Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO THU NHẬP CHO hộ NÔNG dân HUYỆN QUẾ võ TỈNH bắc NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.53 KB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ PHẤN
GIẢI PHÁP NÂNG CAO THU NHẬP CHO HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN QUẾ VÕ - TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ PHẤN
GIẢI PHÁP NÂNG CAO THU NHẬP CHO HỘ NÔNG DÂN
HUYỆN QUẾ VÕ - TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ : 60.34.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. CHU THỊ KIM LOAN
HÀ NỘI, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, các số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận
văn là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ bất kỳ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Phấn
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban
giám hiệu trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội nay là Học viện Nông nghiệp


Việt Nam, khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh; cảm ơn các thầy, cô giáo đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.
Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS Chu Thị Kim
Loan - người đã dành nhiều thời gian, tạo điều kiện thuận lợi, hướng dẫn về
phương pháp khoa học và cách thức thực hiện các nội dung của đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, người thân, cơ quan, bạn bè đồng
nghiệp và các anh chị em học viên lớp Quản trị kinh doanh E – K21 đã chia sẻ, động
viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn
này.
Trong quá trình làm nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn
thành luận văn, đã tham khảo nhiều tài liệu và đã trao đổi, tiếp thu ý kiến của
thầy, cô và bạn bè. Song, do điều kiện về thời gian và trình độ nghiên cứu của
bản thân còn nhiều hạn chế nên nghiên cứu khó tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, tôi rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của thầy, cô và các
bạn để luận văn được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 10 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phấn
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
PHẦN I 3
MỞ ĐẦU 3
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 4
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 31
3.2.1.Phương pháp thu thập số liệu 44
b. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thúc đẩy phát triển nông nghiệp, tiểu

thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ 96
c.Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 97
d.Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ khuyến nông cơ sở và ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật 99
e.Mở rộng thị trường 100
f.Hoàn thiện bộ máy tổ chức, quản lý 101
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn quá trình sản xuất nông nghiệp của nước ta trải qua hàng ngàn
năm sản xuất theo kinh nghiệm, tuy có những bước tiến quan trọng, nhưng về
căn bản vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, kĩ thuật lạc hậu mang nặng tính độc canh, tự
cung, tự cấp là chính.
Những năm gần đây, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có sự phát triển
vượt bậc, đạt được những thành tựu đáng khích lệ với năng suất và sản lượng
ngày càng tăng. Có sự chuyển biến tích cực đó là nhờ vào sự đổi mới chính sách
kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước đó là quyết định tiến hành công cuộc
đổi mới chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Nhất là từ khi có Chỉ thị 100
của Ban bí thư Trung ương Đảng (1981) về “cải cách công tác khoán, mở rộng
khoán sản phẩm đến người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp”, đặc biệt
Nghị quyết 10 của Bộ chính trị Trung ương Đảng (1988) về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp”. Với Nghị quyết này hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh
tế tự chủ góp phần quan trọng vào sự phát triển của nông nghiệp nước ta trong
những năm qua.
3
Tuy nhiên bên cạnh mặt đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn. Đây là
tất yếu khách quan. Đó là nền kinh tế hàng hoá đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo
ngày càng sâu sắc, vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa
các vùng, giữa thành thị và nông thôn ngày một rõ. Hiện nay, hơn 70% dân số

nước ta ở nông thôn. Đây là nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được sử dụng
hợp lý, tuy nhiên nó cũng là một thách thức về vấn đề giải quyết việc làm tạo
thu nhập cho người lao động. Bởi vì hiện nay ruộng đất có hạn mà dân số ngày
càng tăng lên. Do vậy việc duy trì thu nhập đã khó nâng cao, thu nhập cho hộ
nông dân lại càng khó hơn bởi nông thôn thì sản suất nông nghiệp vẫn còn là
chủ yếu.
Quế Võ là một huyện của tỉnh Bắc Ninh, có lợi thế trong giao lưu phát triển
kinh tế. Nhìn chung, so với nhiều địa phương khác, mặt bằng kinh tế hộ của
huyện không phải là quá thấp. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được
hiện nay, mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong kinh tế hộ qua nhiều năm cũng đã bộc lộ
gay gắt thể hiện thông qua: thất nghiệp gia tăng, năng suất lao động thấp, phân
hoá giàu nghèo một cách sâu sắc thu nhập của nông hộ không ổn đinh…
Chính vì vậy, giải quyết vấn đề thu nhập cho hộ nông dân nói chung và cư
dân huyện Quế Võ nói riêng là yêu cầu cần thiết và cần có sự quan tâm đúng
mức của các cấp, các ngành, các đoàn thể.
Với lý do nêu trên, để góp phần thúc đẩy kinh tế hộ của huyện Quế Võ
phát triển, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn nghiên cứu đề tài: “ Giải pháp nâng
cao thu nhập cho hộ nông dân huyện Quế Võ - Tỉnh Bắc Ninh ”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng thu nhập của hộ nông dân ở huyện Quế Võ, tìm ra
những yếu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng tới thu nhập của nông hộ từ đó
đề xuất giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nông dân huyện Quế Võ tỉnh
Bắc Ninh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
4
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về nông hộ và nâng
cao thu nhập của nông hộ.
- Đánh giá thực trạng thu nhập của hộ nông dân huyện Quế Võ, phân tích
các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân ở Quế Võ

