Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
1
ĐỀ DẪN HỘI THẢO:
"ĐỊNH HƢỚNG QUI HOẠCH BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN
ĐẦM ĐÔNG HỒ - VIỆT NAM"
- Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Hoàng Sa-
Kính thưa ….
……………………………………………………………………….
Tỉnh Kiên Giang được Chính phủ chọn là một trong 4 tỉnh trọng điểm
phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Với
tiềm năng lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di sản văn
hóa đã có hơn 300 năm, thị xã Hà Tiên đã trở thành khu kinh tế trọng điểm của
tỉnh Kiên Giang và được quy hoạch là khu
kinh tế cửa khẩu vào năm 2000. Định hướng phát triển của Hà Tiên là kinh tế
cửa khẩu, dịch vụ thương mại và du lịch, đặc biệt chú trọng đến việc quy
hoạch khai thác tài nguyên để phát triển bền vững. Là một vùng lõi thuộc Khu
dự trữ sinh quyển thế giới tại Kiên Giang - Việt Nam, hệ sinh thái núi đá vôi và
đất ngập mặn vùng Hà Tiên được đánh giá là hệ sinh thái đặc biệt, trong đó
đầm nước mặn Đông Hồ - Việt Nam là một điểm nhấn quan trọng trong hệ
thống đầm phá ven biển của Việt Nam. Đầm Đông Hồ đã gắn liền với đời sống
lịch sử xã hội của vùng đất Hà Tiên. Giá trị về tài nguyên thiên nhiên của đầm
Đông Hồ đã góp phần rất lớn phục vụ việc phát triển kinh tế xã hội của Hà
Tiên hơn 300 năm qua.
Cùng với sự thay đổi chế độ thủy văn dòng chảy qua chương trình thoát lũ
biển Tây và tình trạng khai thác tài nguyên, lấn chiếm lòng đầm để phát triển
hạ tầng quá mức cho phép đã làm suy thoái, xuống cấp hệ sinh thái đầm Đông
Hồ. Để khắc phục, bảo tồn và khai thác bền vững giá trị đa dạng sinh học của
đầm đồng thời ứng phó với tình trạng nước biển dâng ảnh hưởng trực tiếp đến
vùng ven biển vịnh Hà Tiên từ nhiều năm trước, UBND tỉnh Kiên Giang đã chỉ
đạo các ngành, các cấp tiến hành qui hoạch tổng thể đầm Đông Hồ theo hướng
vừa bảo tồn vừa khai thác phát triển bền vững theo hướng du lịch sinh thái.
Song song với việc lập qui hoạch nâng cấp thị xã Hà Tiên lên đô thị loại 3, tiến
đến mục tiêu xây dựng thành Thành phố văn hóa – du lịch, việc lập qui hoạch
chung đầm Đông Hồ đã được triển khai từng bước nhằm bảo đảm mục tiêu về
bảo tồn, khôi phục và phát triển bền vững đồng thời bảo vệ giá trị di sản văn
hóa của vùng đất Hà Tiên.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, do điều kiện khách quan việc nghiên cứu
thống kê, đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện các giá trị của đầm Đông Hồ
chưa được thực hiện nghiêm túc và khoa học. Mặt khác, do những tác động
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
2
quá trình phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ nhanh chóng như hiện nay, tác
động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải
xây dựng qui hoạch cụ thể với sự tham gia của các ngành có liên quan để từ đó
đề ra những giải pháp hữu hiệu để giữ gìn, bảo vệ và khai thác giá trị của đầm
Đông Hồ một cách bền vững. Việc qui hoạch phù hợp, thiết thực với lợi ích
của cộng đồng sẽ đem lại lợi ích vô cùng to lớn, góp phần tích cực vào việc
tăng tốc độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội cho Hà Tiên, Kiên Giang và Việt
Nam. Việc nghiên cứu, xây dựng qui hoạch để bảo tồn và phát triển bền vững
đầm Đông Hồ được chọn làm thí điểm để đánh giá khả năng triển khai thực
hiện việc lồng ghép trong qui hoạch của Dự án “Bảo tồn và Phát triển Khu dự
trữ sinh quyển Kiên Giang” thuộc Chương trình Biến đổi khí hậu và các hệ
sinh thái ven biển (CCCEP) giai đoạn 2011 – 2014, để từ đó rút kinh nghiệm
thực tiễn để triển khai nhân rộng ra các địa bàn khác.
Nhận thức được thực tế đó, sau khi đã trao đổi và được sự ủng hộ của Văn
phòng UNESCO tại Việt Nam, một số cơ quan nghiên cứu khoa học Việt Nam
và quốc tế, UBND tỉnh Kiên Giang phối hợp với với Tổ chức GIZ tổ chức
cuộc hội thảo với chủ đề: “Định hướng qui bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ,
Việt Nam”. Hôm nay, Ban Tổ chức Hội thảo rất vui mừng được đón tiếp toàn
thể quí vị khách quí, các tổ chức quốc tế, cơ quan Trung ương, đại diện lãnh
đạo các Khu dự trữ sinh quyển ở các tỉnh, các nhà nghiên cứu khoa học quốc tế
và Việt Nam đến tham dự Hội thảo. Cho phép tôi thay mặt Ban Tổ chức Hội
thảo gởi lời chào mừng nhiệt liệt và kính gửi tới quý đại biểu những tình cảm
trìu mến nhất.
Kính thưa…
Hội thảo “Định hướng qui bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt
Nam” đặt ra mục tiêu:
- Đánh giá tiềm năng, giá trị, hiện trạng và nâng cao chất lượng qui hoạch
đầm Đông Hồ; đánh giá đúng số lượng và chất lượng giá trị của đầm Đông Hồ
trong đời sống xã hội từ đó đề ra chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy
trong điều kiện mới.
- Nâng tầm ảnh hưởng giá trị về môi trường sinh thái, đa dạng sinh học,
tác động đến việc phát triển kinh tế - xã hội của đầm Đông Hồ đối với Việt
Nam và các nước trong khu vực.
- Các thông tin, ý kiến đóng góp, nghiên cứu mang tính khoa học của các
nhà khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia Việt Nam và quốc tế trình bày
tại Hội thảo là tài liệu cơ sở cho các ngành, các cấp thực hiện việc xây dựng
qui hoạch và triển khai các chương trình, kế hoạch bảo tồn và phát triển bền
vững đầm Đông Hồ trong bối cảnh biến đổi của khí hậu và nước biển dâng,
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
3
đồng thời góp thực hiện kế hoạch xây dựng thị xã Hà Tiên trở thành Thành phố
văn hóa – du lịch trong tương lai.
Nội dung Hội thảo “Định hướng qui bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ -
Việt Nam” hướng đến 03 vấn đề chính sau:
1. Bảo tồn giá trị của đất ngập nước, rừng ngập mặn và tính đa dạng
sinh học của đầm Đông Hồ - Việt Nam: Đưa ra những nghiên cứu đánh giá,
xác định đầy đủ các giá trị giá trị về đa dạng sinh học, sinh thái và môi trường
của đầm Đông Hồ nằm trong tổng thể của hệ sinh thái vùng Hà Tiên; tập hợp ý
kiến về định hướng bảo tồn các giá trị theo đặc thù của vùng đất Hà Tiên; có
giải pháp khả thi, có lộ trình thời gian, kế hoạch phát triển và khai thác những
giá trị đó trong việc tổ chức đời sống cộng đồng xã hội.
2. Mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển giá trị đầm Đông Hồ trong
bối cảnh biến đổi khí hậu và ứng phó với nước biển dâng: Nêu ra mối quan
hệ giữa bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ; đề xuất định hướng về nghiên cứu,
bổ sung cứ liệu khoa học về giá trị của đầm Đông Hồ, sự biến đổi các giá trị đó
tác động đến môi trường sinh thái; đề xuất các giải pháp để tăng cường vai trò
quản lý của chính quyền và cộng đồng dân cư nhằm bảo tồn đa dạng sinh học
và tăng khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu.
3. Hiện trạng sinh kế, vấn đề môi trường - xử lý môi trường, định
hướng qui hoạch và thực hiện qui hoạch đầm Đông Hồ - Việt Nam gắn kết
với chiến lược bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa của Hà Tiên để
khai thác kinh tế du lịch: Nêu lên thực trạng đời sống, sinh kế của cộng đồng
dân cư khu vực đầm Đông Hồ; các vấn đề về môi trường tự nhiên, môi trường
xã hội và đề xuất giải pháp xử lý phù hợp; đề xuất định hướng qui hoạch và
thực hiện việc triển khai qui hoạch; đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát triển
giá trị của đầm Đông Hồ gắn liền với việc bảo tồn các giá trị lịch sử nhân văn
của Hà Tiên đề xuất các giải pháp khai thác phát triển kinh tế du lịch theo mục
tiêu phát triển bền vững trong điều kiện mới; gợi ý định hướng các đề án cụ thể
để phát huy giá trị di sản văn hoá Hà Tiên và giá trị của đầm Đông Hồ thông
qua các chương trình giáo dục nâng cao ý thức và sự tự nguyện tham gia của
cộng đồng dân cư địa phương.
Từ 03 vấn đề chính nên trên, Ban Tổ chức Hội thảo rất mong nhận được
nhiều ý kiến đóng góp của quí vị đại biểu, các nhà khoa học, các chuyên gia p
tại Hội thảo hoặc bằng văn bản sau Hội thảo này.
Thay mặt Ban Tổ chức Hội thảo, tôi xin chân thành cảm ơn sự tham gia
nhiệt tình của quý đại biểu để giúp cho Hội thảo của chúng ta có thể thành
công tốt đẹp !
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
4
NHÓM CHUYÊN ĐỀ 1
Bảo tồn giá trị đất ngập nước, rừng ngập mặn và tính đa dạng sinh học của
đầm Đông Hồ - Việt Nam
TT
Tên tham luận
/tác giả
Nội dung tóm tắt
01
Giá trị bảo tồn đất
ngập nước, rừng ngập
mặn và tính đa dạng
sinh học đầm Đông Hồ
- (TS. Lê Đức Tuấn)
02
Đặc điểm tự nhiên về
môi trường sinh thái
của vùng đất ngập
nước "Đầm Đông Hồ -
Hà Tiên" tỉnh Kiên
Giang – (TS. Trương
Minh Chuẩn)
03
Hiện trạng môi trường
sinh thái và xử lý môi
trường trong định
hướng phát triển bền
vững đầm Đông Hồ
tỉnh Kiên Giang - Việt
Nam - (PGS.TS. Thái
Thành Lượm)
04
Một số định hướng
quy hoạch và thực hiện
quy hoạch đầm Đông
Hồ - Hà Tiên – (TS.
