoại hối trên TTNTLNH, vấn đề tỷ giá và các hoạt động
của tổ chức, cá nhân liên quan đến ngoại hối.
1.2.2 Các loại hình chính sách QLNH
a/ Chính sách Nhà nước độc quyền về QLNH
Chính sách này đi liền với cơ chế độc quyền quản lý ngoại thương của Nhà

nước và hoạt động kinh tế đối ngoại. Thông thường, chính sách này áp dụng đối
với các nước có nền kinh tế hướng nội, kế hoạch hoá, tập trung cao độ. Trong
bối cảnh đó, tỷ giá được ấn định một cách chủ quan duy ý chí, không dựa trên
quan hệ cung cầu của TT ngoại hối; mọi GD về ngoại hối được thực hiện thông
qua các TCTD được phép kinh doanh ngoại tệ.
Các hoạt động mua bán kinh doanh, tàng trữ ngoại hối đều bị nghiêm cấm.
b/ Chính sách thắt chặt QLNH
Thắt chặt QLNH là giải pháp áp dụng đối với các nước thời kỳ đầu đổi mới.
Đây là việc Nhà nước quản lý sát sao mọi hoạt động XNK hàng hoá, dịch vụ và
kiểm soát chặt chẽ các luồng vận động ngoại hối nhưng Nhà nước không độc
quyền nắm giữ hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc QLNH đối với các tổ chức, cá
nhân đã được mở rộng hơn so với chính sách độc quyền QLNH. Các tổ chức, cá
nhân có nguồn thu, chi ngoại tệ được phép mở TK ngoại tệ tại ngân hàng. Tuy
nhiên, việc quản lý nguồn thu từ XK vẫn bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải bán
11
toàn bộ số ngoại hối cho các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Khi cần
ngoại tệ để thanh toán cho các GD với nước ngoài, các đơn vị kinh tế phải được
sự đồng ý của các cơ quan có thẩm quyền và được các ngân hàng đáp ứng ngoại
tệ- các GD trong nước được quy định thực hiện bằng ngoại tệ.
c/ Chính sách nới lỏng QLNH
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, với sự mở rộng hoạt động thương mại đầu tư
quốc tế cho tất cả các TPKT tham gia thì chính sách QLNH thông thường được
áp dụng là chính sách nới lỏng QLNH nhằm tạo điều kiện thúc đẩy giao lưu
thương mại, đầu tư quốc tế phát triển. Lúc này, Nhà nước QLNH thông qua các
công cụ TT và thông qua TT hối đoái. NHTW với tư cách là một thành viên TT
điều tiết thông qua hành động mua và bán ngoại tệ trên TT ngoại hối. Khi cần
huy động ngoại tệ để thực hiện quá trình cải tổ, phát triển nền kinh tế, NHTW sẽ
sử dụng công cụ lãi suất, tỷ giá để thu hút ngoại tệ trong nền kinh tế. Đối với các
tổ chức, cá nhân được chủ động sử dụng nguồn ngoại tệ của mình như các
quyền sở hữu, cất trữ và gửi tại ngân hàng... Dù vậy, nếu bối cảnh nền kinh tế

tiềm ẩn nguy cơ lạm phát thì việc sử dụng chính sách ngoại hối nới lỏng sẽ dẫn
đến tình trạng đôla hoá nền kinh tế.
D/ CHÍNH SÁCH TỰ DO HOÁ NGOẠI HỐI
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế
với việc dỡ bỏ các rào cản thương mại, chu chuyển hàng hoá và chu chuyển vốn
được vận hành theo cơ chế TT thì điều đó đã làm nền tảng cho chính sách tự do
QLNH. Nhà nước điều tiết TT thông qua các chính sách vĩ mô và các công cụ
TT, giảm tới mức tối đa việc can thiệp trực tiếp mang tính hành chính, mệnh
lệnh để TT vận hành theo tín hiệu cung cầu của TT. Giá cả hàng hoá và đặc biệt
là tỷ giá được quyết định bởi yếu tố cung cầu trên TT. Tổ chức và cá nhân được
chủ động trong việc cất trữ và sử dụng ngoại tệ của mình. Thông thường, chính
12
sách QLNH được áp dụng với các nước có nền kinh tế phát triển theo xu hướng
mở cửa và hội nhập, có TT Tài chính-Tiền tệ phát triển, có TTCK, TT ngoại hối
phát triển ở mức độ cao và có nguồn ngoại tệ dự trữ dồi dào để sẵn sàng ứng
phó khi có biến động trên TT.
