Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Nghiên cứu các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của loài thiết sam giả lá ngắn (pseudotsuga brevifolia w c cheng l k fu, 1975) tại huyện nguyên bình, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 62 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Thổ nhưỡng huyện Nguyên Bình 21
Bảng 4.1. Bảng tổng hợp OTC điều tra phân theo độ cao trên 1000m
và dưới 1000m 35
Bảng 4.2. Cấu trúc tổ thành nơi có loài TSGLN ở độ cao trên 1000m 36
Bảng 4.3. Cấu trúc tổ thành nơi có loài TSGLN ở độ cao dưới 1000m 37
Bảng 4.4. Cấu trúc tổ thành và mật độ cây Thiết sam giả lá ngắn
tái sinh ở độ cao trên 1000m 40
Bảng 4.5. Cấu trúc tổ thành và mật độ cây Thiết sam giả lá ngắn tái sinh
ở độ cao dưới1000m 41
Bảng 4.6. Bảng phân tích nguồn gốc và chất lượng cây Thiết sam giả lá
ngắn tái sinh 42
Bảng 4.7. Bảng điều tra đất tại khu vực nghiên cứu 45
Bảng 4.8. Bảng phân tích một số tính chất đất tại khu vực nghiên cứu .46
Bảng 4.9. Đặc điểm tầng cây bụi, thảm tươi 47
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: Hình ảnh khai thác gỗ ở xã Ca Thành 49
Hình 2: Hình ảnh khai thác gỗ ở xã Triệu Nguyên 49
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Dt : Đường kính tán
D
1.3
: Đường kính tại vị trí 1,3m
H
dc
: Chiều cao dưới cành
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
OTC : Ô tiêu chuẩn
IUCN : Hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên


TSGLN : Thiết sam giả lá ngắn
STT : Số thứ tự
TB : Trung bình
VU : Cấp bảo tồn sắp nguy cấp theo IUCN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1
DANH MỤC CÁC HÌNH 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 3
MỤC LỤC 4
Phần 1: MỞ ĐẦU 6
1.1. Đặt vấn đề 6
1.2. Điều kiện thực hiện đề tài 8
1.2.1. Điều kiện của bản thân 8
1.2.2. Điều kiện cơ sở nơi thực hiện đề tài 8
1.3. Mục đích 8
1.4. Mục tiêu 8
1.5. Ý nghĩa của đề tài 8
1.5.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 8
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn 9
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 10
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu 10
2.1.1. Vai trò của các nhân tố sinh thái đối với đời sống thực vật 10
2.1.2. Một số dẫn liệu về loài Thiết sam giả lá ngắn 12
2.2. Những nghiên cứu trên thế giới 14
2.3. Những nghiên cứu ở trong nước 16
2.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu 18
2.4.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu 18
2.4.2. Điều kiện dân sinh kinh tế - xã hội 22
Phần 3

ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 28
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 28
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 28
3.3. Nội dung nghiên cứu 28
3.4. Phương pháp nghiên cứu 29
3.4.1. Phương pháp luận nghiên cứu 29
3.4.2. Ngoại nghiệp 29
3.4.3. Nội nghiệp 32
Phần 4
KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
4.1. Hiện trạng phân bố của loài 35
4.1.1. Hiện trạng phân bố loài Thiết sam giả lá ngắn 35
4.1.2. Cấu trúc tổ thành tầng cây cao 36
4.1.3. Cấu trúc tổ thành tầng cây tái sinh 39
4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển loài thiết sam giả lá ngắn 43
4.3.1. Ảnh hưởng của nhóm nhân tố địa lý – địa hình 43
4.3.2. Ảnh hưởng của nhóm nhân tố khí hậu – thủy văn 44
4.3.3. Ảnh hưởng của nhóm nhân tố đá mẹ - thổ nhưỡng 45
4.3.4. Ảnh hưởng của nhóm nhân tố khu hệ thực vật 47
4.3.5. Ảnh hưởng của nhóm nhân tố sinh vật – con người 48
4.4. Đề xuất một số giải pháp phát triển và bảo tồn 50
4.4.1. Nâng cao đời sống cho dân cư tại khu vực nghiên cứu 50
4.4.2. Giải pháp về chính sách 51
4.4.3. Bảo vệ và khai thác hợp lý loài Thiết sam giả lá ngắn 52
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 52
5.1. Kết luận 52
5.2. Kiến nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

Phần 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì sự suy giảm về đa dạng cũng
đang diễn ra, đặc biệt là các loài cây quý hiếm có nhiều giá trị về mặt sinh
thái cũng như kinh tế như loài Thiết sam giả lá ngắn (Pseudotsuga brevifovila
W. C Cheng & L.K.Fu, 1975) họ Thông (Pinaceae) cũng đang đứng trước
nguy cơ đó.Trong tiến trình phát triển tiếp theo đòi hỏi chúng ta có nhận thức
và hành động đầy đủ hơn để đạt sự bền vững, trong đó có nhu cầu nghiên cứu
và bảo tồn các loài đặc hữu, quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng và có nhiều giá
trị không chỉ về sinh học, sinh thái môi trường, mà còn cho đời sống xã hội,
trong đó có loài Thiết sam giả lá ngắn.
Rừng là yếu tố cơ bản của môi trường, luôn giữ một vai trò quan trọng
không gì thay thế được đối với việc phòng hộ, duy trì cân bằng sinh thái, bảo
vệ tính đa dạng sinh học, bảo tồn nguồn gen, cung cấp nhiều loại lâm sản quý
phục vụ nhu cầu cuộc sống của hàng triệu đồng bào miền núi… đáp ứng
những nhu cầu cơ bản ngày càng cao của con người. Tuy nhiên, khi xã hội
ngày càng phát triển, sự gia tăng dân số càng không thể thay thế được trong
việc duy trì cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường, rừng càng ngày bị thu hẹp
về diện tích, giảm sút về chất lượng. Nguyên nhân chủ yếu của mất rừng là sự
can thiệp thiếu hiểu biết của con người. Với đời sống khó khăn, nghèo đói thì
con người đã tác động vào rừng một cách quá khả năng phục hồi của nó.
Ngoài ra, cũng có những nguyên nhân liên quan tới tính không hợp lý của các
kỹ thuật lâm sinh, hoặc những biện pháp về kinh tế xã hội thiếu khoa học đã
làm gia tăng những tác động tiêu cực đến rừng. Ở Việt Nam, trong vòng 50
năm trở lại đây rừng đã bị tàn phá rất nhiều, diện tích rừng hiện nay chỉ còn
khoảng 13,8 triệu ha rừng, phần lớn những khu rừng còn lại này tập trung ở
những vùng núi cao. Với mọi nỗ lực trồng và bảo vệ rừng năm 2012 tỷ lệ che
phủ rừng đạt 40,7%. Tuy nước ta có nhiều loài động, thực vật và côn trùng rất
phong phú và đa dạng nhưng hiên nay tình trạng xâm hại trái phép nguồn tài
nguyên rừng đang diễn ra ngày càng phức tạp dẫn đến nhiều loài cây gỗ có