Nguyễn Văn Hảo)
05
Định hướng quy hoạch
thủy sản và thực hiện
quy hoạch bào vệ hệ
sinh thái đất ngập
nước, khai thác và nuôi
trồng thủy sản đầm
Đông Hồ, Hà Tiên –
(CNSH. Lê Quảng
Đà)
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
5
GIÁ TRỊ BẢO TỒN ĐẤT NGẬP NƢỚC, RỪNG NGẬP MẶN
VÀ TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC ĐẦM ĐÔNG HỒ
TS. Lê Đức Tuấn (Giám đốc TT Nghiên cứu rừng ngập mặn Cần Giờ)
TS. Trương Minh Chuẩn (Giám đốc Phân hiệu Đại học Thủy sản KG)
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kỳ phải ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu ở nước ta hiện nay, việc
bảo tồn đất ngập nước và rừng ngập mặn vùng ven biển là cực kỳ cấp thiết vì bờ biển
Việt Nam có chiều dài trên 3.260 km.
Do điều kiện địa lý, vùng ven biển nước ta có nhiều các đầm, phá, và các khu
rừng ngập mặn có giá trị cả về mặt môi trường, cảnh quan tự nhiên lẫn kinh tế xã
hội; là nguồn cung cấp thức ăn cho xã hội con người và có các vai trò chức năng như
môi trường sống cho con người cùng nhiều loài sinh vật khác. Đặc biệt, vai trò phòng
hộ môi trường của các đầm, phá, rừng ngập mặn vùng ven biển là điều mà mọi người
chúng ta đều biết.
Đầm Đông Hồ ở thị xã Hà Tiên, vùng ven biển tỉnh Kiên Giang là một trong
những địa điểm mang đầy đủ các đặc tính của một vùng đất ngập nước có rừng ngập
mặn. Do đó, việc bảo tồn các giá trị của vùng đất ngập nước có rừng ngập mặn và
tính đa dạng sinh học của đầm Đông Hồ là việc cần phải quan tâm, không chỉ của
nhân dân và chính quyền địa phương mà còn là trách nhiệm của các nhà khoa học,
nhà quản lý hoạch định chính sách và chính quyền cấp tỉnh cũng như cấp trung ương.
II. VAI TRÕ CHỨC NĂNG CỦA CÁC VÙNG ĐẤT NGẬP NƢỚC VÀ RỪNG
NGẬP MẶN
2.1. Khái niệm về đất ngập nƣớc
Hiện nay có nhiều khái niệm về đất ngập nước, nhưng nhìn chung đất ngập
nước là loại đất có nước che phủ bên trên hoặc nước kề bên mặt đất hoặc nước hiện
diện trong vùng đất có rễ cây quanh năm hoặc theo mùa trong năm, bao gồm cả trong
mùa trồng trọt. Sự hiện diện của nước trong thời gian dài hoặc tái xuất hiện theo chu
kỳ là yếu tố chính quyết định đặc tính tự nhiên cho sự phát triển của đất và các loại
quần xã động thực vật sống dưới đất hoặc trên mặt đất. Đất ngập nước có thể được
xác định bởi sự hiện diện của các loài thực vật chịu ngập phù hợp với đời sống trong
các loại đất được tạo thành do nước ngập hoặc các điều kiện bão hòa nước là đặc
điểm của đất ướt (NAS 1995; MITSCH và GOSSELINK 1993). Cũng có thể gọi là
đất ngập nước trong các trường hợp không có đất ẩm nước và thảm thực vật chịu
ngập nhưng phải có sự hiện diện của các cơ thể sống khác cho thấy có sự bão hòa
nước tái xuất hiện theo chu kỳ (NAS 1995).
Theo Cowardin và cộng tác viên (1979): đất ngập nước là vùng đất chuyển
tiếp giữa hai hệ đất liền và nước nơi mà nước thường có trên hoặc gần kề bề mặt đất
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
6
hoặc là đất được phủ bởi một lớp nước cạn, và hoặc có thêm một hoặc vài tính chất
sau:
- Theo chu kỳ tối thiểu, đất có sự chiếm ưu thế của các loài cây chịu ngập
nước.
- Tầng nền là đất ngậm nước không thể làm khô được.
- Tầng nền không là đất và bão hòa bởi nước hoặc bị che phủ bởi một lớp
nước cạn trong mùa trồng trọt hàng năm.
Theo công ước quốc tế Ramsar (Ramsar, Iran 1981): Đất ngập nước là các
vùng mà nơi đó nước là nhân tố cơ bản điều khiển môi trường và đời sống của các
loài động thực vật trong môi trường đó. Đất ngập nước có ở những nơi mà tầng nước
hiện diện tại đó hoặc gần kề mặt đất, hoặc đất bị che phủ bởi một lớp nước cạn. Công
ước Ramsar mở rộng khái niệm về đất ngập nước tại điều 1.1: Đất ngập nước được
định nghĩa bởi:
"các vùng đầm lầy, miền đầm lầy, đất than bùn hoặc nước, tự nhiên hay nhân
tạo, thường xuyên hoặc thỉnh thoảng có nước tù đọng hoặc nước chảy, ngọt, lợ hoặc
mặn, bao gồm cả các vùng biển có độ sâu không quá 6m khi triều kém"
Và thêm nữa ở điều 2.1:
" có thể sát nhập cả các vùng ven sông và ven biển tiếp giáp với vùng đất
ngập nước, và các đảo hoặc các bộ phận của vùng biển sâu hơn 6m khi triều kém
nhưng nằm bên trong vùng đất ngập nước".
Như thế theo phạm vi công ước Ramsar này mở rộng ra đến rất nhiều loại
hình môi trường sống (habitat), bao gồm các sông và hồ, đầm phá ven biển, rừng
ngập mặn, bãi than bùn, và luôn cả các rạn san hô.
Thêm vào đó còn phải kể đến các vùng đất ướt nhân tạo như các ao đầm nuôi
tôm cá, đất nông nghiệp có hệ thống thủy lợi, ruộng muối, hồ chứa nước, các mỏ sỏi,
cống nước thải của các trại nuôi thủy sản, và các kênh đào.
2.2. Phân bố - Phân loại đất ngập nƣớc – Chế độ nƣớc
2.2.1 Phân bố
Đất ngập nước có ở khắp nơi trên thế giới, từ vùng cực có lớp băng tuyết vĩnh
viễn đến các vùng nhiệt đới. Hiện nay người ta chưa biết chính xác diện tích được
coi là đất ngập nước, nhưng theo Trung Tâm Giám sát bảo tồn thế giới (World
Conservation Monitoring Centre) thì con số ước tính khoảng 570 triệu ha (5,7 triệu
km
2
) chiếm 6% diện tích bề mặt trái đất; trong đó 2% là ao hồ, 30% là bãi lầy, 26%
là các miền đất lầy, 20% đầm lầy, và 15% đồng bằng ngập nước. Rừng ngập mặn
chiếm khoảng 240.000km
2
vùng ven biển, và khoảng 600.000km
2
rạn san hô.
2.2.2. Phân loại và chế độ nước
Theo tổ chức Wetlands thì đất ngập nước có thể phân loại như sau:
a) Đất ngập nước mặn Có các tên và loại hình khác nhau, dựa trên loại
thảm thực vật chiếm ưu thế trên vùng đất ngập nước. Ở vùng nhiệt đới, đất ngập
nước mặn được gọi là đầm lầy rừng ngập mặn với đặc trưng là các quần thụ cây rừng
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
7
ngập mặn và các cơ thể sống đặc hữu sống giữa các bộ rễ và cành nhánh chằng chịt.
Nhưng ở phía Bắc và Nam vùng nhiệt đới, trong khu vực ôn đới, các đầm lầy rừng
ngập mặn nhường chổ cho các vùng đất ướt thảm cỏ đầm lầy ngập mặn (salt
marshes). Chế độ nước phụ thuộc vào thủy triều là chính và một phần rất nhỏ lượng
nước ngầm và nước mưa.
b) Đầm lầy cỏ ngập mặn (Salt marshes)
Nói theo một cách nào đó, đầm lầy cỏ ngập mặn là các cánh đồng cỏ ven biển.
Một biển cỏ xác định những vùng đất ngập nước này. Đầm lầy cỏ ngập mặn thường
thấy dọc theo các dãi đất rộng bên trong các vịnh nhỏ, các lạch, các cửa sông và các
vịnh lớn nơi chúng được bảo vệ tránh khỏi sức mạnh của sóng vỗ. Trầm tích mang
đến do thủy triều và phù sa mang đến do các sông lắng đọng lại trong các khu vực
này tạo điều kiện lý tưởng cho thực vật đầm lầy phát triển. Cỏ là loại thực vật thông
thường ở vùng đầm lầy cỏ ngập mặn. Cỏ Spartina là nhóm cỏ thường thấy nhất.
c) Bãi triều (Tidal flats)
Các môi trường sống đặc biệt gọi là bãi triều thường thấy bao quanh rìa ngoài
về phía biển của các đầm lầy ngập mặn. Bãi triều là các bãi bùn hoặc cát nằm phơi ra
khi triều thấp và chìm hoàn toàn trong nước khi triều cao. Hầu hết các loài thực vật,
kể cả cỏ Spartina dày dạn cũng không mọc được nơi có điều kiện khắc nghiệt này.
Thật ngạc nhiên là tảo (algae) và vi khuẩn (bacteria) rất phong phú ở các khu vực
này, và chúng cung cấp thức ăn cho các loài sò, cua, ốc, trùn và nhiều loài động vật
không xương sống khác sống trong bùn. Khi triều xuống, nhiều loài chim đến từng
bầy trên bãi triều phơi ra để ăn các loài sinh vật này. Khi triều lên thì cá và các loài
thú khác lại bơi đến các bãi này để tìm thức ăn.
d) Đầm lầy rừng ngập mặn
Đầm lầy rừng ngập mặn là bản sao đối chiếu ở vùng nhiệt đới của đầm lầy cỏ
ngập mặn vùng ôn đới. Cũng như đầm lầy cỏ ngập mặn, quần xã đầm lầy rừng ngập
mặn là một nhóm các loài thực vật liên quan nhau cung cấp một lượng lớn thức ăn và
là nơi trú ẩn cho nhiều loài thú. Nhưng thực vật chiếm ưu thế của đầm lầy rừng ngập
mặn là cây rừng ngập mặn chứ không phải cỏ và các loài cây thân thảo điển hình của
đầm lầy ngập mặn. Sương giá có thể làm chết cây rừng ngập mặn, vì thế quần xã
rừng ngập mặn chỉ xuất hiện ở các vùng nhiệt đới.