1.2.3 MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH QLNH
Mục tiêu chung của chính sách QLNH được quyết định bởi mục tiêu phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định và nó phải phù hợp với
mức độ phát triển của nền kinh tế. Mục tiêu chính sách QLNH tổng thể mà hầu
hết các quốc gia đều phấn đấu là góp phần bảo đảm sự cân bằng giữa hoạt động
kinh tế đối nội với hoạt động kinh tế đối ngoại. Muốn vậy, chính sách QLNH
cần đạt được những mục tiêu sau: duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao và bền vững,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, duy trì ổn định tiền tệ và giá cả, ổn định cán cân thanh
toán quốc tế.
Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế TT theo định
hướng XHCN trong xu thế hội nhập mở cửa, ngoài các mục tiêu chung trên,
chính sách QLNH cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Đưa nền kinh tế đạt được mức cân bằng đối ngoại góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế.

- Đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế cho quốc gia.
- Hạn chế luồng vốn đi ra, thu hút nguồn vốn từ bên ngoài tập trung phát
triển kinh tế.
- Bảo vệ chủ quyền về tiền tệ.
- Tránh những tác động tiêu cực từ bên ngoài ảnh hưởng tới nền kinh tế.
1.2.4 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH
QLNH CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
a/ QLNH đối với các GD vãng lai
Hoạt động QLNH đối với các GD vãng lai tập trung chủ yếu vào việc theo dõi
luồng ngoại tệ đi vào (từ XK, viện trợ, kiều hối, lãi đầu tư...), kiểm soát luồng
13
ngoại tệ đi ra (thanh toán NK hàng hoá, dịch vụ, trả lãi đầu tư, chuyển tiền một
chiều...).
- Thông thường, việc theo dõi luồng ngoại tệ đi vào được thực hiện qua yêu
cầu bắt buộc người cư trú có nguồn thu vãng lai phải chuyển về nước và khai
báo để các cơ quan chức năng nắm được lượng ngoại tệ đi vào.
- Quy định về nghĩa vụ bán ngoại tệ từ các nguồn thu vãng lai (kết hối) cũng
được xem là một bộ phận của hoạt động QLNH đối với các GD vãng lai được
nhiều quốc gia sử dụng. Người cư trú bắt buộc phải bán một lượng nhất định
(thường theo tỷ lệ %) trong số nguồn thu ngoại tệ từ các GD vãng lai của mình
cho các NHTM. Đây là một biện pháp hành chính nhằm tăng cung ngoại tệ cho
nền kinh tế.
- Kiểm soát luồng ngoại tệ đi ra chủ yếu tập trung vào các quy định về điều
kiện được mua và chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Thông thường, các quốc gia
áp dụng QLNH đều quy định những đối tượng mua bán được phép mua ngoại tệ
và giới hạn tối đa lượng ngoại tệ được mua. Người cư trú thuộc đối tượng được
phép mua ngoại tệ khi có nhu cầu ngoại tệ để thanh toán cho phía nước ngoài
phải xuất trình những giấy tờ chứng minh nhu cầu được phép. Trong trường hợp
tất cả các đối tượng đều được phép mua ngoại tệ phục vụ cho các GD vãng lai
với số lượng không hạn chế thì đồng tiền của quốc gia đó được công nhận là có

khả năng chuyển đổi hoàn toàn đối với cán cân vãng lai (hay còn gọi là tự do
hoá cán cân vãng lai). Hầu hết các quốc gia là thành viên của IMF hiện nay đều
đã và đang từng bước thực hiện tạo khả năng chuyển đổi hoàn toàn cho đồng
bản tệ đối với cán cân vãng lai.
