Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Nâng cao thu nhập cho hộ nghèo ở huyện lệ thủy, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.81 KB, 58 trang )

Đề tài: “Nâng cao thu nhập cho hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình”
1
PHẦN MỘT:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đói nghèo hiện đang là vấn đề nóng không chỉ ở Việt Nam mà còn được cả thế
giới quan tâm. Mặc dù đã có nhiều giải pháp được đưa ra nhằm hỗ trợ và nâng cao thu
nhập, đời sống cho các hộ nghèo nhưng xóa nghèo bền vững hiện vẫn là một thách
thức lớn đối với toàn xã hội. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam vẫn còn cao trong những năm
trở lại đây: tính đến năm 2012 tỷ lệ hộ nghèo của cả nước là 9, 6%, tỷ lệ hộ nghèo ở
các huyện nghèo chiếm 43, 89%. Khoảng cách giàu – nghèo giữa các vùng, nhóm dân
cư còn lớn, có vùng còn trên 50% hộ nghèo, cá biệt có vùng còn 60% -70% hộ nghèo.
Tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả nước,
thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân cả
nước. Sự phát triển của nền kinh tế kéo theo nhiều yếu tố như lạm phát, bão giá…
trong khi mức thu nhập của người nghèo còn quá thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Do đó việc nâng cao thu nhập cho
người nghèo là vấn đề đáng được quan tâm trong tiến trình CNH, HĐH đất nước hiện
nay.
Lệ Thủy là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Bình, là mảnh đất nối liền
giữa Quảng Bình và Quảng Trị. Huyện có diện tích 142.052 km
2
và dân số 142.723
người, điều kiện tài nguyên phong phú và đa dạng: có suối nước khoáng Bang… và là
nơi sản sinh ra nhiều vị anh hùng dân tộc trong các thời kỳ chiến tranh. Bên cạnh điều
kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện cũng có những bước phát triển rõ rệt đặc biệt là
công tác XĐGN - đây là một trong những chiến lược phát triển quan trọng của huyện
trong những năm trở lại đây. Dù là huyện còn gặp nhiều khó khăn, người dân chủ yếu
làm nông nghiệp và số hộ nghèo còn cao nhưng nhờ sự phối hợp hiệu quả giữa chính
quyền địa phương và bản thân người nghèo đã bước đầu đem lại kết quả tích cực: Tỷ
lệ hộ nghèo đã giảm qua các năm, trong 5 năm (từ 2007-2011) huyện Lệ Thủy đã xóa


được 5.891 hộ nghèo; Giải quyết việc làm cho trên 20.000 lao động. Đời sống của
người dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, công tác xóa nghèo bền vững và nâng
cao thu nhập cho hộ nghèo ở huyện vẫn chưa đạt được kết quả xứng tầm so với tiềm
2
năng hiện có. Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo đã giảm (Tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 giảm 3, 18%
so với năm 2012 còn khoảng 10, 37%) nhưng thu nhập của người nghèo vẫn không
tăng nhiều do lạm phát của nền kinh tế. Do đó để giảm nghèo bền vững và thực sự
đem lại cuộc sống no đủ cho người nghèo thì vấn đề này cần phải được quan tâm
nghiên cứu để có nhiều giải pháp phù hợp hơn nữa.
Xung quanh vấn đề này đã có nhiều người nghiên cứu như:
- Luận văn của Thạc sĩ Võ Quang Huy (2008) “Nâng cao hiệu quả xóa đói giảm
nghèo cho các hộ nông dân trên địa bàn huyện Vũ Quang - tỉnh Hà Tĩnh”.
- Luận văn tốt nghiệp Đại học của Nguyễn Thị Hương (2011) “Nâng cao hiệu
quả xóa đói giảm nghèo cho các hộ nông dân trên địa bàn huyện Quảng Xương - tỉnh
Thanh Hóa”.
- Luận văn tốt nghiệp Đại học của Trần Thúy Quỳnh Mai (2008-2012) “Xóa đói
giảm nghèo ở huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai”.
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp đến vấn đề “Nâng cao thu
nhập cho hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình” trong 5 năm trở lại đây nên
tôi chọn vấn đề này để nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
2.1. Mục tiêu chung.
Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá đúng thực trạng thu nhập của hộ nghèo ở
huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho
hộ nghèo trong huyện.
2.2. Mục tiêu cụ thể.
- Nghiên cứu vấn đề lý luận thu nhập của hộ nghèo.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nghèo.
- Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn thông qua các địa phương khác.
- Đánh giá thực trạng và các vấn đề đặt ra trong nâng cao thu nhập cho hộ

nghèo ở huyện Lệ Thủy trong những năm gần đây (2009-2013).
- Đưa ra phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển, nâng
cao hơn nữa thu nhập của hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy trong những năm tiếp theo.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Các hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình mà chủ yếu là ở ba xã Tân
Thủy, Dương Thủy, Mỹ Thủy của huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Về không gian: Trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng thu nhập của hộ nghèo giai đoạn 2010-
2013, đề ra giải pháp từ 2015-2018.
- Về nội dung: Nghiên cứu thực trạng thu nhập của hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình. Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nghèo
trong thời gian tới.
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp chung.
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta để tiếp
cận đối tượng và nội dung nghiên cứu theo quan điểm khách quan, toàn diện, phát
triển và hệ thống.
4.2. Phương pháp riêng.
Phương pháp điều tra, thu thập số liệu:
+ Tài liệu thứ cấp: nguồn tài liệu được thu nhập từ niên giám thống kê huyện
Lệ Thủy; số liệu về lao động, hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo từ phòng LĐTB&XH huyện Lệ
Thủy, các báo cáo phát triển kinh tế huyện và các xã, tài liệu từ các nguồn sách báo,
báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả liên quan đến lĩnh
vực nghiên cứu.
+ Tài liệu sơ cấp: điều tra trực tiếp các hộ nghèo.
+ Phương pháp điều tra: đề tài sử dụng phương pháp chọn ngẫu nhiên. Sau quá

