MỤC LỤC
TT Thứ tự 1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 2
DANH MỤC CÁC HÌNH 2
1.1. Đặt vấn đề 3
1.2. Mục đích nghiên cứu 5
1.3. Mục tiêu nghiên cứu 5
1.4. Ý nghĩa của đề tài 6
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và trong nghiên cứu 6
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 6
Phần 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 7
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu 7
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam 8
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 8
2.2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam 13
2.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 18
2.3.1. Điều kiện tự nhiên 18
2.3.2. Tình hình kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu 21
Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
27
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 27
3.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 27
3.3. Nội dung nghiên cứu 27
3.4. Phương pháp nghiên cứu 27
3.4.1. Phương pháp nghiên cứu 28
3.4.2. Ngoại nghiệp 30
3.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 30
Phần 4 KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 35
4.1. Đặc điểm cấu trúc tổ thành và mật độ cây tầng cao 35
4.1.1. Cấu trúc tổ thành và mật độ tầng cây gỗ nơi cây Thiết sam giả lá ngắn phân bố
tại vị trí > 1000 m 35
4.1.2. Cấu trúc tổ thành và mật độ tầng cây gỗ nơi có cây Thiết sam giả lá ngắn phân
bố tại vị trí <1000 m 36
4.2. Đặc điểm tái sinh tự nhiên nơi có loài Thiết sam giả lá ngắn phân bố 38
4.2.1. Tổ thành tầng cây tái sinh 38
4.2.2. Nguồn gốc, chất lượng tái sinh loài Thiết sam giả lá ngắn 40
4.2.3. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao 41
4.2.4. Phân bố cây tái sinh theo mặt phẳng nằm ngang 42
4.3. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn loài Thiết sam giả lá ngắn 47
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 49
5.1. Kết luận 49
i
5.2. Kiến nghị 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CTV Cây triển vọng
D
t
Đường kính tán
D
1.3
Đường kính 1.3m
ĐTC Độ tàn che
ĐDSH Đa dạng sinh học
ĐT –NB Đông tây – Nam bắc
Đ, T, N, B Đông, tây, nam, bắc
h Chiều cao
H
vn
Chiều cao vút ngọn
H
dc
Chiều cao dưới cành
IUCN Hiệp hội quốc tế bảo vệ thiên nhiên
KBT Khu bảo tồn
ODB Ô dạng bản
OTC Ô tiêu chuẩn
STT Số thứ tự
TB Trung bình
TT Thứ tự
1
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thổ nhưỡng huyện Nguyên Bình 19
Bảng 4.1: Cấu trúc tổ thành và mật độ tầng cây gỗ nơi cây Thiết sam giả lá
ngắn phân bố ở vị trí > 1000 m 35
Bảng 4.2: Cấu trúc tổ thành và mật độ tầng cây gỗ ở vị trí < 1000 m 37
Bảng 4.3: Cấu trúc tổ thành và mật độ cây tái sinh ở vị trí 38
Bảng 4.4: Phân tích nguồn gốc và chất lượng cây Thiết sam giả lá ngắn tái
sinh theo vị trí 40
Bảng 4.5: Mật độ cây tái sinh theo cấp chiều cao của loài Thiết sam giả lá
ngắn và các loài khác trong khu vực nghiên cứu 41
Bảng 4.6: Bảng phân bố cây Thiết sam giả lá ngắn tái sinh theo mặt phẳng
ngang ở các vị trí 43
Bảng 4.7: Ảnh hưởng của độ tàn che đến loài Thiết sam giả lá ngắn tái sinh
tự nhiên ở vị trí 43
Bảng 4.8: Ảnh hưởng của cây bụi, thảm tươi đến tái sinh tự nhiên ở 44
Bảng 4.9: Ảnh hưởng của địa hình đến tái sinh tự nhiên ở vị trí khác nhau45
Bảng 4.10: Ảnh hưởng của địa hình đến chất lượng cây tái sinh (%) 46
Bảng 4.11: Đặc điểm tính chất đất tại khu vực nghiên cứu nơi có loài Thiết
sam giả lá ngắn phân bố 47
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 4.1: Mật độ tái sinh theo cấp chiều cao của rừng nơi loài Thiết sam
giả lá ngắn phân bố và loài Thiết sam giả lá ngắn 42
2
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là một trong những tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhất của Việt
Nam. Rừng cung cấp gỗ, củi, thức ăn, thuốc chữa bệnh, giúp điều hòa nhiệt độ,
3
nước ở các con sông và ngăn chặn xói mòn đất. Rừng Việt Nam còn có tầm quan
trọng đối với thế giới do đây là nơi sinh sống của nhiều loài động, thực vật, và côn
trùng rất phong phú và độc đáo của riêng Việt Nam. Tuy nhiên, trong vòng 50 năm
gần đây rừng đã bị tàn phá rất nặng nề, phần lớn những khu rừng còn lại nằm tập
trung ở các vùng núi cao.
Trong các khu rừng như vậy cây lá kim đóng một vai trò rất quan trọng về
sinh thái cũng như về khả năng cung cấp gỗ và các lâm sản khác. Cây lá kim là một
phần của một trong hai nhóm thực vật bậc cao, nhóm cây hạt trần
(Gymnospermae). Cây hạt trần có nguồn gốc từ trên 300 triệu năm trước và trong
thời gian dài đã từng tạo thành thảm thực vật chính trên trái đất. Hiện nay chỉ có
khoảng 900 loài cây hạt trần, bao gồm cả các loài Tuế, Gắm (Gnetum) và những
nhóm nhỏ khác. Cây lá kim là nhóm cây có nhiều nhất trong cây hạt trần. Tất cả
các loài cây lá kim đều thụ phấn nhờ gió với các nón đực và nón cái (hoa) riêng
biệt hoặc trên các cây khác nhau (phân tính khác gốc như ở phần lớn họ Kim Giao
– Podocarpaceae) hoặc trên các phần khác nhau của cùng một cây (phân tích cùng
gốc như ở các loài thông – Pinus).
Hiện tại có trên 200 loài cây lá kim được xếp là bị đe dọa tuyệt chủng ở mức
trên toàn thế giới. Rất nhiều loài khác bị đe dọa , trong một phần phân bố tự nhiên
của loài. Những đe dọa hay gặp nhất là việc khai thác quá mức lấy gỗ hay sản phẩm
khác, phá rừng làm bãi chăn thả gia súc, trồng trọt và làm nơi sinh sống cho con
người cùng với sự gia tăng tần suất của các đám cháy rừng. Đối với những loài
nguy cơ tuyệt trủng tăng lên do các quần thể thường nhỏ và có phân bố hạn chế,
đều vốn là bản chất là những cây tàn tích còn lại trong lịch sử tiến hóa.