2.2.2 Đất ngập nước ngọt
a) Đầm lầy cỏ (Marshes)
Đầm lầy ngập ngọt là một loại cảnh quan phổ biến ở khu vực Bắc Mỹ, tạo
thành đến 90% diện tích đất ướt. Nước trong vùng đầm lầy dao động lên xuống theo
mùa, lên cao trong suốt mùa mưa nhiều và thường biến mất trong mùa khô. Có thể
phân biệt đầm lầy với các loại đất ướt ngập ngọt khác bằng các loại thực vật mọc tại
vùng này. Các bụi dầy thực vật có cọng mềm như cỏ, lau lách, cói rất phong phú. Và
các loại thực vật không phải thân gỗ như cỏ đuôi mèo, huệ nước, cỏ dại mọc
nhanh…. cũng rất phổ biến.
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
8
b) Bãi lầy (Bogs)
Ba từ nêu lên đặc trưng của các bãi lầy trên thế giới là: than bùn, acid và
nước. Bãi lầy là đất ngập nước ngọt thường chứa một khối lượng lớn than bùn giàu
chất hữu cơ tạo thành bởi nguyên liệu là thực vật mục rã. Than bùn thành hình khi
thực vật chết và lá-thân-cành-rễ của chúng rơi vào trong nước. Sau thời gian dài vật
chất giàu acid này bị nén lại, tạo thành các lớp than bùn dày. Ở nhiều bãi lầy, than
bùn có thể dày trên 12m. Các bãi lầy thường được tìm thấy ở các vùng lạnh hơn trên
thế giới. Chúng thành hình ở các vùng đất ngập nước nơi có rất ít nước chảy vào và
chảy ra.
c) Đầm lầy (Swamps)
Các nhà khoa học định nghĩa đầm lầy cây bụi là các vùng đất ngập nước mà
cây bụi hoặc cây thân gỗ chiếm ưu thế. Chúng thường no nước trong mùa trồng trọt
và có thể khô đi vào cuối mùa hè. Các đầm lầy có ở khắp mọi nơi từ vài phân đến cả
mét nước hoặc hơn nữa. Các đầm lầy nước ngọt có thể xếp vào hai nhóm: ĐẦM
LẦY CÓ RỪNG, thường kết hợp với các hệ thống sông chính và xuất hiện ở các
đồng bằng ngập nước ven sông, ẩm ướt quanh năm; và ĐẦM LẦY CÂY BỤI, đặc
trưng bởi thảm thực vật cây bụi mọc thấp và thường chỉ ẩm ướt một phần trong năm,
và khô đi trong suốt mùa hè.
2.3. Tính chất và sự đa dạng sinh học của đất ngập nƣớc
2.3.1. Tính chất của đất ngập nước
Dĩ nhiên tất cả các loại đất ngập nước đều ẩm ướt, nhưng chúng là ướt do ao,
hồ, suối, sông và biển. Hầu hết các nhà khoa học nghiên cứu về đất ngập nước đều
giới hạn các định nghĩa của họ về các môi trường sống này là "tối thiểu theo định kỳ,
đất phải bị ngập nước hoặc bị che phủ bởi một lớp nước cạn. Các vùng đất này nuôi
nấng các loài động thực vật có cuộc sống thích nghi với môi trường nước hoặc ngập
nước.
Tính chất quan trọng nhất của các vùng đất ngập nước là có vùng chung
quanh sủng nước (soggy); vì hầu hết các diện tích đất ngập nước đều nằm ở những vị
trí thấp nên mưa và các dòng chảy luôn tạo điều kiện cho đất ngậm nước bão hòa.
Cũng như nhiều vùng đất ngập nước nằm ở những nơi mà nước ngầm nằm ngay trên
mặt đất hoặc rất gần mặt đất; điều này có nghĩa là các vùng đất ngập nước này
thường xuyên được cung cấp nước từ các mạch nước ngầm. Còn các vùng đất ngập
nước khác giữ được ẩm ướt vì chúng nằm sát các dòng sông hoặc các dạng nguồn
nước khác chảy qua. Và dọc theo ven biển, thủy triều tạo nên sự ngậm nước thành
hình vùng đất ngập nước ven biển.
Ngoài ra có một tính chất đặc biệt là con người hoặc một vài loài động vật
khác có thể tạo ra một vùng đất ngập nước. Ví dụ như con người đắp đập làm thủy
điện hoặc thủy lợi; hay con hải ly có thể đắp một đoạn suối để bắt cá làm cho nước
tràn lên bờ thành một vũng nước suối rộng hơn.
2.3.2. Sự đa dạng sinh học của đất ngập nước
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
9
Đất ngập nước là một trong những môi trường có năng suất cao nhất, là cái
nôi của sự đa dạng sinh học; chúng cung cấp nước và sản phẩm sơ cấp cho vô số loài
động thực vật tạo điều kiện tồn tại và sinh sống cho các loài này. Các vùng đất ngập
nước là nơi tập trung đông đảo các loài chim, động vật có vú, bò sát, lưỡng thê, cá và
động vật không xương sống.
Đất ngập nước cũng là nơi tồn trữ các gen thực vật quan trọng, ví dụ như lúa
là loài thực vật phổ biến của vùng đất ướt là thức ăn của một nữa loài người.
Có nhiều kiểu đất ngập nước nên mức độ đa dạng sinh học cũng khác nhau.
Theo thứ tự từ thấp đến cao về mức độ đa dạng sinh học, ta có thể liệt kê như sau:
a) Đa dạng sinh học thấp nhất
Đa dạng sinh học thấp nhất của các vùng đất ngập nước là đầm lầy than bùn vì
năng suất thấp và nước mang tính acid cao. Tuy nhiên đây lại là môi trường sống cho
loài nai sừng tấm Bắc Mỹ, nai, gấu đen, hải ly, mèo rừng, chim bói cá, thỏ chân
trắng, rái cá, chồn Vizon. Các loài chim di trú cũng hường ghé lại các vùng này trên
đường bay của chúng; có một số ít loài chim làm tổ, đẻ trứng và sinh sống tại đây
như le le, sếu, cú xám to, cú tai ngắn, gà nước Sora, sẻ đuôi nhọn (Mitsch &
Gosselink 1993).
Nơi có độ pH > 4,5 là môi trường sống cho các loài cá như cá chó (răng
nhọn), cá vược miệng nhỏ (Camp, Dresser & Mc Kee 1981; Novotony & Olem
1995).
b) Đa dạng sinh học cao
Là các đầm lầy nước ngọt đồng cỏ - rừng, đây là môi trường sống cho nhiều
chu kỳ sống của nhiều loài động vật có vú, bò sát, lưỡng thê và chim nước.
Đánh giá chung về đa dạng các loài chim thì có thể nói có đến 50 - 75% các
loài chim nước sống trọn chu kỳ sống ở loại đất ngập nước này, chúng làm tổ - đẻ
trứng - tìm thức ăn tại đây.
Các loài thú có vú, bò sát, lưỡng thê và chim sống tại các vùng đất ướt loại
này là nhờ vào thức ăn, nước và môi trường sống giàu dinh dưỡng này. Theo thống
kê có trên 400 loài.
Các đầm lầy nước ngọt đồng cỏ - rừng còn là nơi cung cấp thức ăn và nguồn
dinh dưỡng cho các loài cá nước ngọt và trên sông tiếp giáp các đầm lầy này.
Khoảng 50% các chất hữu cơ và dinh dưỡng của các đầm lầy theo nước chảy ra sông
rạch lân cận.
c) Đa dạng sinh học cao nhất
Đầm lầy ngập mặn, là nơi nhận các nguồn nước ngọt từ sông đổ ra biển và
nước mặn từ biển đưa vào đất liền, là nơi có năng suất sơ cấp cao nhất trong các hệ
sinh thái đất ngập nước.
Đầm lầy ngập mặn là nơi cung cấp môi trường sống không những cho các loài
định cư tại chổ mà là nơi trãi qua một phần chu kỳ sống của các loài sinh vật biển.
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
10
Các động vật thủy sinh trong các vùng đất ngập nước này vô cùng phong phú, cả các
loài chim nước và nghêu sò ốc hến cũng thế.
Đầm lầy ngập mặn là vùng cung cấp đa dạng các loài động vật làm thức ăn
cho con người. Theo thống kê hiện nay, có trên 200 loài cây ngập mặn và tham gia
ngập mặn trên các vùng đất này. Về động vật có trên 400 loài từ phiêu sinh động
vật, giáp xác, lưỡng thê, hữu nhũ, chim, cá……
III. HIỆN TRẠNG KHU VỰC ĐẦM ĐÔNG HỒ
3.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1. Vị trí địa lý
Đông Hồ là một đầm nước mặn, nằm ở trung tâm thị xã Hà Tiên, nơi cửa sông
Giang Thành đổ ra biển. Chung quanh tiếp giáp với phường Đông Hồ, phường Tô
Châu và xã Phú Mỹ thuộc huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang. Đầm Đông Hồ có
diện tích 1.384,36ha, chiếm khoảng 1/2 diện tích 4 phường nội ô và bằng 1/8 diện
tích tự nhiên của thị xã Hà Tiên. Hồ có chiều dài theo hướng Bắc - Nam khoảng 4,6
km, chiều rộng theo hướng Đông - Tây khoảng 3,5km.
Đầm Đông Hồ rất nổi tiếng cả trong và ngoài nước, được xem như một trong
Hà Tiên thập cảnh, là một danh lam thắng cảnh hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên
Hà Tiên, có tên trong nhiều bài thơ của Tao đàn Chiêu Anh Các do Mạc Thiên Tứ
làm chủ soái.