trình nghiên cứu, tham khảo ý kiến của giáo viên hướng dẫn, các chuyên viên phòng
LĐTB&XH huyện Lệ Thủy cũng như sự quan sát chủ quan của mình. Tôi đã quyết
định điều tra 100 hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu:
4
+ Phương pháp so sánh: so sánh các chỉ tiêu với nhau để phản ánh tình hình sản
xuất của địa phương và tình hình thu nhập của hộ nghèo.
+ Phương pháp phân tích tài liệu: trên cơ sở các số liệu được tổng hợp, vận
dụng các phương pháp phân tích thống kê, phương pháp mô hình kinh tế so sánh đánh
giá thực.
Phương pháp quy nạp, diễn dịch.
5. Đóng góp của đề tài.
Nghiên cứu đề tài này tôi hi vọng sẽ góp phần làm rõ các vấn đề sau:
- Góp phần hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về nghèo đói, thu nhập.
- Góp phần đánh giá thực trạng thu nhập của hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy và
phân tích những mặt tích cực, hạn chế của nó.
- Đề xuất những giải pháp phù hợp, có tính khả thi nhằm nâng cao thu nhập cho
hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
6. Ý nghĩa của đề tài.
- Làm cơ sở lý luận và thực tiễn giúp địa phương xây dựng chiến lược và hoàn
thiện chính sách, đưa ra các giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ nghèo trong thời gian
tới ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Làm đề tài tham khảo cho những ai quan tâm tới vấn đề này, trong đó có sinh
viên ngành kinh tế chính trị.
7. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, phần phụ lục, phần
mục lục, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thu nhập của hộ nghèo.
Chương 2: Thực trạng thu nhập của hộ nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng
Bình trong thời gian qua.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nghèo ở
huyện Lệ Thủy trong thời gian tới.
5
PHẦN HAI:
NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THU NHẬP CỦA HỘ NGHÈO.
1.1. Cơ sở lý luận.
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về nghèo đói.
1.1.1.1. Khái niệm nghèo đói.
Nghèo đói hiện đang là một vấn đề nghiên cứu chuyên biệt của khoa học xã hội
hiện đại và đến nay đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về nghèo đói.
- “Nghèo” là tình trạng khó khăn chung về việc không có khả năng đáp ứng các
nhu cầu cơ bản, mà chủ yếu là các nhu cầu phi lương thực như nhà ở, giáo dục, y tế,
văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ
thỏa mãn một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. [1, 7]
Xét ở một góc độ khác Tiến sỹ M.G.Guilna thuộc ngân hàng Châu Á đã đưa
khái niệm nghèo thành khái niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối như sau:
+ Nghèo tuyệt đối (Absolute poverty): là tình trạng một bộ phận dân cư không
được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản cho cuộc sống con người. Tình trạng nghèo
tuyệt đối xảy ra khi thu nhập hay mức tiêu dùng của một người hay hộ gia đình giảm
xuống thấp hơn chuẩn nghèo đói. [2, 40]
+ Nghèo tương đối (Relative poverty): là tình trạng không đạt mức sống tối
thiểu tại một thời điểm trong một không gian xác định nào đó và được xác định khi so
sánh mức sống của cộng đồng hay nhóm dân cư này với cộng đồng hay nhóm dân cư
khác hoặc giữa các vùng với nhau. [2, 41]
- “Đói” là tình trạng con người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối
thiểu cần thiết. Nói cách khác, đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn
không đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống hằng ngày

và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Hộ đói là một bộ phận dân
cư có mức sống dưới mức tối thiểu không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì
6
cuộc sống hay nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa,
thường xuyên phải vay nợ và không có khả năng trả nợ. [1, 7]
Như vậy nghèo đói nói chung là tình trạng mộ bộ phận dân cư có mức sống
thấp hơn chuẩn mực nghèo đói được áp dụng cho địa phương đang xét.
- Tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban Kinh tế xã hội khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Bangkok, Thái Lan vào tháng 9 năn 1993, các
quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao và cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ
phận dân cư không có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu ấy phụ thuộc và trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán
của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”[3]
- Báo cáo phát triển Việt Nam tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam năm
2003 đã nêu rõ: Đói là bộ phận của những người nghèo mà không đủ lương thực để
duy trì cuộc sống hàng ngày; nghèo là một bộ phận dân cư không đủ các điều kiện vật
chất và tinh thần để duy trì cuộc sống ở mức tối thiểu trong điều kiện chung của cộng
đồng. Mức sống tối thiểu gồm: ăn, ở, mặc, chữa bệnh, đi lại, học hành… Hay đói
nghèo là tình trạng thua kém nhiều mặt, từ thu nhập đến tính dễ bị tổn thương khi bị
rủi ro và ít có khả năng tham gia vào quá trình ra quyết định chung. [2]
Tóm lại: Nghèo đói là một khái niệm dùng để chỉ mức sống và khả năng thỏa
mãn những nhu cầu cơ bản của con người về ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại
và giao tiếp xã hội… của một nhóm dân cư, một cộng đồng hay quốc gia trong một
thời kỳ nhất định. Nghèo đói là khái niệm động, thường xuyên biến đổi theo không
gian và thời gian nên không có một chuẩn mực chung về nghèo đói cho tất cả các quốc
gia hay cho tất cả các thời kỳ.
1.1.1.2. Đặc điểm của người nghèo.
Nhìn chung người nghèo có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp hơn đại bộ phận dân cư
khác, khả năng tiếp cận đến thông tin và kỹ năng chuyên môn bị hạn chế, thêm nữa

tiếng nói ít được coi trọng, họ ít có địa vị trong xã hội - những điều này là bước cản để
họ tìm kiếm công việc tốt hơn trong các ngành trả lương cao. Vì vậy họ thường có thu
7
nhập thấp hoặc thậm chí không có thu nhập mà chỉ phụ thuộc vào các nguồn trợ cấp,
thu nhập không ổn định.
Thứ hai, phần lớn thu nhập của người nghèo chỉ đáp ứng được các nhu cầu thiết
yếu nhất cho cuộc sống. Họ thường có khuynh hướng chi vượt khỏi thu. Do nguồn thu
nhập ít ỏi nên hầu như phần lớn thu nhập chủ yếu được sử dụng để đáp ứng nhu cầu ăn
uống hằng ngày của người nghèo và đa phần chưa biết cách quản lý kinh tế cũng như
cách thức làm ăn hợp lý. Thực tế cho thấy tình trạng chi tiêu vượt quá mức thu nhập
dẫn đến việc vay nợ chồng chất của hộ nghèo. Nên trong quá trình làm ăn họ gặp
nhiều khó khăn và ít tận dụng được các cơ hội từ bên ngoài.
Thứ ba, phần đông họ là những gia đình đông con, số lượng nhân khẩu trong
gia đình cao hơn bình quân chung. Hệ quả là quy mô gia đình càng lớn dẫn đến thu
nhập bình quân đầu người sẽ giảm và khả năng nghèo đói của hộ càng cao. Các hộ gia
đình đông con và có ít lao động dẫn đến tỉ lệ ăn theo trong gia đình cao, phần lớn hộ
nghèo là những hộ có tỉ lệ ăn theo cao.
Thứ tư, cuộc sống của người nghèo thường phải phụ thuộc người khác như phải
vay vốn với lãi suất cao chỉ để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu, họ dễ bị bọn chủ nợ bóc lột
một cách dễ dàng; Đối với những hộ nghèo mà nguồn thu nhập chủ yếu là từ lao động
làm thuê thì phải phụ thuộc vào nhu cầu công nhân và từng thời điểm, mùa vụ cần thuê
lao động; Hộ nghèo dễ bị ảnh hưởng trước những biến động của thị trường, giá cả, sản
phẩm làm được bán ra thì rẻ trong khi mua vào thì hết sức đắt đỏ.
Thứ năm, cơ hội tiếp cận giáo dục và các dịch vụ xã hội của những người
nghèo rất khó khăn. Thu nhập của người nghèo phần lớn sử dụng cho nhu cầu về ăn
uống và sinh hoạt, còn chi phí cho giáo dục, y tế, văn hóa…rất eo hẹp. Do đó ở những
hộ nghèo, trình độ học vấn của chủ hộ và con em họ thường rất thấp, trẻ em bỏ học
giữa chừng chiếm tỷ lệ cao. Sự tiếp nhận y tế, văn hóa đối với người nghèo là rất hạn
chế, vì vậy họ thường có nguy cơ mắc bệnh cao và kéo dài do không được chữa trị kịp
thời, đúng cách. Với chế độ ăn uống không đầy đủ nên họ thường bị suy dinh dưỡng,

