Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

chương 7 quản lý chất thải rắn hiện trạng, tồn tại và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 33 trang )

115
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp



7.1. THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH
7.1.1. Thể chế, chính sách đã đi vào cuộc
sống
Trong nhiều năm qua, công tác quản lý
CTR đã nhận được rất nhiều sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước, thể hiện bằng các
chính sách, pháp luật quản lý CTR đã được
quy định trong Luật BVMT 1994, Luật BVMT
2005, trong Chiến lược Bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020
1
, và cụ thể là trong Chiến lược
quản lý CTR tại các đô thị và KCN ở Việt
Nam năm 1999, nay được thay thế bằng
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR
tới năm 2025 và tầm nhìn tới năm 2050
2
.
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp
CTR tới năm 2025 và tầm nhìn tới năm 2050
và Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020
Các chiến lược này đã đặt ra các mục tiêu


cụ thể có ý nghĩa định hướng cho các công
tác quản lý CTR hiện nay (Phụ lục 2). Tuy
nhiên, kết quả đạt được trên thực tế vẫn còn
hạn chế so với yêu cầu của Chiến lược đề
ra, các mục tiêu quản lý CTR đặt ra còn gặp
rất nhiều khó khăn trong việc triển khai thực
hiện cũng như hoàn thành mục tiêu. Theo
đánh giá của Báo cáo môi trường quốc gia
hàng năm, hầu hết các ch tiêu bảo vệ môi
trường về CTR đã được xác định trong Chiến
lược và trong Nghị định số 59/2007/NĐ-CP
3

đều không đạt (Bảng 7.1).
1
Quyết định số 256/2003/QĐ-TTg ngày 02/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020.
2
Quyết định số 2149/2009/QĐ-TTg ngày 17/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về Quản lý chất thải rắn
đến năm 2025, tầm nhìn tới năm 2050.
3
Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chất thải rắn
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
116
Bảng 7.1. So sánh mức độ thực hiện các chỉ tiêu về quản lý CTR đã đặt ra đến năm
2010 trong Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia
Nguồn: Báo cáo Đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020,
Viện Chiến lược và Chính sách TN&MT, 2011.
STT Mục tiêu

Mục tiêu
đặt ra
đến 2010
Mức độ thực hiện đến năm
2009 (%)
Ghi chú
Theo báo
cáo Bộ
ngành
Theo khảo sát
ở một số địa
phương
1.
Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt, CN
và dịch vụ các khu đô thị, các
KCN, KCX
90 80-82 73,81
- Bộ Xây dựng
- Số địa phương báo
cáo: 28
2.
Tỷ lệ phân loại rác tại nguồn:
- Hộ gia đình
- Doanh nghiệp
30
70
-
-
7,32
56,19

- Số địa phương báo
cáo: 30
- Số địa phương báo
cáo: 22
3.
Tỷ lệ khu dân cư có thùng đựng
rác tập trung
80 - 54,1
- Số địa phương báo
cáo: 28
4.
Tỷ lệ khu vực công cộng có thùng
gom rác thải
80 - 64,8
- Số địa phương báo
cáo: 33
5.
CTR tại các khu đô thị, KCN,
KCX được xử lý đúng kỹ thuật MT
60 - 33,17
- Số địa phương báo
cáo: 24
6.
Tỷ lệ chất thải y tế ở các bệnh
viện được xử lý đúng kỹ thuật MT
100 90,9 - - Bộ Y tế
7.
Tỷ lệ CSSX xây dựng mới có
công nghệ sạch hoặc thiết bị
giảm thiểu ô nhiễm, xử lý chất

thải đạt tiêu chuẩn MT
100 - 75,24
- Số địa phương báo
cáo: 29
8.
Tỷ lệ các CSSXKD được cấp
Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn
môi trường hoặc Chứng ch ISO
14001
50 - 6,65
- Số địa phương báo
cáo: 15

Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
Chính sách áp dụng cơ chế quản lý 3R
(Giảm thiểu, Tái sử dụng, Tái chế)
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp
CTR đến năm 2025, tầm nhìn đến năm
2050, đã xác định rõ những mục tiêu, nhiệm
vụ và các giải pháp từ nay cho đến năm
2020 đồng thời nêu rõ trách nhiệm của các
bộ, ngành và địa phương trong việc triển
khai phân loại CTR tại nguồn, giảm thiểu, tái
sử dụng và tái chế CTR. Hoạt động tái chế
phế liệu có ý nghĩa rất to lớn về kinh tế -
xã hội và môi trường. Những hoạt động này
không những đem lại hiệu quả kinh tế trong
thị trường tái chế chất thải mà còn đem lại

nhiều việc làm cho người lao động, tạo ra sản
phẩm hữu ích phục vụ đời sống, hơn nữa còn
giảm lượng CTR phải đưa đi chôn lấp, tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là diện
tích sử dụng đất để quy hoạch xây dựng bãi
chôn lấp.
Chính sách về xã hội hóa quản lý chất
thải rắn sinh hoạt
Căn cứ theo Nghị định số 59/2007/NĐ-
CP và Nghị định số 69/2008/NĐ-CP
4
, chính
sách về xã hội hóa công tác quản lý CTR sinh
hoạt cũng đã được ưu tiên phát triển ở cả cấp
trung ương và địa phương. Trong đó, Chính
phủ khuyến khích khu vực tư nhân tham gia
mạnh mẽ vào công tác thu gom, vận chuyển
và xử lý CTR. Những kết quả đạt được trong
thời gian qua đã cho thấy đây là một trong
những chính sách rất phù hợp với điều kiện
thực tế ở nước ta hiện nay.
Khung 7.1. Quy định liên quan tới
xã hội hóa trong quản lý CTR
- Nhà nước khuyến khích xã hội hóa
công tác thu gom, phân loại, vận chuyển
và xử lý chất thải rắn.
- Nhà nước khuyến khích xã hội hóa
hoạt động đầu tư cho công tác thu gom,
vận chuyển, xây dựng cơ sở quản lý chất
thải rắn.

- Tổ chức, cá nhân có thể đầu tư để
thành lập hợp tác xã, hộ kinh doanh hoặc
các hình thức khác theo quy định của
pháp luật để thực hiện việc thu gom, vận
chuyển, xử lý chất thải rắn tại khu vực
điểm dân cư nông thôn, làng nghề chưa có
dịch vụ thu gom, vận chuyển chất thải rắn.
- Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu
tư, xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn, các
công trình phụ trợ thông qua các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư
- Xã hội hóa trong công tác quản lý CTR
tại các tnh/thành phố đã bắt đầu được đưa
vào trong các văn bản địa phương về công
tác quản lý CTR.
Nguồn: Nghị định 59/2007/NĐ-CP ngày 09/4/2007
của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chất thải rắn.
4
Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể
thao và môi trường.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
118
Chính sách phát triển công nghiệp và
công nghệ xử lý CTR
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp
CTR xác định công nghệ xử lý CTR tại Việt

Nam sẽ được phát triển theo hướng giảm
thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng
cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng. Quan điểm
đặt ra là sử dụng công nghệ xử lý chất thải
phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa
phương. Trong đó, ưu tiên áp dụng công nghệ
tái chế, tái sử dụng CTR, hạn chế chôn lấp
nhằm xử lý triệt để ô nhiễm môi trường và
tăng hiệu quả sử dụng đất. Đối với CTR sinh
hoạt, tùy điều kiện cụ thể mà các địa phương
có thể áp dụng các công nghệ như chôn lấp
hợp vệ sinh, chế biến phân compost, tái chế
hoặc đốt. Đối với CTR công nghiệp và y tế,
cần tập trung kết hợp nhiều quy trình công
nghệ khác nhau như các công nghệ phụ trợ
xử lý CTR công nghiệp nguy hại (phân loại
và xử lý cơ học, xử lý hóa - lý), công nghệ
khử khuẩn xử lý CTR y tế bị nhiễm khuẩn,
Chính phủ cũng đã có chính sách miễn thuế
nhập khẩu đối với trang thiết bị, nguyên vật
liệu phục vụ cho các dự án đầu tư cơ sở xử lý
CTR, miễn giảm thuế thu nhập cho các doanh
nghiệp theo quy định, đồng thời ưu tiên lựa
chọn các công nghệ hoàn chnh trong nước
có khả năng xử lý triệt để CTR và có hiệu quả
cao về kinh tế, kỹ thuật. Đặc biệt, ưu tiên sử
dụng các công nghệ xử lý CTR khó phân hủy.
Ngày 25/05/2011, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 798/QĐ-TTg
phê duyệt chương trình đầu tư xử lý CTR giai