14
B/ QLNH ĐỐI VỚI CÁC GD VỐN
QLNH đối với các GD vốn nhằm mục đích thu hút nguồn vốn từ nước ngoài
và hạn chế luồng vốn đi ra. Nó được thể hiện ở quy định QLNH trong lĩnh vực
đầu tư và vay trả nợ nước ngoài.
- Hầu hết các nước đều khuyến khích nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào nền
kinh tế, đặc biệt là nguồn VĐT trực tiếp FDI. Chủ trương khuyến khích FDI thể
hiện bằng việc chỉ theo dõi nguồn VĐT vào thông qua các quy định về khai báo
và đăng kí cam kết cho phép nhà đầu tư được chuyển lợi nhuận về nước trong
quá trình hoạt động và chuyển vốn về nước khi hết thời hạn đầu tư. Còn nguồn
VĐT gián tiếp có thể bị hạn chế hơn do tính chất bất ổn và sự nhạy cảm của nó
đối với các chuyển biến chính trị xã hội và kinh tế của nước nhận đầu tư.
Việc kiểm soát luồng VĐT ra nước ngoài được thể hiện thông qua các quy
định chặt chẽ về đối tượng, thủ tục, địa bàn đầu tư và giới hạn mức VĐT ra
nước ngoài. Các đối tượng muốn đầu tư ra nước ngoài phải được các cơ quan
chức năng cấp phép trên cơ sở từng trường hợp.
- Trong hoạt động vay nợ nước ngoài, cơ chế QLNH thường quy định chặt
chẽ hơn đối với các khoản vay trung dài hạn so với các khoản vay ngắn hạn.
Người cư trú vay vốn ngắn hạn nước ngoài thường chỉ cần đăng kí để cơ quan
có thẩm quyền có thể theo dõi và làm cơ sở cho việc mua ngoại tệ để trả nợ gốc
và lãi. Còn với các khoản vay trung dài hạn, người đi vay có thể phải xin phép
các cơ quan có thẩm quyền.
c/ Kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ trong nước
Thông thường, các quốc gia áp dụng quy chế QLNH chặt chẽ là những quốc
gia có đồng tiền không ổn định. Tại những nước này, người dân có xu hướng sử
dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng thanh toán. Điều này ảnh hưởng đến

chủ quyền tiền tệ của quốc gia. Vì vậy, một trong những nội dung quan trọng
của chính sách QLNH là kiểm soát được việc sử dụng ngoại tệ trong nước.
15
Các quốc gia thường cho phép người cư trú được cất trữ ngoại tệ, hay nói cách
khác là cho phép sử dụng ngoại tệ làm phương tiện cất trữ giá trị nhưng nghiêm
cấm việc sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và định giá.
Ngoài ra, Chính phủ các nước còn kiểm soát hoạt động kinh doanh ngoại tệ
của các NHTM nhằm mục đích tạo dòng luân chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế,
chống găm giữ ngoại tệ, phòng tránh rủi ro góp phần thực hiện chính sách tỷ giá
đã định. NHTW sẽ kiểm soát hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM
bằng việc xem xét cấp giấy phép kinh doanh ngoại tệ cho các NHTM, ban hành
các quy chế GD hối đoái, tổ chức và điều hành TTNTLNH, ban hành các quy
định về trạng thái ngoại tệ...
Bên cạnh đó, các quốc gia này còn theo dõi và kiểm soát việc mở TK ở nước
ngoài của người cư trú bằng cách giới hạn mục đích sử dụng trong các trường
hợp đòi hỏi thanh toán thường xuyên cho phía nước ngoài như ngành hàng
không, hàng hải, XK lao động. Các đối tượng được mở TK ở nước ngoài phải
báo cáo tình hình sử dụng TK cho các cơ quan chức năng theo định kỳ.