đặc biệt là trẻ em. Và vì mục đích kiếm kế sinh nhai nên họ thường chấp nhận làm các
công việc nặng nhọc, độc hại, dễ xảy ra tai nạn lao động. Cơ hội tiếp cận giáo dục và
các dịch vụ xã hội thấp vừa là nguyên nhân, hệ quả của nghèo đói.
8
Thứ sáu, thất nghiệp và việc làm bấp bênh là dấu hiệu đặc trưng cho tình trạng
việc làm của hộ nghèo ở cả thành thị lẫn nông thôn. Người nghèo ở thành thị thường
buôn bán dịch vụ nhỏ với quy mô gia đình nên chủ yếu là những công việc không đòi
hỏi tay nghề cao, mang tính chất thu nhập thấp và không ổn định. Người nghèo ở nông
thôn sống chủ yếu nhờ vào sản xuất nông nghiệp có giá trị thu nhập thấp, mang tính
thời vụ và chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên nên tình trạng thiếu việc làm khi
chưa đến mùa vụ xảy ra thường xuyên.
Thứ bảy, người nghèo sống trong điều kiện sinh thái và khí hậu rất đa dạng: từ
những vùng đất đai màu mỡ, khí hậu tương đối thuận lợi đến những vùng dân cư thưa
thớt, đất đai kém màu mỡ. Ở những vùng có mật độ dân số cao (hơn 300 người/km
2
)
khoảng 40% dân số sống trong cảnh nghèo đói, tỷ lệ này cũng khoảng 40% ở những
vùng có mật độ dân số thấp (dưới 150 người/km
2
).
1.1.1.3. Tiêu chí để xác định nghèo đói.
*Tiêu chí phân định nghèo đói của thế giới.
Dựa trên tiêu chí thu nhập bình quân tính theo đầu người, Ngân hàng thế giới
(WB) đã đánh giá mức độ giàu nghèo của các quốc gia bằng hai cách tính: theo
phương pháp Atlas tức là theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD; theo phương pháp
PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức mua tương đương cũng tính theo
USD.
Theo phương pháp Atlas được phân ra làm 6 loại về sự giàu nghèo của các
nước (lấy mức thu nhập năm 1999).
+ Trên 25.000 USD/năm: Nước cực giàu.

+ Từ 20.000 USD/năm đến dưới 25.000 USD/năm: Nước giàu.
+ Từ 10.000 USD/năm đến dưới 20.000 USD/năm: Nước khá giàu.
+ Từ 2.500 USD/năm đến dưới 10.000 USD/năm: Nước trung bình.
+ Từ 500 USD đến dưới 2.500 USD/năm: Nước nghèo.
+ Dưới 500 USD/năm: Nước cực nghèo. [4, 9]
Ngân hàng thế giới còn đưa ra khuyến nghị thang đo đói nghèo như sau:
+ Đối với nước kém phát triển, các cá nhân được coi là nghèo đói khi có mức
thu nhập dưới 0, 5 USD/ngày.
9
+ Đối với các nước đang phát triển là: 1 USD/ngày.
+ Các nước thuộc Châu Mỹ La Tinh và Caribe: 2 USD/ngày.
+ Các nước Đông Âu: 4 USD/ngày.
+ Các nước công nghiệp phát triển: 14, 4 USD/ngày. [4, 9]
Theo tôi, chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu nghèo nêu trên còn phiến diện, bởi vì
trong thực tế còn nhiều nước có mức thu nhập bình quân đầu người rất cao nhưng
chưa đạt được sự phát triển hoàn hảo. Chẳng hạn nước giàu có như Hoa Kỳ có thu
nhập bình quân đầu người là 47.084 USD/người/năm (2011) nhưng cũng có tới 15, 7%
dân số sống dưới mức nghèo khó, vẫn còn thình trạng thất nghiệp, đói nghèo, ô nhiễm
bất công khác.
Dựa vào kết quả điều tra mức sống dân cư, WB đã đưa ra 2 chuẩn nghèo:
+ Chuẩn nghèo lương thực: tức là lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ phải
đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng với lượng calo là 2.100 Kcalo/người/ngày.
+ Chuẩn nghèo chung: là chuẩn nghèo bao gồm cả chi tiêu cho sản phẩm phi
lương thực. Chuẩn nghèo này tính đến năm 2005 là 1, 25 USD/ngày/người và đến đầu
năm 2008 chuẩn nghèo này là 2 USD/ngày/người, sau khi tính đến yếu tố lạm phát.
*Tiêu chí phân định nghèo đói của Việt Nam.
Do xuất phát từ một nước nông nghiệp, nên chuẩn nghèo đói ở nước ta thời
gian từ năm 1996 trở về trước tính theo mức chi tiêu bằng lương thực (quy gạo là
chính), về sau mới tính theo giá trị tiền. Theo đó từ năm 1996 đến nay, nước ta đã năm
lần công bố chuẩn nghèo cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước như sau:

- Giai đoạn từ 1996-1997: Hộ nghèo được xác định theo 3 mức: Dưới 25
kg/người/tháng đối với thành thị; Dưới 20 kg/người/tháng đối với nông thôn, đồng
bằng, trung du; Dưới 15 kg/người/tháng đối với nông thôn, miền núi, hải đảo. Hộ đói
là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng qui gạo là 13 kg.
- Giai đoạn từ 1997-2000, để phù hợp với xu thế đổi mới chuẩn nghèo đói dưới
đây tính cho cả gạo quy ra tiền theo giá năm 1997 cho tất cả các vùng, cụ thể:
+ Hộ đói: dưới 13 kg gạo/người/tháng, tương đương với 45.000 đồng.
+ Hộ nghèo vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo/người/tháng,
tương đương 55.000 đồng.
10
+ Hộ nghèo vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg gạo/người/tháng
tương đương 70.000 đồng.
+ Hộ nghèo thành thị: dưới 25 kg gạo/người/tháng tương đương 90.000 đồng.
- Giai đoạn 2001-2005: do tình hình kinh tế nước ta có bước phát triển đời sống
nhân dân nói chung đã được cải thiện, chuẩn nghèo đói nước ta đã được điều chỉnh lên
cho phù hợp và chỉ tính bằng tiền, cụ thể như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/ người/ tháng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/ người/tháng.
+ Vùng thành thị: 150.000 đồng/ người/tháng.
- Giai đoạn 2006-2010: sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã bước đầu
phát triển với tốc độ tăng trưởng cao. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005 về ban hành chuẩn hộ nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010 như sau:
- Đối với hộ nghèo:
+ Khu vực nông thôn: dưới 200.000 đồng/người/tháng.
+ Khu vực thành thị: dưới 260.000 đồng/người/tháng.
-Đối với hộ cận nghèo:
+ Khu vực nông thôn: từ 201.000 đồng đến 260.000 đồng/người/tháng.
+ Khu vực thành thị: từ 261.000 đồng đến 338.000 đồng/người/tháng.
-Giai đoạn 2011-2015: Chuẩn nghèo giai đoạn này xác định như sau:

+ Khu vực nông thôn: Thu nhập bình quân 400.000 đồng/người/tháng trở
xuống.
+ Khu vực thành thị: Thu nhập bình quân 500.000 đồng/người/tháng trở xuống.
Ngoài ra còn ban hành tiêu chuẩn về hộ cận nghèo như sau: hộ cận nghèo ở
nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000
đồng/người/tháng; hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ
501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo trên được áp dụng cho tất cả các địa phương trong cả nước, tuy
nhiên địa phương nào đủ 3 điều kiện sau có thể đưa ra chuẩn đói nghèo của địa
phương cao hơn chuẩn nghèo đói tối thiểu trên, cụ thể:
11
+ Thu nhập bình quân đầu người của địa phương cao hơn thu nhập bình quân
đầu người của cả nước.
+ Có tỉ lệ nghèo thấp hơn bình quân cả nước.
+ Có đủ nguồn lực cân đối cho các giải pháp xóa đói giảm nghèo. [1, 9-11]
Căn cứ vào tính chất đói nghèo người ta phân hộ nghèo thành ba loại:
- Hộ tái nghèo: là hộ nghèo từng vươn lên thoát nghèo nhưng hiện tại đã đuợc
công nhận quay trở lại nằm trong tốp nghèo.
- Hộ nghèo chuyển tiếp: là hộ được xét công nhận nghèo liên tiếp qua các năm
(ít nhất kể từ năm liền kề trước đó).
- Hộ nghèo mới: là hộ được công nhận nghèo tại thời điểm đang xét mà hoàn
toàn không phải là hộ nghèo kể từ thời điểm xét trở về trước đó.
1.1.1.4. Nguyên nhân của nghèo đói
*Nguyên nhân khách quan
Chính phủ Việt Nam vào năm 2003 kết luận rằng những nguyên nhân khách
quan của sự nghèo đói bao gồm: xuất phát điểm của nền kinh tế, tỷ lệ dân số hoạt động
trong nông nghiệp cao, chiến tranh, hạn chế về nguồn lực trong nước, thiên tai, tâm lý
trông chờ và bị động của các đối tượng hưởng lợi, đặc biệt là người dân miền núi.
+ Việt Nam là nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua các cuộc chiến tranh lâu
dài, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, nguồn lực chính của các hộ gia đình bị giảm do mất mát

trong chiến tranh.
+ Do khoảng cách về địa lý, ngôn ngữ, xã hội: Về địa lý, nhiều vùng ở vị trí xa
xôi hẻo lánh, rừng sâu núi thẳm…thường không có đường giao thông thuận lợi cho
việc giao lưu văn hóa, xã hội dẫn đến nhiều thua thiệt; Về xã hội, nhiều phong tục tập
quán lạc hậu còn tồn tại trong khi còn thiếu hoặc chậm thông tin về các mặt hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội kể cả ở địa phương, khu vực quốc gia và quốc tế; Về ngôn
ngữ, Việt Nam có 54 dân tộc với nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhiều dân tộc thiểu số
chưa được phổ cập tiếng phổ thông, trình độ dân trí thấp kém dẫn đến có sự tách biệt
về văn hóa.
Tóm lại, những sự cách biệt đó làm cho người dân có quan hệ với tự nhiên
nhiều hơn là quan hệ với xã hội, gắn với kinh tế tự nhiên nhiều hơn là gắn với kinh tế
12
hàng hóa, giao lưu ở chợ. Đó là sự thiệt thòi lớn của cư dân, của nông hộ đói nghèo ở
những nơi này. [3]
+ Do thiên tai: Bão lụt làm vỡ đê biển, đê sông làm chết và lật chìm hàng trăm,
hàng nghìn người và tàu thuyền, tàn phá cơ sở hạ tầng, đồng thời làm tăng thêm bệnh
tật cho con người, sâu bệnh cho cây trồng và dịch bệnh cho gia súc, nuôi trồng thủy
sản, gây rủi ro nghiêm trọng cho các hộ dân, đây là một sự thiệt thòi lớn dẫn đến tình
trạng đói nghèo. [3]
+ Bản thân người nghèo không có tài sản, không có nguồn lực, không có điều
kiện tiếp cận nguồn lực sẵn có như đất, vốn…và không có kế hoạch làm ăn hữu hiệu
nên dẫn đến nhiều điều cùng cực như thua lỗ,…Tất cả những điều đó dẫn đến hậu quả
là mất cơ hội để vượt lên đói nghèo. [3]
* Nguyên nhân chủ quan.
Theo bộ LĐTB&XH năm 2005: nguyên nhân của đói nghèo ở Việt Nam được
xác định như sau: thiếu vốn (79%), thiếu kiến thức sản xuất (70%), thiếu thông tin thị
trường (30%), bệnh tật hoặc các vấn đề liên quan đến sức khỏe (32%), đông con
(24%), không tìm được việc làm (24%), rủi ro (5,9%), trình độ văn hóa thấp khả năng
tổ chức đời sống kém, đặc biệt là miền núi. [2]
Ngoài ra còn do một số nguyên nhân sau:

- Thứ nhất, người nghèo thông thường có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội tiếp
cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất và khả năng tìm kiếm các công việc
trong lĩnh vực phi nông nghiệp, vì vậy cơ hội thoát nghèo nâng cao thu nhập của họ
thấp. Đồng thời do hạn chế về mặt kiến thức nên họ hầu như không có khả năng phân
tích những biến động của thị trường để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh những
sản phẩm đem lại thu nhập cao.
- Thứ hai, thu nhập thấp trong khi chi tiêu không có kế hoạch, không tính toán
cũng là nguyên nhân gây nghèo đói. Hộ nghèo có thu nhập thấp nên không đủ chi tiêu
cho cuộc sống sinh hoạt hằng ngày và hoàn toàn không có vốn để sản xuất kinh doanh.
Do đó một số hộ nghèo phải vay mượn hoặc có khi phải vay nặng lãi. Điều này làm
cho khó khăn của họ ngày càng khó khăn hơn.
13
- Thứ ba, một số gia đình có người ốm đau thường xuyên hoặc mắc tệ nạn xã
hội như rượu chè, cờ bạc, gia đình bất ổn. Như vậy họ không chỉ mất đi thu nhập từ
lao động trong nhà mà còn phải gánh chịu chi phí cho việc khám chữa bệnh, mua
rượu, thuốc, ma túy…nhiều khi tiền vốn vay được để kinh doanh thì chuyển sang chữa
bệnh. Đó cũng là nguyên nhân đẩy họ vào vòng luẩn quẩn của nghèo đói.
- Thứ tư, người nghèo thường có tính ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của xã hội,
lười lao động, không có ý thức tự vươn lên thoát nghèo cũng là một nguyên nhân gây
nghèo đói.
- Thứ năm, chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong giảm nghèo
và hỗ trợ trực tiếp, tuy nhiên năng lực của đội ngũ cán bộ còn yếu và sự phối hợp tại
các cấp chưa tốt. Thực tế cho thấy rằng vẫn còn nhiều chính sách về mục tiêu XĐGN
chưa được thực hiện hiệu quả, thậm chí còn sai, làm phương hại đến kết quả xóa đói
giảm nghèo ở các địa phương. Đồng thời sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức quốc
tế còn nhiều hạn chế, các nguồn vốn đầu tư cho các chương trình XĐGN, nước sạch
nông thôn…của Nhà nước còn hạn hẹp.
- Thứ sáu, ngoài những nguyên nhân trên, hiện tượng đói nghèo còn do một số
nguyên nhân khác như: tham nhũng, bất bình đẳng giới, ô nhiễm môi trường…
1.1.1.5. Sự cần thiết phải hỗ trợ người nghèo.

Đối với các nước trên thế giới, mặc dù cho đến nay vấn đề nâng cao chất lượng
cuộc sống cho người nghèo đã có những biến đổi tích cực, tuy nhiên tình trạng đói
nghèo tại nhiều nước trên thế giới vẫn chưa được giải quyết triệt để. Có thể nói rằng
đói nghèo thực sự là trở ngại lớn trên con đường phát triển hội nhập của mọi quốc gia.
Do đó ngân hàng thế giới đã xác định trong thế kỷ tới cuộc chiến chống lại sự đói
nghèo vẫn là một thách thức lớn cho toàn cầu. Vì vậy giảm bớt tỷ lệ hộ nghèovà tiến
tới XĐGN đã thực sự trở thành tiêu điểm chủ yếu của toàn nhân loại, trở thành mục
tiêu và nhiệm vụ của tổ chức quốc tế và các tổ chức Phi chính phủ trên thế giới, trong
đó Liên Hợp Quốc đóng vai trò rất quan trọng.
Đối với Việt Nam, mặc dù cũng đã gặt hái được những thành công nhất định
trong quá trình XĐGN như: tỷ lệ nghèo từ hơn 60% (1990) xuống còn 12, 10% vào
cuối năm 2008. Tuy nhiên thành tựu XĐGN chưa thực sự bền vững, tỷ lệ hộ tái nghèo
14
vẫn còn cao, chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, dân tộc còn cao…Bên cạnh đó
nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp và việc khai thác các nguồn lực khác chưa được
nhiều, hiệu quả chưa cao nên phần lớn người dân đang phải sống trong nghèo khổ, số
lượng trẻ em bỏ học và suy dinh dưỡng do không có điều kiện chăm sóc còn cao, nguy
cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng lớn. Điều này gây
ảnh hưởng không nhỏ cho tình hình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Từ thực tế trên cho thấy rằng vấn đề XĐGN cũng như hỗ trợ cho người nghèo
càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết đối với các nước trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về thu nhập.
1.1.2.1. Khái niệm thu nhập.
Đã có nhiều khái niệm thu nhập được đưa ra, cụ thể như:
Từ điển kinh tế thị trường đưa ra khái niệm thu nhập: “Thu nhập cá nhân là
tổng số thu nhập đạt được từ các nguồn khác nhau của cá nhân trong thời gian nhất
định, thu nhập cá nhân từ nhiều nguồn khác nhau đều từ nguồn thu nhập quốc dân.
Thu nhập là sự phân phối và tái phân phối thu nhập quốc dân đến từng người, bất kể
lao động, trong cơ quan đơn vị để làm ra sản phẩm vật chất hay không” [5, 284]

Theo Robert J.Gorden- nhà kinh tế học người Mỹ, Giáo sư trường Đại học khoa
học xã hội và nhân văn Northwesten: “Thu nhập cá nhân là thu nhập mà các cá nhân
nhận được từ mọi nguồn bao gồm các khoản làm ra và các khoản chuyển nhượng. Thu
nhập cá nhân khả dụng là thu nhập cá nhân trừ đi các khoản thuế thu nhập cá nhân”
Khoản chuyển nhượng là những khoản tiền cá nhân nhận được nhưng không phải
trả tiền cho lao động sản xuất nào. Hiện nay trong lĩnh vực nông nghiệp nước ta, hộ gia
đình được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ. Thu nhập của hộ là toàn bộ các khoản thu
nhập bằng tiền và giá trị hiện vật (kể cả các khoản phúc lợi xuất hiện không mất tiền)
mà người lao động cũng như gia đình nhận được trong một thời gian nhất định.
Theo từ điển kinh tế học của tác giả Nguyễn Văn Ngọc: Thu nhập là khoản thu
mà các nhân tố sản xuất nhận được như tiền lương, tiền công, phí và hoa hồng, lợi
nhuận, tiền tô, lợi tức và lãi suất [6, 289] hay: thu nhập là các khoản lợi tức thu được
từ việc sở hữu và cung ứng các nhân tố sản xuất trong một thời kỳ. Các khoản lợi tức
15
thu được từ lao động, tư bản, đất đai và năng lực kinh doanh là tiền lương, lãi suất, địa
tô và lợi nhuận.
Trong lý thuyết về nhu cầu thì trợ cấp cũng được coi là thu nhập vì nó cũng
tham gia quy định giới hạn ngân sách như các khoản thu nhập khác.
Trung tâm thông tin Tư liệu - Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cho
rằng: thu nhập có thể hiểu là cơ hội tiêu dùng và tiết kiệm mà một đối tượng có được
trong một khung thời gian cụ thể. Với đối tượng là hộ gia đình và các nhân thì thu
nhập là tổng của tiền lương, tiền công, lợi nhuận, tiền lãi, địa tô và những lợi tức khác
mà họ có được trong một khoảng thời gian nhất định [7, 12]
=>Thu nhập: là tổng các giá trị tài sản và của cải được biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ mà chủ thể nào đó trong nền kinh tế xã hội tạo ra và nhận được từ các nguồn lao
động, tài sản hay đầu tư thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập quốc dân trong một khoảng thời hạn nhất định (thường là một năm).
1.1.2.2. Đặc điểm của thu nhập
Nền kinh tế nước ta đang chuyển dịch nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường,
đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH đất nước, chính vì vậy thu nhập của người lao động