giá trị cao hoặc quý hiếm, đặc hữu dần mất đi như Thiết sam giả lá ngắn
(Pseudotsuga brevifovila W. C Cheng & L.K.Fu, 1975), Pơ Mu (Fokienia
hodginsii), Du sam (Keteleeria evelyniana Master), Bách xanh (Calocedrus
macrolepis Kurz ),…và thay vào đó là các loài cây ít giá trị. Đây là mối nguy
hại lớn đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và bảo tồn loài
Thiết sam giả lá ngắn nói riêng ở đây.
Thiết sam giả lá ngắn đang đứng trước nguy cơ suy thoái mạnh, vùng
phân bố tự nhiên bị thu hẹp nhanh chóng và một số cá thể trưởng thành của
loài bị giảm sút nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do
khai thác gỗ vì mục đích thương mại và xây dựng, làm đồ mỹ nghệ, điều kiện
sống thay đổi, quần thể bị chia cắt, khả năng tái sinh kém.
Thiết sam giả lá ngắn được đề nghị là loài bổ xung vào danh lục các loài
quý hiếm và nguy cấp theo nghị định 32/NĐ-CP/2006 nghiêm cấm khai thác
và sử dụng với mục đích thương mại. Thuộc bậc VU theo sách đỏ Việt Nam
2007 và danh lục đỏ IUCN. Nếu không có những biện pháp bảo vệ và nhân
rộng thì loài này sẽ có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Cho tới nay, mặc dù đã có một số nghiên cứu về loài cây này nhưng chỉ
tập trung vào việc mô tả đặc điểm hình thái, sinh thái, những thông tin về khả
năng tái sinh ngoài tự nhiên còn rất ít. Hiện nay, vẫn chưa có một nghiên cứu
chi tiết về đặc tính sinh thái học nào có hệ thống về cây Thiết sam giả lá ngắn.
Vì vậy, cần có một nghiên cứu đầy đủ hơn ảnh hưởng của các nhân tố sinh
thái đến loài nghiên cứu là cần thiết, góp phần giải quyết các vấn đề đang đặt
ra cho bảo tồn một loài quý hiếm, đặc hữu, có giá trị về nhiều mặt nhưng
đang đứng trước nguy cơ bị xâm hại và tuyệt chủng. Với ý nghĩa đó, tôi tiến
hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của loài Thiết sam giả lá ngắn (Pseudotsuga brevifolia
W.C Cheng & L.K.Fu, 1975) tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”.
1.2. Điều kiện thực hiện đề tài
1.2.1. Điều kiện của bản thân
Là sinh viên chuyên ngành Nông lâm kết hợp – Khoa Lâm nghiệp với

những kiến thức đã được học trên lớp và thực tiễn tôi tiến hành thực hiện đề
tài tốt nghiệp này.
Được sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của cô giáo Phạm Thu Hà và
thầy giáo Lê Văn Phúc – giảng viên Khoa Lâm nghiệp - trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên.
Bên cạnh đó, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của cơ quan chính quyền,
người dân địa phương và bạn bè đồng nghiệp.
1.2.2. Điều kiện cơ sở nơi thực hiện đề tài
Huyện Nguyên Bình nằm ở phía Tây của tỉnh Cao Bằng, địa hình chủ
yếu là núi đá vôi và núi đất, khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi. Vì vậy hệ
thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú. Đặc biệt vùng này nằm trong khu
vực phân bố của nhiều loài cây bản địa, quý hiếm.
1.3. Mục đích
Dựa trên cơ sở điều tra nghiên cứu các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến
sự tồn tại và phát triển của loài Thiết sam giả lá ngắn làm cơ sở cho việc đề
suất một số giải pháp quản lý và bảo tồn có hiệu quả.
1.4. Mục tiêu
- Xác định được các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát
triển của loài Thiêt sam giả lá ngắn tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
- Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp nhằm bảo tồn loài
thực vật quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng này tại huyện Nguyên Bình,
tỉnh Cao Bằng.
1.5. Ý nghĩa của đề tài
1.5.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp cho sinh viên củng cố, hệ thống lại kiến thức đã học, vận dụng vào
thực tế sản xuất.
- Học tập, hiểu biết thêm về kinh nghiệm thực tiễn tại địa bàn nghiên cứu.
- Làm quen với một số phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu đề tài
cụ thể.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Biết được các nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của
loài Thiết sam giả lá ngắn tại địa phương nghiên cứu đề tài.
- Biết được tầm quan trọng của cây, tầm quan trọng của công tác bảo tồn.
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Vai trò của các nhân tố sinh thái đối với đời sống thực vật
2.1.1.1 Vai trò của nhiệt độ đối với đời sống thực vật
Nhiệt độ là nhân tố sinh thái ảnh hưởng đến hình thái giải phẫu, đến sinh
lý và từng giai đoạn phát triển cá thể của thực vật.
Nhiệt độ ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của thực vật, gồm quang hợp,
hô hấp, thoát hơi nước, sự hình thành và hoạt động của diệp lục. Cây quang
hợp tốt ở nhiệt độ 20ºC đến 30ºC, quá thấp hay quá cao đều ảnh hưởng đến
quá trình này. Ở nhiệt độ 0ºC cây nhiệt đới ngừng quang hợp vì diệp lục bị
biến dạng, ở nhiệt độ từ 40ºC trở lên sự hô hấp bị ngừng trệ. Các cây ôn đới
có khả năng hoạt động trong điều kiện nhiệt độ thấp dưới 0ºC, ở một số loài
tùng, bách, mầm cây vẫn hô hấp khi nhiệt độ xuống đến âm 20ºC.
Khi nhiệt độ không khí càng cao, độ ẩm không khí càng xa độ ẩm bão
hòa, cây thoát hơi nước càng nhiều. Trong ngày nắng, sự thoát hơi nước tăng
dần từ sáng sớm đến gần trưa, sau đó giảm dần cho đến chiều. Khi nhiệt độ
thấp, độ nhớt của chất nguyên sinh tăng lên, áp suất thẩm thấu giảm, rễ hút
nước khó khăn, không đủ cho cây, cây phản xạ lại bằng cách rụng lá [8].
2.1.1.2. Vai trò của ánh sáng đối với đời sống thực vật
Ánh sáng có vai trò quan trọng đối với cơ thể sống, là nguồn cung cấp
năng lượng cho toàn bộ sự sống, thông qua quang hợp của thực vật; nó điều
khiển chu kỳ sống của thực vật. Ánh sáng vừa là yếu tố điều chỉnh vừa là yếu
tố giới hạn đối với đời sống sinh vật (nhất là đối với thực vật). Nó có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống của cây (từ khi hạt nảy mầm đến khi ra
hoa, đậu quả). Quang hợp của thực vật chỉ xuất hiện ở phổ ánh sáng mà mắt
thường có thể nhìn thấy được với các bước sóng từ 380-780n.m. Cường độ