Loài Thiết sam giả lá ngắn (Pseudotsuga brevifolia W.C Cheng &
L.K.Fu, 1975) là một trong số 33 loài cây lá kim bản địa ở Việt Nam, có phân
bố tự nhiên hiện còn sót lại ở vùng núi đá vôi của các tỉnh: Hà Giang, Cao
Bằng, Bắc Kạn, Lặng Sơn (Bắc Sơn). Đây là loại gỗ nhỡ, gỗ đẹp và bền,
thường mọc trên các đỉnh núi đá vôi có độ cao từ 500 – 1500 m so với mặt
nước biển. Loài này mang nhiều ý nghĩa về sinh thái, giá trị thương mại, giá
trị sử dụng, giá trị văn hóa cảnh quan. Hiện nay vùng phân bố tự nhiên bị thu
hẹp nhanh chóng và một số cá thể trưởng thành của loài bị giảm sút nghiêm
trọng do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do khai thác gỗ vì mục đích
4
thương mại và xây dựng, làm hàng mỹ nghệ, điều kiện hoàn cảnh sống thay
đổi, quần thể bị chia cắt, khả năng tái sinh kém. Vì vậy, loài này đang đứng
trước nguy cơ tuyệt chủng. Cần phải có ngay biện pháp kịp thời để bảo tồn và
hướng tới phát triển nhân rộng loài cây gỗ quý, hiếm ở vùng núi đá vôi.
Thiết sam giả lá ngắn được đề nghị loài bổ xung vào danh lục các loài
quý hiếm và nguy cấp theo nghị định 32/NĐ-CP/2006 nghiêm cấm khai thác
và sử dụng với mục đích thương mại. Thuộc bậc VU theo sách đỏ Việt Nam
2007 và danh lục đỏ IUCN năm 2007.
Những nghiên cứu về Thiết sam giả lá ngắn trên núi đá vôi ở nước ta còn
nhiều hạn chế, các nghiên cứu mới chỉ tập trung vào việc sơ bộ mô tả đặc
điểm hình thái, sinh thái, những thông tin về khả năng tái sinh ngoài tự nhiên
còn rất ít.
Để bảo tồn loài quý hiếm này cần thiết phải có những nghiên cứu sâu về
đặc điểm hình thái, sinh thái học và vật hậu. Vì vậy việc nghiên cứu sâu về
hiện trạng phân bố, đặc điểm lâm học và khả năng tái sinh tự nhiên là điều
cần thiết, góp phần giải quyết các các vấn đề đang đặt ra cho bảo tồn một loài
quý hiếm, đặc hữu, có giá trị về nhiều mặt nhưng đang đứng trước nguy cơ bị
xâm hại và tuyệt chủng. Xuất phát từ nhu cầu bảo tồn loài quý hiếm này và
được sự nhất chí của khoa Lâm Nghiệp trường Đại Học Nông Lâm Thái
Nguyên, tôi thực hiện đề tài tốt nghiệp: “Nghiên cứu đặc điểm tái sinh của loài
Thiết sam giả lá ngắn (Pseudotsuga brevifolia W.C Cheng & L.K.Fu, 1975)
tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đánh giá thực trạng khả năng tái sinh tự nhiên ở trạng thái thảm thực
vật và loài Thiết sam giả lá ngắn tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng làm cơ
sở khoa học đề xuất các giải pháp xúc tiến quá trình phục hồi nhằm nâng cao
chất lượng rừng và các quá trình diễn ra trong hệ sinh thái rừng tự nhiên.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được các đặc điểm cấu trúc tổ thành loài và mật độ cây gỗ ở
tầng cao.
5
- Xác định một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của loài Thiết sam giả lá
ngắn trên núi đá. Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và thúc đẩy quá
trình tái sinh tự nhiên của loài.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và trong nghiên cứu
- Góp phần củng cố phương pháp nghiên cứu khoa học cho sinh viên,
giúp sinh viên vận dụng những kiến thức đã học trong trường vào công tác
nghiên cứu khoa học và thực tiễn sản xuất lâm nghiệp một cách có hiệu quả.
- Cung cấp số liệu hiện trạng tái sinh tự nhiên, nguồn lực và nhân lực để
quản lý, bảo tồn Thiết sam giả lá ngắn tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn.
- Cung cấp số liệu về khả năng tái sinh tự nhiên của Thiết sam giả lá
ngắn tại huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.
- Phục hồi rừng để bảo vệ nguồn gen duy trì tính đa dạng sinh học và cân
bằng sinh thái trong vùng là hết sức cần thiết, do đó kết quả của nghiên cứu
này sẽ góp phần làm sáng tỏ đặc điểm tái sinh và khả năng phục hồi tự nhiên
thảm thực vật tại khu vực nghiên cứu.
6
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Hiện nay, trên thế giới và Việt Nam tính đa dạng sinh học và số lượng
loài động thực vật đều bị giảm sút. Rất nhiều loài đã được đưa vào danh sách
cần bảo tồn. Trong đó có trên 200 loài cây lá kim được xếp là bị đe dọa tới
mức độ tuyệt chủng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, phần lớn các loài cây lá
kim đều bị đe dọa ở mức độ nhất định.
Dựa vào các tiêu chuẩn đánh giá tình hình các loài của IUCN, chính phủ
Việt Nam cũng công bố sách đỏ Việt Nam để hướng dẫn, thức đẩy công tác
bảo vệ tài nguyên sinh vật thiên nhiên. Đây cũng là tài liệu khoa học được sử
dụng vào việc soạn thảo các quy định, pháp luật của nhà nước về bảo vệ tài
nguyên sinh vật thiên nhiên, tính đa dạng sinh học và môi trường sinh thái.
Sách đỏ IUCN công bố văn bản năm 2004 (Sách đỏ năm 2004) vào ngày 17
tháng 11 năm 2004. Văn bản này đã đánh giá tất cả 38.047 loài, cùng với
2.140 phân loài, giống, chi và quần thể. Trong đó, 15.503 nằm trong tình
trạng nguy cơ tuyệt chủng gồm 7.180 loài động vật, 8.321 loài thực vật, và 2
loài nấm [2].
Các loài được xếp vào bậc 9 theo các tiêu chí về mức độ đe dọa tuyệt
chủng như tốc độ suy thái (rate of decline), kích thước quần thể
(populationsize), phạm vi phân bố (area of geographic distribution), và mức
độ phân tách quần thể và khu phân bố (degree of population and distribution
fragmentation) [2].
+ Tuyệt chủng (EX): Là một trạng thái bảo tồn của sinh vật được quy
định trong Sách đỏ IUCN. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng khi
có những bằng chứng chắc chắc rằng cá thể cuối cùng đã chết.
+ Tuyệt chủng trong tự nhiên (EW): Là một trạng thái bảo tồn của
sinh vật. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên khi các
cuộc khảo sát kỹ lưỡng ở sinh vật đã biết hoặc sinh vật dự đoán, vào những
thời gian thích hợp (theo ngày, theo mùa) xuyên xuốt vùng phân bố lịch sử
của loài đều không ghi nhận được cá thể nào. Các khảo sát nên vượt khung
7
thời gian thích hợp cho vòng sống và dạng sống của đơn vị phân loại đó. Các
cá thể của loài này chỉ còn tìm được với số liệu rất ít trong sinh cảnh nhân tạo
và phụ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của con người.
+ Cực kỳ nguy cấp (CR): Là một trạng thái bảo tồn của sinh vật một
loài hoặc nòi được coi là cực kỳ nguy cấp khi nó phải đối mặt với nguy cơ
tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần.
+ Nguy cấp (EN): Là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài bị
coi là nguy cấp khi nó phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên
trong một tương lại rất gần nhưng kém hơn mức độ cực kỳ nguy cấp.