3.1.2. Địa hình
Đầm Đông Hồ có dạng hình lòng chảo chứa phù sa, có nơi rất dày lên đến 1,3
– 1,5m. Do tác động của chế độ thủy văn tự nhiên từ dòng chảy của sông Giang
Thành, kênh Rạch Giá – Hà Tiên và chế độ nhật triều của thủy triều vùng biển Tây
tạo nên các khu vực có các luồng lạch và vùng bồi lắng khác nhau.
Đặc điểm địa hình khu vực đầm Đông Hồ
STT
KHU VỰC
RỘNG
(m)
SÂU
(m)
GHI CHÚ
01
Cửa sông Giang Thành
250
6 – 7
02
Kênh Rạch Giá – Hà Tiên
60
4 – 7
03
Rạch qua ấp Cừ Đức
70
4 – 7
04
Cửa Đầm thoát ra biển tại Cầu Nổi
250
6 – 7
05
Khu vực lòng hồ phía Đông
0,5 – 0,7
< 600 ha
06
Khu vực lòng hồ phía Tây
0,9 – 1,1
> 600 ha
07
Khu vực tự nhiên phía Đông Bắc
0,3 – (+0,3)
< 200 ha
08
Khu dân cư 2 bên ấp Cừ Đức
30 - 50
+(0,4 - 0,7)
09
Khu vực dân cư phía Đông Nam
+1,15
Mặt đường
10
Khu vực dân cư phía Tây Nam
+(1,13 – 1,45)
Mặt đường
11
Cồn nổi khu vực phía Tây Nam
0,2 – (+0,5)
13 ha
Nguồn: Nguyễn Xuân Viên (2004)
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
11
3.1.3. Khí tượng thủy văn
- Nhiệt độ trung bình: 27,4
o
C. Dưới nước trung bình: 28
o
C
- Lượng mưa trung bình: 2.089mm/năm
- Mùa mưa: Từ tháng 5 đến 10
- Mùa khô: Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.
- Chế độ gió: Mùa mưa có gió Tây và Tây Nam, mùa khô có gió Đông Bắc và
Bắc.
- Đặc điểm: Nước trong hồ thay đổi theo mùa. Mùa khô thường là nước mặn,
mùa mưa hồ lại có nước ngọt (do lũ đổ về).
- Dòng chảy: Dòng chảy lớn tập trung vào mùa lũ, thường xuất hiện từ tháng
7 đến tháng 11, với lượng nước chiếm khoảng 75% lượng nước cả năm. Dòng chảy
nhỏ xuất hiện vào các tháng mùa khô, từ tháng 1 đến tháng 4, tổng lượng nước chỉ
đạt khoảng 25%.
- Lượng phù sa mang theo dòng chảy rất lớn, chủ yếu từ sông Giang Thành.
- Đầm Đông Hồ chịu ảnh hưởng của chế độ Nhật Triều.
- Mực nước thấp nhất trong năm: -0.40
- Mực nước cao nhất trong năm: +0.70
- Mực nước lũ cao nhất (năm 1996): +1.15
- Bão: Về mùa mưa có ảnh hưởng của bão lớn, tới cấp 7 – 8 nhưng rất ít xảy
ra.
- Sóng lớn: Khi mưa giông có sóng lớn, cao nhất cũng có thể tới trên 1m.
3.1.4. Đặc điểm cảnh quan
Khu vực Đông Hồ nằm trong vùng có cảnh quan đẹp gồm cả núi, đồi, đồng
bằng, sông, biển, khí hậu nhiệt đới gió mùa, quanh năm ấm áp, động thực vật rất
phong phú. Trong đó có các lớp cảnh quan như sau:
- Lớp cảnh quan đồi núi: gồm những núi đồi có độ cao không lớn (Tô Châu
181m, Núi Lăng 30,4m, Thạch Động 101m) là núi đất đỏ hoặc núi đá vôi. Trong đó
có những dạng địa hình thoai thoải, vạt dấu tích tụ và các thung lũng chiếm ưu thế có
khả năng trồng rừng, trồng lương thực, hoa quả, hình thành các vườn rừng cho các
hoạt động du lịch sinh thái.
- Lớp cảnh quan đồng bằng: có cảnh quan nông nghiệp (đồng lúa, đồng màu,
trồng cây công nghiệp ngắn ngày), cảnh quan rừng (với độ che phủ không lớn, tập
trung thành các cụm nhỏ) cảnh quan bãi bồi ven biển và bãi cát ven biển.
- Cảnh quan biển: với những đảo lớn nhỏ trong khu vực xã Tiên Hải – Những
ngày trời trong có thể nhìn thấy cả đảo Phú Quốc, quần đảo Hải Tặc (Campuchia)
cảnh quan biển đẹp nhất vào lúc hoàng hôn, mặt trời lặn xuống biển sâu, những con
tàu đánh cá cập bến, mặt biển long lanh như dát bạc…
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
12
3.2. Hiện trạng kinh tế - xã hội
3.2.1. Hiện trạng dân cƣ và hạ tầng xã hội
Từ nhiều năm nay, con người đã làm ăn sinh sống ở phía Tây Nam và phía
Nam của Hồ (Khu vực phường Đông Hồ và phường Tô Châu). Đặc biệt số dân cư ra
định cư sinh sống trên dãy cồn nổi giữa hồ (trước kia là ấp Cừ Đức, nay là khu phố
V, phường Đông Hồ) với: 198 hộ, 1.256 nhân khẩu, nghề nghiệp chủ yếu của hộ là
khai thác hải sản, mua bán củi, lá dừa nước… cuộc sống rất khó khăn. Người dân
trồng tràm, mấm, đước, dừa nước… họ tự ý lấn chiếm ra lòng hồ trồng cây, giăng
đáy, gây nên sự phức tạp trong công tác quản lý và khai thác sử dụng đầm Đông Hồ,
ảnh hưởng đến môi trường và cảnh quan khu vực, ảnh hưởng đến thoát lũ.
Nhà cửa của dân đa số là nhà cấp III, IV, và nhà tạm cây lá. Cơ sở giáo dục
còn rất hạn chế, tại ấp chỉ có một điểm trường tiểu học 3 phòng.
Khu vực xung quanh hồ thuộc phường Tô Châu, đời sống dân sinh có khá
hơn, có nhiều nhà trường cấp II, III. Các công trình hạ tầng xã hội như trường học,
trạm y tế, bến xe ở ngay địa bàn phường, đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
3.2.2. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật
a) Hệ thống giao thông
- Từ Cầu Nổi đến Công an thị xã có đường tráng nhựa, vừa qua đã được đầu
tư nâng cấp đường, mở rộng vỉa hè, kè và công viên, tạo ra cảnh quan rất đẹp, nhất là
về ban đêm.
- Từ Công an thị xã đến Mương Đào – Rạch Ụ có đường đất đỏ rộng 5m. Đã
xây dựng cầu Mương Đào Rạch Ụ bằng bê tông cốt thép, rộng 3m, tải trọng 8 tấn ra
khu bãi rác theo qui hoạch tổng thể của thị xã.
- Từ Cầu Nổi đến Tháp Cao Đài phường Tô Châu có đường đất đỏ rộng 5m.
- Hai bên cồn khu phố V – phường Đông Hồ có cầu đường mới đổ bê tông
rộng 2m, nền đường 3 đến 5m.
- Còn lại toàn bộ xung quanh hồ phía Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc chưa có đường
giao thông, chỉ có các bờ đất nhỏ: 0,6 đến 0,8m, về mùa mưa đi lại rất khó khăn. Dân
cư ở khu phố V – phường Đông Hồ muốn về phường Đông Hồ hoặc Tô Châu phải đi
lại bằng tàu ghe.
b) Hệ thống điện: Khu dân cư phía Đông Nam đầm Đông Hồ thuộc phường
Tô Châu đã có điện lưới sử dụng từ lâu. Riêng khu dân cư khu phố V – phường
Đông Hồ , nghành điện đưa điện vượt qua đầm từ phía Mương Đào đến khu phố V –
phường Đông Hồ phục vụ chiếu sáng – sinh hoạt của nhân dân năm 2002.
c) Hệ thống cấp nước: Còn nhiều khó khăn, do điều kiện chung của Hà Tiên.
Khu vực khu phố V – phường Đông Hồ thiếu nước sinh hoạt nặng. Các khu vực
trong đất liền còn khá hơn nhưng mùa khô vẫn thiếu.
3.2.3. Hiện trạng sử dụng đất
Toàn bộ đất đai của đầm Đông Hồ đều do nhà nước quản lý, chưa giao đất lâu
dài cho các hộ dân.
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
13
STT
Loại đất
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
01
Mặt nước
963,36
69,59
02
Đất trồng dừa lá
370,20
26,74
03
Đất trồng đước, cây tạp
35,54
2,57
04
Đất dân dụng, vườn tạp
15,56
1,10
Tổng cộng:
1.384,36
100
Nguồn: Nguyễn Xuân Viên (2004)
3.3. Đa dạng sinh học khu vực đầm Đông Hồ
3.3.1. Thực vật
Thảm thực vật rừng ngập mặn chiếm ưu thế ở khu vực nước nông và ven bờ:
STT
TÊN KHOA HỌC
TÊN VIỆT NAM
Các loài ngập mặn chủ yếu (True mangrove species)
Acanthaceae
Họ Ô rô
01
Acanthus ebracteatus Vahl.
Ô rô trắng
02
Acanthus ilicifolius L.
Ô rô
Aizoaceae
Họ Rau đắng đất
03
Sesuvium portulacastrum L.
Sam biển
Arecaceae
Họ Cau dừa
04
Nypa fruticans Wurmb.
Dừa nước, Dừa lá
05
Phoenix paludosa Roxb.
Chà là biển
Avicenniaceae
Họ Mấm
06
Avicennia alba Bl.
Mấm trắng
07
Avicennia officinalis L.
Mấm đen
08
Avicennia marina Vierh. Var. Rumphiana Bakhuiz
Mấm quăn
Bignoniaceae
Họ Đinh
09
Dolichandrone spathacea (L. f.) K. Schum.
Quao nước
Combretaceae
Họ Bàng
10
Lumnitzera littorea (Jack) Voigt
Cóc đỏ
11
Lumnitzera racemosa Willd.
Cóc vàng, Cóc trắng
Euphorbiaceae
Họ Ba mảnh vỏ
12
Excoecaria agallocha L.