ánh sáng khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới thực vật.
Ảnh hưởng của ánh sáng đến quá trình sinh trưởng của thực vật mang
tính chất rất phức tạp, nó liên quan tới rất nhiều yếu tố ngoại cảnh [8].
2.1.1.3. Vai trò của nước đối với đời sống của thực vật
Nước có vai trò quan trọng trong đời sống sinh vật, là thành phần không
thể thiếu được của các cơ thể sống. Nước là nguyên liệu cho cây quang hợp;
là phương tiện vận chuyển các chất trong cơ thể thực vật, là môi trường cho
các phản ứng sinh hóa diễn ra trong tế bào của cơ thể sống; nó tham gia vào
quá trình trao đổi chất, trao đổi năng lượng và điều hòa nhiệt độ cơ thể.
Nước có vai trò tích cực trong việc phát tán nòi giống và trong sinh sản
của sinh vật: thụ tinh, phát tán bào tử, hạt, quả.
Nước chiếm tới 80-95% khối lượng của các mô sinh trưởng, chỉ cần
giảm sút một ít hàm lượng nước trong tế bào đã làm giảm các chức năng sinh
lý của cơ thể [8].
2.1.1.4. Vai trò của đất đối với đời sống thực vật
Đất không chỉ là “yếu tố” của môi trường mà còn là sản phẩm hoạt động
sống của sinh giới; đất là kết quả tổng hợp của các tác động khí hậu và sinh
vật, đặc biệt là thực vật trên vật liệu gốc.
Trước hết cấu trúc của đất ảnh hưởng tới quá trình nảy mầm của hạt.
Những hạt nhỏ và nhẹ thường nảy mầm nhanh hơn trong đất nhỏ, do hạt nhỏ
dễ tiếp xúc với các thành phần đất mịn tốt hơn. Đất vừa là giá thể cho cây
đứng vững, vừa cung cấp nước và các chất khoáng cần thiết cho cây.
Ảnh hưởng của môi trường đất đến thực vật: Chế độ ẩm, độ thông khí và
nhiệt độ cùng với cấu trúc của lớp đất mặt đã ảnh hưởng đến sự phân bố các
loại cây và hệ rễ của chúng. Hệ rễ của những cây gỗ ở những vùng bị đóng
băng phân bố nông và rộng. Những nơi không có sự đóng băng thì hệ rễ vừa
ăn sâu và phát triển nhiều rễ ở lớp đất mặt để hút các chất. Ở vùng núi đá vôi,
do thiếu chất dinh dưỡng và thể nền rất cứng, nên rễ các cây gỗ đã len lỏi vào
các khe hở, vách đá, hay ôm chặt lấy các tảng đá lớn. Các rễ này tiết ra axit
hòa tan đá vôi để lấy một phần chất khoáng.

Một số loài thực vật có tính chỉ thị vì sống ở các loại đất đặc trưng: Có
loại ưa đạm nitrat, như cây lá rộng rừng nhiệt đới, rau dền gai,…Cây ưa vôi
như nghiến, trai.
Ở điều kiện khí hậu ẩm, lạnh sẽ có một khuynh hướng hình thành đất
chua, nhiều mùn thô, chất dinh dưỡng bị rửa trôi và trở thành màu tro.
Đất núi đá vôi có ở vùng nhiệt đới. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới
ẩm, đá vôi dễ bị mục nát, kết quả của sự bào mòn đã để lại chỉ còn các ngọn
núi dạng tháp đứng riêng lẻ hay còn lại các sống núi rời nhau, có vách dựng
đứng. Cả vùng đất núi đá vôi này biến thành nơi đất hoang và có nhiều hang
động dạng phễu tròn và sâu có khi tới hàng trăm mét. Đất ở vùng núi đá vôi là
đất kiềm (pH >7). Ví dụ, ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Ninh Bình, Hoà Bình, Hà
Tây, Quảng Bình… của Việt Nam.
Đất ở rừng mưa nhiệt đới là loại đất nghèo chất dinh dưỡng và chua
(pH=4,5-5,5), nhưng thảm thực bì lại phát triển tốt. Nguồn chất dinh dưỡng
mà thực vật cần, lại tập trung trong phần sinh khối trên mặt đất. Hàng năm
một lượng sinh khối đó chết đi, rụng xuống và nhanh chóng bị khoáng hóa,
giải phóng các chất dinh dưỡng và cũng nhanh chóng được rễ hấp thu [8].
2.1.1.5. Vai trò của nhân tố không khí đối với đời sống thực vật
Không khí có ý nghĩa rất lớn đối với cơ thể sống. Nó cung cấp oxy cho
các sinh vật hô hấp, không khí chuyển động (gió) có ảnh hưởng rõ rệt đến
nhiệt độ, độ ẩm và làm thay đổi chúng, gió nhẹ có vai trò quan trọng trong
việc làm phát tán vi sinh vật, bào tử, hạt phấn hoa, quả, hạt và nhiều động vật,
mở rộng khu phân bố và thành phần loài trong quần xã, gió mạnh cũng làm
tổn hại đến chúng [8].
2.1.2. Một số dẫn liệu về loài Thiết sam giả lá ngắn
Hiện nay các nghiên cứu về loài này còn rất ít và phân tán. Theo báo cáo
dự án “Điều tra đánh giá tình trạng bảo tồn các loài thực vật rừng nguy cấp,
quý hiếm thuộc danh mục nghị định 32/2006/NĐ-CP theo vùng sinh thái” của
Trung tâm tài nguyên và môi trường Lâm Nghiệp, Viện điều tra quy hoạch
rừng thực hiện [11].