+ Sắp nguy cấp (VU): Là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài
hoặc nòi bị đánh giá là sắp nguy cấp khi nó không nằm trong 2 bậc CR và
nguy cấp (EN) nhưng phải đối mặt với nguy cơ bị tuyệt chủng trong tự nhiên
cao trong một tương lai không xa.
+ Sắp bị đe dọa: Là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài hoặc
nòi bị đánh giá là sắp bị đe dọa khi nó phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng
trong tự nhiên cao trong một tương lai không xa.
+ Ít quan tâm: Least Concern
+ Thiếu dữ liệu: Data Deficient
+ Không được đánh giá: Not Evaluated
2.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Về phân bố cây tái sinh ở vùng nhiệt đới đã có rất nhiều công trình đề
cập đến, đáng chú ý là công trình của Richards. P.W (1952) và Bernard Rollet
(1974). Các tác giả đã tổng kết các nghiên cứu về phân bố số lượng cây tái
sinh và đưa ra nhận xét: Trong các ô tiêu chuẩn kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x
1,5m) cây tái sinh có dạng phân bố cụm một số ít có phân bố poisson. Ở châu
Phi, trên cơ sở các số liệu thu thập, Taylor (1954) và Barnard (1955) xác định
số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt, cần thiết phải bổ sung vào
trồng rừng nhân tạo. Ngược lại, các tác giả nghiên cứu về tái sinh rừng tự
nhiên nhiệt đới Châu á như: Bava (1954), Budowski (1956), Cantinot (1965)
lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh
8
có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và
phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng [3].
Khi điều tra tái sinh tự nhiên, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy mẫu ô
vuông theo hệ thống của Lowdermilk (1927) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986)
[7], các ô đo đếm điều tra tái sinh có diện tích từ 1 – 4m
2
. Do diện tích điều
tra nhỏ nên việc đo đếm được dễ dàng nhưng yêu cầu ô phải đủ lớn và trải dài
trên diện tích khu rừng mới phản ánh trung thực tình hình tái sinh rừng, điều
này cũng được thừa nhận ở các công trình nghiên cứu sau này.
Barnard (1955) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [7], để giảm sai số trong
khi thống kê tái sinh tự nhiên, tác giả đã đưa ra phương pháp “ điều tra chuẩn
đoán”, theo phương pháp này kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tùy theo
giai đoạn phát triển của cây tái sinh.
Van Steenis (1956) (theo Phùng Ngọc Lan, 1986) [7], cho rằng, hai đặc
điểm tái sinh phổ biến của rừng nhiệt đới đó là tái sinh phân tán liên tục và tái
sinh vệt (tái sinh lỗ trống). Hai đặc điểm này không chỉ thấy ở rừng nguyên
sinh mà còn thấy ở rừng thứ sinh, một hiện tượng khá phổ biến ở các nước
nhiệt đới.
Về cấu trúc của quần thể ảnh hưởng tới tái sinh đã được Andel, S (1981)
chứng minh độ đầy tối ưu cho sự phát triển bình thường cây gỗ là 0,6 – 0,7.
Độ khép tán của quần thể có quan hệ với mật độ và sức sống của cây con.
Trong sự cạnh tranh giữa thực vật về dinh dưỡng khoáng, ánh sáng, ẩm độ tùy
thuộc vào đặc tính sinh vật học, tuổi của mỗi loài và điều kiện và điều kiện
sinh thái của quần thể thực vật. Trong đa số các nghiên cứu tái sinh tự nhiên
của rừng người ta đều nhận thấy rằng cỏ và cây bụi, qua thu nhận ánh sáng,
ẩm độ và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh hưởng
xấu tới cây tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thể kín tán, đất khô và
nghèo dinh dưỡng khoáng, thảm cỏ phát triển kém nên ảnh hưởng của nó tới
các cây non không đáng kể. Ngược lại những lâm phần thưa, rừng đã qua khai
thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ, trong điều kiện này chúng là
nhân tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng Bannikov, 1967; Vipper 1973.
“Sinh thái nghiên cứu rừng là một quần xã sinh vật, nghiên cứu mối
quan hệ qua lại giữa các loài cây rừng với các sinh vật khác hình thành nên
9
quần xã và nghiên cứu mối qua lại giữa các sinh vật với môi trường tự nhiên
của chúng” (Stephen H.Spurr và Burton V .Barnes, 1973) [7].
Baur G.N (1964) [1], khi nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh
thái đến tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới, tác giả có nhận xét: trong rừng
nhiệt đới nếu thiếu ánh sáng thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây con,
còn đối với sự nảy mầm và sự phát triển của cây mầm thì ảnh hưởng là không
rõ ràng.
Trong chế độ khí hậu có các nhân tố bức xạ mặt trời, nhiệt độ, ẩm độ,
không khí. Việc nghiên cứu các nhân tố để làm căn cứ tác động kỹ thuật lâm
sinh đã được nhiều tác giả thực hiện. Theo Laslo Pancel, 99% năng lượng của
trái đất thu nhận từ mặt trời. Nhà lâm sinh học người Đức Bếnh-Sơ đã nói:
“ánh sáng là chiếc đòn bẩy mà các nhà lâm học điều khiển sự sống của rừng
theo hướng có lợi về kinh tế” [7].
L.A Ivanov đã đưa ra công thức tính lượng ánh sáng mà mỗi cây rừng
hấp thụ là lượng ánh sáng mặt trời mà mỗi cây rừng nhận được sau khi đã trừ
phần xuyên qua tán cây. Theo V .G.Nesterov, khi ánh sáng chiếu đến mặt trái
tán rừng thì một phần bị tán cây phản xạ lại (khoảng 20-25%), hấp thu (30-
75%) và lọt xuống rừng (5-40%) [8].
Theo Whitmore và Wong xác định trong ánh sáng tổng số lọt với tầng
thực vật thân cỏ thì 50% là do các vệt nắng đem lại. G.N. Baur cho rằng
gradian về cường độ ánh sáng trong rừng mưa biến đổi từ 2% ở gần mặt đất
đến gần 100% bên trên vòm là đã có bậc chuyển rất lớn [1].
Một số tài liệu nghiên cứu ở nước ngoài về biến động của các nhân tố
sinh thái dưới tán rừng và ảnh hưởng của nó đến sinh trưởng phát triển ở lớp
cây tái sinh đã được chứng minh rằng:
Các nhân tố sinh thái chủ yếu dưới tán rừng như chế độ chiếu sáng, chế
độ nhiệt ẩm… có sự biến động rất khác nhau theo chiều đứng và theo chiều
ngang và sự biến động này phụ thuộc rất lớn vào cấu trúc rừng, vào thành
phần loài cây, thời gian sinh trưởng và tuổi rừng. Đồng thời đến nay còn
nhiều quy luật biến đổi các nhân tố sinh thái chưa được khám phá, đặc biệt ở
dưới tán rừng nhiệt đới thường xanh (A.A.Aleceev, 1965, 1982; B.C.Belov,
1974, 1980; X.N.Xelnov, 1977, 1980) [5].
10
Sự biến động các nhân tố tiểu khí hậu rừng đề tuân theo những quy luật
nhất định và chính có sự biến đổi đó đôi khi tạo ra điều kiện rất có lợi cho đời
sống của cây tái sinh dưới tán rừng (C.B.Belov, 1982; Alecev, 1965, 1982) [5].