- Đề xuất một số giải pháp để nâng cao thu nhập cho hộ nông dân huyện
Quế Võ tỉnh Bắc Ninh
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Khái niệm về hộ, hộ nông dân?
- Phương pháp tính thu nhập của hộ nông dân?
- Các yếu tố nào ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân?
- Kinh nghiệm nâng cao thu nhập của hộ nông dân của 1 số quốc gia là gì?
Tình trạng thu nhập của các hộ dân trên địa bàn nghiên cứu?
- Đặc điểm nhân khẩu, lao động, tiền vốn, đất đai của hộ nông dân trên
địa bàn nghiên cứu như thế nào?
- Tổng thu, chi phí sản xuất và thu nhập của nhóm hộ điều tra trên địa bàn
nghiên cứu như thế nào?
- Những nhân tố chính ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân điều tra
là gì?
- Các giải pháp nào để nâng cao thu nhập cho hộ nông dân huyện Quế Võ
tỉnh Bắc Ninh?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là thu nhập của nông hộ trên địa bàn huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh. Đối tượng khảo sát của đề tài là các hộ nông dân thông qua điều
tra, phỏng vấn để thấy được thực trạng về thu nhập của các hộ nông dân trong
huyện, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các
nông hộ trong điều kiện hiện nay.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1. Phạm vi về thời gian
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2013 – tháng 10/ 2014.
5
- Số liệu sử dụng trong luận văn từ năm 2011 – 2013, số liệu điều tra được
thực hiện ở năm 2013.
1.4.2.2. Phạm vi về không gian

Địa bàn nghiên cứu là huyện Quế Võ – Tỉnh Bắc Ninh
1.4.2.3. Phạm vị nội dung
Do điều kiện về thời gian cũng như kiến thức có hạn, đề tài chỉ đi sâu tập
trung nghiên cứu thực trạng thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng tới thu nhập của
hộ, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nông
dân huyện Quế Võ – Tỉnh Bắc Ninh.
6
PHÂN II
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Khái niệm về hộ
Xoay quanh vấn đề về hộ vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như:
- Tại hội thảo về quản lý nông trại tại Hà Lan năm 1980, trên quan điểm
sản xuất đến các đại biểu thống nhất cho rằng: “Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội
có liên quan tới sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội
khác”.
- Về phương diện thống kê, Liên Hợp Quốc cho rằng: “Hộ là những người
sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung ngân quỹ”.
Khi nghiên cứu quá trình đô thị hoá Châu á, GS.MC.GEE (1989) nguyên
giám đốc học viện Châu á thuộc đại học Colombia - Hoa Kỳ có quan điểm thiên
về thu nhập. Theo ông, thành viên của hộ không nhất thiết phải là sống chung
dưới một mái nhà miễn là họ có đóng góp vào ngân quỹ chung.
Dưới góc độ nhân chủng học, RAUL (1989) khẳng định: “Hộ là tập hợp
những người chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng
tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính mình”.
Một số học giả khác như: MEGE (1989); Nguyễn Văn Huân; Mai Văn Vũ
(1990) Qua nghiên cứu thực tế đã khẳng định các thành viên của hộ không nhất
thiết có chung huyết tộc.
Trên thực tế, cũng có sự thống nhất về khái niệm hộ, song với các ý kiến

nêu trên, khái niệm hộ được khái quát như sau: “Hộ là nhóm người chung huyết
tộc hoặc không chung huyết tộc, họ không nhất thiết cùng sống chung dưới một
mái nhà nhưng có chung nguồn thu nhập và ăn chung. Các thành viên của hộ
cũng tiến hành các hoạt động sản xuất và có cùng chung ngân quỹ”.
7
“Ăn chung” được hiểu theo nghĩa là các thành viên trong hộ được phân
phối bởi nguồn thu nhập chung, cái mà họ đã cùng sáng tạo ra trong một khoảng
thời gian nhất định.
Theo GS. Đào Thế Tuấn (1996): “Hộ là một nhóm người cùng chung huyết
tộc sống chung hay không sống chung với những người khác huyết tộc trong
cùng một mái nhà. Ăn chung và có chung ngân quỹ, có phân phối chung nguồn
thu nhập mà các thành viên của họ sáng tạo ra”.
2.1.1.2. Khái niệm hộ nông dân
Theo GS .Đào Thế Tuấn (1996): “Hộ nông dân là những người có phương
tiện kiếm sống từ ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình cho sản xuất,
luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi
sự tham gia từng thành phần vào thị trường với mức độ hoàn hảo không cao”.
Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá đang và sẽ còn tiếp tục diễn ra làm
thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ đó hoạt động kinh tế của nông hộ cũng có
những biến đổi sâu sắc. Xã hội chắc chắn sẽ xuất hiện những nông hộ vì lý do
nào đó không có đất canh tác mà phải đi làm thuê tạo thu nhập. Cũng có hộ
chuyển sang nghề khác và cho thuê đất sản xuất của mình theo kiểu “Phát canh
thu tô”. Tất cả những hộ này đều được coi là hộ nông dân. Ngược lại, những hộ
không kinh doanh kiếm lợi từ ruộng đất mà hoạt động kinh tế trong lĩnh vực
ngành nghề phi nông nghiệp tuy sống ở nông thôn nhưng không được coi là hộ
nông dân.
2.1.1.3. Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân là tổ chức cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó các
nguồn lực như: đất đai, lao động, nguồn vốn và các tư liệu sản xuất khác của
nông hộ là nguồn lực chung để tiến hành sản xuất.