đoạn 2011 - 2020 dành cho các dự án đầu
tư xây dựng khu liên hợp, cơ sở xử lý CTR tại
các địa phương trên cả nước do các doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế trong nước thực hiện
với các mục tiêu cụ thể đặt ra đối với công
tác thu gom, xử lý, tái chế và tái sử dụng CTR
sinh hoạt đô thị, nông thôn, CTR công nghiệp
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
119
và y tế. Đây cũng là cơ sở để Việt Nam từng bước cải thiện năng lực thu gom
và xử lý CTR ở các địa phương.
Chính sách về thuế và phí BVMT đối với CTR
Các chính sách về thuế và phí BVMT đối với CTR cũng đã được ban hành
thông qua các văn bản như Nghị định số 67/2011/NĐ-CP
5
và Nghị định số
174/2007/NĐ-CP
6
.
Theo Nghị định số 67/2011/NĐ-CP, túi nilon thuộc diện chịu thuế (túi
nhựa) quy định tại Khoản 4 Điều 3 của Luật Thuế bảo vệ môi trường, trừ bao
bì đóng gói sẵn hàng hóa và túi nilon đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi
trường theo quy định của Bộ TN&MT. Để thay đổi hành vi của người sử dụng,
góp phần nhanh chóng giảm ô nhiễm môi trường từ những hành vi xả thải
túi nilon đã qua sử dụng, Bộ Tài chính đề nghị mức thu Thuế BVMT với mặt
hàng túi nilon là 40.000 đồng/kg.
Việc quy định mức thuế cao nhằm làm tăng giá bán, hạn chế việc phát
miễn phí túi nilon, từ đó giảm dần việc sử dụng, góp phần thay đổi hành

vi, thói quen sử dụng túi nilon của người tiêu dùng, dần dần chuyển sang sử
dụng sản phẩm thay thế mà không ảnh hưởng đến thu nhập và chi tiêu của
hộ gia đình.
Theo Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007, CTR thông thường
và CTR nguy hại phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ (trừ
CTR sinh hoạt từ các hộ gia đình) sẽ phải chịu phí BVMT, phần lớn nguồn
thu từ phí BVMT đối với CTR sẽ được chi cho các hoạt động quản lý CTR tại
địa phương.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CTR và chất thải nguy hại
Trong thời gian qua, các văn bản quy phạm pháp luật về BVMT nói chung
và quản lý, xử lý CTR nói riêng đã được ban hành cả ở cấp Trung ương và
địa phương. Các quy định được điều chnh đối với các vấn đề như quản lý
CTR, chất thải nguy hại; quy định về tái chế; nhập khẩu phế liệu; cơ sở hạ
tầng quản lý chất thải; quy hoạch quản lý CTR, quy hoạch các công trình xử
lý CTR; phí và lệ phí quản lý CTR, chế tài xử phạt các hành vi vi phạm pháp
luật và các TCVN, QCVN về môi trường (Phụ lục 3).
5
Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường.
6
Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với CTR
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
120
Ở cấp địa phương, đặc biệt là một số tnh thuộc vùng KTTĐ phía Nam
(Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu), là những địa
phương có lượng phát thải chất thải công nghiệp và nguy hại lớn nhất, cũng
đã triển khai những quy định tạm thời của địa phương mình về quản lý CTNH.
Hầu hết các tnh đều đã có Quy hoạch tổng thể xây dựng bãi chôn lấp cho
các đô thị cấp tnh.

7.1.2. Thể chế, chính sách chưa hoàn thiện và chưa được thực thi triệt để
Thể chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong quản
lý CTR ở nước ta dù đã có những bước tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng còn
chưa đầy đủ, đồng bộ hoặc còn chồng chéo; chưa có một quy định thống
nhất, toàn diện cho công tác quy hoạch quản lý CTR quốc gia.
Một số chính sách đã được ban hành nhưng cơ chế triển khai, các văn
bản hướng dẫn vẫn còn thiếu dẫn đến việc triển khai không hiệu quả hoặc
không thể đi vào thực tế. Vấn đề triển khai thực hiện chưa thực sự phát huy
hiệu quả, thể hiện ở việc chưa đạt các ch tiêu môi trường đã đặt ra. Hiện
nay các văn bản quy phạm pháp luật quy định về một số vấn đề có tính then
chốt đối với công tác quản lý CTR (bao gồm các vấn đề như nhân lực, bộ
máy tổ chức, trình độ, các hướng dẫn kỹ thuật ) vẫn còn thiếu, dẫn đến các
hoạt động quản lý CTR khó triển khai trong thực tế, đặc biệt đối với công tác
quản lý CTNH.
Do không có một tổ chức đầu mối chung về quản lý CTR nên các văn bản,
quy chuẩn quy phạm, quy định về quản lý CTR do nhiều Bộ ban hành. Hàng
loạt các vấn đề chưa có các văn bản quy định cụ thể như: chưa có các quy
định về danh mục CTR thông thường; quy định về điều kiện năng lực cho
phép các tổ chức, cá nhân thu gom, vận chuyển, tái chế, tái sử dụng, xử lý,
tiêu hủy CTR thông thường; quy định thẩm định công nghệ xử lý CTR sinh
hoạt do nước ngoài đầu tư. Ngoài ra, hiện nay cũng chưa có cơ quan chịu
trách nhiệm tập trung quản lý thông tin, dữ liệu về quản lý CTR ở cấp trung
ương, cũng như ở cấp địa phương.
Thêm vào đó, công tác kiểm tra, thanh tra thực thi pháp luật còn nhiều
hạn chế, các chế tài quy định về xử phạt đối với các hành vi vi phạm về
BVMT đối với CTR còn chưa đủ sức răn đe, mức thi hành cưỡng chế có hiệu
lực chưa cao dẫn đến hiệu quả quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

7.2. HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ PHÂN CÔNG TRÁCH NHIỆM
7.2.1. Hệ thống tổ chức và phân công trách nhiệm đang được kiện toàn
và sự phân công tương đối cụ thể từ cấp Trung ương đến cấp địa phương
Cấp Trung ương
Ở cấp Trung ương, đã có sự phân công chức năng, nhiệm vụ và trách
nhiệm đối với các bộ, ngành có liên quan đến công tác quản lý CTR. Trong
đó, có 5 Bộ có trách nhiệm trực tiếp tham gia công tác quản lý CTR bao gồm:
Bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn và Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Bộ Xây dựng có trách nhiệm quy hoạch quản lý CTR cấp vùng, liên tnh,
liên đô thị, vùng kinh tế trọng điểm; chủ trì phối hợp với các bộ, ngành khác
trong việc xử lý CTR tại đô thị, khu sản xuất dịch vụ tập trung, cơ sở sản xuất
vật liệu xây dựng, làng nghề và khu dân cư nông thôn.
Bộ Công thương có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp
luật về BVMT và các quy định khác có liên quan đối với lĩnh vực công
nghiệp (trong đó bao gồm cả vấn đề về CTR công nghiệp); thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp,
hoạt động khuyến công, khu - cụm - điểm công nghiệp, doanh nghiệp công
nghiệp vừa và nhỏ ở các địa phương.
Bộ Y tế có trách nhiệm ch đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc quản lý chất
thải y tế. Trách nhiệm của Bộ về quản lý chất thải chủ yếu là đánh giá tác
động chất thải rắn đối với sức khoẻ con người, thanh tra, giám sát hoạt động
xử lý chất thải bệnh viện.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có trách nhiệm ch đạo, hướng
dẫn, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về BVMT và các quy định có liên
quan tới chất thải nông nghiệp; xây dựng và thực hiện các chương trình, kế
hoạch cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTR cho các điểm dân cư
nông thôn và làng nghề.
Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý và
bảo vệ môi trường nói chung, chịu trách nhiệm chính quản lý CTNH và phối

hợp với các Bộ khác ban hành hướng dẫn, quy định, quy chuẩn về quản lý
chất thải, xây dựng kế hoạch quản lý chất thải hàng năm và dài hạn, xây
dựng chính sách và chiến lược, kế hoạch và phân bổ ngân sách nghiên cứu
và phát triển cho các dự án xử lý chất thải và phê duyệt báo cáo ĐTM.
Các Bộ, ngành khác có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ trong công tác đầu tư
tài chính, xây dựng các cơ chế ưu đãi về kinh tế để thúc đẩy hoạt động quản
121
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
122
lý chất thải (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính), hướng dẫn tuyên truyền
phổ cập về quản lý chất thải (Bộ Thông tin và Truyền thông) hay phối hợp với
Bộ Xây dựng tổ chức thẩm định công nghệ xử lý CTR mới được triển khai (Bộ
Khoa học và Công nghệ).
Ngoài ra, các bộ quản lý chuyên ngành còn có trách nhiệm xây dựng định
hướng xã hội hóa công tác quản lý CTR, hướng dẫn các tiêu chí về quy mô tổ
chức, tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động của các cơ sở thực hiện xã hội hóa.
Cấp địa phương
Ở cấp địa phương, các đơn vị được giao chức năng nhiệm vụ về quản lý
CTR bao gồm:
Sở Xây dựng: chịu trách nhiệm về quản lý CTR sinh hoạt và các bãi chôn
lấp rác thải gồm: giám sát việc thực hiện quy hoạch đô thị của tnh hoặc thành
phố đã được Thủ tướng phê duyệt, tổ chức thiết kế và xây dựng các dự án chôn
lấp rác thải theo tiêu chuẩn môi trường và xây dựng, hỗ trợ ra quyết định về
các dự án cơ sở xử lý chất thải, phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường báo
cáo và đề xuất quy hoạch các bãi chôn lấp rác thải, các cơ sở, nhà máy chế
biến xử lý CTR phù hợp cho Ủy ban nhân dân cấp tnh để phê duyệt.
Sở Tài nguyên và Môi trường: có vai trò quan trọng trong quản lý chất thải,
về giám sát chất lượng môi trường, quản lý và thực hiện các chính sách và
quy định về quản lý chất thải do Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ủy ban nhân