1.3 CHÍNH SÁCH QLNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG
KHU VỰC VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1.3.1 Chính sách QLNH của Trung Quốc(TQ)
Dưới đây là một số nét khái quát về quá trình chuyển đổi cơ chế QLNH của
TQ trong thời gian qua, góp phần đưa nước này gia nhập WTO một cách thành
công năm 2001.
a/ Về QLNH đối với GD vãng lai
Tháng 12/1996, TQ tuyên bố thực hiện chuyển đổi hoàn toàn đồng CNY đối
với cán cân vãng lai (theo Điều 8 Điều lệ IMF). Tuy nhiên, các DN có ngoại tệ
từ nguồn thu vãng lai vẫn phải kết hối ngoại tệ theo tỷ lệ quy định (hiện nay là
80%). Để khuyến khích kiều hối chuyển về, TQ cho phép cá nhân có kiều hối
chuyển về được tự do giữ bằng CNY hoặc ngoại tệ theo nhu cầu. Người thụ

hưởng có thể bán hoặc giữ ngoại tệ trên TK và được chuyển ngoại tệ ra nước
16
ngoài khi có nhu cầu. Khi có nhu cầu ngoại tệ để chuyển, mang ra nước ngoài,
cá nhân là người cư trú được mua tại ngân hàng được phép không hạn chế số
lượng khi xuất trình chứng từ chứng minh nhu cầu ngoại tệ. Trước đây, chỉ có
NHNT bán ngoại tệ cho cá nhân nhưng hiện nay đã mở rộng cho các ngân hàng
được phép kinh doanh ngoại hối. Các DN TQ chỉ được mở TK ở nước ngoài khi
được Tổng cục QLNH cấp giấy phép.
b/ Về QLNH đối với GD vốn
Việc QLNH đối với các GD vốn ở TQ được thực hiện dưới 3 hình thức là cấp
phép, đăng ký và kiểm tra. Việc tự do hoá GD vốn ở TQ được tiến hành thận
trọng. TQ chia các GD vốn thành 43 hạng mục chính, trong đó 35% số hạng
mục này bị cấm, 37% bị hạn chế, 19% được tự do chuyển đổi về căn bản và 8%
được hoàn toàn tự do.
Các GD vốn của TQ được quản lý chặt chẽ và chỉ được phép nới lỏng dần
theo kế hoạch của Nhà nước. Mọi nguồn thu ngoại tệ từ các GD vốn phải
chuyển về nước nhưng không phải thực hiện chế độ kết hối và chỉ được phép sử
dụng ngoại tệ ở những nơi được phép thu ngoại tệ. Việc mua bán ngoại tệ để
đáp ứng các GD vốn phải được Tổng cục QLNH cho phép.
* Để thu hút VĐT nước ngoài và gia nhập tổ chức WTO, TQ đã duy trì chế độ
tỷ giá ổn định tạo tâm lý an toàn, yên tâm cho nhà đầu tư và duy trì ổn định kinh
tế vĩ mô. Các văn bản về QLNH trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài được thực
hiện theo nguyên tắc bình đẳng giữa các DN FDI và DN trong nước trong việc
mua ngoại tệ, vay trả nợ nước ngoài. Các DN FDI được phép chuyển lợi nhuận
về nước tự do sau khi chứng minh tính hợp pháp của khoản thu nhập mà không
phải nộp thuế. VĐT sau khi hết hạn đầu tư được tự do chuyển về nước. Trước
tháng 7/2002, việc chuyển đổi sang ngoại tệ phải được sự chấp thuận của Tổng
cục QLNH, nhưng hiện nay chỉ cần xuất trình chứng từ với NHTM để chứng
minh là có nhu cầu mua số ngoại tệ đó.
* Đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài

17
Khi đầu tư ra nước ngoài, DN phải xin phép UBKHNN. Hiện nay, TQ vẫn còn
hạn chế việc đầu tư ra nước ngoài, chỉ cho đầu tư vào một số khu vực nhất định
như hoạt động thương mại phục vụ hoạt động XK, khai thác tài nguyên thiên
nhiên ở nước ngoài.
* Đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài
TQ chỉ cho phép các NHTM được phép kinh doanh ngoại tệ và một số DN
Nhà nước lớn đủ năng lực tài chính mới được trực tiếp vay nước ngoài. Các DN
khác khi có nhu cầu vốn ngoại tệ phải vay qua các TCTD. Trước khi kí hợp
đồng vay nợ nước ngoài phải được Tổng cục QLNH phê chuẩn. Riêng các DN
FDI được phép kí hợp đồng vay vốn nước ngoài sau khi đăng ký với Tổng cục
QLNH.
Các hợp đồng vay vốn nước ngoài trung dài hạn được quản lý chặt chẽ. Các
TCTD phải thực hiện nghiêm túc quy định về trạng thái ngoại hối, kinh doanh
có lãi liên tục trong 3 năm, kinh doanh XNK hoặc các ngành ưu tiên phát triển,
có chế độ hạch toán, kế toán chặt chẽ. Các khoản vay nước ngoài phải nằm
trong kế hoạch vay vốn nước ngoài của Nhà nước. Các DN vay vốn nước ngoài
phải hạn chế chi phí vay vốn (lãi suất và phí), tổng chi phí không được cao hơn
chi phí của các khoản vay cùng thời hạn trên TT quốc tế. Các DN không làm thủ
tục đăng ký khoản vay sẽ không được mở và sử dụng TK vốn chuyên dùng, gốc
và lãi không được chuyển ra nước ngoài. Các DN phải báo cáo theo định kỳ và
nếu vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng (100.000-500.000 CNY).
c/ Về chính sách kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ trong nước
Để chuyển đổi đồng CNY thành đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi, TQ hạn chế
các GD trong nước sử dụng bằng ngoại tệ. Gần đây, số dư ngoại tệ tại hệ thống
ngân hàng giảm đáng kể vì trong nước nghiêm cấm thanh toán bằng ngoại tệ.
Ngoài ra, do việc điều hành lãi suất và tỷ giá hợp lý của Ngân hàng Nhân dân
(NHND) TQ, duy trì lãi suất CNY luôn cao hơn lãi suất ngoại tệ và tỷ giá giữa
CNY và USD được duy trì ổn định nên các DN có xu hướng chuyển đổi ngoại tệ
sang nội tệ, góp phần giảm tình trạng đôla hoá.

18
d/ Về chính sách tỷ giá hối đoái và hoạt động ngoại hối
Từ năm 1994 TQ có nhiều chuyển biến lớn trong điều hành chính sách tỷ giá
như đưa tỷ giá chính thức lên mức cân bằng với tỷ giá TT để thống nhất hai tỷ
giá và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, tạo điều kiện cho việc chuyển
đổi đồng CNY. Xoá bỏ chế độ DN được giữ ngoại tệ trên TK mà phải kết hối
ngoại tệ. Khi có nhu cầu thanh toán hàng NK thì được mua ngoại tệ tại các ngân
hàng được phép nhưng với các GD phi thương mại thì không được phép mua tại
ngân hàng. Bên cạnh đó thành lập TTNTLNH với một số chi nhánh ở các tỉnh
lớn và được kết nối bằng mạng vi tính. Các ngân hàng thực hiện GD giao ngay
trên TT này (hiện nay, TQ chưa thực hiện các GD hoán đổi, kỳ hạn, quyền lựa
chọn).
Từ năm 1994 đến nay TQ vẫn áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý của
Nhà nước. Tỷ giá giữa CNY và USD ổn định do TQ can thiệp vào TT ngoại hối
thông qua việc phát hành đồng nội tệ để mua lại số ngoại tệ dư thừa hay bán số
ngoại tệ còn thiếu để cân bằng cung cầu trên TT.