Theo quan điểm của Macxit: “Kinh tế nông dân là một đơn vị kinh tế luôn
nằm trong một hệ thống kinh tế rộng lớn, tham gia từng phần vào đơn vị sản
xuất của nông hộ tự nó chưa bao giờ là một phương thức sản xuất. Hộ không
thuê lao động hoặc thuê lao động với tỷ lệ thấp để đảm bảo với thời vụ nên
8
không tính tiền lương và không tính được lợi nhuận. Nông hộ chỉ có thu nhập
chung của các hoạt động kinh tế, đó là sản lượng thu được hàng năm của hộ trừ đi
chi phí mà đã bỏ ra phục vụ sản xuất. Hộ là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền
sản xuất xã hội, được nhà nước thừa nhận hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển.
Như vậy, kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức cơ sở của nền sản xuất
xã hội, trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất
được coi là của chung để tiến hành sản xuất, có chung ngân quỹ, ngủ chung dưới
một nhà, ăn chung. Mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy
thuộc vào chủ hộ, được nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển.
2.1.2. Thu nhập của hộ nông dân
2.1.2.1. Khái niệm về thu nhập
Thu nhập là một trong những phương tiện giúp con người định hướng giải
quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về hộ nông
dân, nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm đến thu nhập của hộ nông
dân. Song do được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau cho nên thu nhập hộ nông
dân cúng được nhìn nhận và khái niệm khác nhau
Quan điểm của Traianop về thu nhập của hộ nông dân trong điều kiện không
tồn tại thị trường sức lao động. Theo ông, thu nhập hộ nông dân không giống thu
nhập của các xí nghiệp tư bản. Thu nhập trong nông hộ không chỉ có tiền lãi kinh
doanh mà bao gồm toàn bộ giá trị lao động. Như vậy, thu nhập của hộ nông dân là
phần còn lại sau khi lấy giá trị sản xuất trừ đi tổng chi phí vật chất.
Quan điểm của Barnum và Squire về thu nhập của hộ nông dân trong điều
kiện tồn tạo thị trường sức lao động. Theo các ông, trong điều kiện tồn tại thị
trường sức lao động thì thời gian lao động được phân chia thành: LĐ nghỉ ngơi,

thời gian lao động làm việc nhà, thời gian làm SXNN và thời gian làm việc có
tiền công (bao gồm lao động làm thuê ngoài và LĐ đi làm thuê). Từ đó, các ông
khái niệm thu nhập của hộ nông dân như sau: Thu nhập của hộ nông dân được
tính bằng giá trị sản phẩm sau khi đã trừ đi các phần: Phần sản phẩm hộ tiêu
9
dùng, giá trị công lao động thuê ngoài, chi phí đầu vào cho sản xuất và cộng giá
trị tiền lao động đi làm thuê. Song ở đây, các ông lại tính số tiền giống nhau,
điều này không đúng. Sau đó, khái niệm này được Allanlow nghiên cứu và bổ
sung thêm với điều kiện tiền công khác nhau cho các loại lao động, giá cả các
sản phẩm cũng khác nhau.
Để đi sâu vào nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về hộ nông dân, nhiều
nhà khoa học và nghiên cứu kinh tế ở việt Nam đã sử dụng chỉ tiêu hỗn hợp để
đánh giá thu nhập của nông dân. Thu nhập hỗn hợp của hộ nông dân là phần thu
được sau khi lấy tổng thu (tức là toàn bộ giá trị sản phẩm từ các hoạt động sản
xuất trong nông hộ) trừ đi chi phí vật chất, trừ đi tiền công thuê ngoài và trừ chi
phí khác (bao gồm thuế, khấu hao tài sản cố định ). Như vậy trong phần thu
nhập của hộ sẽ bao hàm tiền công lao động của chủ hộ, tiền công lao động của
các thành viên và lãi kinh doanh.
Xuất phát từ các quan điểm trên và đặc trưng về hộ nông dân ở Việt Nam
chúng tôi tổng quát về thu nhập của hộ nông dân như sau: Thu nhập của một hộ
nông dân được hiểu là phần giá trị sản xuất tăng thêm mà hộ được hưởng để bù
đắp cho thù lao lao động của gia đình, cho tích lũy và tái sản xuất mở rộng nếu
có. Thu nhập của hộ phụ thuộc vào kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh
mà hộ thực hiện. Có thể phân thu nhập của hộ thành 3 loại: Thu nhập từ nông
nghiệp, thu nhập từ phi nông nghiệp và thu khác.
- Thu nhập nông nghiệp: Bao gồm thu nhập từ các hoạt động sản xuất trong
nông nghiệp (gồm cả nghề rừng và nghề cá theo nghĩa rộng) như: Trồng trọt
(lúa, màu, rau, quả ); từ chăn nuôi (gia cầm, gia súc ), nuôi trồng thủy sản
( tôm, cua, cá )
Thu nhập phi nông nghiệp: Là thu nhập được tạo ra từ các hoạt động ngành

nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, bao gồm các ngành nghề chế biến,
sản xuất vật liệu xây dựng, gia công cơ khí Ngoài ra thu nhập phi nông nghiệp
còn được tạo ra từ các hoạt động thương mại dịch vụ (TMDV) như buôn bán,
thu gom
10
Thu nhập khác: Đó là các nguồn thu nhập từ các hoạt động làm thuê từ các
nguồn trợ cấp xã hội hoặc các nguồn thu nhập bất thường khác.
2.1.2.2. Nội dung và phương pháp tính tổng thu nhập của hộ nông dân
a. Nội dung
Tổng thu của hộ nông dân được tạo nên từ sự đóng góp bằng tiền họăc hiện
vật của các bộ phận riêng lẻ nhưng được kết hợp ăn ý với nhau từ các thành
viên trong nông hộ. Có nghĩa rằng tổng thu của hộ nông dân có được từ hoạt
đông sản xuất khác nhau trong nông hộ do các thành viên cùng chung gánh vác
tạo ra. Một số khác cho rằng việc kiếm được từ các công việc khác ngoài nông
hộ như làm thuê, lương hưu, trợ cấp cũng làm tăng nguồn thu nhập cho hộ.
Như vậy, tổng thu nhập của hộ có được từ ba nguồn chính là thu từ hoạt động
SXNN, thu từ hoạt động phi nông nghiệp và thu từ các khoản thu nhập khác.
Sản xuất nông nghiệp trong nông hộ là các hoạt động sản xuất trong nông
nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp, hoạt
động phi nông nghiệp là các hoạt động như tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp,
kinh doanh thương mại và dịch vụ. Thu nhập của hai hoạt động này bao gồm số
tiền bán được của các sản phẩm và giá trị của những sản phẩm mà nông hộ tự
sản xuất tự tiêu dùng.
Phần bán được: Đó là khoản tiền thu được hay sẽ thu được từ việc bán sản
phẩm. Sản phẩm đó gồm sản phẩm chính và sản phẩm phụ của các ngành sản
xuất trong nông hộ.
Sản phẩm chính là toàn bộ sản xuất ra để phục vụ trực tiếp đến đời sống
của con người, nó là toàn bộ sản phẩm thu được thuộc sản xuất chính của quá
trình sản xuất kinh doanh như thóc. Còn sản phẩm phụ là toàn bộ sản phẩm thu
được thuộc mục đích phụ của quá trình sản xuất như rởm rạ