Giá
Meliaceae
Họ Xoan
13
Xylocarpus granatum Koen.
Xu ổi
14
Xylocarpus moluccensis (Lam.) Roem.
Xu sung
Myrsinaceae
Họ Đơn nem
15
Aegyceras corniculatum (L.) Blanco
Sú
16
Aegyceras floridum R. & Sch.
Sú
Pteridaceae
Họ ráng
17
Acrostichum aureum L.
Ráng đại
Rhizophoraceae
Họ Đƣớc
18
Bruguiera cylindrica (L.) Blume
Vẹt trụ, Vẹt khang
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
14
19
Bruguiera gymnorrhiza (L.) Lamk.
Vẹt dù, Vẹt rễ lồi
20
Bruguiera parviflora (Roxb.) W. & Arn. ex Griff.
Vẹt tách
21
Bruguiera sexangula (Lour.) Poir. in Lamk.
Vẹt đen
22
Ceriops decandra (Griff.) Ding Hou
Dà quánh, Dà đen
23
Ceriops tagal (Perr) C.B. Rob.
Dà vôi, Dà đỏ
24
Kandelia candel (L.) Druce
Trang
25
Rhizophora apiculata Bl.
Đước đôi
26
Rhizophora mucronata Poir. in Lamk.
Đưng, Đước xanh
27
Rhizophora stylosa Griff.
Đước chằng, Đước vòi
Rubiaceae
Họ Cà phê
28
Scyphiphora hydrophyllacea Gaertn. f.
Côi
Sonneraticeae
Họ Bần
29
Sonneratia alba Bl. J. E. Smith
Bần trắng
30
Sonneratia caseolaris (L.) Engler.
Bần chua
31
Sonneratia ovata Bak.
Bần ổi
Sterculiaceae
Họ Trâm
32
Heritiera littoralis Dryand
Cui biển
Một số loài tham gia rừng ngập mặn
(Mangrove associate species)
Annonaceae
Họ Na
33
Annona glabra L.
Bình bát
Asclepiadaceae
Họ Thiên lý
34
Finlaysonia obovata Wall.
Dây mủ
35
Gymnanthera nitida R. Br.
Lỏa hùng, Thiên lý dại
Asteraceae
Họ Cúc
36
Pluchea indica (L.) Lees.
Lức, Cúc tần
37
Wedelia biflora (L.) DC.
Sơn cúc hai hoa
Caesalpiniaceae
Họ Vang
38
Intsia bijuga (Colebr.) O. Ktze
Gõ biển, Gõ nước
Convolvulaceae
Họ Bìm bìm
39
Ipomoea pes-caprae (L.) Sw. subsp. brasiliense
(L.) Ooststr.
Muống biển
Fabaceae
Họ Đậu
40
Canavalia cathartica Du Petit-Thouars
Đậu cộ biển
41
Derris trifoliata Lour.
Cóc kèn
Flagellariaceae
Họ Mây nƣớc
42
Flagellaria indica L.
Mây nước
Malvaceae
Họ Bông
43
Hibiscus tiliaceus L.
Tra bụp
44
Thespesia populnea (L.) Soland. ex. Correa
Tra lâm vồ
Rubiaceae
Họ Cà phê
45
Psychotria serpens L.
Lìm kìm
Salvadoraceae
Họ Gai me
46
Azima sarmentosa (Bl.) Benth. & Hook.
Chùm lé
Verbenaceae
Họ Cỏ roi ngựa
47
Clerodendrum inerme (L.) Gaertn.
Ngọc nữ biển
48
Premna serratifolia L.
Cách, Vọng cách
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
15
3.3.2. Động vật
Một số loài động vật thường thấy ở khu vực đầm Đông Hồ:
STT
TÊN KHOA HỌC
TÊN VIỆT NAM
Squillidae
01
Squilla mantis (oratoria)
Tôm tích, Tôm bọ ngựa
Portindae
02
Scylla serrata
Cua biển
Penaeidae
Họ Tôm he
03
Penaeus indicus
Tôm bạc thẻ đỏ đuôi
04
Penaeus merguiensis
Tôm bạc thẻ
05
Penaeus monodon
Tôm sú
Xiphosura
Bộ Đuôi kiếm
06
Limulus polyphemus
Đuôi kiếm, Sam biển
07
Acetes sinensis
Tôm moi, Ruốc
Ostreidae
08
Ostrea rivularis
Hàu cửa sông, Hàu
Arcacea
09
Arca granosa
Sò huyết
Corbiculidae
10
Cyrena sumatrensis
Vọp
Veneridae
Họ Ngao
11
Meretrix lyrata (Sowerby)
Nghêu
Portamididae
12
Cerithidea cingulata Gmelin
Ốc leng, Ốc mút
Octopodidae
Họ Bạch tuộc
13
Octopus sp
Mực tua
Englaulidae
Họ cá trỏng
14
Coilia macrognathus Bleeker
Cá mề gà, Cá mồng gà
Plotosidae
Họ Cá ngát
15
Plotosus anguillaris (Bloch)
Cá ngát
Schilbeidae
Họ Cá tra
16
Pangasius polyuranodon Bleeker
Cá dứa
Mugilidae
Họ Cá đối
17
Mugil cephalus Linnaeus
Cá đối mục
Centropomidae
Họ Cá sơ biển
18
Lates calcarifer (Bloch)
Cá chẽm
Serranidae
Họ Cá mú
19
Epinephelus arcolatus (Forskal)
Cá mú chấm
Periophthalmidae
Họ Cá thòi lòi
20
Periophthalmus schlosseri (Pallas)
Cá thòi lòi
Apocrypteidae
Họ Cá bống kèo
21
Boleophthalmus boddarti (Pallas)
Cá bống sao
Varanidae
Họ Kỳ đà
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
16
22
Varanus salvator (Laurenti, 1786)
Kỳ đà nước
Boidae
Họ Trăn
23
Python molurus (Linnaeus, 1758)
Trăn đất, Trăn mốc
24
Python reticulatus (Schneider, 1801)
Trăn gấm
Elapidae
Họ Rắn hổ
25
Bungarus fasciatus (Schneider, 1801)
Rắn cạp nong
26
Naja naja (Linnaeus, 1758)
Rắn hổ mang
Viperidae
Họ Rắn lục
29
Trimeresurus popeorum Smith, 1937
Rắn lục xanh
Pelcanidae
Họ bồ nông
30
Pelecanus philippensis (Gmelin)
Bồ nông chân xám
Ardeidae
Họ Diệc
31
Ardea cinerea (Gould)
Diệc xám
32
Egretta garzetta (Linnaeus)
Cò trắng, Cò cá
33
Nycticorax nycticorax (Linnaeus)
Vạc
Ciconiidae
Họ Hạc
34
Leptoptilos javanica
Già đẫy
35
Mycteria leucocephala
Giang sen
Anatidae
Họ vịt
36
Dendrocygna javanica (Horsfield)
Le nâu, Le le
Rallidae
Họ Gà nƣớc
37
Amaurornis phoenicurus
Quốc
Columbidae
Họ Bồ câu
38
Streptopelia chinensis (Temminck)
Cu gáy, cu cườm, cu đất
Cuculidae
Họ Cu cu
39
Centropus sinensis (Hume)
Bìm bịp lớn
Mustelidae
Họ Chồn
40
Lutra lutra (Linnaeus, 1758)
Rái cá thường
3.3.3. Phiêu sinh vật
a) Phiêu sinh thực vật:
Theo Nghiên cứu Hiện trạng môi trường đầm Đông Hồ, Hà Tiên – Kiên Giang của
Viện Khoa học thủy lợi Miền Nam năm 2006. Kết quả đã định được 142 loài thực
vật phù du, trong đó tảo silic chiếm ưu thế về thành phần loài 86 loài, tiếp đến tảo lục
(26 loài); tảo mắt 12 loài; tảo lam (10 loài); tảo giáp (8 loài), như vậy chỉ trong một
phạm vi hẹp, thời điểm lấy mẫu chỉ tập trung vào 2 thời điểm mùa mưa và mùa khô
nhưng có số loài thực vật phù du khá phong phú, thể hiện tính chất đa dạng sinh học
của vùng. Điều này cũng được xác định nước trong hồ thường xuyên có sự lưu
chuyển giữa khối nước từ biển vào và 2 khối nước ngọt đổ về từ khu tứ giác Long
Xuyên và sông Giang Thành làm cho khu vực hệ thực vật có sự giao lưu.
Về sinh vật lượng, kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt rất lớn sinh khối
thực vật phù du trong vùng. Vào mùa khô sinh khối thực vật khá cao dao động từ
2.160 – 6.300 tế bào/lít; sang thời điểm màu mưa sinh khối đã giảm đi rõ rệt chỉ còn
dao động từ 613 – 1.581 tế bào/lít; sự khác biệt này được xác định do vào mùa khô
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
17
khối nước biển chi phối toàn bộ chất lượng nước trong hồ, nước hồ thường trong nên
thực vật trong nước có điều kiện phát triển trong khi sang thời điểm mùa mưa nước
từ trong phía nội đồng đổ ra nhiều mang theo nhiều cặn, bùn đất làm cho nước bị
đục, thực vật phát triển kém dẫn đến giảm nhiều số lượng so với mùa khô.
Thực vật phù du có thành phần loài khá phong phú (142 loài), mật độ cao hơn
so với ven biển Đông Nam Bộ, vào mùa khô là 4.200.000 tế bào/m
3
và vào mùa mưa
là 1.097.000 tế bào/m
3
, chứng tỏ năng suất sinh học sơ cấp của vùng nghiên cứu khá
cao, hoàn toàn thích hợp cho nuôi các loài thủy sản sử dụng thực vật phù du làm thức
ăn. Tảo silic không chỉ chiếm đa số về thành phần loài mà còn có mật độ cao nhất.
Các loài tảo độc không nhiều, chưa thấy hiện tượng “triều đỏ”.
b) Phiêu sinh động vật
Theo kết quả nghiên cứu trên, phân tích các mẫu thu tại các điểm nghiên cứu
đã thu được 66 loài động vật phù du, trong đó số loài tập trung nhiều nhất ở nhóm
Copepoda 35 loài, Cladocera 15 loài, Chaetognata 4 loài và nhóm Decapoda 3 loài.
Ngoài ra còn phát hiện được 7 dạng ấu trùng của các dạng chưa trưởng thành.