cũng được tăng lên đáng kể, cuộc sống của người dân từng bước được cải thiện. Về
thu nhập lần đầu tiên thu nhập đầu người của Việt Nam đã chạm con số 1.024 USD,
giúp Việt Nam thoát ra khỏi nhóm nước có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế
giới. Với người lao động là cán bộ, công nhân viên thu nhập bình quân đầu người một
tháng của lao động khu vực nông nghiệp đạt 2, 7 triệu đồng, tăng 28, 6% so với năm
trước, trong đó thu nhập của lao động thuộc khu vực nông nghiệp do Trung ương quản
lý đạt 3, 4 triệu đồng, tăng 3, 6%, thu nhập của lao động khu vực nông nghiệp địa
phương quản lý đạt 2, 2 triệu đồng, tăng 22, 2%. Với mức thu nhập này không đủ đáp
ứng nhu cầu của người lao động chi trả cho cuộc sống. Thêm vào đó thiên tai, dịch
bệnh trên gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp, giá cả hàng hóa tiêu dùng, xăng dầu và vật
tư nông nghiệp tăng cao đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân
dân. Tình trạng thiếu đói tập trung nhiều ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía
Bắc, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nguyên.
16
Thu nhập biểu thị bằng một lượng giá trị hoặc hiện vật mà người lao động nhận
được bằng hoạt động lao động của mình. Như vậy, với nền kinh tế quốc dân, thu nhập
là tổng giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một đơn vị
thời gian. Với chủ doanh nghiệp tư nhân, thu nhập là lợi nhuận ròng mà họ có được
sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh. Với người công nhân, thu nhập của họ chính là
tiền lương mà họ nhận được. Với người lao động nông thôn, thu nhập có hai phần cơ
bản:
- Thu nhập tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền công do làm
thuê
- Các khoản hỗ trợ từ người thân, họ hàng, các khoản trợ cấp
Trong cơ cấu thu nhập của lao động nông thôn, phần thu nhập từ hoạt động sản
xuất kinh doanh, làm thuê…chiếm tỷ lệ tuyệt đối lớn và có vai trò quyết định đến sự
phát triển của kinh tế nông thôn. Phần được hỗ trợ chiếm tỷ lệ nhỏ bé và không thường
xuyên, nó chỉ có vai trò giúp cho lao động nông thôn giảm phần nào gánh nặng của
cuộc sống trong thời kỳ khó khăn.
Trong thời kỳ hiện nay, thu nhập của lao động nông thôn nước ta có hai biểu

hiện rất rõ nét.
Thứ nhất: Thu nhập của lao động nông thôn là rất thấp và có khoảng cách khá xa
so với thành thị. Sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành thị là do cơ hội việc
làm ở thành thị lớn hơn, năng suất lao động hay hiệu quả công việc ở thành thị cao hơn.
Đây là lý do hình thành luồng di dân từ nông thôn ra thành thị với mức độ ngày càng
tăng. Điều đó tạo ra yêu cầu khách quan là phải có giải pháp hợp lý nhằm tạo việc làm
cho lao động nông thôn và nâng cao hiệu quả của lao động nông thôn, hạn chế sự chênh
lệch quá lớn về thu nhập giữa nông thôn và thành thị từ đó khắc phục những ảnh hưởng
tiêu cực do sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị gây ra.
Thứ hai: Thu nhập của lao động nông thôn không ổn định. Đa số người dân ở
nông thôn đều làm nông nghiệp do đó phụ thuộc vào tính mùa vụ trong nông nghiệp.
Trong kỳ thời vụ, nhu cầu thuê lao động tăng nhưng thuê nhân công vừa khó vừa phải
trả tiền công cao. Ngược lại, thời kỳ nhàn rỗi nhu cầu thuê lao động thấp, người nông
dân không có việc làm nên họ sẵn sàng làm thuê với mức tiền công thấp.
17
1.1.2.3. Phân loại thu nhập.
Về bản chất, theo nghĩa rộng, thu nhập gồm hai bộ phận hợp thành: Thù lao cần
thiết (tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương) và phần
có được từ thặng dư sản xuất hoặc lợi nhuận.
Căn cứ vào nhiều tiêu chí người ta phân loại thu nhập như sau:
Theo công bố ngày 01/7/2012, Ngân hàng Thế giới phân loại thu nhập theo
GNI bình quân đầu người theo bốn mức cụ thể như sau:
- Thu nhập thấp: 1.025 đô la hoặc ít hơn
- Thu nhập trung bình thấp: từ 1.026 đô la đến 4.035 đô la
- Thu nhập trung bình cao: từ 4.036 đô la đến 12.475 đô la
- Thu nhập cao: 12.476 đô la hoặc cao hơn
Các nền kinh tế có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình thấp đôi khi được
gọi là các nền kinh tế đang phát triển.
Ngoài ra, người ta còn phân loại thu nhập thành:
- Thu nhập cá nhân: là thuật ngữ đề cập đến tất cả các khoản thu nhập của