Với nhân tố nước: Rừng có tác động rất lớn trong tiểu tuần hoàn nước, ở
nơi không có rừng, nơi rơi xuống mặt đất được chia thành ba bộ phận: bốc
hơi, chảy trên bề mặt, thấm vào đất. Phần thấm vào đất bị thực vật hút và phát
tán vào khí quyển, nước được chứa trong đất một lượng bổ sung cho nước
ngầm. Nước bốc trên tán rừng có thể ngưng tụ thành mưa nên tán rừng còn có tác
dụng phân phối lại lượng nước mưa rơi [6]. Nước không chỉ là nhân tố sinh thái
mà còn là nhân tố sinh tồn, giữ vai trò quan trọng trong đời sống cây rừng [7].
Hiện nay, trên thế giới chỉ có khoảng 900 loài cây hạt trần, bao gồm cả
các loài Tuế, Gắm (Gnetum) và những nhóm nhỏ khác. Ngược lại, cây hạt kín
được ước tính có khoảng 400.000 loài. Cây lá kim là nhóm cây có nhiều nhất
trong cây hạt trần. Tất cả các cây lá kim đều thụ phấn nhờ gió với các nón đực
và nón cái (hoa) riêng biệt hoặc trên các cây khác nhau (phân tính khác gốc
như phần lớn các loài họ Kim giao – Podocarpaceae) hoặc trên các phần khác
nhau của cùng một cây (phân tích cùng gốc như ở các loài thông – Pinus). Rất
nhiều loài cây lá kim hình thành các nón dạng gỗ cứng với một trục chính và
một loạt các vẩy gắn xung quanh, ví dụ như ở các loài thông (Pines). Hạt
thường có cánh và chủ yếu được phát tán nhờ gió. Các cây lá Kim khác (như
họ Kim giao – Podocarpaceae, họ Đỉnh tùng – Cephalotaxaceae và họ Thông
đỏ - Taxaceae) có hạt hoặc được bao quanh hoặc được hình thành trên một
cấu trúc phình lớn, sáng màu. Những hạt này được phát tán nhờ động vật [2].
* Sự đa dạng của cây lá kim
Cây lá kim bao gồm những cây già nhất, cao nhất và lớn nhất trên thế
giới. Cây Thông Pinus aristata được biết đã sống khoảng tới 6.000 năm, cây
Tùng đỏ Duyên Hải Sequoia sempervirens đạt tới chiều cao trên 100 m và có
những cây Củ tùng khổng lồ Sequoiadendron giganteum có đường kính ngang
ngực tới 12 m. Những loài cây lá kim này được tìm thấy ở phía tây Bắc Mỹ.
Phần lớn cây lá kim có dạng hình tháp, mọc thành rừng thuần loài hay là
những cây vượt tán trên các cây lá rộng khác. Ở Zealand loài cây lá kim
Lepidothamnus laxifilia ra nón ngay khi cây mới cao 7 cm. Còn có một loại
11
cây lá kim mọc ký sinh trên rễ của một cây lá kim khác là loài Parasitaxus
usta của New Caledonia ở phía tây Thái Bình Dương. Hiện nay, cây lá kim
được xếp thành 8 họ, 70-75 chi và khoảng 635 loài. Hai chi lớn nhất là Thông
(Pinus) và Thông tre (Podocarpus), mỗi chi có trên 100 loài. Trong các chi
còn lại 75% là chi đơn loài (chỉ gồm một loài) hoặc là chi có ít hơn 5 loài [2].
* Phân bố cây lá kim
Phần lớn các cây lá kim gặp ở các vùng núi cao thuộc các vĩ độ vùng ôn
đới và cận nhiệt đới, thường là những nơi có lượng mưa lớn. Tuy nhiên, một
số loài còn thấy gặp ở cả những nơi không khí khô hoặc ở các vùng rất lạnh
gần Bắc Cực. Trên bắc bán cầu, các diện tích lớn của Châu âu, Châu á và Bắc
Mỹ được chiếm ưu thế chỉ bởi một số loài nhỏ các loài, ví dụ như loài Thông
Pinus sylvestris gặp từ vùng ven biển phía tây Scotland gần như cho tới phần
phía đông của Trung Quốc và Liên Xô cũ. Những vùng mà không có cây lá
kim thì hoặc là những sa mạc (nóng như Xa-ha-ra hoặc lạnh như Tây Tạng)
hoặc là những rừng nhiệt đới vùng thấp.
Trong khi nghiên cứu về Du sam đá vôi (Nguyễn Tiến Hiệp et al, 1998)
[13]. Đã tình cờ thu được rất nhiều mẫu vật kèm theo nón cái già còn đính
trên cành, luôn luôn ở tư thế mọc trúc xuống cho nên đã kết luận loài này
không thuộc về chi Keteleeria Carrière- Du sam. Hơn thế nữa do các vẩy cái
có lá vẩy (trước đây thường dùng từ lá bắc, một thuật ngữ phiên âm chệch từ
tiếng nước ngoài, tiếng latinh là bractea, tiếng Anh là bract hay tiếng pháp là
bractée) quặt ngược ra ngoài và trông thấy rõ trong nón cái cho nên chúng thuộc
về một chi mới đối với hệ thực vật Việt Nam, chi Pseudotsuga Carrière – Thiết
sam giả. Chi này gồm 4-5 loài, 1-2 loài phân bố ở vùng ôn đới tây Bắc Mỹ và
Mêhicô, 3 loài còn lại ở ôn đới và cận nhiệt đới Đông Á: Nhật Bản, Đài Loan và
ở đất liền Trung Quốc (chủ yếu về nam sông Dương Tử, tây và nam Trung
Quốc). Tất cả những mẫu vật thu được đều được định loại là Pseudotsuga
brevifolia W.C. Cheng & L. K. Fu – Thiết sam giả lá ngắn. Nó rất gần
Pseudotsuga sinensis Đoe – Thiết sam giả tầu, và thậm chí có tác giả ( ví dụ
Farjon và Silba cho chỉ là một thứ của loài này) nhưng khác chủ yếu là ở chỗ có
lá ngắn hơn, rất ít khi dài đến 2 cm, trong khi ở loài kia thường dài 2 – 3 cm.
12
Loài này thuộc yếu tố Đông Á, trước đây chỉ gặp ở Tứ Xuyên, Quý
Châu, Triết Giang, Vân Nam và Quảng Tây (điểm thu mẫu gần Việt Nam
nhất đồng thời cũng ở cực nam là Long Châu, ở độ cao 1250 m). Cây mọc ở
chính đường đỉnh thường không cao quá 10 – 12 m và thân có ít nhiều vặn
vẹo, còn khi mọc ở phần sườn gần đỉnh thì có thân thẳng và cao hơn, đến 18-
22 m, cành nằm ngang làm cho tán cây có hình ô, rộng đến 10 – 15 m. Những
cây có nón cái trưởng thành hình trứng hơi dài gặp rất phổ biến trong những
cây có nón cái hình trụ ngắn ít hơn nhiều. Quần xã thuần loài hay ưu thế
Pseudotsuga brevifolia – Thiết sam giả lá ngắn mọc xen rải rác với hai loài
cây cùng họ là Pinus kwangtugensis var. chinensis – Thiết sam đông bắc và
một loài cây lá rộng là Quercus cf. Q. rupestris Hickel & A. Camus – Sồi cau
đá trước khi bị con người chặt phá và nạn lửa rừng chắc chắn đã bao phủ toàn
bộ các đỉnh và đường đỉnh đá vôi của tỉnh Cao Bằng cũng như các tỉnh lân
cận như: Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hà Giang, ở độ cao từ khoảng 500 m đến các
ngọn cao nhất như Nam Linh 1587 m. Gỗ có cấu tạo mịn, màu trắng ngà, hơi
thơm, không bị mối mọt, dễ gia công chế biến, nên rất được ưa chuộng để
đóng đồ dùng gia đình [13].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu được đề cập trên đây phần nào
làm sáng tỏ việc nghiên cứu đặc điểm tái sinh rừng tự nhiên nói chung và
rừng nhiệt đới nói riêng. Đó là những cơ sở để lựa chọn cho việc nghiên cứu
tái sinh rừng trong đề tài này. Việc nghiên cứu đặc điểm tái sinh tự nhiên là
hết sức quan trọng nên với từng đối tượng cụ thể cần có những phương pháp
nghiên cứu phù hợp.