Tên Việt Nam: Thiết sam giả lá ngắn
Tên latin: Pseudotsuga brevifovila W. C Cheng & L.K.Fu, 1975
Họ: Thông (Pinaceae)
Bộ: Thông (Pinales)
* Đặc điểm hình thái cây trưởng thành
Đặc điểm thân: Thiết sam giả lá ngắn là cây gỗ lớn, thường xanh, thân
thẳng, phân cành cao. Vỏ cây màu xám đen, bên ngoài có vết nứt dọc, sau đó
đến lớp vỏ màu nâu đỏ, thịt vỏ màu hồng nhạt, có mùi thơm do có nhựa cây.
Tán có xu hướng lệch sườn âm, phân cành theo từng đốt, mỗi đốt cách nhau 20-
30cm, đối xứng kiểu chữ thập, cành sườn âm thường nhiều hơn sườn dương.
Vỏ cây: Vỏ cây màu xám đen, bên ngoài có vết nứt dọc, sau đó đến lớp
vỏ màu nâu đỏ, thịt vỏ màu hồng nhạt, bề dày từ 0,5 – 0,6cm, có mùi thơm do
có nhựa cây. Vỏ cành non có nhiều sơ.
Đặc điểm lá: lá đơn, mọc cách vòng, xếp sang 2 bên, lá phân cành ở
cành tam cấp, lá tập trung ở đầu cành.
- Lá cây trưởng thành: có 1 gân nổi rõ ở giữa màu xanh đậm, mặt trên lá
màu xanh thẫm, đồng màu, mặt dưới có 2 bên sọc trắng, màu trắng xanh.
Cuống có chiều dài 1mm, chiều rộng 0,5 - 1mm. Lá có chiều dài là 2mm.
- Lá trên cành non: Thường có kích thước lớn hơn lá trên cành cây
trưởng thành, có chiều dài 3mm, mặt trên xanh vàng, mặt dưới có sọc trắng.
Đặc điểm nón: Nón cái rộng 2 - 3cm, cuống nón ngắn, cách mở theo
từng tầng, vảy ốc, ở giữa mỗi vảy đính 1 hạt. Đỉnh sinh trưởng hình chóp nón,
màu nâu, những vảy xếp trên đỉnh chóp nón theo hình hoa sen nhìn thấy rõ.
Đặc điểm rễ: Bộ rễ của Thiết sam giả lá ngắn là rễ cọc dài phát triển rất
mạnh đặc biệt là các cây trưởng thành, rễ giúp cây bám chặt vào các tảng đá
và lan tỏa ra xung quanh. Rễ hút chất dinh dưỡng nuôi cây và tạo cho cây một
thế vững chắc để chống chọi với điều kiện tự nhiên.
* Đặc điểm hình thái cây tái sinh
Đặc điểm thân cây: Cây thường cong queo, phân cành theo từng đốt
(hình zíc zắc), đều sang 2 bên. Vỏ cây màu nâu vàng. Đỉnh sinh trưởng bé,

màu nâu đỏ.
Đặc điểm lá: Mặt trên xanh bóng, ngọn xanh vàng, mặt dưới có gân ở
giữa, sọc xanh trắng 2 bên, có gân ở mép. Chiều dài từ 3 - 4,5cm.
Đặc điểm rễ: Cây Thiết sam giả lá ngắn tái sinh có bộ rễ cọc dài, bám
sâu vào đất để lấy chất dinh dưỡng, cây có rễ con ít.
* Phân bố: Trên thế giới Thiết sam giả lá ngắn thường gặp ở các vùng núi
đá vôi của hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc). Ở Việt Nam, kết
quả điều tra nhiều năm cho thấy, thiết sam giả lá ngắn được phân bố trên núi đá
vôi của các tỉnh vùng Đông Bắc như Hà Giang (Yên Minh, Đồng Văn, Mèo
Vạc), Cao Bằng (Nguyên Bình, Trà Lĩnh, Hạ Lang, Bảo Lạc), Bắc Kạn (Na
Rì).
Số lựơng quần thể: mọc rải rác trên các đỉnh núi đá vôi ở vùng Đông
Bắc, có nơi mọc gần như thuần loài (Kim Hỷ).
* Công dụng: Thớ thẳng, dễ gia công, được dùng trong xây dựng, làm
cầu, đồ gia dụng, cột điện. Thân thẳng, dáng đẹp, có thể trồng làm cảnh. Cây
lớn có thể sử dụng làm nhà hay làm đồ gỗ.
* Đặc điểm sinh thái : thường mọc trên đai cao 500-1500 m, trên núi đá vôi.
* Tình trạng bảo tồn và mối đe dọa : loài nằm trong nhóm sắp nguy cấp
(VU) Sách Đỏ Việt Nam, 2007. Trong 10 năm trở lại đây, kích thước quần thể
suy giảm tới 50%. Diện tích nơi cư trú hiện nay < 2000km
2
, bị chia cắt.
2.2. Những nghiên cứu trên thế giới
Các chuyên gia sinh thái học đã khẳng định rừng là một hệ sinh thái
hoàn chỉnh nhất. Thực vật rừng có sự biến động cả về số lượng và chất lượng
khi yếu tố ngoại cảnh thay đổi, rừng và con người có mối quan hệ mật thiết
với nhau.
A.tansley (1953) đã đưa ra khái niệm về hệ sinh thái (ecosystem). Theo
ông, mặc dù các cơ thể sống có kỳ vọng muốn tách mình ra để giành được sự
chú ý đặc biệt, nhưng thực tế các cơ thể không thể tách ra khỏi môi trường cụ

thể xung quanh mà chúng cùng với môi trường đó làm thành một hệ thống vật
lý thống nhất. Những hệ thống vật lý như thế là những đơn vị cơ bản của tự
nhiên, gọi là hệ sinh thái [3]. Hệ sinh thái bao gồm thành phần không sống
( các chất vô cơ, các chất hữu cơ, chế độ không khí) và thành phần sống ( sinh
vật sản xuất và sinh vật tiêu thụ) [5].
Nhiều nhà khoa học đã dày công nghiên cứu về sinh thái, đặc biệt là mỗi
quan hệ giữa các loài thực vật, các quần thể đối với rừng mưa nhiệt đới, trong
đó đáng chú ý là công trình cấu trúc rừng mưa đã mang lại kết quả có giá trị
như Baur G.N (1964) [1] đã nghiên cứu các vấn đề sinh thái trong kinh doanh
rừng mưa, phục hồi và quản lý rừng mưa nhiệt đới, khi nghiên cứu ảnh hưởng
của các nhân tố sinh thái đến tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới, tác giả có
nhận xét: trong rừng nhiệt đới nếu thiếu ánh sáng thì sẽ ảnh hưởng đến sự
phát triển của cây con, còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm thì
ảnh hưởng không rõ ràng. Odum E.P (1971) [5] đã nghiên cứu các vấn đề
sinh thái nói chung và sinh thái trong rừng mưa nhiệt đới làm cơ sở khoa học
cho việc nghiên cứu sinh thái loài và cấu trúc rừng.
Trong chế độ khí hậu có các nhân tố bức xạ mặt trời, nhiệt độ, ẩm độ,
không khí. Việc nghiên cứu các nhân tố đó để làm căn cứ tác động kỹ thuật
lâm sinh đã được nhiều tác giả thực hiện. Theo Laslo pancel, 99% năng lượng
của trái đất thu nhận được từ mặt trời. Nhà lâm sinh học người Đức Bếch-sơ
đã nói: “ ánh sáng là chiếc đòn bẩy mà lâm học điều khiển sự sống của rừng
theo hướng có lợi về kinh tế” [3].
Ảnh hưởng của ánh sáng đến quá trình sinh lý ở thực vật đã được các
nhà thực vật học nghiên cứu theo nhiều góc độ khác nhau. M.Ia. Oscretcov đã
nghiên cứu cường độ quang hợp của lá Thông trong bóng và ngoài ánh sáng ở
điều kiện chiếu sáng khác nhau và thu được kết quả sau: ở độ chiếu sang thấp
( vào khoảng 1000 đến 2000 lux), cường độ quang hợp lá trong bóng bằng 2
đến 4 lần so với ngoài sáng. Nhưng ở cường độ chiếu sáng cao ( 2000 đến
4000 lux) thì cường độ quang hợp là ngoài sáng tăng hơn nhiều lần [2].
Các nhân tố sinh thái chủ yếu dưới tán rừng như chế độ chiếu sáng, chế