dân cấp tnh ban hành, phê duyệt báo cáo ĐTM cho các dự án xử lý chất
Ghi chú: (*) CTR sinh hoạt nông thôn chưa có sự phân định rõ ràng giữa Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT
(**) CTR làng nghề chưa có sự phân định rõ ràng giữa Bộ Công thương, Bộ Xây dựng và Bộ NN&PTNT
Hình 7.1. Sơ đồ hệ thống tổ chức quản lý CTR cấp trung ương
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
123
thải, phối hợp với Sở Xây dựng xem
xét và lựa chọn các bãi chôn lấp
rác thải, sau đó đề xuất với Ủy ban
nhân dân tnh phê duyệt bãi chôn
lấp phù hợp nhất. Tuy nhiên, vai trò
của Sở Xây dựng và Sở Tài nguyên
và Môi trường trong quản lý CTR
phụ thuộc vào tính chất và tổ chức
của từng tnh thành và giữa chúng
có thể có khác biệt.
Công ty Môi trường đô thị (URE-
NCO): Ngoài các đơn vị quản lý
nhà nước mang tính hành chính
nói trên, Công ty môi trường đô
thị là đơn vị dịch vụ công của nhà
nước chịu trách nhiệm trực tiếp
thực hiện công tác thu gom, vận
chuyển, xử lý chất thải ở tnh hoặc
thành phố. Và cũng tùy thuộc theo
từng địa phương, URENCO có thể
trực thuộc Sở Xây dựng hoặc Sở Tài
nguyên và Môi trường. Điển hình

như Hà Nội, Hải Phòng và Thừa
Thiên - Huế, URENCO trực thuộc
sự quản lý của Sở Xây dựng; tại Đà
Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, URENCO
lại trực thuộc quyền quản lý của
UBND thành phố, Sở Tài nguyên
và Môi trường quản lý theo ngành
dọc về mặt chuyên môn.
7.2.2. Phân công, phân nhiệm
còn phân tán, chồng chéo và
nhiều lỗ hổng
Theo đúng chức năng, nhiệm
vụ đã được phân công cho các Bộ
ngành (đã nêu ở trên), có thể thấy
rõ sự phân tán, chồng chéo trong
quản lý CTR ở cấp trung ương và
địa phương, cụ thể:
Khung 7.2. Hệ thống quản lý nhà nước về CTR đô thị tại
Tp. Hồ Chí Minh
__________: quan hệ trực tiếp
: quan hệ gián tiếp
Mô hình tổ chức quản lý CTR đô thị tại Tp. Hồ Chí Minh
đã cho thấy những hiệu quả tốt. Công ty TNHH một thành
viên Môi trường đô thị (gọi tắt là URENCO) trực thuộc UBND
Thành phố. Hiện nay, UBND Thành phố thực hiện việc ch
đạo trực tiếp và điều phối hoạt động cũng như sự phối hợp
giữa URENCO, Sở TN&MT (Phòng Quản lý CTR) và các Công
ty công ích. Như vậy, có thể thấy công tác vệ sinh môi trường
đô thị nói chung và quản lý CTR đô thị nói riêng được đưa
về tập trung vào một đầu mối. Vì vậy, công tác điều phối và

quản lý CTR được thống nhất và hiệu quả. Điều này được thể
hiện qua tỷ lệ thu gom và xử lý CTR đô thị của Tp. Hồ Chí
Minh trong những năm qua luôn đạt 95%. Đây là một trong
số ít địa phương có tỷ lệ thu gom và xử lý CTR hợp vệ sinh
cao nhất trong cả nước.
Nguồn: Sở TN&MT Tp. Hồ Chí Minh, 2011.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
124
Về nguyên tắc, Bộ Tài nguyên và Môi
trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ
trong việc thực hiện thống nhất về BVMT,
trong đó có quản lý chất thải. Tuy nhiên, việc
xử lý CTR sinh hoạt, chất thải làng nghề theo
quy định của Luật BVMT và các văn bản có
liên quan là trách nhiệm của Bộ Xây dựng.
Vấn đề quản lý CTR công nghiệp cũng chưa
rõ trách nhiệm cụ thể thuộc Bộ Xây dựng hay
Bộ Công thương. Việc quản lý CTR làng nghề
không rõ trách nhiệm của Bộ Xây dựng, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay
Bộ Công thương. Hay vấn đề quản lý CTR
khu dân cư nông thôn đều được giao cho cả
hai Bộ Xây dựng và Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn. Chính từ sự chồng chéo trong
chức năng quản lý của các Bộ, ngành, dẫn
đến những chồng chéo trong việc triển khai
các chương trình quản lý CTR ở cấp quốc gia.
Việc tổ chức quản lý CTR không ch thiếu
thống nhất ở cấp trung ương mà còn ở cấp địa

phương. Theo Nghị định số 81/2007/NĐ-CP
7

thì chức năng quản lý nhà nước về BVMT nói
chung (bao gồm quản lý chất thải) ở cấp địa
phương được giao cho Sở Tài nguyên và Môi
trường. Tuy nhiên, theo Nghị định số 13/2008/
NĐ-CP
8
thì chức năng quản lý nhà nước về
CTR sinh hoạt đô thị lại chuyển sang Sở Xây
dựng. Chính vì vậy, ở mỗi địa phương chức
năng quản lý CTR được giao cho các đơn vị
khác nhau. Điển hình như tại Hà Nội, Hải
Phòng, Huế công tác quản lý CTR được giao
cho Sở Xây dựng. Nhưng tại Đà Nẵng, Tp. Hồ
Chí Minh, công tác này lại do UBND tnh,
thành phố chịu trách nhiệm (trước đây giao
cho Sở Tài nguyên và Môi trường). Chính do
sự không thống nhất đầu mối quản lý CTR tại
nhiều địa phương đã khiến cho công tác quản
lý CTR ở Trung ương cũng không thống nhất.
Khung 7.3. Chồng chéo trong hệ thống
quản lý CTR dẫn đến chồng chéo khi triển
khai thực hiện các chương trình
Trong danh mục các chương trình thực
hiện Chiến lược quốc gia về quản lý tổng
hợp CTR, căn cứ theo chức năng nhiệm
vụ được phân công về CTR, các bộ, ngành
đều được giao chủ trì thực hiện các chương

trình tương ứng, cụ thể:
- “Chương trình thúc đẩy phòng ngừa,
giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng chất thải
rắn” và “Thúc đẩy phân loại chất thải rắn
tại nguồn” do Bộ Tài nguyên và Môi trường
chủ trì;
- “Chương trình đầu tư xây dựng các
công trình xử lý chất thải rắn cấp vùng”
và “Xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị giai
đoạn 2009 - 2020” do Bộ Xây dựng chủ trì;
- “Chương trình tăng cường quản lý chất
thải rắn nông thôn, làng nghề” do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ trì.
- “Chương trình xử lý chất thải rắn y tế
trong giai đoạn 2009 - 2025” do Bộ Y tế
chủ trì.
Nguồn: Tổng cục Môi trường tổng hợp, trích từ Chiến
lược quốc gia về quản lý tổng hợp CTR đến năm 2025,
tầm nhìn đến 2050, 2011.
7 Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5/2008 của Chính phủ quy định tổ chức, bộ phân chuyên môn về BVMT tại các cơ quan nhà nước và
doanh nghiệp nhà nước.
8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/2/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
125
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
Công tác quản lý CTR sinh hoạt tại các đô
thị vẫn chủ yếu được thực hiện bởi các Công
ty dịch vụ công hay dịch vụ công ích của Nhà

nước. Hoạt động của các đơn vị này còn manh
mún, khép kín trong địa giới hành chính,
phân tán, không đủ năng lực (cả về nhân lực
và phương tiện, thiết bị). Hơn nữa với mô hình
quản lý hiện nay phổ biến mang tính riêng
biệt từng đô thị, chưa có sự gắn kết hợp tác
giải quyết các vấn đề mang tính liên vùng,
liên tnh. Ở mỗi địa phương, URENCO lại trực
thuộc các đơn vị quản lý khác nhau (Sở Xây
dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường hoặc Ủy
ban nhân dân tnh, thành phố) dẫn tới không
có đơn vị đầu mối thống nhất, công tác quản
lý CTR khó tìm được tiếng nói chung.
7.3. QUY HOẠCH THEO VÙNG VÀ
CÁC ĐỊA PHƯƠNG
7.3.1. Đã có các quy hoạch theo vùng
Đối với vấn đề lập quy hoạch công trình
xử lý CTR, Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 1440/2008/QĐ-TTg
9
và Quyết định
số 1873/2010/QĐ-TTg
10
quy hoạch 8 khu xử
lý CTR liên vùng, liên tnh (Bảng 7.2) cho 4
vùng KTTĐ nhằm đảm bảo xử lý triệt để, tái
chế, tái sử dụng chất thải, hạn chế chôn lấp,
nâng cao hiệu quả công tác xử lý CTR.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc xây
dựng mô hình xử lý CTR liên vùng, liên tnh

là không phù hợp đối với công tác quản lý
CTR đô thị mà ch phù hợp với công tác
quản lý CTNH. Hiện nay, công tác quản lý
CTNH chưa mang tính vùng và cũng chưa
có những giải pháp quản lý phù hợp. Chính
vì vậy, cần xem xét, đánh giá, điều chnh
các quy định đối với việc quy hoạch các khu
xử lý CTR liên vùng, ch khoanh lại đối với
loại hình CTNH.
9. Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg ngày 06/10/2008 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch xây dựng khu xử lý CTR
3 vùng KTTĐ Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2020;
10. Quyết định số 1873/2010/QĐ-TTg ngày 11/10/2010 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch xây dựng khu xử lý CTR
vùng KTTĐ vùng ĐBSCL.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
126
TT Tên khu xử lý Địa điểm
Quy mô (ha)/
Vốn đầu tư (tỷ
đồng) theo quy
hoạch
Phạm vi phục vụ
I Vùng KTTĐ Bắc Bộ
1. Khu xử lý Nam Sơn
Xã Nam Sơn, huyện Sóc
Sơn, Hà Nội
140 - 160 ha
2.592 tỷ đồng