2.2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tầm quan trọng của tái sinh rừng ngày càng được khẳng định. Theo Lâm
Công Định, tái sinh rừng là chìa khóa quyết định nội dung điều chế rừng [5].
Ở Việt Nam đáng chú ý là công trình điều tra tái sinh tự nhiên vùng
Sông Hiếu do Viện Điều tra – Quy hoạch thực hiện cùng các chuyên gia
Trung Quốc (1962-1963) bằng phương pháp đo đếm điển hình, dựa vào số
lượng cây tái sinh trên hécta, các tác giả đã phân chia khả năng tái sinh tự nhiên
rừng nhiệt đới thành 5 cấp, trong tái sinh dưới tán rừng 2.000-4.000 cây/ha. Nhìn
chung các nghiên cứu này mới chú trọng đến số lượng cây tái sinh [3].
13
Các vùng khác ở miền Bắc nước ta từ năm 1962 đến năm 1969, Viện
Điều tra quy hoạch rừng đã điều tra tình hình tái sinh tự nhiên theo các loại
hình thực vật ưu thế rừng tái sinh Yên Bái (1965), Hà Tĩnh (1966), Quảng
Bình (1969), Lạng Sơn (1969). Kết quả điều tra đã được Vũ Đình Huề (1975)
tổng kết trong báo cáo khoa học “Khái quát về tình hình tái sinh tự nhiên ở
miền Bắc Việt Nam”. Theo báo cáo đó, tái sinh tự nhiên rừng miền Bắc Việt
Nam cũng mang những đặc điểm của tái sinh rừng nhiệt đới.
Nguyễn Văn Trương (1983), đã đề cập mối quan hệ giữa cấu trúc Quần
xã thực vật rừng với tái sinh tự nhiên trong rừng hỗn loài. Điều này sẽ được
đề tài vận dụng trong nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái đến tái
sinh tự nhiên, đặc biệt là độ tàn che của tán rừng [5].
Ảnh hưởng của các biện pháp lâm sinh tới tái sinh tự nhiên của quần
xã thực vật còn được một số tác giả nghiên cứu như Phùng Ngọc Lan
(1984), Hoàng Kim Ngũ (1984), Nguyễn Duy Chuyên (1985), Nguyễn
Ngọc Lung (1985) [8].
Thực tế cho thấy, với điều kiện nước ta hiện nay, nhiều khu vực vẫn còn
phải trông cậy vào tái sinh tự nhiên còn tái sinh nhân tạo mới chỉ triển khai
trên quy mô hạn chế. Vì vậy, những nghiên cứu đầy đủ về tái sinh tự nhiên
cho từng đối tượng rừng cụ thể là hết sức cần thiết nếu muốn đề xuất giải
pháp lâm sinh.
* Nghiên cứu chế độ ánh sáng, nhiệt, ẩm dưới tán rừng
Nguyễn Hữu Thước (1965) đã nghiên cứu hai loại Lim và Xà cừ ở Cầu
Hai ( Phú Thọ) dưới các độ tàn che (ĐTC): 0%, 25%, 50%, 75%, 100% và
thu được kết quả lượng diệp lục trong lá (mg/100mg lá khô) của cây Lim
tương ứng là 4,42; 4,56; 5,60; 6,23; 8,51. Điều đó chứng tỏ cây tái sinh trong
điều kiện ánh sáng yếu thì lượng diệp lục trong lá cao hơn của cây ở chỗ có
ánh sáng mạnh [5].
Hiện tượng tái sinh lỗ trống ở rừng thứ sinh Hương Sơn – Hà Tĩnh đã
được Phạm Đình Tam (1987) làm sáng tỏ. Theo tác giả, số lượng cây tái sinh
xuất hiện khá nhiều dưới các lỗ trống khác nhau. Lỗ trống càng lớn, cây tái
sinh càng nhiều và hơn hẳn những nơi kín tán. Từ đó tác giả đã đề xuất
phương thức thai khác chọn, tái sinh tự nhiên cho đối tượng rừng khu vực
14
này. Đây là một trong những đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng nhiệt đới,
nhưng đối với vùng núi đá vôi với nền đất đá xương xẩu, liệu tại những chỗ
trống trong rừng, hiện tượng tái sinh có gì khác biệt.
* Nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố sinh thái đến hàm lượng Diệp lục
Lê Đức Diên (1986), khi nghiên cứu hàm lượng diệp lục của một số loại
cây rừng có nhận xét: Nhìn chung nhóm cây gỗ mọc trong điều kiện ít ánh
sáng có hàm lượng diệp lục cao hơn nhóm cây gỗ mọc trong điều kiện nhiều
ánh sáng, tỷ lệ diệp lục a/b thấp. Tuy nhiên, trong nhóm cây chịu bóng vẫn có
loài chứa hàm lượng diệp lục thấp (1-2mg) như Lòng thuyền, se mưa,…
Trong nhóm cây ưa sáng có những loài có hàm lượng diệp lục rất cao, tỷ lệ
diệp lục a/b thấp như Tếch, Bạch đàn, Mỡ đề có hàm lượng diệp lục thấp (2,2-
2,5mg/g lá tươi). Điều đó chứng tỏ hàm lượng và tỷ lệ diệp lục có phụ thuộc
vào điều kiện sinh thái. Nhóm thực vật sống trong điều kiện ánh sáng thấp có
hàm lượng diệp lục cao hơn và hàm lượng diệp lục b tương đối giầu hơn so
với nhóm thực vật sống trong điều kiện chiếu sáng mạnh. Nhưng nó không
chỉ phụ thuộc vào điều kiện chiếu sáng mà còn phụ thuộc vào điều kiện lịch
sử và đặc điểm trao đổi chất của loài. Trong nghiên cứu của mình, Lê Đức
Diên mới phản ánh được sự khác biệt về hàm lượng diệp lục giữa các nhóm
cây ưa sáng và chịu bóng, giữa điều kiện ánh sáng nhiều và chiếu sáng ít, tác
giả chưa đi vào so sánh giữa các loài khác nhau [4].
Ngoài ra còn một số nghiên cứu về áp suất thẩm thấu và sắc tố vàng
(Corotinoid) trong lá.