một cá nhân kiếm được trong một niên độ thời gian nhất định từ tiền lương, đầu tư và
các khoản khác.
- Thu nhập hộ gia đình: là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà hộ và các thành
viên của hộ nhận được trong một thời gian nhất định, bao gồm: (1) Thu từ tiền công,
tiền lương; (2) Thu từ sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ chi phí sản xuất và
thuế sản xuất); (3) Thu từ sản xuất ngành nghề phi nông, lâm nghiệp, thuỷ sản (đã trừ
chi phí sản xuất và thuế sản xuất); (4) Thu khác được tính vào thu nhập (không tính
tiền rút tiết kiệm, bán tài sản, vay thuần tuý, thu nợ và các khoản chuyển nhượng vốn
nhận được)
1.1.2.4. Vai trò của thu nhập đối với người nghèo.
Thu nhập đóng vai trò quan trọng đối với tất cả mọi người dân, đặc biệt là
người nghèo. Họ là những hộ gia đình có thu nhập thấp hoặc rất thấp so với thu nhập
chung của xã hội. Thu nhập đối với người nghèo chủ yếu là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
thiết yếu hằng ngày của họ như ăn, mặc, ở, đi lại…điện, nước.
18
Ngoài ra thu nhập còn đáp ứng nhu cầu y tế cho hộ nghèo: Cuộc sống không
tránh được những rủi ro do đó khi ốm đau bệnh tật thì người nghèo có thể sử dụng thu
nhập của mình để chi trả, tự chăm sóc cho bản thân mình.
Thu nhập tạo cơ hội cho người nghèo tích lũy được khoản tiền giúp họ phát
triển kinh tế hoặc dùng khoản tiền đó tạo nguồn vốn để thực hiện những nhu cầu trong
cuộc sống của họ.
Thu nhập như là động lực giúp họ vươn lên thoát nghèo, vượt qua khó khăn để
nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân và gia đình của họ.
1.1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập.
-Điều kiện tự nhiên:
Những vùng thuận lợi là những vùng gần các trung tâm đô thị, các trung tâm
kinh tế và văn hoá sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các thông tin khoa học kỹ
thuật, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ cũng như mua sắm các tư liệu sản xuất
phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những vùng nông thôn sâu, cách xa các
trung tâm kinh tế và văn hoá sẽ rất khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá,

sản xuất thuần nông là chính, trình độ sản xuất hạn chế dẫn tới thu nhập thấp.
Những vùng trung du và miền núi (đặc biệt là miền núi) có địa hình hiểm trở bị
chia cắt do đó rất khó khăn trong việc phát triển giao thông và thuỷ lợi. Việc áp dụng
máy móc kỹ thuật cũng rất hạn chế do đất đai bị chia cắt manh mún. Vì vậy, năng suất
lao động thấp, hạn chế trong khả năng giao lưu kinh tế và tiếp cận với thị trường, với
các thông tin về văn hoá, khoa học kỹ thuật do vậy cũng hạn chế quá trình sản xuất
kinh doanh và ảnh hưởng đến thu nhập.
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
Trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của người lao động: Con người với tư cách
là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi hoạt động lao động, vì vậy, chất lượng của nguồn lao
động quyết định hiệu quả của hoạt động lao động. Trong quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá hiện nay, con người được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực cho phát
triển.Tuy lực lượng lao động của Việt Nam nhiều nhưng đa số vẫn là lao động có trình
độ thấp, dẫn đến thu nhập của người dân còn thấp, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến
đời sống của họ.
19
Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất: Đối với bất cứ ngành nghề nào thì vốn là một
yếu tố đầu vào không thể thiếu, chính vì vậy nó ảnh hưởng không nhỏ đến yếu tố đầu
ra tức là thu nhập của người lao động. Khi đầu tư càng lớn thì cơ hội lao động và thu
nhập của người dân càng cao và ngược lại.
Truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của từng dân tộc: Mỗi dân tộc có
một truyền thống và phong tục tập quán riêng. Truyền thống giúp đỡ nhau trong đời
sống hàng ngày, trong làm ăn kinh tế, trong khuyến học là những truyền thống tốt
đẹp. Có những làng xã người dân xây dựng thành các nhóm, hội kinh doanh rất hiệu
quả, có làng khuyến khích người dân làm kinh tế và báo cáo kết quả trong ngày hội
làng đã có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển và thu nhập của người dân ngày càng
được nâng cao. Tuy nhiên, cũng có những hủ tục như ma chay cưới xin linh đình, công
việc xong trả nợ hàng năm mới hết. Các tệ nạn mê tín dị đoan thói quen sống và làm
việc mang tính tự nhiên không tính toán là lực cản vô cùng to lớn cho sự tiến bộ xã
hội cũng như thu nhập của người dân.

- Cơ chế, chính sách của Nhà nước
Các chính sách của Nhà nước ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập của người
dân. Chẳng hạn như chủ trương phát triển thành phần Kinh tế tư nhân tạo nên nhiều
công ty, doanh nghiệp trên nhiều địa phương thu hút một lượng lớn lao động ở các
nông thôn, giải quyết thu nhập cho nhiều hộ gia đình; hoặc chính sách xuất khẩu lao
động giải quyết được một phận lớn lao động dư thừa, khi tham gia xuất khẩu lao động
thì những người lao động tìm được việc làm cho mình với thu nhập cao hơn; mặt khác
họ còn góp phần tăng trưởng đáng kể cho thu nhập quốc dân. Xuất khẩu lao động
không chỉ góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế mà còn
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại
ngữ, tác phong công nghiệp, tư duy kinh tế cho người lao động.
20
1.2. Cơ sở thực tiễn.
1.2.1. Kinh nghiệm về việc nâng cao thu nhập.
1.2.1.1. Kinh nghiệm của tỉnh Long An: Mỗi hộ sản xuất giỏi giúp một hộ
nghèo.
Tại Long An các cấp Hội luôn chủ động nắm chắc chương trình phát triển kinh
tế của tỉnh, nắm chắc thực tiễn, từ đó xây dựng chương trình kế hoạch hành động, giúp
hội viên phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình, xây dựng các mô
hình điểm và nhân rộng điển hình tiên tiến. Với phương châm: “Đoàn kết, sáng tạo,
dốc hết tâm lực vì lợi ích thiết thực cho nông dân”, Hội nông dân tỉnh đã phát động
sâu rộng phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau
xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng. Mỗi hộ sản xuất giỏi đăng ký giúp một hộ
có điều kiện về lao động, giống, vốn, kinh nghiệm…để thoát nghèo, nâng cao thu
nhập”. Phong trào đã tạo ra động lực lớn tập hợp được nhiều hộ nông dân vào Hội, từ
đó giúp học nghề, tạo được nhiều việc làm mới phi nông nghiệp và xuất khẩu lao
động.
1.2.1.2. Kinh nghiệm của huyện Krông pa- tỉnh Gia Lai
Những năm qua nhờ thực hiện tốt công tác XĐGN nên đã tạo và nâng cao được
thu nhập cho các hộ dân, đặc biệt là các hộ gia đình dân tộc thiểu số vùng cao. Để làm