Thu ngoài hoạt động SXNN là các khoản thu thực tế của nông hộ có thể
bằng tiền có thể bằng hiện vật. Phần thu này có được từ các thành viên trong hộ
tham gia vào các hoạt động sản xuất khác ngoài nông hộ như làm trong các nhà
máy, xí nghiệp, đi xuất khẩu lao động hay làm cho các hộ nông dân khác có tiền
11
đóng góp vào ngân quỹ chung của hộ nông dân. Nguồn thu này còn có được từ
các tổ chức hay cá nhân như quà biếu, cho tặng, lương hưu, trợ cấp, lãi suất cho
vay ,
b. Phương pháp tính tổng thu nhập cho hộ nông dân
* Tính tổng thu
Thu từ hoạt động sản xuất nông hộ bằng tổng thu ngành nông nghiệp và
ngành phi nông nghiệp, song mỗi hoạt động khác nhau có cách tính khác nhau.
Đối với hoạt động NN, trước hết là sản xuất trồng trọt, do sản xuất trồng
trọt mang tính thời vụ nên tổng thu được tính theo thời vụ. Tổng thu từ sản xuất
mùa vụ bao gồm thóc, ngô, khoai, sắn Đó là toàn bộ giá trị sản phẩm được
bán, giá trị sản phẩm mà hộ tiêu dùng trong gia đình, làm thức ăn chăn nuôi
giống, cây trồng, vật nuôi, phân bón cụ thể được tính như sau:
Thu từ SXNN = số lượng sản phẩm chính (phụ) x giá bán
Thu từ chăn nuôi = Số lượng sản phẩm chính (phụ) x giá bán
Thu từ hoạt động phi nông nghiệp =( số lượng hàng hóa x giá bán)
Thu nhập khác = Tổng các khoản thu thực tế khác trong năm
* Tính tổng chi phí
Chi phí (CP) sản xuất thể hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật các yếu tố sản
xuất được đưa vào một hoặc nhiều quá trình sản xuất. Thực chất, chi phí sản
xuất bao gồm phần chi phí tự có của hộ (phần không phải trả) và toàn bộ phần
phải chi khác (phần phải trả) để có thể tạo ra một lượng sản phẩm tương ứng với
một thời kỳ một năm.
Tổng chi phí SX = CP biến đổi + CP cố định
* Tính thu nhập
Thu nhập (TN) của hộ nông dân là phần còn lại sau khi đã trừ đi hết chi phí

sản xuất. Như vậy, thu nhập của hộ nông dân bao gồm lợi nhuận kinh doanh,
tiền công của chủ hộ và các thành viên trong hộ, phần chi phí tự sản xuất không
trao đổi trên thị trường và các khoản thu từ hoạt động ngoài nông hộ. Một phần
12
thu nhập sẽ được hộ sử dụng vào chi tiêu đời sống, sinh hoạt, một phần dùng để
đầu tư cho quá trình SX tiếp theo hay gửi tiết kiệm.
Phương pháp tính thu nhập
TN của hộ = Tổng thu của hộ - Tổng chi phí sx
Tổng TN của hộ = TN từ hoạt động SXNN + TN từ phi NN + TN khác
2.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân
Trong SXNN, kinh tế hộ nông dân chịu sự tác động bởi các nhóm yếu tố
chủ quan và khách quan. Các nhân tố này tác động đến thu nhập của hộ nông
thông qua hai bộ phận chính của thu nhập là tổng thu và chi phí. Do đó, các yếu
tố ảnh hưởng đến hai thành phần này sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông
dân. Có nghĩa là một yếu tố nào đó làm thay đổi một trong hai thành phần này
cũng làm thay đổi thu nhập của hộ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến tổng thu và tổng chi phí trên còn có quan hệ với
nhau, có những yếu tố ảnh hưởng đến tổng thu vừa ảnh hưởng đến tổng chi phí,
vì vậy chúng tôi chia các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nông dân như
sau:
2.1.3.1 Các yếu tố khách quan
a. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến thu nhập
Những nhân tố về điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến mảnh đất
mà người nông dân canh tác như: Thời tiết, khí hậu. Do đối tượng của SXNN là
sinh vật sống nên quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng vật nuôi chịu
ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại cảnh.
b. Ảnh hưởng của quy mô, chất lượng đất đai đến thu nhập
Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong sản xuất nông
nghiệp. Để phát triển kinh tế hộ nông dân, trước hết phải dựa vào đất, nhất là
những nơi có tiềm năng về đất đai có thể lập trang trại, chuyển sang sản xuất