độ nhiệt, ẩm…có sự biến động rất khác nhau theo chiều đứng và theo chiều
ngang và sự biến động này phụ thuộc rất lớn vào cấu trúc rừng, vào thành
phần loài cây, thời gian sinh trưởng và tuổi rừng. đồng thời đến nay còn nhiều
quy luật biến đổi các nhân tố sinh thái chưa được khám phá, đặc biệt ở dưới
tán rừng nhiệt đới thường xanh ( A.A.Aleceev, 1965, 1982; B.C.Belov, 1974,
1880; X.N.Xelnov, 1977, 1980) [2].
Sự biến động các nhân tố tiểu khí hậu rừng đều tuân theo những quy luật
nhất định và chính có sự biến đổi đó đôi khi tạo ra điều kiện rất có lợi cho đời
sống của cây tái sinh dưới tán rừng ( C.B.Belov, 1982; Alecev, 1965, 1982) [2].
Đối với nhiệt độ không khí, sự biến đổi theo chiều thẳng đứng trong và
ngoài rừng rất khác nhau. Ở chỗ trống, ban ngày mặt đất chịu tác động trực
tiếp và mạnh mẽ của bức xạ mặt trời, nhiệt độ biến đổi theo quy luật: nhiệt độ
không khí ở mặt đất cao nhất, càng lên cao nhiệt độ càng giảm. Ban đêm do
bức xạ mạnh của mặt đất nên tình hình biến đổi theo chiều ngược lại, nhiệt độ
mặt đất thấp nhất và càng lên cao nhiệt độ càng tăng ( trong phạm vi một độ
cao nhất định). Tán rừng là nơi ban ngày nhận được bức xạ nhiều nhất còn
mặt đất thì được tán rừng che phủ, ban ngày nhận ít bức xa mặt trời, ban đêm
bức xạ tỏa nhiệt bị tán cây chắn lại [4]. Nhiệt độ là nhân tố sinh tồn giữ vai trò
quyết định các hoạt động sinh lý như quang hợp, hô hấp, thoát hơi nước, hút
các chất dinh dưỡng…nhiệt độ là nhân tố quan trọng trong kích thích hạt
giống nảy mầm [3].
2.3. Những nghiên cứu ở trong nước
Về nghiên cứu hệ sinh thái rừng và các mối quan hệ sinh thái giữa các
loài cho thấy hệ sinh thái rừng là một tổng hợp phức tạp các mối quan hệ lẫn
nhau của các quá trình, trong đó sự trao đổi vật chất và năng lượng với môi
trường là quá trình cơ bản nhất.
Trong bài giảng Rừng và môi trường của PGS.TS Nguyễn Văn Thêm
(2008) [8] có đưa ra một số khái niệm như:
- Nhân tố sinh thái: Đó là những thành phần cấu thành môi trường sống
của các sinh vật. Ví dụ: ánh sáng, CO2, nước, khoáng chất, đất, địa hình

- Nhân tố sinh tồn: Nhân tố sinh thái tối quan trọng đối với sự sống của
sinh vật. Ví dụ: Đối với thực vật là ánh sáng, CO2, nước, khoáng chất.
- Nhân tố sinh thái chủ đạo: Đó là những nhân tố sinh thái mà khi chúng
thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của những nhân tố sinh thái khác.
- Nhân tố sinh thái thứ yếu: (1) Những nhân tố sinh thái có ảnh hưởng
không lớn đối với sinh vật. (2) Những nhân tố sinh thái mà đặc tính và sự hoạt
động của chúng phụ thuộc vào những nhân tố sinh thái khác.
- Nhân tố sinh thái độc lập: Đó là những nhân tố sinh thái mà đặc tính
và sự hoạt động của chúng là độc lập với hoạt động sống của sinh vật. Ví dụ:
Địa hình, ánh sáng mặt trời ở mặt trên tán rừng.
- Nhân tố sinh thái phụ thuộc. Đó là những nhân tố sinh thái mà đặc tính và
sự hoạt động của chúng phụ thuộc vào những nhân tố sinh thái khác. Ví dụ:
Cường độ ánh sáng dưới tán rừng giảm dần theo độ khép tán của rừng…
- Nhân tố sinh thái giới hạn: ( 1) Những nhân tố sinh thái nằm ở lân cận
vùng gây ra ức chế hoặc tử vong của sinh vật. (2) Những nhân tố sinh thái
làm cho sinh vật lâm vào tình trạng bị ức chế hoặc tử vong. Ví dụ: Nhiệt độ
(ánh sáng, độ ẩm…) quá cao hoặc quá thấp đối với hoạt động bình thường của
thực vật.
- Tính chống chịu sinh thái của loài. Khả năng của sinh vật có thể chịu
đựng được sự tác động của nhân tố sinh thái ở mức độ nào đó. Ví dụ: Thực
vật có khả năng chịu được biên độ biến đổi nhất định của ánh sáng, nhiệt,
nước, hàm lượng khoáng trong dung dịch đất, địa hình….
Còn trong giáo trình Sinh thái học của Nguyễn Đình Sinh (2009) [7] thì
nhân tố sinh thái là tất cả các nhân tố môi trường có ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp tới đời sống sinh vật. Tất cả các nhân tố sinh thái gắn bó chặt chẽ với nhau
thành một tổ hợp sinh thái và cùng tác động lên cơ thể sinh vật.
Sự phân chia các nhóm nhân tố sinh thái. Theo Mai Sỹ Tuấn (Phạm Văn
Lập, chủ biên, 2008), các nhân tố sinh thái được chia thành hai nhóm: Nhóm
các nhân tố vô sinh là tất cả các nhân tố vật lý và hóa học của môi trường
xung quanh sinh vật. Nhóm các nhân tố hữu sinh là thế giới hữu cơ của môi