- Liên tnh Thủ đô Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Hưng Yên đối với CTR công nghiệp;
- Vùng Tp. Hà Nội đối với CTR sinh hoạt.
2.
Khu xử lý Sơn
Dương
Xã Sơn Dương, huyện
Hoành Bồ, Quảng Ninh
100 ha
1.102 tỷ đồng
- Liên tnh Quảng Ninh, Tp. Hải Phòng,
Hải Dương với CTR công nghiệp;
- Vùng tnh Quảng Ninh với CTR sinh hoạt
II Vùng KTTĐ miền Trung
3.
Khu xử lý Hương
Văn
Xã Hương Văn, huyện
Hương Trà, Thừa Thiên
- Huế
40 ha
494 tỷ đồng
- Liên tnh Thừa Thiên Huế và Tp. Đà
Nẵng đối với CTR công nghiệp;
- Vùng tnh Thừa Thiên Huế với CTR sinh
hoạt
4.
Khu xử lý Bình
Nguyên
Xã Bình Nguyên, huyện

Bình Sơn, Quảng Ngãi
70 ha
1.061 tỷ đồng
- Liên tnh Quảng Nam, Quảng Ngãi đối
với CTR công nghiệp;
- Vùng tnh Quảng Ngãi đối với CTR sinh
hoạt.
5. Khu xử lý Cát Nhơn
Xã Cát Nhơn, huyện Phù
Cát, Bình Định
70 ha
891 tỷ đồng
- Liên tnh Bình Định và một số tnh phía
Nam, phía Tây Bình Định đối với CTR
công nghiệp;
- Vùng tnh Bình Định đối với CTR sinh
hoạt.
III Vùng KTTĐ phía Nam
6.
Khu liên hợp xử lý
Tân Thành
Xã Tân Thành, huyện
Thủ Thừa, Long An
1.760 ha
3.078 tỷ đồng
Liên tnh Long An, Tp. Hồ Chí Minh đối
với CTR sinh hoạt và công nghiệp
7.
Khu xử lý CTR công
nghiệp nguy hại

Tây Bắc Củ Chi
Huyện Củ Chi, Hồ Chí
Minh
100 ha
470 tỷ đồng
Liên tnh Tp. Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Tây Ninh đối với CTR công nghiệp nguy
hại.
IV Vùng KTTĐ vùng ĐBSCL
8.
Khu xử lý CTR vùng
liên tnh và 5 Khu
xử lý CTR vùng tnh
Khu xử lý vùng liên tnh:
Cà Mau;
Khu xử lý CTR vùng tnh:
huyện Châu Thành, An
Giang; huyện Hòn Đất,
Kiên Giang; quận Ô
Môn, huyện Thới Lai,
Tp. Cần Thơ; phía Bắc
Tp. Cà Mau
Khu xử lý CTR
vùng liên tnh: 20
ha;
5 Khu xử lý CTR
vùng tnh: 367 ha
- Liên tnh: Tp. Cần Thơ, tnh An Giang,
tnh Kiên Giang và Cà Mau đối với chất
thải nguy hại;

- Vùng tnh: Tp. Cần Thơ, tnh An Giang,
tnh Kiên Giang và Cà Mau đối với CTR
sinh hoạt, công nghiệp và y tế thông
thường.
Bảng 7.2. Quy hoạch khu xử lý CTR cấp vùng cho các vùng KTTĐ
Nguồn: Theo Quyết định số 1440/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 1873/2010/QĐ-TTg

Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
7.3.2. Thiếu các quy hoạch của địa phương
Hầu hết các địa phương chưa xây dựng
quy hoạch quản lý CTR. Hiện nay ch có một
vài địa phương lập quy hoạch quản lý CTR
như Tp. Hồ Chí Minh, Bình Định, Đắc Lắk,
Quảng Ninh.
Một vài địa phương khác mới dừng ở mức
Quy hoạch hệ thống thu gom, xử lý CTR như
Thừa Thiên - Huế hoặc đề xuất các biện pháp
quản lý môi trường cho tnh như Long An.
Nội dung chủ yếu vẫn ch xoay quanh vấn đề
lựa chọn vị trí bãi chôn lấp/khu xử lý, chưa
xây dựng được một quy hoạch quản lý tổng
thể CTR. Chính việc thiếu quy hoạch tổng thể
quản lý CTR dẫn đến các địa phương thiếu căn
cứ triển khai các dự án, chương trình cụ thể.
Nhằm cung cấp hướng dẫn kỹ thuật, hỗ
trợ các đô thị có thể dễ dàng triển khai công
tác lập quy hoạch quản lý chất thải rắn cho
địa phương, năm 2010, Bộ Xây dựng đã ban

hành tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về quy hoạch
quản lý CTR cho các đô thị Việt Nam
11
.
Bộ Xây dựng cũng đang triển khai xây
dựng quy chuẩn quy hoạch quản lý CTR, quy
chuẩn quy hoạch xây dựng cơ sở xử lý CTR;
Bộ Y tế cũng đang trình Chính phủ ban hành
Quy hoạch quản lý CTR y tế nhằm tạo căn
cứ cho việc lập và triển khai quy hoạch quản
lý CTR và quy hoạch xây dựng công trình xử
lý CTR tại các địa phương; tạo cơ sở cho việc
triển khai tổ chức thực hiện quy hoạch.
11 Tài liệu được soạn thảo với sự hỗ trợ của Hợp phần “Phát
triển bền vững môi trường trong các khu đô thị nghèo” (SDU)-
một hợp phần của chương trình hợp tác phát triển Việt Nam
- Đan Mạch về môi trường (2005-2010).
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
128
Việc lựa chọn địa điểm công trình xử lý CTR cho các đô thị được thực hiện
lồng ghép trong quy hoạch xây dựng đã có từ lâu. Tuy nhiên, việc lập luận
chứng lựa chọn địa điểm các bãi chôn lấp tại các đô thị cũng hết sức đơn giản,
thiếu căn cứ khoa học và ch là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên liên
quan nên các địa phương gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn địa điểm bãi chôn
lấp theo Thông tư 01/2001/TTLT-KHCNMT-BXD. Nguyên nhân là do các quy
định hết sức nghiêm ngặt trong khi không đưa ra lộ trình thực hiện và phân
loại theo cấp đô thị cũng như đặc điểm tự nhiên và kinh tế-xã hội từng vùng,
miền. Chính vì vậy tại một số đô thị Việt Nam, vị trí các bãi chôn lấp được
quy hoạch đặt ở vị trí không phù hợp như bãi rác Tràng Cát (Hải Phòng), bãi

rác Tp. Vinh (Nghệ An)
Trong những năm gần đây, thành công của một số nhà máy xử lý rác thải
theo công nghệ trong nước với những ưu điểm như tiết kiệm diện tích đất,
không cần diện tích dành cho bãi chôn lấp rác với quy mô lớn đã tạo điều
kiện thuận lợi trong việc lựa chọn địa điểm và quy hoạch xây dựng khu xử
lý do không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Tuy nhiên, việc triển khai
nhân rộng còn gặp nhiều khó khăn do vốn đầu tư còn hạn chế, tính đồng bộ
và mức độ hiện đại hóa chưa cao, các công nghệ xử lý CTR chưa được sản
xuất ở quy mô công nghiệp. Vì vậy, vấn đề này cũng cần được ưu tiên xem
xét trong các quy hoạch xây dựng các nhà máy xử lý rác tại các địa phương.
Một vấn đề cần quan tâm khác, đó là quy hoạch quản lý CTR chưa đề cập
tới quy hoạch, quản lý các bãi chôn lấp CTR đã đóng cửa. Hiện nay, phần lớn
các bãi rác đã đóng cửa vẫn đang tiếp tục gây ô nhiễm môi trường. Nguyên
nhân là do trước đây, các bãi rác này đều là những bãi chôn lấp không hợp vệ
sinh. sau khi đã đóng cửa các bãi chôn lấp quyền quản lý được giao cho cơ
quan hành chính, không đủ chức năng giám sát, kiểm soát và xử lý ô nhiễm
nên vẫn là những điểm nóng, gây ô nhiễm môi trường khu vực xung quanh.
7.4. SỰ THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
7.4.1. Sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước đã mang lại những đóng
góp không nhỏ
Ở hầu hết các địa phương, Công ty môi trường đô thị (URENCO) là doanh
nghiệp nhà nước, chịu trách nhiệm chính trong công tác quản lý, thu gom và
xử lý CTR đô thị của địa phương. Tùy thuộc theo quy định của từng địa phương,
chức năng nhiệm vụ của URENCO có thể được quy định khác nhau. URENCO
có thể chịu trách nhiệm thực hiện toàn bộ hoạt động quản lý CTR hoặc ch
chuyên trách một số công đoạn như chuyên vận chuyển hoặc chuyên xử lý
Ngoài URENCO, tham gia công tác thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải
ở các địa phương còn có các đơn vị khác dưới hình thức là các Công ty nhà
129
Chương 7:

Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
nước (toàn phần hoặc một phần), Công ty cổ
phần, hay các Hợp tác xã hoặc Xí nghiệp môi
trường trực thuộc UBND các quận, huyện.
Chính sự tham gia tích cực của khối các
đơn vị này đã giúp cho công tác quản lý CTR
đô thị đạt được hiệu quả khá tốt trong những
năm gần đây. Hai ví dụ điển hình được minh
chứng tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh.
Đối với Tp. Hà Nội, công tác thu gom vận
chuyển CTR do Công ty TNHH nhà nước một
thành viên Môi trường đô thị quản lý chung.
Công ty chịu trách nhiệm thu gom phần lớn
lượng CTR của thành phố, còn lại là các đơn
vị môi trường đô thị của các quận, huyện và
các hợp tác xã vận tải công nông thu gom. Tỷ
lệ tham gia vào công tác thu gom vận chuyển
chất thải sinh hoạt giữa các thành phần tư
nhân và nhà nước ở Tp. Hà Nội đang dần
được cải thiện theo hướng sẽ giảm sức ép đến
URENCO và tăng hiệu quả quản lý CTR của
tư nhân.
Đối với Tp. Hồ Chí Minh, vấn đề điều
phối, quản lý trực tiếp hoạt động thu gom, vận
chuyển, trung chuyển và xử lý CTR đô thị do
Công ty TNHH nhà nước một thành viên Môi
trường đô thị chịu trách nhiệm. Đối với công
tác thu gom bao gồm: Hệ thống chính qui
gồm Công ty TNHH nhà nước một thành viên

Môi trường đô thị và 22 Công ty TNHH nhà
nước một thành viên Dịch vụ Công ích quận -
huyện thực hiện (riêng quận Tân Phú và Bình
Tân là hai quận mới thành lập không có Công
ty dịch vụ công ích); Hệ thống phi chính quy
do lực lượng thu gom CTR dân lập thực hiện.
Trong đó, 40% tỷ lệ thu gom do nhóm công
ty dịch vụ công ích nhà nước, 60% còn lại do
hệ thống thu gom CTR dân lập và Hợp tác xã
thực hiện. Đối với hoạt động trung chuyển và
vận chuyển do 3 đơn vị cùng thực hiện: Công
ty TNHH nhà nước một thành viên Môi trường
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
130
đô thị (53%), công ty TNHH nhà nước một thành viên Dịch vụ Công ích một số
quận huyện (30%), và HTX Công Nông (17%).
7.4.2. Các doanh nghiệp nhà nước chưa được đầu tư đầy đủ
Mặc dù, khối lượng doanh nghiệp nhà nước tham gia công tác quản lý hiện
nay là tương đối lớn nhưng nguồn nhân lực tại các đơn vị này chủ yếu là công
nhân thu gom và lái xe, chiếm trên 70% nguồn nhân lực của các doanh nghiệp.
Thêm vào đó, trình độ, năng lực của khối công nhân thu gom hiện tại mới ch
đáp ứng được các công nghệ thu gom thủ công. Đội ngũ cán bộ quản lý tại các
đơn vị chủ yếu là các cán bộ công tác lâu năm, có kinh nghiệm. Lực lượng cán
bộ được đào tạo cơ bản về chuyên môn quản lý môi trường còn thiếu. Để từng
bước hội nhập với phương pháp quản lý tổ chức và kỹ thuật môi trường hiệu
quả, việc đào tạo nâng cao năng lực cho khối công nhân thu gom và các cán
bộ đang thực hiện công tác quản lý tại các doanh nghiệp song song với việc tạo
điều kiện hoặc tuyển mới các cán bộ được đào tạo cơ bản cho các vị trí quản
lý của đơn vị là cần thiết.

7.5. SỰ THAM GIA CỦA DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ CỘNG ĐỒNG
7.5.1. Khối doanh nghiệp tư nhân đã có những bước tiến đáng kể
Chính sách xã hội hoá công tác quản lý CTR (bao gồm các hoạt động thu
gom, vận chuyển, xử lý CTR) đã được thực hiện ở nhiều thành phố, nơi mà CTR
đô thị là một trong những vấn đề ưu tiên của chính quyền địa phương. Cùng
với chính sách này, số lượng các công ty cũng như lĩnh vực mà các công ty
này tham gia vào trong quản lý CTR đang ngày càng được mở rộng. Bên cạnh
công tác thu gom CTR, các công ty tư nhân cũng đã tham gia vào lĩnh vực vận
chuyển và xử lý CTR. Ngoài ra, có thể kể đến một số doanh nghiệp tư nhân đã
thực hiện thành công và đem lại nhiều hiệu quả và lợi ích cho cộng đồng trong
vận chuyển và xử lý CTR sinh hoạt đô thị như: Công ty TNHH Huy Hoàng ở Tp.
Lạng Sơn; Công ty TNHH Môi trường Đông Phương ở Tp. Buôn Ma Thuột; Công
ty Cổ phần Công nghiệp Cẩm phả và Tổng công ty An Lạc Viên INDEVCO ở
Quảng Ninh Ở khu vực nông thôn, cũng đã hình thành các tổ đội, hợp tác xã
thu gom, vận chuyển CTR sinh hoạt nông thôn.
Tp. Hồ Chí Minh được coi là một trong hai thành phố đi đầu trong cả nước
về xã hội hóa công tác thu gom vận chuyển chất thải. Ngoài hệ thống chính quy
(Công ty TNHH một thành viên Môi trường đô thị của thành phố, các công ty
dịch vụ công ích) thực hiện công tác quản lý CTR đô thị, hệ thống phi chính quy
do lực lượng thu gom CTR dân lập thực hiện, bao gồm các cá nhân thu gom rác,
khoảng 30 nghiệp đoàn thu gom; 05 Hợp tác xã thu gom (quận 2, quận 4, quận
6, quận Gò Vấp, Thủ Đức). Hệ thống này đã thực hiện việc thu gom 60% tổng
lượng CTR đô thị. Kết quả cho thấy, tuy tổng lượng phát sinh CTR của thành phố
131
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
là rất lớn (5.128 tấn/ngày) nhưng Tp. Hồ Chí
Minh vẫn đạt tỷ lệ thu gom rất cao (95%).
Mô hình nêu trên đã được Tp. Hồ Chí

Minh triển khai từ năm 2003 dưới hình thức
xã hội hóa hoàn toàn bằng vốn doanh nghiệp
trong và ngoài nước. Chính nhờ có sự tham
gia của các nhóm đơn vị với sự quản lý và
điều phối thống nhất từ cấp chính quyền đến
cơ sở, nên công tác quản lý CTR đã đạt được
những kết quả tốt, có thể là mô hình quản lý
tham khảo cho các địa phương khác.
Ở Hà Nội, ngoài Công ty TNHH nhà nước
một thành viên Môi trường đô thị (UREN-
CO Hà Nội) chịu trách nhiệm thu gom, vận
chuyển chất thải sinh hoạt đô thị, còn có một
số công ty tư nhân như: Công ty Cổ phần dịch
vụ môi trường Thăng Long; Công ty cổ phần
Tây Đô; Công ty cổ phần Xanh; Hợp tác xã
Thành Công v.v
Tại Huế và Đà Nẵng, khu vực tư nhân
tham gia vào thu gom CTR chủ yếu tại vùng
nông thôn. Họ thường tổ chức các đội nhỏ và
liên lạc với UBND cấp xã hoặc cấp huyện.
7.5.2. Sự tham gia của cộng đồng đã có
kết quả bước đầu
Trong những năm gần đây, phương thức
quản lý môi trường dựa vào cộng đồng đã
được nhiều dự án quan tâm và thực hiện, đặc
biệt quản lý CTR với cách tiếp cận dựa vào
cộng đồng. Khi người dân được tham gia trực
tiếp vào các bước trong dự án, được chủ động
đưa ra các đề xuất, được giám sát quá trình
thực hiện và là những người trực tiếp hưởng

lợi thành quả của dự án, họ sẽ tích cực tham
gia vào các hoạt động quản lý môi trường.
Sự tham gia của cộng đồng làm tăng sự đồng
thuận và niềm tin của nhân dân đối với các
quyết định của chính quyền, tăng cường vai
trò của cộng đồng địa phương và tăng cường
Khung 7.4. Xã hội hóa xử lý rác tại
Tp. Hồ Chí Minh
Theo thống kê sơ bộ, trên địa bàn Tp. Hồ
Chí Minh mỗi ngày có khoảng hơn 5.000
tấn rác thải. Để giảm bớt áp lực rác thải, từ
năm 2003, Tp. Hồ Chí Minh bắt đầu thực
hiện công tác xã hội hóa về thu gom, xử lý
rác thải trên toàn thành phố. Hiện thành
phố đang thu hút nhiều dự án lớn đầu tư vào
lĩnh vực thu gom và xử lý rác thải. Trong
đó, dự án tái chế rác thải của Công ty Vi-
etstar đạt công suất 1.200 tấn/ngày; dự án
của Công ty Tâm Sinh Nghĩa và Tasco đang
trong quá trình hoàn thiện. Đặc biệt, Dự
án Khu liên hợp CTR Đa Phước do Công
ty TNHH Xử lý CTR Việt Nam (VWS) có
công suất xử lý 3.000 tấn/ngày với những
hạng mục tái chế thành phân compost hiện
đại. Các nhà máy xử lý CTR này đều có
công nghệ hiện đại, có khả năng tái chế,
tái sinh năng lượng, thân thiện với môi
trường Theo dự báo của Sở Tài nguyên và
Môi trường Tp. Hồ Chí Minh thì ch trong
một thời gian ngắn, khi các nhà máy này đi