* Nghiên cứu về loài Thiết sam giả lá ngắn
Các nhà sinh học trong nước và nước ngoài vừa phát hiện hai loài thông
quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng có tên trong sách đỏ Vệt Nam và Thế
Giới tại xã Thài Phìn Tủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang. Trong đợt khảo
sát thực địa trên các sườn đông và đỉnh đá vôi thuộc thôn Hapuda, xã Thái
Phìn Tủng, ở độ cao từ 1.300 m đến 1.700 m so với mặt nước biển, các nhà
khoa học đã phát hiện được một số cá thể Thiết sam núi đá (Tsuga chinensis
Pritz ex Diels), cao khoảng 12-15 m và đường kính thân cây 0,4-0,5 m, mọc
xen lẫn với Thiết sam giả (Pseudotsuga sinensis Dode) tạo thành một quần thể
gần như thuần loài [11].
15
Thiết sam giả trước đây phân bố trên núi đá vôi của các tỉnh Hà Giang,
Cao Bằng, Bắc Kạn và Lạng Sơn. Đây là vùng phân bố cực nam của chi Thiết
sam giả (Pseudotsuga) ở châu Á. Trong khi đó, Thiết sam núi đá chỉ được
phát hiện ở một số địa điểm trên vùng núi đá vôi thuộc hai tỉnh Hà Giang và
Cao Bằng như khu bảo tồn thiên nhiên Bát Đại Sơn (Hà Giang) và Nguyên
Bình, Yên Lạc (Cao Bằng). Kết quả khảo sát cho thấy tại xã Thái Phìn Tủng
có 8 loài thực vật quý hiếm, trong đó có 7 loài thuộc nhóm Thông. Tổ chức
bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế (IUCN) đánh giá Việt
Nam là một trong 10 điểm “nóng“ nhất trên thế giới về bảo tồn các loại thông
này. Dự án “Bảo tồn và phát triển nguồn gen quý hiếm, bảo vệ đa dạng sinh
học ở xã Thái Phìn Tủng, Đồng Văn, Hà Giang”, do Quỹ Môi Trường toàn
cầu và Chương trình tài trợ các dự án nhỏ tại Việt Nam thực hiện, đang tiến
hành bảo tồn 4 loài thuộc nhóm Thông ( Thông đỏ, Thông tre lá ngắn, Hoàng
đàn rủ và Dẻ tùng sọc nâu rộng) [10].
Thiết sam giả lá ngắn là một trong 33 loài cây lá kim bản địa ở Việt
Nam có phân bố hẹp ngoài tự nhiên còn sót lại ở một số khu vực đá vôi tại
tỉnh Hà Giang, Bắc Kạn và Cao Bằng. Đây là loài gỗ nhỡ, gỗ đẹp và bền,
thường mọc trên các đỉnh núi đá vôi có độ cao từ 500 – 1500 m so với mặt
nước biển. Loài này mang nhiều ý nghĩa về sinh thái, giá trị thương mại, giá
trị sử dụng, giá trị văn hóa cảnh quan. Hiện nay vùng phân bố bị thu hẹp
nhanh chóng và một số cá thể trưởng thành của loài bị giảm sút nghiêm trọng
do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do khai thác gỗ vì mục đích thương
mại và xây dựng, làm hàng mỹ nghệ, điều kiện hoàn cảnh sống thay đổi, quần
thể bị chia cắt, khả năng tái sinh kém. Vì vậy loài này đang đứng trước nguy
cơ tuyệt chủng. Cần phải có ngay biện pháp kịp thời để bảo tồn và hướng tới
phát triển nhân rộng loài cây gỗ quý, hiếm ở vùng núi đá vôi [12].
* Một số đặc điểm của Thiết sam giả lá ngắn
Theo Bùi Xuân Phượng Thiết sam giả lá ngắn tên khoa học
PseudotsugabrevifoliaW.C.Cheng & L.K.Fu,ChiPseudotsuga – hoàng sam,
Họ Thông Pinaceae,bộ Thông Pinales [9].
Cây gỗ, cao 15m, đường kính tới 80 cm. Cây mọc đứng, cây ngắn tán
rộng, tròn. Vỏ nứt sâu dạng vẩy, màu xám nâu. Lá trưởng thành xếp hình soắn
16
ốc, thành 2 hàng, dạng dải với đầu tù, gân giữa lõm vào ở mặt trên, 2 dải lỗ
khí phân biệt ở mặt dưới, soắn ở gốc. Cây non lá có thể dài tới 5,5 cm, rộng 5
mm, dạng dải hoặc hơi cong lưỡi liềm với đầu nhọn, hai dải lỗ khí phân biệt.
Nón cái mọc đơn độc trên các chồi bên ngắn, rủ xuống, hình trứng, dài tới 6
cm và đường kính 5 cm, vảy hóa gỗ, rộng, tròn. Vảy kèm thò ra dưới vảy nón,
phản quang khi chín, chia thành 3 thùy, các thùy bên ngắn hơn thùy giữa. Nón
cái chín trong một năm, tách và giải phóng hạt khi còn trên cây, không rụng.
Hạt hình trứng ba cạnh, cánh màu nâu đỏ. Nón cái già còn đính trên
cành luôn ở tư thế mọc chúc xuống. Khác với Thiết sam ở chỗ lá và nón cái
thường lớn hơn.
Thiết sam giả lá ngắn mọc trên đỉnh và đường đỉnh núi đá vôi ở một số
tỉnh miền núi phía bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn ( Bắc
Sơn) trên độ cao từ 500 đến 1500 m so với mặt nước biển.
Thiết sam giả có phân bố cùng độ cao với Bách vàng ở khu bảo tồn Bát
Đại Sơn (Hà Giang). Tại khu vực phân bố, khả năng tái sinh tự nhiên của
Thiết sam giả không được nhưng tốt hơn so với Bách vàng.
Gỗ có giác lõi phân biệt. Lõi có màu nâu đỏ, giác màu nâu nhạt. Thớ
thẳng, dễ gia công, được dùng trong xây dựng, làm cầu, đồ gia dụng, cột điện.
Thân thẳng, dáng đẹp, có thể trồng làm cảnh. Cây lớn có thể dùng để làm nhà
hay làm đồ gỗ.
* Sinh học:
Mùa ra nón tháng 4, mùa ra quả tháng 9 - 10. Tái sinh bằng hạt.
* Nơi sống và sinh thái:
Mọc trên sườn và đỉnh núi đá vôi, ở độ cao khoảng 500 - 1600 m. Cây có
cành nhánh rậm rạp, sinh trưởng chậm, sống lâu.
* Hình thái:
- Lá cây: Mặt trên xanh thấm, đồng màu. Mặt dưới 2 bên sọc trắng, màu
trắng xanh. Chiều dài cuống 1mm, chiều dài lá 2-5 cm, lá đơn mọc vòng, xếp
sang 2 bên, lá phân ở cành tam cấp, lá tập trung ở đầu cành.
- Đặc điểm nón Khô: Cách mở theo từng tầng, vảy ốc, ở giữa có vảy
mỗi vành đính 1 hạt, cuống nón ngắn, nón rộng 2 – 3 cm.
17
- Thân cây: Cây gỗ lớn, thân thường cong queo, phân cành theo từng
đốt, đều sang 2 bên ( đốt dích dắc ), đỉnh sinh trưởng bé, màu nâu đỏ.
- Vỏ cây: Xám đen, đến lớp vỏ nâu đỏ, bên ngoài có vết nứt dọc.