hàng hóa (SXHH) thì mới có cơ hội để phát triển kinh tế nông hộ. Đối với tài
nguyên đất đai, cần chú ý đến hai yếu tố đó là diện tích và độ màu mỡ làm giảm
chi phí sản xuất và tăng năng suất.
13
Quy mô diện tích là nhân tố quan trọng để xác định mức thu nhập từ sản
xuất mà hộ khai thác được. Nếu hộ nào có điều kiện sản xuất trên quy mô rộng
thì việc tăng quy mô diện tích sẽ phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hóa, trang trại. Ngược lại nếu hộ nào không đủ điều kiện, không có khả
năng sản xuất kinh doanh thì quy mô diện tích rộng sẽ không những không làm
tăng thu nhập mà còn làm tăng chi phí sản xuất, lãng phí đất đai, lãng phí sức
lao động
Chất lượng đất đai thể hiện ở độ phì, độ mầu mỡ của đất. Độ phì, độ mầu
mỡ của đất là chất dinh dưỡng cho cây trồng tồn tại và phát triển. Chất lượng
của đất còn quy định lợi thế của từng vùng, tạo ra sự đa dạng của sản phẩm chất
lượng đất không những làm tăng khối lượng sản phẩm mà còn làm giảm được
chi phí sản xuất.
c. Ảnh hưởng của yếu tố thị trường
Nói đến thị trường là nói đến nhu cầu của xã hội đối với nông sản phẩm và
giá cả của các yếu tôt đầu vào. Trong cơ chế thị trường, các hộ nông dân hoàn
toàn tự lựa chọn sản xuất những sản phẩm mà họ có khả năng và chi phí cơ hội
thấp. Đối với từng hộ nông dân, để đáp ứng nhu cầu của thị trường nông sản, họ
có xu hướng liên kết, hợp tác sản xuất với nhau. Thị trường là nơi mà giá cả của
các yếu tố đầu vào và đầu ra trong sản xuất được hình thành, nên thị trường có
ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của hộ người dân.
d. Ảnh hưởng của nhân tố về phong tục tập quán .
Ở mỗi vùng điều kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội khác nhau, đặc biệt yêu
cầu thích nghi của các cây trồng, vật nuôi cũng khác nhau ở mỗi vùng sinh thái,
đòi hỏi phải có những kỹ thuật canh tác và nuôi trồng phù hợp với điều kiện
từng vùng. Ngoài ra mỗi vùng mỗi địa phương còn có những ngành nghề truyền
thống khác nhau quan niệm về kinh doanh TMDV khác nhau.

e. Ảnh hưởng của chính sách Nhà nước
Chính sách nhà nước bao gồm các chính sách thuế, chính sách đất đai,
chính sách tín dụng, chính sách khuyến nông, chính sách bảo hộ sản phẩm,
14
chính sách trợ giá, chính sach giải quyết việc làm, chính sách trợ cấp mỗi
chính sách ban hành đều có tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ
dù lớn hay nhỏ. Nếu chính sách đúng sẽ tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho
một bộ phận lớn dân cư mà đặc biệt là chính sách về kinh tế nông nghiệp nông
thôn, là môi trường thuận lợi để nông dân phát triển sản xuất theo hướng hàng
hóa với quy mô lớn.
2.1.3.1 Các yếu tố chủ quan
a. Ảnh hưởng của lao động và nhân khẩu đến thu nhập
Quy mô lao động thể hiện ở mức độ đầu tư lao động vào một công việc cụ
thể. Nếu đầu tư sức lao động cao sẽ cho sản lượng cao hơn và thu nhập hơn và
ngược lại. Khi đánh giá vấn đề nhân khẩu, chúng ta phải đánh giá tỷ số giữa số
lượng lao động và số lượng nhân khẩu. Khi tỷ số giữa số lượng lao động trên số
nhân khẩu thấp nghĩa là tỷ lệ phụ thuộc cao, điều này ngây bất lợi cho hộ nó
làm cho những hộ nghèo ngày càng nghèo thêm.
Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ học vấn, kỹ năng lao động, khả
năng tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất. Đặc biệt đối
với chủ hộ vì họ là người cuối cùng ra quyết định lựa chọn phương án sản xuất,
những quyết định của chủ hộ ảnh hưởng trực tiếp đến thành công hay thất bại
của hộ trong sản xuất kinh doanh.
b. Ảnh hưởng của quy mô vốn đến thu nhập
Vốn là một yếu tố quan trọng không thể thiếu được đến tiến hành tổ chức
sản xuất kinh doanh, nó bao gồm tiền mặt, nguyên liệu và công cụ sản xuất. Có
vốn, có thể mở rộng quy mô. chuyển dần sang SXNN, có vốn thì có thể mua
sắm trang thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất làm giảm chi phí góp phần nâng
cao thu nhập cho hộ nông dân.
c. Ảnh hưởng của yếu tố khoa học kỹ thuật

Sản xuất của hộ nông dân không thể tách rời những tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ vì nó tạo ra sản phẩm năng suất cao và chất lượng tốt. Cải
tiến kỹ thuật là tăng khối lượng và chất lượng hàng hóa và giảm được chi phí,
15
cải tiến kỹ thuật cho phép mở rộng quy mô sản xuất, tăng khối lượng hàng hóa
và tăng thu nhập cho hộ nông dân.
d. Ảnh hưởng của trình độ tổ chức, quản lý đến thu nhập
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của hộ nông dân, việc lựa
chọn phương án sản xuất và cách bố trí sản xuất phù hợp với nguồn lực hiện có
vai trò quyết định đến thu nhập của hộ nông dân. Yếu tố này phụ thuộc vào trình
độ văn hóa, kinh nghiệm sản xuất và nhạy bén với thị trường của chủ hộ.
e. Ảnh hưởng của các khoản thu khác đến thu nhập
Các khoản thu khác của hộ nông dân chịu ảnh hưởng của các yếu tố như số
người được hưởng trợ cấp, số người hưởng hưu, số người đi làm việc ở công ty,
xí nghiệp số người đi xuất khẩu lao động trong đó trình độ của số người đi
làm ở nước ngoài thể hiện ở số tiền mà lao động nhận được trong một đơn vị
thời gian. Thu nhập của những hoạt động này thể hiện ở số tiền đóng góp vào
ngân sách của hộ, khoản thu này tuy không lớn so với thành thị nhưng có ảnh
hưởng lớn đến thu nhập của hộ nông dân ở nông thôn.
2.1.3. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân có 6 đặc trưng cơ bản là:
Thứ nhất: Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản
lý và sử dụng các yếu tố sản xuất. Bởi vì sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung,
mọi thành viên đều có thể sử dụng và tự quản lý các yếu tố sản xuất như vốn,
đất đai để tạo ra của cải đóng góp vào ngân quỹ chung của nông hộ.
Thứ hai: Lao động quản lý và lao động trực tiếp có sự gắn bó chặt chẽ với
nhau và được chi phối bởi quan hệ huyết thống. Thông thường chủ hộ thường là
người quản lý, điều hành và trực tiếp tham gia sản xuất. Với đặc điểm này, việc
tổ chức sản xuất trong nông hộ diễn ra tương đối linh hoạt và thống nhất, cơ cấu
tổ chức rất đơn giản.