vào hoạt động ổn định thì cơ bản lượng rác
thải sinh hoạt, rác thải công nghiệp trên địa
bàn sẽ được xử lý triệt để.
Nguồn: Báo Nhân dân, 26/05/2011.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
132
tính dân chủ trong việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến xả thải chất thải.
7.5.3. Xã hội hóa còn yếu
Tuy Đảng và Nhà nước từ lâu đã có chủ
trương xã hội hóa công tác BVMT, trong đó
có xã hội hóa công tác quản lý CTR, nhưng
thực tế còn thiếu nhiều văn bản và cơ chế để
cụ thể hóa chủ trương này, nhất là việc ban
hành cơ chế, hướng dẫn ở cấp địa phương.
Đặc biệt là chưa có chế tài phù hợp đối với
công tác xã hội hóa, tư nhân hóa đối với hoạt
động phân loại, thu gom, vận chuyển và xử
lý CTR. Chính điều này đã khiến cho nhiều
doanh nghiệp của các địa phương không
muốn tư nhân hóa, mà ch muốn duy trì hình
thức là công ty công ích của nhà nước và độc
quyền quản lý CTR.
Vấn đề nảy sinh cả từ phía cộng đồng
và chính quyền. Nhận thức và năng lực
của cộng đồng chưa đảm bảo để thực hiện
quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong công
tác quản lý môi trường nói chung và quản lý
CTR nói riêng, đặc biệt là ở các khu vực tập

trung đông dân nghèo. Người dân vẫn còn
tư tưởng “thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải là trách nhiệm của các nhà quản lý, cấp
chính quyền”. Ý thức của người dân đối với
công tác quản lý CTR, giữ gìn vệ sinh công
cộng còn rất thấp. Người dân thường xả rác
ra đường, cống rãnh, đặc biệt là hiện tượng
đổ trộm CTR xây dựng ra bờ sông, các khu
vực công cộng dẫn đến tình trạng ngập
úng khi có mưa to, và cũng gây ra những
tác động tiêu cực đến vệ sinh môi trường
và cảnh quan đô thị. Về phía các nhà quản
lý, còn thiếu các văn bản quy định phù hợp
nhằm thu hút sự tham gia của các đoàn thể,
quần chúng và toàn xã hội, chưa triển khai
nhiều các chương trình huy động sự tham
gia của cộng đồng trong quản lý CTR.
Khung 7.5. Thôn Tảo Phú (xã Tam Hồng,
huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) xử lý rác thải
thành phân bón hữu cơ
Năm 2008, Vĩnh Phúc đã xây dựng thí
điểm mô hình thu gom, xử lý rác thải chế
biến phân bón hữu cơ với tổng diện tích
1.000 m
2
đặt tại thôn Tảo Phú, xã Tam
Hồng (xa khu dân cư). UBND tnh và xã
đã hỗ trợ cho thôn 600 triệu xây dựng 3 bể
chứa rác hữu cơ và các trang thiết bị thu
gom, xử lý rác; mời chuyên gia về mở 3

lớp tập huấn cho bà con phân loại rác tại
nguồn. Bình quân một tháng lượng rác thải
ở thôn Tảo Phú có 15 tấn rác hữu cơ, 4 tấn
rác vô cơ. Toàn bộ rác hữu cơ được dùng
để chế biến phân bón hữu cơ, còn rác vô
cơ đổ ra bãi rác rất ít.
Thôn Tảo Phú cũng đã thành lập tiểu
ban thực hiện việc thu gom, xử lý rác, chế
biến phân hữu cơ gồm 12 thành viên đại
diện cho 500 hộ dân. Ban ch đạo xây
dựng kế hoạch vệ sinh môi trường và thông
qua các hội nghị Chi bộ Đảng, các ban
ngành đoàn thể, các phương tiện thông tin
đại chúng. Các gia đình được tham gia bàn
bạc dân chủ, công khai về hoạt động vệ
sinh môi trường của thôn nên 100% các
hộ đều tự nguyện tham gia phân loại rác
tại nguồn. Ngoài tổ vệ sinh thu gom rác
của thôn, các xóm đều tổ chức làm vệ sinh
hàng tuần, thường xuyên khơi thông cống
rãnh nên đường làng, ngõ xóm luôn sạch
sẽ. Loại phân hữu cơ này đang được người
dân nơi đây dùng bón cho các loại rau
ngắn ngày, các loại hoa, cây cảnh.
Nguồn: Báo Lao động, 20/09/2009.
133
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
Mặt khác, nguồn ngân sách của địa phương

trong đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và BVMT
ở cấp cơ sở còn ít. Để đảm bảo tính bền vững
trong công tác BVMT với sự tham gia của cộng
đồng đối với các công trình dịch vụ công,
trong một số trường hợp cần có sự hợp tác của
người dân (người thụ hưởng) trong việc chia sẻ
đóng góp chi trả các dịch vụ môi trường. Tuy
nhiên, tại các khu vực đông dân nghèo, việc
thực hiện chi trả này còn rất thấp; không đủ
khuyến khích và cải thiện thu nhập của những
người tham gia công tác BVMT, ảnh hưởng tới
khả năng duy trì dịch vụ.
Vấn đề vận động cộng đồng tham gia công
tác BVMT cũng là một trở ngại không nhỏ,
đặc biệt nếu trong điều kiện người lao động
kiếm sống bằng các công việc nặng nhọc thì
thời gian dành cho sự tham gia dự án là hết
sức hạn chế. Giải pháp bù đắp thời gian làm
việc của người dân bằng một khoản tài chính
nhỏ (từ nhà tài trợ) nhằm kích thích sự tham
gia của cộng đồng ch mang tính tạm thời,
không bền vững.
7.6. THANH TRA, KIỂM TRA, XỬ LÝ
VI PHẠM
7.6.1. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
đã trở thành một công cụ hữu ích tuy nhiên
nguồn lực còn hạn chế
Hàng năm, theo chức năng nhiệm vụ, từ
cấp Trung ương đến địa phương, vẫn tổ chức
các đoàn thanh tra, kiểm tra tình hình tuân

thủ quy định pháp luật BVMT nói chung và
công tác quản lý CTR nói riêng. Tuy nhiên,
do lực lượng cán bộ thanh tra, giám sát môi
trường từ cấp Bộ đến các địa phương còn rất
mỏng, không đủ người, không đủ thiết bị cần
thiết nên công tác này đã gặp không ít các
khó khăn khi giải quyết các vấn đề thực tế.
Đây cũng là một thách thức đối với công tác
quản lý CTR.
Khung 7.6. Tình hình triển khai xử lý triệt
để các bãi rác và điểm chứa chất thải nguy
hại theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg
tính đến giữa năm 2011
- 25/52 bãi rác không còn gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng, chiếm 48,1%;
27 bãi rác còn lại đang triển khai xử lý ô
nhiễm triệt để, chiếm 51,9%.
- 12/15 kho thuốc bảo vệ thực vật cơ
bản không còn gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng, chiếm 80%; 03 kho thuốc
bảo vệ thực vật đang triển khai xử lý ô
nhiễm triệt để, chiếm 20%.
- Trong tổng số 04 điểm tồn lưu chất độc
hoá học trong chiến tranh (01 kho bom, 01
điểm tồn lưu CS, 02 điểm tồn lưu đioxin),
có 02 điểm (gồm 01 kho bom, 01 điểm
tồn lưu CS) đã được cấp quyết định chứng
nhận hoàn thành các biện pháp xử lý ô
nhiễm triệt để, chiếm 50%; 02 điểm tồn
lưu chất độc hoá học (đioxin) đang triển

khai xử lý ô nhiễm triệt để, chiếm 50%.
Nguồn: Báo cáo, đánh giá tình hình thực hiện
Quyết định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
về Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng, Bộ TN&MT, 2011.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
134
Trong những năm qua, công tác thanh tra, giám sát tập trung vào các vấn
đề môi trường bức xúc, xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg, công tác BVMT của các doanh nghiệp
trong các khu kinh tế, KCN và làng nghề, vấn đề nhập khẩu phế liệu trái với
quy định theo Quyết định 03/2004/QĐ-BTNMT.
Ở cấp địa phương, công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm cũng được
củng cố và tăng cường qua các năm. Việc xử lý những vi phạm hành chính đối
với những vi phạm quy định trong quản lý CTR ở nhiều địa phương cũng đã
gióng lên hồi chuông cảnh báo về công tác quản lý CTR ở nhiều cơ sở sản xuất,
đặc biệt là đối với chất thải nguy hại.
7.6.2. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa ngăn chặn gia tăng
nhập khẩu trái phép phế liệu
Để được phép nhập khẩu phế liệu, doanh nghiệp có cơ sở sản xuất trực tiếp
sử dụng phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất, tái chế phải đáp ứng
được quy định rất chặt chẽ: bảo đảm không để thất thoát phế liệu và không
phát tán các tạp chất đi kèm ra môi trường xung quanh; phải có giải pháp,
hệ thống xử lý hoặc phương án thuê đơn vị có đủ điều kiện kỹ thuật để xử lý;
bảo đảm thiết bị, công nghệ tái chế, tái sử dụng phế liệu và hệ thống xử lý
các chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh; Sở Tài nguyên và
Môi trường là cơ quan có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ các quy định về
BVMT đối với các doanh nghiệp nhập khẩu phế liệu và cấp xác nhận đủ điều
kiện nhập khẩu phế liệu có giá trị trong 12 tháng; Giấy xác nhận đủ điều kiện