- Rễ cây: Rễ cọc dài, rễ con ít.
* Phân bố:
Ở Việt Nam Thiết sam giả lá ngắn mọc trên đỉnh và đường đỉnh núi đá
vôi ở một số tỉnh miền núi phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng
Sơn (Bắc Sơn).
Thế giới: Phân bố ở phía nam Trung Quốc.
* Giá trị kinh tế:
Gỗ có giác lõi phân biệt. Lõi có màu nâu đỏ, giác màu nâu nhạt. Thớ
thẳng, dễ gia công, được dùng trong xây dựng, làm cầu, đồ gia dụng, cột điện.
Thân thẳng, dáng đẹp, có thể trồng làm cảnh. Cây lớn có thể sử dụng để làm
nhà hay làm đồ gỗ.
* Giá trị sinh thái của Thiết sam giả lá ngắn
Góp phần tạo độ đa dạng sinh học và ổn định môi trường sinh thái chung.
2.3. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.1. Điều kiện tự nhiên
2.3.1.1. Vị trí địa lý
a. Vị trí địa lý khu vực nghiên cứu
Nguyên Bình là một huyện vùng cao nhưng cũng là một huyện trung tâm
của tỉnh Cao Bằng. Nguyên Bình có địa hình phức tạp, dân cư phân tán, giao
thông khó khăn. Nguyên Bình có 18 xã và 2 thị trấn với tổng diện tích tự nhiên
là 83.915,71 ha.
Huyện Nguyên Bình nằm ở vị trí toạ độ 105
0
40’ kinh độ Đông, 22
0
30’
đến 22
0
50’ vĩ độ Bắc.
- Phía Đông giáp huyện Hoà An.
- Phía Tây giáp huyện Bảo Lạc và Ba Bể tỉnh Bắc Kạn.
- Phía Nam giáp huyện Ngân Sơn tỉnh Bắc Kạn.
- Phía Bắc giáp huyện Thông Nông.
18
b. Địa hình, địa mạo
Huyện Nguyên Bình có địa hình núi đồi phức tạp, chủ yếu là núi đá vôi,
độ dốc lớn, chia cắt mạnh và cao từ 700m - 1.300m. Điểm cao nhất là 1.931m
(Phía Oắc), điểm thấp nhất 100m. Độ cao trung bình của huyện là 1.100 m.
Nhìn chung, địa hình của các xã trên địa bàn huyện Nguyên Bình nằm trên
vùng núi cao có cao độ từ 500m (Thái Học, Tam Kim, Hưng Đạo, Mai Long)
đến 1.400m (Quang Thành, Thành Công, Triệu Nguyên, Yên Lạc).
- Theo kiến tạo địa hình, huyện Nguyên Bình chia thành 2 vùng rõ rệt:
+ Vùng núi đất gồm các xã: Lang Môn, Bắc Hợp, Minh Tâm, Minh
Thanh, Tam Kim, Quang Thành, Thịnh Vượng, Thành Công, Hoa Thám, Thể
Dục, Hưng Đạo và thị trấn Nguyên Bình.
+ Vùng núi đá gồm các xã: Thái Học, Vũ Nông, Yên Lạc, Triệu Nguyên,
Mai Long, Phan Thanh, Ca Thành và thị trấn Tĩnh Túc.
c. Điều kiện địa chất – thổ nhưỡng
* Tài nguyên đất
Nhìn chung tài nguyên đất của huyện Nguyên Bình khá phong phú.
Theo kết quả tổng hợp trên bản đồ thổ nhưỡng 1/25.000 thì trên địa bàn huyện
có 18 loại đất chính trong bảng sau đây.
Bảng 2.1: Thổ nhưỡng huyện Nguyên Bình
Hạng mục Ký hiệu
Diện tích
(ha)
1. Đất phù sa sông suối Py 297,24
2. Đất sám bạc màu trên là sa cổ B 30
3. Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ D 704
4. Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa Fl 1.242
5. Đất nâu đỏ trên đá mắc Bazơ và trung tính Fk 1.630
6. Đất đỏ nâu trên đá vôi Fv 240
7. Đất nâu vàng trên đá vôi Fn 360
8. Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất Fs 39.950
9. Đất đỏ vàng trên mắc ma axít Fa 800
10. Đất vàng nhạt trên bãi cát Fq 1.050
11. Đất mùn nâu đỏ trên đá vôi Hv 1.233,4
12. Đất mùn nâu đỏ trên đá mắc ma Bazơ trung tính Hk 2.410
13. Đất mùn đỏ vàng trên đất sét biến chất Hs 12.470
19
Hạng mục Ký hiệu
Diện tích
(ha)
14. Đất mùn đỏ trên đá mắc ma axít Ha 4.680
15. Đất mùn vàng nhạt trên đá cát Hq 922
16. Đất mùn vàng trên núi cao A 246
17. Đất núi đá 15.200
18. Sông suối 255,36
(Nguồn: Tổng hợp từ các báo cáo của huyện Nguyên Bình và thống kê của tỉnh Cao Bằng)
* Tài nguyên nước
Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt và nước ngầm. Nước mặt
phân bố chủ yếu ở hệ thống sông, suối, ao, hồ, kênh, rạch và nguồn nước
ngầm tập trung ở các thung lũng.
Đặc điểm chung của huyện nơi vùng núi đá vôi cao có nhiều hang động
catxtơ, nên nguồn nước mặt cũng như nguồn nước ngầm rất nghèo, gây khó
khăn cho những xã vùng cao núi đá của huyện.
* Tài nguyên rừng
Đất lâm nghiệp hiện nay tính toàn huyện có: 71.876,67 ha chiếm 85,65
% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất có rừng là 54.689,72 ha, trong đó có:
rừng sản xuất 1.567,09 ha; rừng phòng hộ 50.038,63 ha và rừng đặc dụng
3.093,00 ha.
Nhiều loại gỗ quý như Lát, Nghiến, Thiết sam giả lá ngắn, gỗ nhóm 1,
2, 3 tuy đã được chăm sóc bảo vệ nhưng tỷ lệ còn lại rất ít, chủ yếu là rừng tái
sinh; hiện còn chủ yếu là chủng loại cây thuộc nhóm 4, 5, 6. Về rừng trồng,
ngoài thông và sa mộc, cây trúc sào là cây có giá trị kinh tế đang được nhiều
địa phương quan tâm phát triển. Trên rừng còn có nhiều động vật hoang dã,
các loại lâm sản có khả năng khai thác như: Măng, Nấm hương, Mộc nhĩ, Sa
nhân, Thảo quả đang bị khai thác vô tổ chức, không có kế hoạch bảo vệ
nguồn gen lâu dài.
d. Điều kiện khí hậu – thủy văn
* Điều kiện khí hậu
Huyện Nguyên Bình thuộc vùng khí hậu á nhiệt đới với 2 mùa rõ rệt:
20
- Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, chịu ảnh hưởng
của gió mùa Đông Bắc khô hanh, thường xảy ra những đợt rét đậm kéo dài
kèm theo sương muối (tháng 12 và tháng 1, tháng 2). Độ ẩm không khí trung
bình 82%/năm. Lượng bốc hơi bình quân trong năm 831,6mm, lượng bốc hơi
lớn tập trung từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, do đó trong các tháng này
thường xuyên xảy ra khô hạn.
- Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm, lượng
mưa trung bình 1200mm. Trong đó mưa lớn nhất trung bình 2.043,7mm.
Lượng mưa trong năm phân bố không đều thường tập trung vào các tháng 6,
tháng 7 và tháng 8. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 20
0
C, cao nhất khoảng
35 - 36
0
C, thấp nhất từ 0
0
C đến 6
0
C.
+ Gió bão: Gió Đông Nam và Đông Bắc là 2 hướng gió chủ đạo của
huyện, tốc độ trung bình 1,4 m/giây, mạnh nhất lên đến 20 m/giây, bị ảnh
hưởng bởi bão và áp thấp nhiệt đới. Sương muối năm nào cũng tập trung vào
tháng giêng, tháng 2 ít nhất 2 - 3 ngày, có nơi có năm kéo dài 5 - 7 ngày,
sương mù thường xuyên xuất hiện ở những vùng núi khe sâu, kéo dài thời
gian từ 2 - 4 giờ/ngày.
* Điều kiện thủy văn
Chế độ thủy văn các con sông phụ thuộc chủ yếu vào chế độ mưa và khả
năng điều tiết của lưu vực. Do đó, cùng với diễn biến lượng mưa hàng tháng
trong năm thì chế độ thủy văn trên các con sông cũng thay đổi theo hai mùa
rõ rệt, mùa lũ và mùa cạn. Đa số các con sông, suối trên địa bàn huyện
Nguyên Bình đều bắt nguồn từ những dãy núi cao trên 1.000 m ở các xã
Thành Công, Hưng Đạo, Quang Thành, Tam Kim, Hoa Thám chảy về Hoà
An. Sông lớn nhất của huyện là sông Hiến. Ngoài ra, huyện còn có 2 con sông
nhỏ chảy qua là sông Năng và sông Nguyên Bình (sông Năng chảy dọc địa
giới giữa Nguyên Bình với Ba Bể rồi chảy về Bắc Kạn; sông Nguyên Bình
bắt nguồn từ những dãy núi cao Tĩnh Túc chảy qua xã Thể Dục, thị trấn
Nguyên Bình, xã Bắc Hợp rồi chảy ra Hoà An).
2.3.2. Tình hình kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu
2.3.2.1. Dân số, lao động, việc làm và đời sống dân cư
* Dân số
21
Trên địa bàn toàn huyện Nguyên Bình có 07 dân tộc sinh sống kết quả
điều tra dân tộc có:
Dân tộc Tày, Nùng chiếm 47,0 %
Dân tộc Dao chiếm 38,7 %
Dân tộc Mông chiếm 5,6 %
Dân tộc Kinh chiếm 8,6 %
Và các dân tộc khác chiếm tỷ lệ rất ít 0,1%
Tổng dân số toàn huyện là 39 644 người. Mật độ dân số bình quân chung
của huyện là 47 người/km
2
. Dân cư của huyện phân bố không đồng đều giữa
các xã. Nơi có mật độ đông dân nhất là Thị trấn Nguyên Bình 207 người/km
2
và Thị trấn Tĩnh Túc 165 người/km
2
. Nơi có mật độ thấp nhất là xã Thịnh
Vượng 16 người/km
2
.
* Lao động, việc làm và đời sống dân cư
Lao động trên địa bàn huyện chủ yếu là theo mùa vụ, do vậy hướng giải
quyết việc làm là khắc phục tình trạng bán thất nghiệp bằng các hình thức đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng và vật nuôi. Đầu tư thâm canh tăng vụ,
nâng cao giá trị sản xuất của ruộng đất, phát triển tiểu thủ công nghiệp và
ngành nghề, phát triển kinh tế dịch vụ. Tạo điều kiện cho nhân dân được vay vốn
lãi suất ưu đãi, đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm nhằm trang bị cho
nông dân kiến thức thâm canh, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
2.3.2.2. Các hoạt động kinh tế trong khu vực
* Sản xuất nông nghiệp
- Ngành trồng trọt
Cây trồng nông nghiệp huyện Nguyên Bình chủ yếu là cây lúa, cây ngô
và các loại cây khác như: khoai, sắn, rau đậu các loại. Ngoài ra, một số dược
liệu có giá trị cũng từng bước được đầu tư trồng và chăm sóc như sa nhân,
sâm đất, …
Diện tích trồng một số cây trồng chủ yếu năm 2010:
+ Diện tích Trúc sào là: 1435 ha.
+ Diện tích Dong riềng: 100 ha.
+ Diện tích Đỗ tương:309 ha.
+ Diện tích cây Lạc: 152 ha.
22
+ Diện tích Chè chất lượng cao khoảng 7 ha.
+ Diện tích cây Dược liệu: 3,4 ha.
+ Trồng cây Thảo quả: 53 ha.
Ngoài ra, các vùng có tiểu khí hậu đặc trưng có thể sản xuất các sản
phẩm hàng hóa khác như trồng thuốc lá nguyên liệu tại các xã Tam Kim,
Minh Tâm, Bắc Hợp, Minh Thanh và trồng rau trái vụ tại các xã như Thái
Học, Thành Công, Yên Lạc.
- Ngành chăn nuôi
Phát triển chăn nuôi theo điều kiện từng vùng, đưa chăn nuôi trở thành
ngành chính và chiếm tỷ trọng lớn trong kinh tế nông nghiệp, chú trọng chăn
nuôi đại gia súc. Theo thống kê, năm 2010 tổng đàn trâu là 10.571 con, bò là
13 176 con, tổng đàn ngựa 263 con.
Chăn nuôi lợn cũng được quan tâm phát triển mạnh, năm 2005 tổng đàn
lợn 25.800 con đến năm 2010 là 29.554 con. Đàn gia cầm năm 108.200 con
và đến năm 2010 là 111.000 con. Các giống vật nuôi chủ yếu là giống cũ địa
phương. Các loại giống này tuy năng suất không cao nhưng lại thích nghi với
khí hậu, cách chăn nuôi của đồng bào. Chăn nuôi ở nhiều vùng vẫn còn duy
trì theo phương thức thả rông, ít được đầu tư, do vậy năng suất còn thấp.
- Thuỷ sản
Do điều kiện tự nhiên của huyện không thuận lợi nên việc nuôi trồng
thủy sản trong những năm qua chưa phát triển và tỷ trọng chưa đáng kể trong
cơ cấu ngành nông nghiệp. Đến nay, mới có gần 16 ha ao, hồ chủ yếu ở các
xã Tam Kim, Minh Tâm, Thị trấn Nguyên Bình, Minh Thanh, một số ít còn
lại ở các xã Lang Môn, Bắc Hợp, Thể Dục, Quang Thành.
* Sản xuất lâm nghiệp
Rừng núi chiếm đại đa số diện tích tự nhiên ở các xã. Hầu hết là rừng tự
nhiên đã được tổ chức giao khoán đến từng hộ quản lý khoanh nuôi và bảo vệ.
Biện pháp chính hiện nay của huyện là khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên
hiện có. Thông qua các chương trình dự án như 327, ĐCĐC và dự án 5 triệu
ha rừng đến năm 2009 keo lai trồng được 33,7 ha; cây Thông, Sa Mộc trồng
được 96,1 ha. Trong những năm qua rừng đã được phục hồi và phát triển,
23