Động vật phù du có thành phần loài ở mức độ trung bình (41 loài), mật độ
động vật phù du trung bình là 260 con/m
3
, thấp hơn nhiều so với vùng biển ven bờ
Cà Mau – Rạch Giá (1.542 con/m
3
), trong đó chân bèo (copepoda) và nhóm râu
nhánh (Cladocera) chiếm đa số. Động vật phù du vùng nghiên cứu điều là những loài
có hàm lượng dinh dưỡng cao, là thức ăn của những thủy sản có giá trị kinh tế,
không có những loài độc hại.
Kết quả trên cũng phản ánh chính xác hiện trạng chất lượng nước trong vùng.
Do đây là hồ nối sông với biển nên thường xuyên chịu ảnh hưởng hổn hợp của hai
khối nước, tại đây khu hệ sinh thái có sự giao thoa nên dù vào mùa mưa vẫn thấy
hiện diện của các loài có nguồn gốc biển hay vào màu khô vẫn thấy hiện diện của các
loài có nguồn gốc nước ngọt.
c) Động vật đáy
Cũng theo nghiên cứu trên, khác với động vật phù du và thực vật phù du sống
trong tầng nước và di động theo dòng nước, mỗi khối nước sẽ có một quần xã sinh
vật phù du tương ứng, còn động vật đáy do khả năng di động chậm, nhất là những
động vật đáy sống trong nền đáy như giun nhiều tơ (Polychaeta), động vật thân mềm
(Mollusca) khả năng di động rất kém. Vì vậy khi môi trường nước thay đổi đột ngột
vượt quá mức giới hạn thích ứng thì chúng sẽ chết hàng loạt và thay vào đó là một
quần xã sinh vật đáy khác thích nghi với hoàn cảnh sống mới. Tại các cửa sông khi
mùa lũ, độ mặn giảm từ mặn-lợ sang nước ngọt khiến cho những loài không có khả
năng thích nghi phải di chuyển đi nơi khác hay bị chết. Vì vậy ở vùng cửa sông chỉ
tồn tại những loài sinh vật đáy có khả năng thích nghi rộng với độ mặn.
Động vật đáy tuy nghèo về thành phần loài (24 loài). Trong mùa mưa quần thể
sinh vật thủy sinh vùng nghiên cứu hoàn toàn mang đặc tính nước ngọt, xen kẽ với
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
18
những loài nước lợ. Điều này cho thấy vào thời kỳ mùa mưa, nguồn nước trong hồ
hầu hết là nước ngọt chỉ một phần cửa ra còn chịu ảnh hưởng của nước biển.
Vùng nghiên cứu là hồ nối biển với sông, hàng ngày chịu trực tiếp ảnh hưởng
của khối nước biển, vào mùa lũ chịu sự chi phối nhiều hơn của nước lũ từ vùng Tứ
giác Long Xuyên và một hướng từ sông Giang Thành chảy về làm môi trường nước
có nhiều thay đổi vì vậy có thể nói động vật đáy trong vùng này thường chịu các biến
đổi rất đột ngột về điều kiện môi trường có khi diễn ra theo ngày, theo giờ.
Nhận xét chung về đa dạng sinh học của đầm Đông Hồ
Nhìn chung, đầm Đông Hồ là một vùng đất ngập nước mặn, vì thế mức độ đa
dạng sinh học của vùng này thuộc loại cao so với các loại đất ngập nước khác của
Kiên Giang.
IV. CÁC GIẢI PHÁP BẢO TỒN GIÁ TRỊ ĐẤT NGẬP NƢỚC, RỪNG NGẬP
MẶN VÀ TÍNH ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA ĐẦM ĐÔNG HỒ
4.1. Các giải pháp về cơ chế chính sách
4.1.1. Xác định đầm Đông Hồ là khu vực cần phải bảo tồn cảnh quan và đa dạng
sinh học
Quy hoạch cụ thể các khu vực chức năng để đầm Đông Hồ phát huy tốt nhất
các chức năng tự nhiên vốn có từ ngàn xưa đến giờ. Đảm bảo giữ gìn được giá trị
cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng cùng giá trị đa dạng sinh học của đầm Đông Hồ,
đồng thời phát huy được việc phát triển kinh tế xã hội cho người dân địa phương.
4.1.2. Thành lập Ban Quản lý Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ
Sau khi được công nhận là Khu Bảo tồn, cần phải thành lập Ban Quản lý Khu
Bảo tồn đầm Đông Hồ, nhằm mục đích quản lý tổng hợp các giá trị cảnh quan và đa
dạng sinh học của khu vực này.
4.1.3. Xây dựng quy chế hoạt động của Ban Quản Lý Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ
Phải xây dựng quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản lý Khu Bảo tồn
đầm Đông Hồ. Trong quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Quản lý cần thể hiện rõ
quy chế về mặt tổ chức và phương thức quản lý, đồng thời cần nhấn mạnh đến tính
hệ thống của các khu vực đầm Đông Hồ nằm trong mạng lưới các khu bảo tồn của
Kiên Giang, Việt Nam, khu vực Đông Nam Á, châu Á và toàn cầu.
4.2. Các giải pháp về kỹ thuật
4.2.1. Xây dựng các biện pháp quản lý tổng hợp có sự tham gia của cộng đồng
trong việc quản lý Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ
C
C
h
h
ú
ú
n
n
g
g
t
t
ô
ô
i
i
c
c
h
h
o
o
r
r
ằ
ằ
n
n
g
g
các biện pháp quản lý tổng hợp có sự tham gia của cộng
đồng trong việc quản lý Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ là cần thiết để thực sự phát huy
được hiệu quả trong công tác bảo tồn Hệ Sinh thái đất ngập nước này.
4.2.2. Đầu tư xây dựng mạng lưới quan trắc diễn biến tài nguyên thiên nhiên và
môi trường trên địa bàn Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
19
Để làm tốt công tác bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển bền vững Hệ Sinh
thái đất ngập nước đầm Đông Hồ, cần thiết phải có mạng lưới quan trắc theo dõi diễn
biến tài nguyên thiên nhiên và môi trường trên địa bàn. Qua việc thu thập và phân
tích số liệu thường xuyên liên tục, công tác quản lý sẽ bén nhạy hơn trong việc suy
đoán diễn biến tài nguyên thiên nhiên và môi trường nhằm điều chỉnh hoặc đưa ra
các quyết định quản lý chính xác và kịp thời hơn.
4.2.3. Xây dựng hệ thống quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường Khu Bảo
tồn đầm Đông Hồ bằng hệ thống thông tin địa lý (GIS)
Trong quá trình xây dựng quy hoạch các khu chức năng cho Khu Bảo tồn đầm
Đông Hồ cần thiết lập được bản đồ số về hiện trạng đất đai và thảm thực vật tự
nhiên, đây là cơ sở tốt để thực hiện bước tiếp theo là viết các phần mềm cần thiết cho
việc quản lý hệ sinh thái đất ngập nước đầm Đông Hồ bằng hệ thống thông tin địa lý.
Điều này sẽ tránh được việc trùng lấp trong công tác quy hoạch cũng như trong việc
thiết lập các dự án phát triển trong tương lai cho vùng đầm Đông Hồ.
4.3. Các giải pháp về kinh tế
4.3.1. Chú trọng đầu tư cho du lịch sinh thái
Đầm Đông Hồ là một cảnh quan nổi tiếng trong Hà Tiên thập cảnh từ vài trăm
năm nay, lượng du khách đến với Đông Hồ đã có sẵn. Sau khi quy hoạch là Khu Bảo
tồn, việc phát triển du lịch sinh thái ở vùng đầm Đông Hồ là hướng đi rõ nét cần thiết
phải đẩy nhanh tốc độ. Để làm được điều này, cần phải huy động sức mạnh tổng hợp
của mọi thành phần kinh tế cùng tham gia thực hiện các việc sau đây:
- Đa dạng hóa các tour du lịch sinh thái: đây là việc ưu tiên hàng đầu cần
thiết phải làm. Có đa dạng hóa được các tour du lịch sinh thái mới thu hút được du
khách.
- Xây dựng đội ngũ hướng dẫn viên du lịch sinh thái: đây chính là lực lượng
nòng cốt để phát triển du lịch sinh thái. Có đào tạo được lực lượng này mới bảo đảm
được chất lượng các tour du lịch sinh thái. Khuyến khích lực lượng trẻ của địa
phương tham gia vào đội ngũ này vì chỉ có cư dân địa phương mới gắn bó với văn
hóa và thiên nhiên nơi mình sinh sống và truyền đạt được cái hồn của một tour du
lịch sinh thái đến du khách một cách trọn vẹn.
- Tiếp thị du lịch sinh thái: là công việc hết sức quan trọng trong việc quãng
bá nội dung các tour du lịch sinh thái đến với đối tượng có nhu cầu. Nếu tiếp thị du
lịch sinh thái tốt, số lượng du khách sẽ tăng đáng kể. Đa số khách du lịch sinh thái
hiện nay vào khoảng 7 triệu khách/năm; trong đó Mỹ khoảng 3 triệu - Nhật khoảng 2
triệu - 2 triệu còn lại là người Đức và các nước khác.
4.3.2. Chú trọng đầu tư cho kiểm soát đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy hải
sản
Khi đã quy hoạch Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ, đặc biệt chúng ta thấy đối với
đánh bắt thủy sản cần tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nghiêm cấm
cào te điện, kiểm soát các kiểu đánh bắt thủy sản có mắt lưới nhỏ, làm hại con non
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
20
của các loài động vật thủy sinh. Đồng thời tăng cường công tác khuyến ngư, chuyển
giao kỹ thuật nuôi trồng thủy sản sạch cho cư dân địa phương. Tổ chức nuôi trồng
thủy sản sạch và đăng ký nhãn hiệu thủy sản sạch cho người dân địa phương phải
được xem là công tác trọng tâm của ngành thủy sản tỉnh Kiên Giang hiện nay.
4.3.3. Chú trọng đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng
Để phát triển kinh tế xã hội, cần phải phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ
cho các ngành kinh tế, đặc biệt đối với du lịch sinh thái và nuôi trồng thủy hải sản
sạch.
Tuy nhiên, chúng ta cần định hướng rõ rằng việc xây dựng và phát triển cơ sở
hạ tầng kỹ thuật không được làm phá vỡ cảnh quan thiên nhiên của hệ sinh thái đất
ngập nước đầm Đông Hồ. Trong quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, phải chú trọng
đến sự hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, nên nhớ rằng phát triển để bảo tồn và bảo
tồn để phát triển.