nhập khẩu phế liệu là một trong những căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan
Hải quan cho phép nhập khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh những quy định chặt chẽ
trong hoạt động nhập khẩu phế liệu nói trên, các doanh nghiệp thường không
chấp hành nghiêm túc.
Khung 7.7. Xử lý vi phạm hành chính trong quản lý và xử lý CTNH
tại tỉnh Thái Nguyên
Trong thời gian gần 2 năm (2009 - 2010), ch tính riêng việc xử lý vi
phạm trong quản lý CTNH, Thái Nguyên đã tiến hành xử lý 18 đơn vị vi
phạm với tổng số tiền là 231 triệu đồng. Các vi phạm chủ yếu là quản lý
CTNH không đúng quy định về BVMT, không có sổ đăng ký chủ nguồn thải
CTNH, quản lý CTR sinh hoạt không đúng quy định
Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái,
cảnh quan LVS Cầu - Tỉnh Thái Nguyên, Sở TN&MT Thái Nguyên, 2011.
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
135
Theo thống kê của Cục Cảnh sát Môi trường từ năm 2007 đến hết năm
2010, các cơ quan chức năng đã điều tra, phát hiện 2.575 vụ vi phạm các
quy định về bảo vệ môi trường, trong đó có trên 200 vụ việc vi phạm trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu, chủ yếu nhập chất thải nguy hại, rác thải công
nghiệp. Cơ quan chức năng đã phạt tiền, truy thu phí bảo vệ môi trường trên
142 t đồng; buộc tái xuất và tiêu hủy 325 tấn rác thải, 3.150 tấn nhựa phế
liệu, hơn 10.000 tấn thép phế liệu và gần 6.200 tấn ắc-quy chì phế thải.
Nhập khẩu phế liệu đang trở thành một vấn đề lớn. Khối lượng phế thải bị
buộc tiêu hủy và số vụ vi phạm trong xuất nhập khẩu phế thải được phát hiện
ch là một con số nhỏ so với thực tế. Điều này đã làm gia tăng gánh nặng cho
xử lý và tiêu hủy CTR hiện nay. Chẳng hạn, nếu so sánh con số 6.200 tấn
ắc-quy chì phế thải nhập khẩu bị buộc tiêu hủy với số liệu 40.000 tấn ắc-quy
chì thải xử lý hàng năm của Việt Nam thì đây hoàn toàn là một con số không

nhỏ. Vấn đề không còn đơn thuần là tác động xấu của rác thải phế liệu nhập
khẩu đối với môi trường, mà đã trở nên nóng hơn khi tạo ra dư luận xấu đối
với công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra CTR, thậm chí đã có những nhận
định rằng “Việt Nam đang dần trở thành bãi thải phế liệu của nhiều nước”.
Trước thực trạng này, Sở Tài nguyên và Môi trường các địa phương và các
cơ quan liên quan cần siết chặt quản lý các doanh nghiệp nhập khẩu phế
liệu, không cấp Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu về phế liệu khi các
nhà máy luyện thép chưa đáp ứng được các quy định về xử lý chất thải, gây
ô nhiễm môi trường, đồng thời phải tăng cường giám sát các hoạt động xử lý
chất thải của các đơn vị này. Nếu phát hiện vi phạm phải kiên quyết thu hồi
Giấy xác nhận đủ điều kiện nhập khẩu phế liệu, đồng thời thông báo cho Hải
quan không cho phép nhập phế liệu cho đến khi khắc phục, xử lý chất thải
đảm bảo đúng theo quy định.
7.7. ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
7.7.1. Nguồn tài chính đầu tư đa dạng
Trong những năm qua, với mức độ khác nhau, các đô thị, các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh đã có đầu tư cho công tác quản lý CTR. Một số
đô thị đã có những dự án lớn sử dụng nguồn vốn ODA, nguồn vốn ngân sách
để thực hiện các dự án phân loại rác từ nguồn, thu gom và xử lý CTR.
Nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở xử lý CTR và các công trình phụ trợ
được hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, vốn
tài trợ của nước ngoài, vốn vay dài hạn và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham
gia đầu tư, xây dựng cơ sở xử lý CTR, các công trình phụ trợ thông qua các
chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư như: miễn tiền sử dụng đất, hỗ trợ chi phí
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
136
đền bù giải phóng mặt bằng; được hưởng chính sách miễn thuế nhập khẩu
đối với trang thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ cho các dự án đầu tư cơ sở xử

lý CTR; hỗ trợ nghiên cứu và phát triển công nghệ tái chế, tái sử dụng và xử
lý CTR trên cơ sở nguồn lực trong nước `
Ngoài ra, nguồn huy động vốn từ Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam cũng
được kể đến như một nguồn đầu tư quan trọng hỗ trợ cho các dự án về xử
lý chất thải. Tính đến tháng 11/2011, Quỹ BVMT Việt Nam đã cho tổng số
136 dự án về môi trường vay vốn ưu đãi. Trong đó có 15 dự án liên quan
đến lĩnh vực xử lý chất thải công nghiệp của KCN, các cơ sở sản xuất ngoài
KCN, xử lý chất thải sinh hoạt và sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi
trường với tổng vốn cho vay lên tới gần 240 tỷ đồng. Ngoài ra, Quỹ còn tiến
hành cho vay đối với 9 dự án về xã hội hóa thu gom rác thải với số vốn vay
khoảng gần 21 tỷ đồng. Có thể thấy rằng, Quỹ BVMT Việt Nam đã hỗ trợ
khá hiệu quả, góp phần tăng cường cho công tác quản lý CTR. Tuy nhiên,
nguồn vốn từ Quỹ BVMT hiện nay còn gặp một số khó khăn trong việc huy
động các nguồn vốn bổ sung hàng năm. Mặc dù, theo quy định về việc bổ
sung vốn cho vay hàng năm từ các nguồn như: phí BVMT đối với nước thải,
CTR, khai thác khoáng sản; các khoản bồi thường thiệt hại về môi trường,
tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT tuy nhiên, trong thực
tế nhiều năm qua, hoàn toàn không có kinh phí bổ sung từ các nguồn trên.
Một trong những khó khăn nữa đối với việc hỗ trợ các doanh nghiệp khi tiếp
cận nguồn vốn vay từ Quỹ BVMT đó là điều kiện đảm bảo vốn vay. Nguyên
nhân chính là do phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xử
lý chất thải thường có mức lãi thấp, năng lực tài chính không cao hoặc là
doanh nghiệp vừa và nhỏ mới thành lập nên thường khó đáp ứng được yêu
cầu thiết yếu đặt ra ở trên.
7.7.2. Đầu tư tài chính còn thiếu và chưa cân đối
Mặc dù nguồn tài chính đầu tư cho quản lý CTR khá đa dạng, tuy nhiên
vẫn còn thiếu hụt nghiêm trọng và chưa cân đối giữa các lĩnh vực. Cơ cấu
phân bổ ngân sách đang dành hơn 90% cho hoạt động thu gom và vận
chuyển chất thải. Do vậy, chi phí dành cho xử lý, tiêu huỷ chất thải hiện nay
là rất thấp. Mặc dù được xem là một trong những biện pháp giảm thiểu chôn

lấp CTR, nhưng hầu hết các nhà máy ủ rác (một loại hình hoạt động phổ
biến ở Việt Nam) đang gặp khó khăn trong hoạt động. Theo báo cáo, trợ cấp
từ chính quyền địa phương để vận hành các nhà máy ủ rác thấp hơn khoản
trợ cấp dành cho chôn lấp. Nhằm đáp ứng yêu cầu của Chiến lược quốc gia
về quản lý tổng hợp CTR, để giảm thiểu lượng chất thải chôn lấp, các biện
pháp tài chính hỗ trợ việc vận hành nhà máy ủ rác là rất cần thiết.
Một trong những khó khăn mà các doanh nghiệp tư nhân và tổ chức kinh
tế ngoài quốc doanh, hoạt động trong lĩnh vực quản lý CTR đang gặp phải là
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp

vấn đề tài chính đầu tư cho cơ sở hạ tầng xử lý CTR. Trong khi vốn đầu tư cho
việc mua sắm trang thiết bị cũng như cơ sở hạ tầng đối với một cơ sở quản lý
CTR là rất lớn nhưng thời gian thu hồi vốn lại dài, đặc biệt là vấn đề vay vốn
đối với các doanh nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn.
Nhìn chung, các mức phí cho dịch vụ quản lý CTR chiếm chưa đến 0,5%
chi tiêu của các hộ gia đình, đây là mức chấp nhận được đối với nhiều nước
đang phát triển. Tuy nhiên, tổng thu từ các loại phí dịch vụ quản lý CTR ch
đáp ứng được không quá 60% tổng chi phí vận hành, duy tu và bảo dưỡng
hệ thống quản lý. Tại nhiều đô thị, tổng thu từ các loại phí dịch vụ này thậm
chí ch chiếm khoảng 20-30%. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với các đô thị
của các nước trên thế giới. Thực tế hiện nay không có một đô thị nào của Việt
Nam đảm bảo mức thu bù chi. Mặc dù được bao cấp rất lớn từ nguồn ngân
sách trung ương và địa phương, nhưng vẫn chưa có đủ nguồn lực cần thiết,
đặc biệt là cho các hoạt động tiêu hủy CTR, đã dẫn đến tình trạng là các khu
xử lý hiện đang được vận hành và duy tu, bảo dưỡng không đúng kỹ thuật và
không an toàn. Điều này cho thấy, mặc dù ngân sách cho quản lý chất thải
vẫn tăng qua các năm nhưng đầu tư cho hoạt động vận hành còn thiếu là
nguyên nhân đe dọa tính bền vững của các khoản đầu tư.