Như vậy, quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá của TQ gắn liền với công cuộc cải
cách nền kinh tế và có xu hướng ngày càng gia tăng yếu tố TT. Từ năm 1994,
NHND TQ chủ yếu sử dụng biện pháp kinh tế thông qua việc mua bán ngoại tệ
trên TT để điều chỉnh tỷ giá ở mức độ phù hợp.
e/ Về quản lý DTNH
Sau 2001, do TQ gia nhập WTO, cả cán cân vốn và cán cân vãng lai thặng dư
lớn đã góp phần làm gia tăng DTNH của TQ. Hiện nay, DTNH của TQ trên 260
tỷ USD. Cán cân vãng lai và cán cân vốn của TQ luôn thặng dư là do TQ có lợi
thế về nhân công, nguyên liệu rẻ; TQ có nhiều chính sách ưu đãi để thu hút đầu
tư nước ngoài. DTNH Nhà nước thuộc quyền quản lý của Chính phủ, NHND
TQ hay Bộ Tài chính không có quyền sử dụng số ngoại tệ này ngoài việc can
thiệp TT ngoại hối. Khi hai cán cân vãng lai và cán cân vốn thặng dư, TQ chịu
áp lực giảm phát nhẹ nên NHND TQ có thể phát hành tiền để mua ngoại tệ dư
thừa mà không sợ lạm phát.

19
F/ NHẬN XÉT
TQ có quan điểm quản lý thông suốt trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới
là hướng tới chính sách tự do hoá một cách thận trọng, sẽ không tự do hoá cho
đến khi có khả năng quản lý của Nhà nước. Do chính sách thận trọng của TQ,
các GD vốn của TQ, nhất là GD gây nợ được kiểm soát chặt chẽ. Các GD phát
sinh chứa đựng rủi ro và khó kiểm soát ít đựơc áp dụng. Tuy nhiên điều này đã
cản trở TQ, cụ thể TT ngoại hối kém phát triển, các hoạt động trên TT còn sơ
khai và không phong phú. Việc vay vốn nước ngoài còn quá phức tạp và hạn chế
tính tự chủ của DN.
20
1.3.2 QLNH Ở THÁI LAN (TL)
Những điểm chính liên quan đến chính sách QLNH của TL hiện nay là:
* Kết hối ngoại tệ: Mọi nguồn thu ngoại tệ (kể cả nguồn thu từ các GD vốn)
của người cư trú đều phải chuyển ngay về nước và bán cho NHTM hoặc gửi vào
TK. Chủ TK được giữ lại số ngoại tệ phải thanh toán trong vòng 3 tháng (có
chứng từ chứng minh), phần vượt trội phải kết hối trong vòng 7 ngày.
* Việc quản lý về mở và sử dụng TK ngoại tệ
Đối với người cư trú TL được mở TK ngoại tệ và gửi vào TK số tiền (có
nguồn gốc nước ngoài hoặc từ vay ngoại tệ, không được mua ngoại tệ gửi vào
TK) với số dư không vượt quá nhu cầu thanh toán trong 3 tháng. Số dư cuối
ngày được phép duy trì trên TK là 5 triệu USD đối với tổ chức và 500 000 USD
đối với cá nhân. Được gửi ngoại tệ tiền mặt vào TK nhưng không vượt quá 2
000 USD/ngày; không được rút ngoại tệ tiền mặt (trừ trường hợp được phép
mang đi nước ngoài). Còn đối với người không cư trú, không có hạn chế đặc
biệt đối với TK ngoại tệ.
TK đồng Baht của người không cư trú được phép thu từ bán ngoại tệ có nguồn
gốc từ nước ngoài hoặc trên TK ngoại tệ. Số dư trên TK đồng Baht được phép
tự do chuyển đổi ra ngoại tệ và chuyển ra nước ngoài. Số dư trên chỉ được phép
duy trì đến mức 50 triệu Baht.

* Việc quản lý vay, trả nợ nước ngoài
Các công ty đi vay trực tiếp nước ngoài rất ít mà chủ yếu thông qua các
NHTM (đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài). Nguồn cho vay ngoại
tệ này phải từ nước ngoài chuyển vào; được hạch toán thành quỹ riêng (các
NHTM phải xin phép NHTW để thực hiện). Do đó, các công ty vay NHTM từ
nguồn ngoại tệ này được coi là vay nước ngoài.