Thứ ba: Quy mô sản xuất nhỏ, hơn nữa các nguồn lực có thể được huy
động hay thu hồi dễ dàng nên các nông hộ hoàn toàn có khẳ năng thích nghi và tự
điều chỉnh tốt. Gặp điều kiện thuận lợi, nông hộ có thể phát huy tối đa nguồn lực
16
cho sản xuất ngay cả khi giảm khẩu phần ăn tất yếu của mình. Trong hoàn cảnh bất
lợi, sản xuất được thu hẹp, thậm chí có thể quay về với sản xuất giản đơn.
Thứ tư: Quan hệ huyết thống, họ tộc, văn hoá và đặc biệt là lợi ích kinh tế
chung của các thành viên Tất cả nằm đan xen trong một trật tự tổ chức hết sức
đa dạng và phức tạp, song chúng cùng tác động tạo nên sự đồng tâm, hiệp lực
giữa các thành viên, họ cùng tự giác lao động để phát triển kinh tế mà không cần
đến thưởng phạt. Điều này không thể có ở các đơn vị kinh tế khác.
Thứ năm: Kinh tế hộ được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị
trường. Chính vì thế, trên thị trường đầu vào, hộ chỉ bán từng phần nguồn lực
của mình như: đất đai, sức lao động với thị trường đầu ra, nông hộ chỉ mua
những gì mà họ không có khả năng tự túc như: quần áo, thuốc men hay các đồ
gia dụng khác
Thứ sáu: Kinh tế hộ nông dân sử dụng sức lao động, nguồn vốn của mình
là chủ yếu. Chỉ khi nào quy mô sản xuất vượt quá nguồn lực sẵn có, các hoạt
động mua bán hay đi thuê mới diễn ra.
Với các đặc trưng trên, có thể khẳng định rằng kinh tế nông hộ luôn là hình
thức tổ chức kinh tế rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, đối tượng
sản xuất của nông nghiệp là các sinh vật sống rất cần sự chăm sóc trực tiếp và
thường xuyên của con người. Người lao động trong nông hộ với ý thức trách
nhiệm cao, có sự gắn bó mật thiết với cây trồng vật nuôi nên hoàn toàn có thể
đảm nhận công việc đó.
2.1.4. Vai trò của kinh tế hộ nông dân trong điều kiện hiện nay
Trong nền kinh tế quốc dân, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh
tế, các phương thức sản xuất là hoàn toàn khách quan. Kinh tế nông hộ là một
bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Từ trước đến nay kinh tế hộ dù phát triển
dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều là nhân tố quan trọng giúp cho nền kinh tế

quốc dân phát triển. Kinh tế nông hộ có sắc thái riêng về kinh tế nhân văn và xã
hội. Ở các nước trên thế giới, nông hộ góp phần cung cấp một khối lượng không
nhỏ các nông sản phẩm cho đời sống xã hội.
17
Ở Việt Nam, giá trị sản phẩm nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng lớn
trong nền kinh tế. Mặt khác đối với nông nghiệp sản xuất hàng hoá chưa cao nên
kinh tế nông hộ càng có vai trò hết sức to lớn, nó thúc đẩy nông nghiệp và nông
thôn phát triển. Theo ước tính thì kinh tế hộ nông dân đã cung cấp cho xã hội
khoảng 90% sản lượng thịt và cá, 90% sản lượng lương thực, thực phẩm, cây
công nghiệp, cây ăn quả. Đẩy mạnh xuất khẩu và góp phần sử dụng tốt hơn tài
nguyên đất, lao động, vốn, rừng, biển nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Từng bước phát triển các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo tinh thần mà
Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới là CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Trong cơ chế phát triển của nền kinh tế chúng ta đang chủ trương xoá bỏ
thế độc canh tiến đến đa canh cây trồng vật nuôi và phát triển ngành nghề, dịch
vụ ở nông thôn theo điều kiện từng vùng, từng bước xoá bỏ cơ chế sản xuất tự
cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo hình thức trang trại gia đình để tăng
khả năng đầu tư cũng như các tiềm lực khác, góp phần nâng cao năng suất cây
trồng, vật nuôi, phát triển các ngành nghề dịch vụ, nâng cao thu nhập cho người
nông dân, từng bước “thành thị hoá” trong lòng nông thôn để phát triển một nền
nông nghiệp mạnh và bền vững.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Quá trình phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam
2.2.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 do thực dân và phong kiến chiếm đa số
ruộng đất, vì vậy mà đại bộ phận nông dân phải đi làm thuê cho địa chủ phong
kiến, chỉ có một bộ phận rất ít nông dân sản xuất hàng hoá theo kiểu cổ truyền
với kinh nghiệm và kĩ thuật thô sơ.
2.2.1.2 Giai đoạn từ 1955 đến 1959
Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta đa thực hiện cải cách ruộng đất

với khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”. Chính nhờ chính sách cải cách ruộng đất
này cộng với công tác khuyến nông đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông
hộ phát triển. Trong giai đoạn này các nông hộ đã biết hợp tác với nhau để trao
18
đổi kinh nghiệm, kĩ thuật và đã trở thành các tổ đổi công, mầm mống của hợp
tác xã ra đời.
2.2.1.3 Giai đoạn từ năm 1960 đến 1980
Cuối năm 1958 nước ta đã tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và chỉ đến
cuối năm 1960 đã có hơn 84% nông dân tham gia vào hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp. Và bắt đầu từ đây môi trường sản xuất kinh doanh của hộ đã thay đổi
hoàn toàn. Hiến pháp năm 1959 đã xác định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi
quan hệ trao đổi, buôn bán đều bị cấm nghiêm ngặt.
Giai đoạn này sản xuất nông nghiệp được tổ chức chủ yếu theo các hợp tác
xã và các nông lâm trường quốc doanh.Trong hợp tác xã nông nghiệp được tập
thể dành cho 5% đất canh tác để làm “kinh tế phụ gia đình” hay “kinh tế phụ xã
viên”. Với 5% đất canh tác nhưng đã sản xuất ra 48 % tổng giá trị sản lượng
nông nghiệp, 95% sản lượng chăn nuôi, 93% sản lượng rau quả và chiếm 50 -
60% thu nhập của hộ. Tuy không công khai nhưng kinh tế nông hộ đã thực sự là
cơ sở để đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại. Và chỉ trong vòng hai năm, miền
Bắc đã cơ bản thực hiện song phong trào hợp tác hoá. Kết quả là 2,4 triệu hộ
nông dân chiếm 85% tổng số hộ và 76% ruộng đất cùng với 4400 HTX được
thành lập. Số nông hộ còn lại thì luôn bị HTX chèn ép. Và cũng chính từ thời
điểm này kinh tế nông hộ phụ thuộc vào HTX và nó phát triển theo một xu
hướng bất lợi. Kết quả là chỉ ngay sau khi thống nhất đất nước thì sản xuất đã đi
vào con đường trì trệ, tổng sản lượng lương thực đã liên tục giảm gần 2 tạ/ha,
bình quân lương thực đầu người giảm từ 334 kg xuống còn 261kg.
2.2.1.4. Giai đoạn từ 1981 đến 1987
Trước thực trạng của sản xuất nông nghiệp đã đẩy nền kinh tế nước ta đến
nguy cơ khủng hoảng toàn diện, Hội nghị TW 6 tháng 9 năm 1979 xác định:
“Những vấn đề kinh tế cấp bách” nhằm tìm giải pháp cho nông nghiệp phát

triển. Và chính trong thời gian này đã có nhiều địa phương tiến hành “ khoán
chui ”, “khoán gọn” đến từng nhóm người và đến từng người lao động. Ví dụ
19
như: ở Hải Phòng, Vĩnh Phú, Thái Bình và hình thức này tỏ ra có hiệu quả hơn
HTX rõ rệt.
Cũng chính trên cơ sở này mà qua một thời gian đấu tranh và phân tích kĩ
lưỡng và ngày 13 tháng 1 năm 1981 Ban bí thư TW Đảng đã ban hành Chỉ thị
100CT/ TW nêu rõ mục đích của việc thực hiện cơ chế khoán mới nhằm thúc
đẩy sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế, lôi kéo mọi người hăng hái
tham gia sản xuất, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực và cơ bản nâng cao
thu nhập cho xã viên, tích luỹ cho HTX và tăng thu cho nhà nước. Cũng chính
do được đầu tư vốn, sức lao động trên ruộng đạt được khoán và hưởng trọn phần
vượt khoán nên kinh tế nông hộ được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kết
quả là từ năm 1981 đến năm 1985 sản lượng lương thực tăng 20,7%, năng suất
tăng 232%, diện tích cây công nghiệp tăng 62,1%, thu nhập quốc dân trong nông
nghiệp tăng 5,6% và lương thực bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm:
từ 273kg năm 1981 lên 304kg năm 1985. Kinh tế nông hộ trong giai đoạn này
tuy được tự chủ chút ít nhưng vẫn còn phụ thuộc vào tập thể và vẫn bị mô hình
này chi phối.
Và chỉ sau một thời gian ngắn Khoán 100 bắt đầu bộc lộ những hạn chế.
Bởi vì, tuy là khoán nhưng HTX vẫn đảm nhiệm đến 5 khâu, còn xã viên chỉ
đảm nhận 3 khâu, HTX vẫn dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất, sản xuất tập
trung và phân phối theo công điểm. Mức độ khoán lại do HTX quy định nên đã
xảy ra tình trạng quan liêu như: mức khoán thì quá cao không xuất phát từ thực
tế làm cho xã viên không có lợi trong việc đầu tư thâm canh vì vậy mà xã viên
trong giai đoạn cuối này mong muốn mất mùa hơn là được mùa, cho nên sản
xuất nông nghiệp lại đi vào khủng hoảng.
2.2.1.5.Giai đoạn từ 1988 đến nay
Trước những hạn chế khó khăn của Chỉ thị 100CT/TW các địa phương tiên
phong như: Hải Phòng, Vĩnh Phú lại làm thử hình thức giao hẳn ruộng đất cho

hộ nông dân sử dụng, đảm bảo cho họ có quyền tự quyết trên mảnh đất của
mình, kết quả đã khả quan hơn rất nhiều.
20
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhiều địa phương ngày 5/4/88 Nghị quyết
10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm giải phóng
mạnh mẽ sức sản xuất trong nông thôn trong từng hộ gia đình. Theo tinh thần
Nghị quyết thì HTX, các tập đoàn sản xuất thực hiện chế độ tự quản, tự chịu
trách nhiệm về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Thừa nhận
kinh tế nông hộ là thành phần kinh tế cơ bản của nông nghiệp và nông thôn.
Hộ gia đình nông dân được giao quyền sử dụng đất lâu dài khẳng định
quyền tự chủ của hộ gia đình nông dân, hộ nông dân có quyền tự chủ trong việc
đầu tư thâm canh. Chính từ đây kinh tế nông hộ mới trở thành tự chủ, nông dân
mới dồn hết tâm huyết và trí lực của mình vào sản xuất làm giàu cho gia đình,
cho xã hội trên mảnh đất của mình. Trong giai đoạn này HTX cũng được thay
đổi HTX được thành lập trên cơ sở tự nguyện góp sức, góp vốn của người nông
dân và được quản lý dân chủ. Kết quả là chỉ sau một năm thực hiện Nghị Quyết
bộ mặt nông nghiệp nông thôn nước ta đã thay đổi rõ rệt. Từ một nước thiếu đói
thường xuyên phải nhập lương thực thì năm 1989 lần đầu tiên chúng ta đã có 1,4
tấn gạo xuất khẩu. Và đến nay chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng
thứ hai trên thế giới.
2.2.2. Thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng
Sau hơn 20 năm đổi mới kinh tế nông hộ nước ta đã đạt được những thành
tựu hết sức quan trọng, khẳng định rõ mình là một đơn vị kinh tế tự chủ, một
trong những thành phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Kết
thúc năm 2001 về cơ bản kinh tế nông hộ đã góp phần giải quyết vấn đề “An
ninh lương thực ” trên phạm vi toàn quốc, khẳng định vị trí thứ hai của nước
xuất khẩu gạo.
Ở hầu hết các vùng, các miền đều xuất hiện những nông hộ làm ăn giỏi
vươn lên giàu có, đời sống văn hoá xã hội nông thôn đã từng bước được nâng