7.8. HỢP TÁC QUỐC TẾ
7.8.1. Hợp tác quốc tế đã đa dạng nguồn vốn đầu tư
ODA là một trong những nguồn vốn lớn đối với các dự án môi trường tại
Việt Nam nói chung và các dự án quản lý chất thải rắn nói riêng. Nhật Bản
là một trong số các nhà tài trợ chính nguồn vốn ODA trong lĩnh vực quản lý
CTR tại Việt Nam thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA). Ngân
hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) với tư cách là
các nhà tài trợ cũng đóng vai trò quan trọng đối với các dự án quản lý CTR
tại Việt Nam. Song song với đó, các dự án, chương trình về quản lý CTR của
Việt Nam cũng tiếp nhận các nguồn tài trợ song phương từ các quốc gia khác
như: Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Tây Ban Nha, Canada, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, v.v
Các dự án liên quan đến quản lý CTR được tài trợ đã và đang thực hiện tại
Việt Nam khá đa dạng, bao gồm các dự án quy hoạch và cải thiện môi trường
đô thị; xây dựng các chiến lược, kế hoạch về CTR; kiểm soát ô nhiễm & quản
lý CTR tại các đô thị; cung cấp thiết bị xử lý CTR (Bảng 7.3).
7.8.2. Hợp tác quốc tế chưa phát huy được vai trò và hiệu quả
Mặc dù nguồn vốn từ các dự án, chương trình hợp tác quốc tế khá lớn và
đa dạng, tuy nhiên không phải lúc nào cũng thực sự phát huy hiệu quả. Một
số dự án đầu tư về thiết bị và công nghệ xử lý CTR chưa hiện đại hoặc chưa
phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
138
Một vấn đề còn bỏ ngỏ hiện nay
đó là các chương trình hợp tác quốc
tế chưa quan tâm đầu tư đối với lĩnh
vực quản lý và xử lý CTNH, mặc dù
đây là hướng đầu tư công nghệ cao,
cần có nguồn vốn quốc tế.
Tính bền vững và hiệu quả của

các dự án, chương trình hợp tác
quốc tế về môi trường nói chung và
quản lý CTR nói riêng cũng là vấn
đề cần quan tâm. Rất nhiều dự án,
chương trình khi hết nguồn kinh phí
tài trợ cũng đồng nghĩa với việc kết
thúc các hoạt động duy trì kết quả.
Phần lớn kết quả thu được từ các dự
án, chương trình mới ch dừng lại
ở mức độ thử nghiệm, phạm vi ứng
dụng nhỏ, chưa trở thành động lực
để có thể tiếp tục duy trì, phát triển
và nhân rộng.
7.9. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC
PHỤC
7.9.1. Hoàn thiện thể chế, chính
sách và tăng cường hiệu lực tổ chức
giám sát và cưỡng chế
Rà soát đánh giá hiệu lực, hiệu
quả của hệ thống chính sách, pháp
luật trong công tác quản lý CTR, từ đó
đề xuất bổ sung hoàn thiện, đảm bảo
cho hệ thống này được hoàn chnh,
thống nhất và đồng bộ.
Đánh giá tổng thể, rút kinh nghiệm
thực hiện các chiến lược, quy hoạch
về quản lý CTR trong giai đoạn vừa
qua, từ đó xây dựng, điều chnh hệ
thống chiến lược, chính sách làm cơ
sở định hướng triển khai cho các cấp

Trung ương và địa phương.
Bảng 7.3 . Các dự án ODA có liên quan đến
lĩnh vực quản lý CTR đô thị của Việt Nam
Nhà
tài trợ
Dự án/chương trình Cơ quan thực hiện
Nhật Bản
Dự án nghiên cứu cải thiện môi trường
tại Hà Nội
UBND Hà Nội
Dự án cung cấp thiết bị quản lý chất thải
tại Hà Nội
UBND Hà Nội
Dự án hỗ trợ cho sáng kiến 3R tại Hà Nội UBND Hà Nội
Chương trình phát triển đô thị toàn diện
tại Hà Nội (bao gồm quản lý chất thải rắn)
UBND Hà Nội
Nghiên cứu về quy hoạch cải thiện vệ
sinh của Tp. Hải Phòng
UBND Hải phòng
Dự án cải thiện môi trường tại Tp. Hải
Phòng (I)
UBND
Hải phòng
Dự án cải thiện môi trường tại Tp. Hải
Phòng (II)
UBND Hải phòng
Chương trình cho nhân viên tập sự từ
thành phố Shizuoka tại Tp. Huế
UBND Tp. Huế

Nghiên cứu chiến lược phát triển tổng
hợp cho Tp. Đà Nẵng và khu vực phụ cận
UBND Tp. Đà Nẵng
Ngân hàng
Thế giới
Chiến lược quản lý CTR và Kế hoạch
hành động cho Hạ Long/Cẩm Phả và
Hải Phòng
UBND Hải Phòng;
Quảng Ninh
Xử lý nước thải và CTR tại miến Bắc
-
Nước thải và vệ sinh môi trường tại Tp.
Đà Nẵng
UBND Đà Nẵng
Nước thải và vệ sinh môi trường tại Tp.
Hải Phòng
UBND Hải Phòng
ADB
Cải thiện môi trường tại Tp. Hồ Chí Minh
UBND Tp. HCM
Thuỵ Điển/
SIDA
Tăng cường kiểm soát ô nhiễm và quản
lý CTR tại khu đô thị và KCN
N/A
Canada/
CIDA
Dự án môi trường Việt Nam - Canada
(Giai đoạn 2)

MONRE
Dự án kinh tế rác thải (WasteEcon)
MOSTE
Thuỵ Sĩ/
SDC
Phát triển đô thị tại Huế
UBND Thừa Thiên
Huế
USA/
USAID
Xã hội hoá công tác quản lý chất thải rắn
tại Tp. Hồ Chí Minh
US-AEP, iCMA, TAF
Tây Ban
Nha
Nhà máy chế biến rác Cầu Diễn URENCO Hà Nội
Hàn Quốc/
KOICA
Quản lý và xử lý chất thải rẵn tại Tp.
Hải Phòng
URENCO Hải Phòng
139
Chương 7:
Quản lý chất thải rắn:
Hiện trạng, tồn tại và giải pháp
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản
quy phạm pháp luật có liên quan đến CTR,
sửa đổi các quy định về chức năng nhiệm
vụ, phân công trách nhiệm của các cơ quan
tham gia công tác quản lý CTR từ cấp Trung

ương đến cấp địa phương; bổ sung các quy
định về quản lý chất thải, phế liệu, sản phẩm
thải bỏ; quy định, hướng dẫn về phân loại,
thu gom, vận chuyển và xử lý CTR bằng các
công nghệ xử lý phù hợp, có hiệu quả và hạn
chế chôn lấp.
Xây dựng các quy định cụ thể nhằm
khuyến khích áp dụng hệ thống quản lý môi
trường (ISO 14000); kiểm toán môi trường đối
với CTR; các quy định hướng dẫn sử dụng cô-
ta phát thải và hình thành thị trường chuyển
nhượng cô-ta phát thải.
Tiếp tục rà soát, xây dựng hoàn thiện hệ
thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia quy định đối với CTR và CTNH.
Ngoài ra, cần có các chính sách, văn bản
quy phạm pháp luật quy định đối với việc
xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về CTR cấp
quốc gia và địa phương, kịp thời cập nhật
và tổng hợp các dữ liệu có liên quan, phục
vụ tốt cho công tác đánh giá diễn biến, hiện
trạng CTR và đề xuất các giải pháp quản lý
phù hợp.
7.9.2. Tăng cường bộ máy quản lý, xóa bỏ
chồng chéo trong phân công, phân nhiệm
Việc điều chnh nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của các cơ quan có liên quan
trong công tác quản lý CTR phải bảo đảm
tính hợp lý, thống nhất đầu mối quản lý CTR
cấp quốc gia và cấp địa phương, tránh phân

tán, chồng chéo và bỏ sót.
Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp
chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2050 là một trong những cơ sở pháp lý cho
Loại hỗ trợ Giai đoạn
Vốn
(triệu USD)
DS 07/1998 -05/2000 Không có thông tin
GA 01/2002 - 08/2003 9.0
(*)
TC 11/2006 -11/2009
Không có thông tin
DS 12/2004 -05/2006
Không có thông tin
DS 05/2000 - 06/2001 Không có thông tin
LA 04/2005 - 12/2011 15.2
(*)
LA 03/2009 - 09/2013 213.1
(*)
GTC 04/2006 - 03/2009 Không có thông tin
DS 06/2008 - 11/2009 Không có thông tin
- - 0.65
- - 8.69
LA 1999-2004 33.83
LA 1999-2005 41
LA &GA 2000-2006
64.75 (LA)
1.80 (GA)
GA 1996-1997 0.31
GA 2000-2005 11.5

GA 2000-2004 n/a
GA 1996 -1999 5.07
GA 2002-2003 0.14
LA 1998 - 2000 4.00
LA 2003 - 2009 19.61
Chú thích: DS - Nghiên cứu phát triển GA - Viện trợ không hoàn lại
LA - Vốn vay ưu đãi GTC - Hợp tác kỹ thuật ở cấp cơ sở
(*) 100 triệu VNĐ
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ TN&MT, 2010.

×