4.4. Các giải pháp về nghiên cứu và giáo dục môi trƣờng
4.4.1. Đối với đội ngũ cán bộ công chức các ban ngành có liên quan đến công tác
quản lý trực tiếp Khu Dự Trữ Sinh Quyển Kiên Giang.
Đây là lực lượng nòng cốt trong công tác bảo tồn và phát triển bền vững hệ
sinh thái đất ngập nước đầm Đông Hồ, họ cần được tạo điều kiện để nâng cao năng
lực về khả năng nghiên cứu và tham gia nghiên cứu để trở thành những người làm tốt
công tác giáo dục môi trường.
Để thực hiện được điều này, cần thiết phải có các chương trình gắn kết giữa
các trường Đại học, các Viện nghiên cứu và Ban quản lý Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ
để tổ chức các hội thảo khoa học, các khóa đào tạo và đào tạo lại có liên quan đến
việc nghiên cứu và giáo dục môi trường cho đội ngũ cán bộ công chức nói trên.
4.4.2. Đối với cư dân địa phương
Cần có các chương trình lồng ghép về phổ biến thông tin và giáo dục về môi
trường trong các cuộc họp tổ dân phố của cư dân địa phương. Một khi người dân địa
phương nhận thức rõ về ý nghĩa và giá trị của hệ sinh thái đất ngập nước đầm Đông
Hồ, họ sẽ trở thành các tuyên truyền viên đắc lực cho sự nghiệp bảo tồn và phát triển
hệ sinh thái này.
4.4.3. Đối với khách du lịch
Cần phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các đầu mối đưa khách du lich đến với
Khu Bảo tồn đầm Đông Hồ, để khách du lịch đến với Đông Hồ được nắm rõ thông
tin về hệ sinh thái đất ngập nước Đông Hồ trước khi bắt đầu tour du lịch của mình.
Việc truyền đạt thông tin này có thể thông qua các tờ bướm và xem băng – đĩa
hình trong phần đầu của tour du lịch từ 10 – 20 phút, hoặc có phần tham quan các
nhà bảo tàng trong tour du lịch, hoặc các bảng giới thiệu – hướng dẫn ven đường tại
các điểm du lịch.
4.5. Các giải pháp về hợp tác quốc tế
4.5.1. Tham gia mạng lưới các khu bảo tồn đất ngập nước (Ramsar site) thế giới
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
21
Nếu được công nhận là Ramsar site, Khu Bảo tồn đất ngập nước đầm Đông
Hồ sẽ nằm trong mạng lưới các khu bảo tồn đất ngập nước của khu vực và thế giới.
Cần có các hoạt động gắn kết với mạng lưới các khu Ramsar site của khu vực và thế
giới.
4.5.2. Trao đổi thông tin và học tập kinh nghiệm của các khu bảo tồn đất ngập
nước khác trên thế giới
Trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng trên mọi lĩnh vực, việc trao
đổi thông tin và học tập kinh nghiệm với bạn bè quốc tế là điều tất yếu. Thông qua
các hoạt động này, chúng ta có thể đào tạo được nguồn nhân lực và cải tiến công tác
quản lý hệ sinh thái đất ngập nước đầm Đông Hồ.
4.5.3. Xây dựng sẵn các dự án nghiên cứu và cải thiện dân sinh kinh tế để kêu gọi
hỗ trợ thực hiện từ các tổ chức quốc tế.
Để có thể kêu gọi sự hỗ trợ quốc tế trong công vệc bảo tồn và phát triển bền
vững hệ sinh thái đất ngập nước đầm Đông Hồ, địa phương cần xây dựng sẵn các dự
án hợp tác quốc tế về nghiên cứu và cải thiện dân sinh kinh tế để có thể trao đổi với
đối tác phù hợp ngay khi có điều kiện tiếp xúc.
V. KẾT LUẬN
Đầm Đông Hồ ở thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang là một vùng sinh thái đất
ngập nước có giá trị cảnh quan cũng như giá trị đa dạng sinh học cao. Việc bảo tồn
các giá trị này là điều cấp thiết để góp phần vào sự nghiệp bảo tồng diện tích đất
ngập nước của thế giới hiện còn quá ít.
Các việc cần thiết phải làm ngay, theo chúng tôi gồm:
1. Lập hồ sơ quy hoạch và xây dựng Khu Bảo tồn đất ngập nước đầm Đông
Hồ tiến đến trình công nhận là một khu Ramsar site.
2. Thành lập Ban Quản lý Khu Bảo tồn đất ngập nước đầm Đông Hồ - Hà
Tiên để có kế hoạch và các giải pháp quản lý cụ thể nhằm phát huy tối đa mọi tiềm
năng hiện có về mặt đa dạng sinh học và cảnh quan.
3. Ủy ban nhân dân Tỉnh Kiên Giang chủ trì và phối hợp với các nhà khoa
học, các nhà quản lý, các nhà ra chính sách để hỗ trợ cho Ban Quản lý Khu bảo tồn
đất ngập nước đầm Đông Hồ - Hà Tiên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Tài liệu tham khảo
1. The Ramsar Info Pack. What are wetlands. Internet: Wetlands.
2. Types of Wetlands and Their Roles in the Watershed. Internet: Wetlands.
3. Nguyễn Xuân Quý (2004). Giới thiệu quy hoạch chung khai thác, sử dụng đầm
Đông Hồ - Hà Tiên.
4. Viện Khoa Học Thủy Lợi miền Nam (2006). Nghiên cứu Hiện Trạng Môi Trường
Đầm Đông Hồ, Hà Tiên – Kiên Giang.
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
22
ĐẶC ĐIỂM VỀ TỰ NHIÊN VÀ MÔI TRƢỜNG SINH THÁI
CỦA VÙNG ĐẤT NGẬP NƢỚC “ĐẦM ĐÔNG HỒ - HÀ TIÊN”
TỈNH KIÊN GIANG
- TS. Trƣơng Minh Chuẩn -
Phân hiệu Trường Đại học Nha Trang
Mở đầu:
Việt Nam có rất nhiều khu vực đất ngập nước trong đó phải kể đến khu vực
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là nơi rất đa dạng về các sinh cảnh đất ngập
nước.
Đầm Đông Hồ thuộc thị xã Hà Tiên tỉnh Kiên Giang là một khu vực đất ngập
nước được xem một “lagoon” ven bờ nhiệt đới tiêu biểu của ĐBSL. Khu vực đất
ngập nước đầm Đông Hồ đã gắn liền với lịch sử phát triển lâu đời của vùng đất Hà
Tiên và cũng gắn bó với đời sống, sinh hoạt sản xuất, văn hóa của cộng đồng cư dân
nơi đây; đặc biệt với cư dân vùng ven đầm.
Những giá trị về tài nguyên thiên nhiên của đầm đã góp phần phục vụ phát
triển kinh tế xã hội cho Hà Tiên qua nhiều thời kỳ. Là một thắng cảnh nổi tiếng gắn
với địa danh Hà Tiên, đầm Đông Hồ còn thể hiện rõ chức năng bảo vệ môi trường
cho vùng; đồng thời có sự hấp dẫn về mặt khoa học với nhiều vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu để phát hiện thêm những tiềm năng về tài nguyên, cảnh quan, môi
trường sinh thái là cơ sở ứng dụng vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
của vùng và khu vực; ứng dụng vào quy hoạch quản lý tài nguyên môi trường, xác
định giá trị của đầm Đông Hồ là một sinh cảnh của đất ngập nước trong khu vực
ĐBSCL. Việc nghiên cứu cũng được ứng dụng để khắc phục hiện trạng xuống cấp
của đầm Đông Hồ (i) diện tích mặt nước dần bị thu hẹp (ii) lòng Đầm cạn dần (iii)
chất lượng nước trong Đầm có dấu hiệu bị ô nhiễm…. Việc khôi phục hệ sinh thái
cảnh quan, môi trường đầm Đông Hồ theo hướng phát triển bền vững, bảo tồn các
giá trị của đất ngập nước lại được nêu ra tại hội thảo khoa học “Định hướng quy
hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”.
VỊ TRÍ VÙNG NGHIÊN CỨU ĐẦM ĐÔNG HỒ, TX. HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
Nguồn: GoogleMap
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
23
I. Sơ lƣợc về tình hình nghiên cứu
Đầm Đông Hồ là địa danh nổi tiếng của vùng đất Hà Tiên, có những điểm đặc
thù so với hệ đầm phá trong nước và khu vực ĐBSCL; chịu ảnh hưởng và có tác
động đến vùng biển Tây Nam. Nhìn lại quá khứ cho thấy vị trí địa lý và vai trò chức
năng của đầm Đông Hồ đã được phát hiện, vì là vị trí an toàn để tránh mùa giông bão
của biển Tây Nam, cung cấp nước ngọt cho vùng, cho tàu thuyền trên đường hàng
hải về Đông Nam Á. Thời Mạc Cửu làm Tổng trấn Hà Tiên (1708) đã mở mang khá
toàn diện vùng đất này và đầm Đông Hồ trở thành thương cảng và là căn cứ của thủy
quân thời đó; Đông Hồ cũng được đánh giá là một thắng cảnh trong “Thập cảnh Hà
Tiên” thời bấy giờ. Qua nhiều giai đoạn lịch sử, vị trí địa lý và những chức năng tự
nhiên của đầm đều được khai thác và đã thực sự phục vụ đời sống và sự phát triển
của vùng đất Hà Tiên, đặc biệt trong giai đoạn trước đây khi đường bộ đến Hà Tiên
rất khó khăn thì Đông Hồ đã trở thành cửa ngõ của đường thủy tạo sự nhộn nhịp cho
vùng.