cao, kinh tế nông hộ ngày càng đa dạng hơn về thành phần. Nhiều hộ đã chuyển
sang đa ngành chứ không còn tình trạng nông nghiệp thuần tuý nữa. Cơ cấu thu
21
nhập trong nông hộ cũng thay đổi, xã hội nông thôn ngày càng ổn định và phát
triển.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được kinh tế nông hộ còn bộc lộ
những yếu điểm sau:
- Nguồn lực trong nông hộ có quy mô nhỏ: ruộng đất bình quân đầu người
thấp. Đặc biệt là ở vùng đồng bằng Sông Hồng cộng với việc manh mún dẫn đến
kinh tế nông hộ bị hạn chế rất nhiều trong việc phát triển.
- Lao động thì thiếu việc làm, trong khi đó số người ăn theo thì cao, điều
này làm hạn chế sự tích luỹ của nông hộ trong quá trình tái sản xuất.
- Mất cân đối và thiếu vốn trong sản xuất: hầu hết các nông hộ trong nông
thôn đều thiếu vốn trong sản xuất, có một số nông hộ không dám vay vốn để
phát triển sản xuất vì sợ thất bại, còn có những hộ muốn vay nhưng không được
vay vì nhiều lý do.
- Phân bổ sản xuất không đều có sự chênh lệch lớn giữa đồng bằng và miền
núi, điều này dẫn đến sự mất cân đối trong phát triển sản xuất. Vùng thì thiếu,
vùng thì thừa.
- Vấn đề ra quyết định sản xuất của nông hộ nhìn chung còn bị động và
chưa thể hạch toán được quá trình sản xuất. Do vậy mà cơ hội làm giầu của
nông hộ bị giảm.
- Thị trường nông thôn kém phát triển và không thường xuyên dẫn đến sự
mất thông tin thị trường của các nông hộ. Điều này đã hạn chế quá trình sản xuất
của nông hộ.
Những vấn đề tồn tại trong nông thôn Việt Nam mà khi phát triển kinh tế
nông hộ cần quan tâm giải quyết.
- Sản xuất nông hộ vẫn còn mang tính tự cung tự cấp chưa thoát hẳn những
tư tưởng cũ, năng suất sản phẩm thấp và chưa ổn định.
- Thất nghiệp: thực tế cho thấy chúng ta dư thừa khoảng 20 - 30% lao động.

- Thất học: hiện nay trình độ văn hoá của nông hộ còn rất thấp, nhiều nơi
bà con nông dân còn chưa được đi học.
22
- Suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu nước sạch.
Đây là những vấn đề cần giải quyết khi phát triển kinh tế nông hộ.
2.2.2.2. Xu hướng phát triển
Cũng như tất cả các nước, kinh tế nông hộ nước ta không nằm ngoài quy
luật vận động tất yếu. Trong những năm tới, kinh tế nông hộ nói riêng và nông
thôn nói chung có thể phát triển theo những xu hướng sau:
- Xu hướng thứ nhất: Một bộ phận nông hộ sẽ trở thành các chủ thể sản
xuất kinh doanh độc lập hay nói cách khác một bộ phận kinh tế mang tính tự
cung tự cấp sẽ chuyển sang kinh tế hàng hoá, các nông trại sản xuất hàng hoá
được hình thành và phát triển.
- Xu hướng thứ hai: Sự hình thành các dịch vụ kinh tế, kĩ thuật phục vụ cho
ngành nông thương phẩm và đời sống của cư dân nông thôn. Quá trình này làm
nảy sinh các quan hệ hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, kĩ thuật ngoài ruộng đất,
có nghĩa là kinh doanh tách khỏi ruộng đất.
- Xu hướng thứ ba: Quá trình làm giảm tỷ lệ các hộ nghèo, hiệu quả kinh tế
thấp cùng với quá trình gia tăng phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đây là quá
trình phi nông nghiệp giải phóng dân cư ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp nông
thôn. Đây là nội dung quan trọng của quá trình phân công lao động xã hội và
chuyển xã hội nông thôn truyền thống sang xã hội nông thôn hiện đại.
Ba xu hướng này đều có cùng một ý tưởng là chuyển nền kinh tế tiểu nông
tự cung, tự cấp mang nặng tính hiện vật sang sản xuất hàng hoá. Đây là quá trình
phát triển tất yếu của bất kỳ quốc gia nào chứ không phải của riêng của các nước
TBCN hay các nước đang phát triển.
Tuy nhiên phát triển theo hướng nào, con đường nào là tuỳ thuộc và điều
kiện cũng như đặc điểm và sự hỗ trợ của Chính Phủ của mỗi nước cùng với sự
nỗ lực của bản thân nông hộ.
2.2.3. Một số loại hình nông hộ chủ yếu hiện nay

Hiện nay kinh tế nông hộ nước ta đóng một vai trò không nhỏ đối với nền
kinh tế quốc dân. Vì vậy sự phát triển phong phú các loại hình kinh tế hộ dẫn
23

×