trường, là những mối quan hệ giữa một sinh vật (hoặc nhóm sinh vật) này với
một sinh vật (hoặc nhóm sinh vật) khác sống xung quanh. Trong nhóm nhân
tố sinh thái hữu sinh, nhân tố con người được nhấn mạnh là nhân tố có ảnh
hưởng lớn tới đời sống của nhiều sinh vật.
Theo Thái Văn Trừng (1978) [10] khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng
Việt Nam, đã kết luận: Ánh sáng là nhân tố sinh thái khống chế và điều khiển
quá trình tái sinh tự nhiên ở cả rừng nguyên sinh lẫn rừng thứ sinh. Nếu các
điều kiện khác của môi trường như: đất rừng, nhiệt độ, độ ẩm dưới tán rừng
chưa thay đổi thì tổ hợp các loài cây tái sinh không có những biến đổi lớn và
cũng không diễn thế một cách tuần hoàn trong không gian và theo thời gian
mà diễn thế theo những phương thức tái sinh có quy luật nhân quả giữa sinh
vật và môi trường.
Phạm Hoàng Quốc (2011) đã nghiên cứu ảnh hưởng của một số nhân tố
sinh thái đến tái sinh tự nhiên loài Lim xanh tại khu vực Hữu lũng - Lạng sơn.
Theo tác giả, dưới mỗi độ tàn che các nhân tố ánh sáng, nhiệt độ, ẩm độ có
quan hệ với nhau tạo thành một tiểu khí hậu riêng. Điều này có ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng, phát triển của cây rừng, đặc biệt là lớp cây tái sinh trực
tiếp chịu ảnh hưởng này. Độ biến động về cường độ ánh sáng cao hơn sự biến
động về nhiệt độ, còn biến động về ẩm độ là nhỏ nhất [6].
Hà Thanh Tiến (2012) đã nghiên cứu đặc điểm sinh thái, phân bố và tình
trạng của một số loài cây lá kim vùng núi thấp và trung bình tại xã Vũ Nông,
huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng cho thấy các loài cây hạt trần sống trên
núi đá hoặc núi đá vôi ở độ cao trên dưới 1000m nên chủ yếu là đất mùn thô
trên núi, có lý tính tốt, kết cấu tơi xốp, thoát nước. Màu sắc của đất hầu hết có
màu xám đen, tỷ lệ đá lộ đầu lớn từ 80 – 95% [9].
Nguyễn Minh Đức (1998) đã nghiên cứu đặc điểm một số nhân tố sinh
thái dưới tán rừng và ảnh hưởng của chúng đến tái sinh loài Lim xanh tại
vườn quốc gia Bến En – Thanh Hóa. Theo tác giả việc tác động vào lớp cây
tái sinh nói chung, cây tái sinh Lim xanh nói riêng phải dựa vào mối quan hệ
giữa cường độ ánh sáng và độ ẩm dưới tán rừng thông qua việc điều chỉnh độ

tàn che. Từ đó, tác giả đề xuất biện pháp nuôi dưỡng và xúc tiến tái sinh loài
Lim xanh [2].
2.4. Tổng quan về khu vực nghiên cứu
2.4.1. Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
2.4.1.1.Vị trí địa lý
Huyện Nguyên Bình nằm ở vị trí toạ độ 105
0
40’ kinh độ Đông, 22
0
30’
đến 22
0
50’ vĩ độ Bắc.
- Phía Bắc giáp huyện Thông Nông
- Phía Tây giáp huyện Bảo Lạc và Ba Bể tỉnh Bắc Kạn
- Phía Nam giáp huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn
- Phía Đông giáp huyện Hòa An
Dọc theo Huyện có Quốc lộ 34 từ thị xã qua trung tâm huyện Nguyên
Bình đến huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm sang huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang.
Đường tỉnh lộ 212 từ Nguyên Bình đi Ba Bể ra Quốc lộ 3. Ngoài ra Huyện
còn có nhiều khu di tích lịch sử như: Hang Kéo Quảng – xã Minh Tâm, Đồn
Nà Ngần, khu rừng Trần Hưng Đạo – xã Tam Kim. Dọc theo Quốc lộ 34 về
phía Tây, cách thị trấn Nguyên Bình 15km, là vùng có tiềm năng về đất đai
cũng như các nguồn lực khác, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của
Huyện trong tương lai.
2.4.1.2. Địa hình, địa mạo
Huyện Nguyên Bình có địa hình núi đồi phức tạp, chủ yếu là núi đá vôi,
độ dốc lớn, chia cắt mạnh và cao từ 700m - 1.300m. Điểm cao nhất là 1.931m
(Phía Oắc), điểm thấp nhất 100m. Độ cao trung bình của huyện là 1.100 m.
Nhìn chung, địa hình của các xã trên địa bàn huyện Nguyên Bình nằm trên

vùng núi cao có cao độ từ 500m (Thái Học, Tam Kim, Hưng Đạo, Mai Long)
đến 1.400m (Quang Thành, Thành Công, Triệu Nguyên, Yên Lạc).
- Theo kiến tạo địa hình, huyện Nguyên Bình chia thành 2 vùng rõ rệt:
+ Vùng núi đất gồm các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Tâm, Minh
Thanh, Tam Kim, Quang Thành, Thịnh Vượng, Thành Công, Hoa Thám, Thể
Dục, Hưng Đạo và thị trấn Nguyên Bình.
+ Vùng núi đá gồm các xã: Thái Học, Vũ Nông, Yên Lạc, Triệu Nguyên,
Mai Long, Phan Thanh, Ca Thành và thị trấn Tĩnh Túc.
Theo kết quả đo trên bản đồ địa hình tỷ lệ 1/25.000 của Huyện thì diện
tích có độ dốc tương đối bằng (từ 8
0
trở xuống) chiếm 3,12 % diện tích đất
của toàn Huyện; diện tích đất có độ dốc trên 25
0
chiếm 83,54 % diện tích đất
cả huyện; xen kẽ giữa các dãy núi cao là thung lũng tương đối bằng và hẹp,
tạo thành những cánh đồng nhỏ để trồng lúa từ một đến vài chục ha.
2.4.1.3. Khí hậu
Huyện Nguyên Bình thuộc vùng khí hậu á nhiệt đới với 2 mùa rõ rệt:
- Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, chịu ảnh hưởng
của gió mùa Đông Bắc khô hanh, thường xảy ra những đợt rét đậm kéo dài
kèm theo sương muối (tháng 12 và tháng 1, tháng 2); Độ ẩm không khí trung
bình 82%/năm. Lượng bốc hơi bình quân trong năm 831,6 mm, lượng bốc hơi
lớn tập trung từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, do đó trong các tháng này
thường xuyên xảy ra khô hạn;
- Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm, lượng
mưa trung bình 1200 mm. Trong đó mưa lớn nhất trung bình 2.043,7 mm.
Lượng mưa trong năm phân bố không đều thường tập trung vào các tháng 6,
tháng 7 và tháng 8. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 20
0