Tuy vậy việc nghiên cứu về đầm Đông Hồ từ thời Mạc Cửu đến 1975 rất hạn
chế và hầu như chỉ được biết đến là một thắng cảnh lớn của đất Hà Tiên; điều này đã
thể hiện qua các bài thơ Nôm xướng họa của Mạc Thiên Tích và các thành viên
nhóm Tao đàn Chiêu Anh Các (1736); được mô tả trong “Địa phương chí Hà Tiên”
của Trần Trung Thiêm (1971) và “Việt Nam hình thể đồng bằng”, “Vịnh Thái Lan”
của Sơn Hồng Đức (1973). Trong tài liệu “Tìm hiểu Kiên Giang” của Ban Nghiên
cứu lịch sử Đảng Kiên Giang (1986) cũng đã đề cập đến vai trò của đầm Đông Hồ-
Hà Tiên; tháng 7-2000 Công ty Tư vấn cổ phần xây dựng Kiên Giang đã lập quy
hoạch khai thác sử dụng đầm Đông Hồ; UBND tỉnh Kiên Giang ra Quyết định số
712/UB-QĐ ngày 11-4-2001 phê duyệt đề án quy hoạch chung khai thác sử dụng
đầm Đông Hồ - Thị xã Hà Tiên; vào tháng 11-2004, thị xã Hà Tiên đã tổ chức hội
thảo khoa học (“Phát triển du lịch sinh thái Đông Hồ - Hà Tiên”; tháng 10-2006 Viện
Khoa học Thủy lợi miền Nam - Bộ NN&PTNT) đã lập báo cáo đề tài “Nghiên cứu
hiện trạng môi trường đầm Đông Hồ - Hà Tiên - Kiên Giang”.
Đề tài 48-06-14 (1983-1985) cấp Nhà nước lần đầu tiên đã xác định: đầm phá
của Việt Nam là một kiểu hệ sinh thái độc lập (lagoonal ecosystem) ven bờ; đề tài đã
xác định kiểu loại đầm phá, xác định rõ bản chất tự nhiên, cấu trúc, diễn thế phát triển
và tiềm năng tài nguyên thủy vực của đầm phá đồng thời đưa ra hệ thống quản lý cho cả
hệ thống đầm phá ven bờ Việt Nam. Đây cũng chính là cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu sâu về đầm Đông Hồ.
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
24
Bảng 1. Liệt kê một số đầm phá ven bờ các tỉnh miền Trung và ĐBSCL
Tên Đầm Phá
Vị Trí Tỉnh
(Tỉnh-TP)
Diện
Tích
(km
2
)
Kích Thƣớc (km)
Độ Sâu
(m)
Dài
Rộng
Đông Hồ
Hà Tiên-KG
13,84
4,6
3,5
0,7 - 1,5
Tam Giang – Cầu
Hai
Thừa Thiên Huế
216
6,1
4
1,6 - 4
Lăng Cô
Thừa Thiên Huế
16
6,1
4
12 - 2
Trường Giang
Quảng Ngãi
36.9
14,7
4
1,1 - 2
An Khê
Quảng Ngãi
3,5
2,9
1,1
1,3 - 2
Nước Mặn
Quảng Ngãi
2,8
2,3
1,2
1,0 - 1,6
Trà Ổ
Bình Định
14,4
6,2
2,1
1,6 - 2,2
Nước Ngọt
Bình Định
26,5
8,5
3,1
0,9 - 1,4
Thị Nại
Bình Định
50
15,6
3,9
1,2 - 2,5
Cù Mông
Bình Định
30,2
17,6
2,2
1,6 - 3,5
Ổ Loan
Phú Yên
18
9,3
1,9
1,2 - 2
Thủy Triều
Khánh Hòa
25,5
17,5
3
1,2 - 2
Đầm Nại
Ninh Thuận
8
6
3,5
2,8 - 3,2
II. Các đặc điểm tự nhiên và môi trƣờng sinh thái của đầm Đông Hồ
Đầm Đông Hồ nằm ở phía Đông của thị xã Hà Tiên, có diện tích tự nhiên
1.384ha và diện tích mặt nước là 936 ha. Đông Hồ là đầm điển hình cho loại thủy
vực ven bờ thuộc vùng biển Tây Nam, phía Bắc tiếp giáp với sông Giang Thành và
phía Nam có cửa Trần Hầu đổ ra biển. Đầm có địa hình lòng chảo nên khi tiếp nhận
nguồn nước có mang phù sa từ sông Giang Thành với dòng chảy giảm nhỏ và do ảnh
hưởng của thủy triều biển phía Tây Nam, đã tạo ra hiện tượng lắng đọng phù sa trong
lòng chảo với độ dày phù sa từ 1,3 đến 1,5m, động lực dòng chảy từ lâu đời cũng đã
tạo cho địa hình của đầm có nhiều luồng lạch và những vùng bồi lắng; đặc biệt với 2
cồn nỗi chia lòng đầm thành 2 vùng khác biệt(i) phía Đông có độ bồi lắng lớn hơn(ii)
phía Tây độ bồi lắng nhỏ hơn; trên cồn dân cư đã tập trung sinh sống và canh tác.
Khu hệ sinh vật có mức độ đa dạng sinh học khá cao vì nhiều yếu tố(i) Đầm nằm
trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa cao, có 2 mùa mưa, nắng rõ rệt;
mùa mưa trùng với mùa lũ, mùa nắng cũng là mùa khô hạn, đây là điều kiện để thủy
vực giàu về dinh dưỡng với nguồn thức ăn khá phong phú cho sinh vật phát triển(ii)
cấu trúc của đầm có sự nối thông giữa biển và sông; vào mùa nắng hạ đầm tiếp nhận
nước mặn từ biển Tây Nam, vào thời kỳ này nước biển chiếm lĩnh lòng đầm, vào
mùa mưa lũ những khối nước ngọt từ sông Giang Thành và vùng Tứ Giác Long
Xuyên (TGLX) mang theo lượng phù sa lớn chảy vào đầm và đã chi phối toàn bộ
chất lượng nước trong đầm; tạo ra sự giao thoa cho khu hệ sinh vật ở đây, do đó vào
mùa mưa vẫn thấy sự có mặt của những loài có nguồn gốc biển; hoặc trong mùa khô
vẫn có loài nguồn gốc nước ngọt sinh sống, ngoài ra còn có sự hiện diện của các loài
nước lợ. Các yếu tố trên đã tác động đến môi trường và HST của đầm; qua kết quả
Hội thảo “Định hướng qui hoạch bảo tồn và phát triển đầm Đông Hồ - Việt Nam”
25
của các nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt tương đối lớn thành phần loài chỉ số đa
dạng sinh vật trong 2 mùa mưa nắng đã phản ánh điều kiện sinh thái của đầm kém ổn
định và mang tính chuyển tiếp rõ rệt.
Khu hệ động thực vật đầm Đông Hồ nhìn chung khá phong phú. Hệ thực vật
phù du giàu về thành phần loài và sinh khối với 142 loài làm thức ăn cho những loài
thủy sản và động vật phù du. Hệ động vật phù du có thành phần ở mức độ trung bình
(42 loài) tuy nhiên là những loài có hàm lượng dinh dưỡng cao, tạo nguồn thức ăn
cho những loài thủy sản có giá trị kinh tế và không có những loài độc hại. Hệ động
vật đáy tuy nghèo về thành phần chỉ với 24 loài nhưng rất phong phú đa dạng có đủ
các loại sinh thái nước mặn, nước ngọt, nước lợ, động vật đáy khá giàu về sinh khối
và thường chịu các biến đổi đột ngột vì điều kiện môi trường biến đổi theo mùa.
Hệ thực vật bậc cao của đầm với đại diện là quần xã rừng ngập mặn chủ yếu
là đước và dừa nước; nhưng chất lượng rừng thuộc loại trung bình vì đã bị cư dân
khai thác, lấn chiếm và tập trung ở phía Đông Bắc của đầm với gần 400ha; việc khôi
phục rừng ngập mặn ở phía Đông Bắc và trồng lại rừng ở phía Đông là rất cần thiết.
Khu hệ cá đầm Đông Hồ rất phong phú và đa dạng về giống, loài; có nguồn
gốc từ 2 luồng (i) cá nước mặn di cư vào Đầm từ biển Tây Nam trong giai đoạn mùa
khô (ii) luồng cá nước ngọt từ sông Mê Kông tràn về trong giai đoạn mùa mưa, cho
khả năng đánh bắt sản lượng cao trong thời gian cả năm. Ở cửa ra đầm Đông Hồ và
các cửa kênh thoát lũ có mặt các nhóm cá nước mặn, nước ngọt thùy thuộc sự thay
đổi độ mặn theo mùa trong năm.
Nhìn chung sự tồn tại của chuỗi thức ăn ngắn tạo ra năng suất đầu ra của HST
trong vùng khá cao.
III. Giá trị của đầm Đông Hồ đối với khu vực Hà Tiên và TGLX
1) Giá trị cảnh quan và vị thế: Đầm Đông Hồ là cửa ngõ ra biển Tây Nam,
là một trong 4 đơn vị cảnh quan của vùng Hà Tiên. Cảnh quan của đầm tạo ra danh
thắng hấp dẫn du khách, đồng thời vị trí địa lý của đầm đã tạo cho Đầm một “tài
nguyên vị thế”. Cảnh quan của đầm có thể ứng dụng vào phục vụ phát triển kinh tế
xã hội của vùng; cảnh quan đầm sẽ góp phần tạo ra cho Hà Tiên một “cấu trúc du
lịch bền vững” đó là (i) tài nguyên, sản phẩm du lịch (ii) khách du lịch (iii) và dịch
vụ du lịch, nghĩa là cảnh quan sẽ thu hút khác du lịch và từ đó dịch vụ du lịch phát
triển.
2) Giá trị sinh cƣ: giá trị tài nguyên đầu tiên của đầm phải kể đến là mang lại
môi trường sống và nguồn sống cho khoảng 4 vạn dân cư trong vùng, trong đó có
trên 2000 cư dân khu phố V – phường Đông Hồ có cuộc sống gắn liền với đầm từ lâu
đời, họ sống nhờ nguồn lợi tài nguyên của đầm như là khai thác thủy hải sản, khai
thác dừa nước. Nhờ có sự điều hòa của đầm mới có nguồn nước ngọt cung ứng cho
nông nghiệp và sinh hoạt; trên đầm có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, làm đường giao
thông quanh hồ, đầm có giá trị giao thông đường thủy nếu được nạo vét luồng lạch,
xây dựng “làng sinh thái” phục vụ du lịch. Đầm cũng là nơi neo đậu tránh gió bão
cho khoảng 1000 phương tiện tàu thuyền vùng Hà Tiên. Đầm còn đóng vai trò điều
tiết nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp vùng Hà Tiên và TGLX với gần
100.000ha đất canh tác.