Hạn chế cho vay nước ngoài, một công ty chỉ cho vay nước ngoài (đối với
công ty trực thuộc hoặc liên doanh với nước ngoài không quá 25% vốn) tối đa
10 triệu USD/năm; không cho vay để đầu tư mua bất động sản và CK ở nước
21
ngoài. Ngân hàng, TCTC được mua, bán tài sản Tài chính nước ngoài nhưng
không vượt quá 15% vốn tự có ròng.
Hiện nay, thông qua hệ thống TK (kể cả TK lưu ký CK) và hệ thống báo cáo,
các cơ quan quản lý nắm được doanh số GD CK hàng ngày của các nhà đầu tư,
trong đó phân biệt nhà đầu tư nước ngoài và trong nước; vốn nước ngoài chuyển
vào đầu tư CK không hạn chế nhưng phải chuyển đổi ngoại tệ ra Baht nếu giữ
ngoại tệ trên TK quá 3 tháng. Hạn chế việc người cư trú vay Baht để đầu tư CK
hoặc thế chấp CK để vay bản tệ. Không áp dụng hạn chế về thời hạn chuyển ra
mà áp dụng mức thuế thống nhất. Nhà đầu tư được tự do chuyển đổi ngoại tệ và
chuyển ra nước ngoài nhưng phải xuất trình các chứng từ cho NHTM để báo cáo
NHTW.
Tóm lại, TL đang thực hiện chính sách khuyến khích VĐT từ nước ngoài
chuyển vào (đặc biệt là các luồng vốn ổn định, dài hạn) và hạn chế tối đa chuyển
vốn ra nước ngoài dưới các hình thức. Sau cuộc khủng hoảng Tài chính-Tiền tệ
xảy ra năm 1997 vừa qua, TL đã đề ra nhiều biện pháp QLNH chặt chẽ hơn, như
cá nhân không được phép chuyển vốn ra nước ngoài (trừ trường hợp đặc biệt),
theo dõi và quản lý để hạn chế tiêu cực đối với các nguồn vốn ngắn hạn. TL
cũng không cho phép chuyển đồng bản tệ ra nước ngoài và khống chế số dư trên
TK đồng bản tệ là không quá 50 triệu Baht nhằm ngăn chặn việc đầu cơ đồng
Baht. Ngoài ra, hiện nay TL cũng quy định các NHTM phải thực hiện chế độ

báo cáo rất chi tiết (hàng ngày khoảng 20 báo cáo liên quan đến các GD ngoại
hối thông qua mạng vi tính).
1.3.3 CHÍNH SÁCH QLNH CỦA MĨ
Mĩ là một cường quốc kinh tế với nền kinh tế TT phát triển, tự do hoá thương
mại, đầu tư và có TT Tài chính-Tiền tệ phát triển rất năng động, hiệu quả. Đối
với quốc gia này, có thể nói là các GD ngoại hối được tự do hoá. Không tồn tại
khái niệm QLNH mà chỉ tồn tại một số những hạn chế liên quan đến ngoại hối
như sau:
22
Về hoạt động thanh toán và nhận thanh toán còn tồn tại một số hạn chế liên
quan đến an ninh quốc tế. Bộ Tài chính điều hành các hình phạt kinh tế đối với
những GD tài chính thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp với CuBa, IRắc,
CHDCND Triều Tiên... Bộ Tài chính cũng chịu trách nhiệm phong toả các TK
của các nước trên.
Kiểm soát đối với XNK giấy bạc ngân hàng. Mọi người vào và ra khỏi Mĩ
mang theo hơn 10.000 USD bằng bản tệ hoặc ngoại tệ, séc du lịch, thẻ rút tiền,
CK chuyển nhượng vô danh phải khai báo cho Hải quan cửa khẩu.
Các GD vãng lai được tự do hoá. Các GD vốn còn một số hạn chế trong việc
mua, bán CK trên TT vốn dài hạn. Đối với việc kiểm soát hoạt động đầu tư trực
tiếp, chỉ cấm đầu tư của nước ngoài nếu đe doạ an ninh quốc gia.