C, cao nhất khoảng
35 - 36
0
C, thấp nhất từ 0
0
C đến 6
0
C.
+ Gió bão: Gió Đông Nam và Đông Bắc là 2 hướng gió chủ đạo của
huyện, tốc độ trung bình 1,4 m/giây, mạnh nhất lên đến 20 m/giây, bị ảnh
hưởng bởi bão và áp thấp nhiệt đới. Sương muối năm nào cũng tập trung vào
tháng giêng, tháng 2 ít nhất 2 - 3 ngày, có nơi có năm kéo dài 5 - 7 ngày,
sương mù thường xuyên xuất hiện ở những vùng núi khe sâu, kéo dài thời
gian từ 2 - 4 giờ/ngày.
Thời tiết khí hậu huyện Nguyên Bình thích hợp cho nhiều loại cây trồng,
nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, nhất là đồng
bào sống ở độ cao trên 300 m của vùng núi đá, nơi thiếu nước, xa sông suối.
2.4.1.4. Thuỷ văn
Chế độ thủy văn các con sông phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa và khả
năng điều tiết của lưu vực. Do đó cùng với diễn biến lượng mưa hàng tháng
trong năm thì chế độ thủy văn trên các con sông cũng thay đổi theo hai mùa
rõ rệt, mùa lũ và mùa cạn. Đa số các con sông, suối trên địa bàn huyện
Nguyên Bình đều bắt nguồn từ những dãy núi cao trên 1.000 m ở các xã
Thành Công, Hưng Đạo, Quang Thành, Tam Kim, Hoa Thám chảy về Hoà
An. Qua số liệu thống kê hàng năm cột ngập lụt trung bình là 196,5 m theo
bản đồ hiện trạng đo vẽ năm 1993, lũ xuất hiện tần suất 50- 60%.
2.4.1.5. Tài nguyên rừng
Đất lâm nghiệp hiện nay tính toàn huyện có: 71.876,67 ha chiếm 85,65
% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất có rừng là 54.689,72 ha, trong đó có:
rừng sản xuất 1.567,09 ha; rừng phòng hộ 50.038,63ha và rừng đặc dụng

3.093,00 ha.
Nhiều loại gỗ quý như Lát, Nghiến, gỗ nhóm 1,2,3 tuy đã được chăm sóc
bảo vệ nhưng tỷ lệ còn lại rất ít, chủ yếu là rừng tái sinh; hiện còn chủ yếu là
chủng loại cây thuộc nhóm 4, 5, 6. Về rừng trồng, ngoài thông và xa mộc, cây
trúc sào là cây có giá trị kinh tế đang được nhiều địa phương quan tâm phát
triển. Trên rừng còn có nhiều động vật hoang dã, các loại lâm sản có khả năng
khai thác như: măng, nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, thảo quả đang bị khai
thác vô tổ chức, không có kế hoạch bảo vệ nguồn gen lâu dài.
2.4.1.6. Tài nguyên đất
Nhìn chung tài nguyên đất của huyện Nguyên Bình khá phong phú. Theo
kết quả tổng hợp trên bản đồ thổ nhưỡng 1/25.000 thì trên địa bàn huyện có
18 loại đất chính trong bảng dưới đây.
Bảng 2.1. Thổ nhưỡng huyện Nguyên Bình
Hạng mục

hiệu
Diện
tích
(ha)
Tỷ lệ
(%d)
Phân bổ tập trung ở các xã
1. Đất phù sa sông suối Py 297,24 0,36
Ven sông Nguyên Bình, sông
Năng (Phan Thanh) sông
Hiến (Tam Kim, Hưng Đạo,
Quang Thành)
2. Đất sám bạc màu trên
là sa cổ
B 30 0,04 Tập trung ở các xã Yên Lạc

3. Đất thung lũng do sản
phẩm dốc tụ
D 704 0,84
Tập trung ở các xã: Lang
Môn, Tam Kim, Bắc Hợp,
Thái Học, Minh Thanh, Mai
Long, Thành Công, thị trấn
Tĩnh Túc…
4. Đất đỏ vàng biến đổi
do trồng lúa
Fl 1.242 1,48
Minh Tâm, Tam Kim, Minh
Thanh, Hưng Đạo, Quang
Thành, Phan Thanh, thị trấn
Nguyên Bình.
5. Đất nâu đỏ trên đá
mắc Bazơ và trung tính
Fk 1.630 1,95
Vũ Nông, Thể Dục, Thái
Học, Minh Thanh, Bắc Hợp
và thị trấn Nguyên Bình
6. Đất đỏ nâu trên đá
vôi
Fv 240 0,29 Xã Triệu Nguyên
7. Đất nâu vàng trên đá
vôi
Fn 360 0,43 Thái Học, Minh Tâm, Bắc Hợp
8. Đất đỏ vàng trên đá
sét và biến chất
Fs 39.950 47,72

Thịnh Vượng, Hoa Thám, Lang
Môn, Thể Dục, Tam Kim.
9. Đất đỏ vàng trên mắc Fa 800 0,96 Tập trung ở xã Quang Thành
Hạng mục

hiệu
Diện
tích
(ha)
Tỷ lệ
(%d)
Phân bổ tập trung ở các xã
ma axít
10. Đất vàng nhạt trên
bãi cát
Fq 1.050 1,25
Tam Kim, Bắc Hợp, Lang
Môn
11. Đất mùn nâu đỏ trên
đá vôi
Hv
1.233,
4
1,47
Tập trung ở xã Yên Lạc,
Triệu Nguyên
12. Đất mùn nâu đỏ trên
đá mắc ma Bazơ trung
tính
Hk 2.410 2,88 Ca Thành, Yên Lạc

13. Đất mùn đỏ vàng
trên đất sét biến chất
Hs 12.470 14,89
Vũ Nông, Triệu Nguyên,
Phan Thanh, Ca Thành, Thể
Dục, Thành Công
14. Đất mùn đỏ trên đá
mắc ma axít
Ha 4.680 5,59
Quang Thành, Thị trấn Tĩnh
Túc
15. Đất mùn vàng nhạt
trên đá cát
Hq 922 1,1
Ca Thành, Tam Kim, Hưng
Đạo
16. Đất mùn vàng trên
núi cao
A 246
Quang Thành, Phan Thanh,
Thành Công, Thị trấn Tĩnh
Túc
17. Đất núi đá 15.200 18,16 Các vùng thuộc núi đá
18. Sông suối 255,36
(Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của huyện Nguyên Bình và thống kê của
tỉnh Cao Bằng).
2.4.1.7. Tài nguyên nước
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt và nước ngầm. Nước mặt
phân bố chủ yếu ở hệ thống sông, suối, ao, hồ, kênh, rạch và nguồn nước
ngầm tập trung ở các thung lũng.

Đặc điểm chung của huyện nơi vùng núi đá vôi cao có nhiều hang động
catxtơ, nên nguồn nước mặt cũng như nguồn nước ngầm rất nghèo, gây khó
khăn cho những xã vùng cao núi đá của huyện.
2.4.2. Điều kiện dân sinh kinh tế - xã hội
2.4.2.1. Dân số và lao động
- Dân số
Trên địa bàn toàn huyện Nguyên Bình có 07 dân tộc sinh sống kết quả
điều tra dân tộc có:
Dân tộc Tày, Nùng chiếm 47,0 %
Dân tộc Dao chiếm 38,7 %
Dân tộc Mông chiếm 5,6 %
Dân tộc kinh chiếm 8,6 %
Và các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất ít 0,1%
Mỗi dân tộc trong huyện đều có bản sắc riêng, phong tục tập quán riêng,
tạo nên nền văn hóa phong phú đa dạng, có lễ hội truyền thống vẫn được tổ
chức thường xuyên hàng năm đó là bản sắc văn hóa quý báu của huyện cần
được bảo vệ. Trong đó, chiếm tỷ lệ lớn nhất là dân tộc Dao. Dân tộc Mông và
dân tộc Dao sống chủ yếu ở vùng cao hẻo lánh và vùng núi đá. Một bộ phận
đồng bào này thường sống du canh, du cư hoặc định cư nhưng còn du canh.
Tổng dân số toàn huyện là 39 644 người. Mật độ dân số bình quân chung
của huyện là 47người/Km
2
. Nhưng điều đáng lưu ý là sự phân bố dân cư
không đều giữa các xã trong huyện. Nơi có mật độ đông dân nhất là Thị trấn
Nguyên Bình 207người/Km
2
và Thị trấn Tĩnh Túc 165 người/Km
2
. Nơi có
mật độ thấp nhất là xã Thịnh Vượng 16 người/Km