1.3.4 BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ CƠ CHẾ QLNH
CỦA CÁC NƯỚC
Qua những nét khái quát về cơ chế QLNH của Trung Quốc, Thái Lan và Mĩ
có thể nói chính sách QLNH của từng quốc gia rất khác nhau và luôn thay đổi
phù hợp với từng giai đoạn và mức độ phát triển của nền kinh tế; đồng thời có
sự quan hệ chặt chẽ giữa chính sách QLNH và các chính sách kinh tế khác như
chính sách về thương mại, đầu tư, lãi suất, thuế...
Chính sách QLNH của từng quốc gia phụ thuộc vào mức độ phát triển của nền
kinh tế nói chung và của TT Tài chính-Tiền tệ nói riêng. Cụ thể ở Trung Quốc
và Thái Lan là những nước đang phát triển với TT Tài chính-Tiền tệ chưa ổn

định và hoạt động chưa có hiệu quả thì chính sách QLNH còn phải kiểm soát
các GD chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi đất nước nhằm đảm bảo cân bằng cung
cầu ngoại tệ, ổn định TT Tiền tệ và không làm suy giảm DTNH quốc gia. Còn
Mĩ là một nước kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại, đầu tư và có TT Tài
chính-Tiền tệ phát triển năng động và hiệu quả nên việc kiểm soát luồng chu
chuyển ngoại tệ là không cần thiết và chủ yếu để TT tự điều tiết theo quy luật
cung cầu. Chính phủ chỉ sử dụng các chính sách vĩ mô và các công cụ TT để
định hướng TT hoạt động có hiệu quả.
23
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế, hầu hết các nước đang phát triển có xu hướng
ngày càng nới lỏng chính sách QLNH. Tuy nhiên, mỗi quốc gia tuỳ thuộc bối
cảnh nền kinh tế mà có những bước đi thích hợp để từng bước tự do hoá ngoại
hối cho phù hợp. Nhìn chung cần có sự thận trọng trong quá trình dỡ bỏ các hạn
chế ngoại hối nhằm ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ
NGOẠI HỐI Ở VIỆT NAM
2.1 CHÍNH SÁCH QLNH THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1988
2.1.1 NHÀ NƯỚC ĐỘC QUYỀN VỀ QUẢN LÝ VÀ KINH
DOANH NGOẠI HỐI
Những điều cơ bản về QLNH trong những năm trước đổi mới được thể hiện
như sau:
Chính phủ độc quyền kinh doanh ngoại hối. Mọi hoạt động thanh toán đối
ngoại và liên quan dến ngoại hối được thực hiện thông qua NHNT là đơn vị đại
diện của NHNN trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Khuyến khích ngoại tệ chuyển từ nước ngoài chuyển vào
Chính sách kiều hối giai đoạn này mang tính chất của nền kinh tế tập trung và
vẫn còn nhiều hạn chế nên chưa thực sự khuyến khích kiều hối chuyển về.
Ngoài việc cho phép người thụ hưởng được gửi tiết kiệm với lãi suất ưu tiên và
được cấp giấy chứng nhận để mua hàng taị các cửa hàng miễn thuế, chính sách

kiều hối quy định người thụ hưởng được phép giữ ngoại tệ và phải bán cho
NHNT với tỷ giá cao (tỷ giá thưởng) và chỉ được gửi về dưới 6 loại ngoại tệ
chính gồm: FRF, CHF, DM, GBP, HKD, USD.
Sau năm 1982, chính sách kiều hối được nới lỏng hơn trước như bắt đầu xoá
bỏ việc mua hàng tại cửa hàng miễn thuế và người thụ hưởng phải nộp phí được
phép kí gửi số ngoại tệ chuyển về với lãi suất được trả bằng ngoại tệ, được phép
chuyển vốn, lãi ra nước ngoài hoặc quy đổi VND theo tỷ giá có thưởng nhưng
lại hạn chế khối lượng rút tiền từng lần và loại tiền gửi về cho đến cuối năm
1987.
Cơ chế tỷ giá cố định được áp dụng trong thời kỳ này để điều hành chính sách
tiền tệ. Tỷ giá được xác định theo kế hoạch phát triển kinh tế của Chính phủ mà
không dựa vào quan hệ cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế. Do đó không phản
25

×