2
. Vì vậy dẫn đến đòi hỏi
yêu cầu bố trí đất dành cho xây dựng nhà ở và các công trình văn hoá phúc lợi
cũng có sự khác nhau giữa các khu vực, chính vì thế trong quy hoạch sử dụng
đất đai cần chú ý đến đặc điểm này.
- Lao động
Lao động trên địa bàn huyện chủ yếu là theo mùa vụ, do vậy hướng giải
quyết việc làm là khắc phục tình trạng bán thất nghiệp bằng các hình thức đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Đầu tư thâm canh tăng vụ,
nâng cao giá trị sản xuất của ruộng đất, phát triển tiểu thủ công nghiệp và
ngành nghề, phát triển kinh tế dịch vụ. Tạo điều kiện cho nhân dân được vay
vốn lãi suất ưu đãi, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm nhằm trang
bị cho nông dân kiến thức thâm canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản
xuất. Thực hiện tốt Quyết định 134 của thủ tướng chính phủ về một số chính
sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân
tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, thực hiện xuất khẩu lao động.
2.4.2.2. Hoạt động sản xuất nông – lâm nghiệp
- Sản xuất nông nghiệp
Cây trồng nông nghiệp huyện Nguyên Bình chủ yếu là cây lúa, cây ngô
và các loại cây khác như: khoai, sắn, rau đậu các loại. Điều kiện tự nhiên khắc
nghiệt đất bạc màu là nguyên nhân khách quan làm năng suất cây trồng rất
thấp. Cây lúa, ngô tuy là giống cây lương thực chủ đạo nhưng giống ngô,
giống lúa canh tác ở đây trong những năm trước đây chủ yếu là loại cây giống
địa phương do đồng bào tự để giống có năng suất thấp thời gian sinh trưởng
dài ngày, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa vùng đồng bào dân tộc Dao, Mông.
Ngoài ra, một số dược liệu có giá trị cũng từng bước được đầu tư trồng và
chăm sóc như sa nhân, sâm đất, …
- Lâm nghiệp
Rừng núi chiếm đại đa số diện tích tự nhiên ở các xã. Hầu hết là rừng tự
nhiên đã được tổ chức giao khoán đến từng hộ quản lý khoanh nuôi và bảo vệ.

Biện pháp chính hiện nay của huyện là khoanh nuôi tái sinh rừng tự
nhiên hiện có. Thông qua các chương trình dự án như 327, ĐCĐC và dự án 5
triệu ha rừng đến năm 2009 keo lai trồng được 33,7 ha; cây Thông, Sa Mộc
trồng được 96,1 ha. Trong những năm qua rừng đã được phục hồi và phát
triển, thảm thực vật rừng khá phong phú, tập đoàn cây phong phú, nhiều tầng
lớp khác nhau nhưng tỷ lệ các nhóm gỗ quý như lát, nghiến còn rất ít do bị
khai thác tràn lan không kiểm soát được.
Thực hiện mục tiêu phủ xanh đất trống đồi núi trọc và phát triển kinh tế
rừng, huyện đã tiếp tục triển khai giao đất, giao rừng, trồng rừng, chăm sóc
khoanh nuôi bảo vệ rừng. Đến nay công tác giao đất lâm nghiệp cơ bản hoàn
thành. Và đã thu hút các nhà đầu tư tham gia khai thác và trồng rừng kinh tế,
nâng tỷ lệ che phủ rừng của huyện từ 45% năm 2005 lên 50,8% năm 2010.
Hiện nay trên địa bàn huyện có 3 doanh nghiệp đang đầu tư trồng rừng sản
xuất gắn với chế biến. Tuy nhiên vẫn còn hiện tượng phá rừng làm nương rẫy,
khai thác vận chuyển tài nguyên rừng trái phép. Đầu năm 2010, do khô hạn
kéo dài và ý thức kém của một số người dân dẫn đến tình trạng cháy rừng xảy
ra ở một số xã.
Nhìn chung, trong những năm qua, đất lâm nghiệp có rừng đã ngày càng
được mở rộng. Đã có sự đầu tư thích đáng cho công tác khoanh nuôi, tái sinh
và trồng rừng mới. Nhiều khu vực gỗ quý như lát, nghiến…được chăm sóc,
bảo vệ; nạn phá rừng chuyển mục đích đất lâm nghiệp sang mục đích khác
từng bước được hạn chế.
2.4.2.3. Cơ sở hạ tầng
- Giao thông
Do địa hình của huyện Nguyên Bình là vùng đồi, núi cao, có các thung
lũng, địa hình bị các dãy núi đá vôi chia cắt, nhiều khe suối, khí hậu núi cao
ẩm ướt. Vì vậy đường giao thông phải bám theo sườn núi, quanh co, hiểm trở.
Với địa hình miềm núi tuyến phải qua nhiều đoạn dốc quá dài so với qui định
nhiều độ dốc tối đa và châm trước còn vượt quá chỉ tiêu kỹ thuật cấp hạng. Một
mặt tuyến men đi theo các sườn núi, dọc theo các thung lũng, dọc theo suối.

Nhìn chung huyện chỉ có phương thức vận tải bằng đường bộ, mạng lưới
đường phân bố hợp lý theo sự phân bố của dân cư, tuy nhiên nhu cầu đi lại
của người dân cao, mặt khác cư dân lại sinh sống rải rác nên để đa dạng hóa
loại hình vận tải rất khó khăn. Với điều kiện nền kinh tế như hiện tại do có cơ
chế đúng nên đã phát huy được tác dụng tích cực đáp ứng được nhu cầu tối
thiểu của yêu cầu vận tải.
- Thủy lợi
Diện tích đất giành cho xây dựng các công trình thủy lợi của huyện là
34,28 ha rất thấp so với yêu cầu để đảm bảo cho thâm canh, đa dạng hóa cây
trồng. Tuy nhiên, được sự đầu tư của nhà nước, nên đã có nhiều công trình
được tu bổ, nâng cấp sửa chữa, làm mới phục vụ sản xuất và đời sống, đã thực
hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương được 14/20 xã, thị trấn, đảm bảo
tưới cho 1600 ha sản xuất một vụ và trên 600 ha sản xuất 2 vụ. Ngoài ra nhân
dân còn tự khôi phục, sửa chữa, đào đắp thêm nhiều tuyến mương phai, đập
chắn nước để có nước sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
- Điện

×