được như vậy huyện đã không ngừng quan tâm đến các gia đình chính sách, người tàn
tật và các đối tượng thuộc diện cứu trợ khác. Đồng thời tiếp thu kịp thời những thành
tựu khoa học công nghệ hiện đại để tăng năng suất lao động, phát triển sản xuất. Kết
hợp phát triển kinh tế với hỗ trợ người nghèo, tranh thủ các nguồn đầu tư để phát triển
đồng bộ kết cấu hạ tầng. Mô hình hợp tác xã kiểu mới đã phát triển mạnh ở một số
hình thức như tổ hợp tác tín dụng, giúp người dân tiếp cận được với các nguồn vay tín
dụng từ ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và ngân hàng Chính sách xã
hội huyện để tạo nguồn vốn góp phần phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho từng
hộ gia đình.
1.2.2. Bài học rút ra cho huyện Lệ Thủy.
Qua kinh nghiệm nâng cao thu nhập, hỗ trợ người nghèo của các địa phương
trong nước có thể rút ra một số bài học cho huyện Lệ Thủy như sau:
21
-Thứ nhất, kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với phân phối thu nhập công bằng
nâng cao mức sống của người dân.
-Thứ hai, xây dựng các mô hình điểm và nhân rộng các điển hình tiên tiến về
nâng cao thu nhập, hỗ trợ người nghèo trên địa bàn huyện, đẩy mạnh và hỗ trợ dạy
nghề cho nông dân, nhất là các hộ nghèo, hoặc tạo thêm nhiều ngành nghề mới cho
người nghèo để nâng cao thu nhập cho họ.
-Thứ ba, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, các nguồn vốn vay phải được
đưa vào phát triển sản xuất, đồng thời tổ chức dạy nghề, chuyển giao khoa học kỹ
thuật, hướng dẫn và phổ biến sâu rộng cách làm ăn cho người nghèo.
-Thứ tư, nâng cao tinh thần vươn lên thoát nghèo, tự nâng cao chất lượng cuộc
sống cho bản thân họ và gia đình cũng như hạn chế sự ỷ lại, trông chờ từ bản thân
người nghèo…
-Thứ năm, tăng cường cơ hội cho người nghèo thường tập trung vào vai trò
trung tâm của các cơ hội vật chất, nó bao gồm công việc, tín dụng, đường sá, điện, thị
trường cho sự sản xuất của họ và trường học, nước sạch, vệ sinh và dịch vụ y tế giúp
nâng cao sức khỏe và kỹ năng cần thiết để làm việc.
-Thứ sáu, đối với các gia đình là nông dân cần giảm thiểu đóng góp cho họ như

miễn thu các khoản về an ninh, phúc lợi và các khoản đóng góp nghĩa vụ xã hội, và có
thể miễn thu thuế ruộng đất, học phí, viện phí cho gia đình.
22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THU NHẬP CỦA HỘ NGHÈO
Ở HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH TRONG THỜI GIAN QUA.
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Lệ Thủy.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.
2.1.1.1. Vị trí địa lý.
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Lệ Thủy là một huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Bình. Phía Nam giáp
huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía Bắc giáp huyện Quảng Ninh, phía Tây
giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía Đông giáp Biển Đông. Có diện tích tự nhiên là
142.052 ha. Tổ chức hành chính gồm có 26 xã và 2 thị trấn, đó là các xã : An
Thuỷ, Cam Thủy, Dương Thủy, Hoa Thủy, Hồng Thủy, Hưng Thủy, Kim Thủy, Lâm
Thủy, Liên Thủy, Lộc Thủy, Mai Thủy, Mỹ Thủy, Ngân Thủy, Ngư Thủy Bắc, Ngư
Thủy Nam, Ngư Thủy Trung, Phong Thủy, Phú Thủy, Sen Thủy, Sơn Thủy, Tân
Thủy, Thái Thủy, Thanh Thủy, Trường Thủy, Văn Thủy, Xuân Thủy và các thị trấn
Kiến Giang và Nông trường Lệ Ninh. Với lợi thế về vị trí địa lý như trên, Lệ Thủy có
23
điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội với các
huyện trong tỉnh, tỉnh bạn và với các trung tâm kinh tế lớn khác trong khu vực.
2.1.1.2. Địa hình, khí hậu, thủy văn.
Với địa hình phía Tây là dãy Trường Sơn, địa hình dốc theo hướng đông với
vùng núi, đồi, có suối nước khoáng Bang với nguồn nước khoáng đang được khai thác
làm nơi nghỉ dưỡng và làm nước uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai
bên bờ sông Kiến Giang. Ven biển là một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ
Thủy là những bãi cát trắng, nước biển sạch. Hiện đã có bãi tắm tại Ngư Thủy được
đưa vào khai thác.
Lệ Thủy có khí hậu đặc trưng của Trung Bộ, mang tính chất khí hậu nhiệt đới
gió mùa, có sự phân hoá sâu sắc của địa hình và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía

Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
- Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Thời gian mưa tập trung vào các
tháng 9, 10 và 11.
- Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24
0
C – 25
0
C. Ba
tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Độ ẩm tương đối 83-84%.
Lệ Thủy có nhiều sông ngòi kệnh rạch nối nhau trong đó có sông Kiến Giang là
hợp lưu của nhiều nguồn sông suối phát nguyên từ vùng núi phía Tây-Nam của huyện
đổ về. Do địa hình bị chia cắt mạnh nên hầu hết các sông của Lệ Thủy ngắn và dốc,
khả năng thoát nước chậm.
2.1.1.3. Tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản.
Lệ Thủy có tài nguyên đất dồi dào, đất cát có diện tích khoảng 19.043 ha chủ
yếu tập trung ở các vùng ven biển của các xã Ngư Thủy, Sen Thủy. Ngoài ra còn có đất
mặn, đất phù sa tập trung ở vùng giáp giữa biển và đồng bằng.
Việc sở hữu vùng biển Ngư Thủy Bắc cũng đem lại cho Huyện nguồn hải sản
phong phú, có nhiều loại hải sản quý hiếm như tôm hùm, mực, hải sâm… giúp phát
triển kinh tế biển. Diện tích tiềm năng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản (sông ngòi, ao hồ
nhỏ, hồ chứa, mặt nước lớn, diện tích trồng lúa có khả năng nuôi, diện tích bãi bồi ven
sông, ven biển, nước mặn) tương đối lớn.
24
Tài nguyên rừng: Tổng diện tích rừng hiện có là 96.828,7 ha, diện tích rừng
trồng mới tập trung là 860, 4 ha. Độ che phủ rừng đạt 68, 5%. Rừng có khoảng 250
loại lâm sản, nhiều loại quý hiếm như mun, lim, gụ, lát hoa, loại trầm gió, thông
nhựa… Đặc sản dưới tán rừng khá đa dạng, phong phú và có giá trị cao như song mây,
trầm kỳ… Tài nguyên rừng và đất rừng ở đây có ý nghĩa quan trọng không chỉ trong
lĩnh vực kinh tế mà còn đối với môi trường.

Tài nguyên khoáng sản: Lệ Thủy có nhiều nguyên liệu cho công nghiệp vật liệu
xây dựng gồm đá vôi, đất sét xi măng, sét gạch ngói, đá hộc xây dựng, đá granít…
Than bùn là nguồn nguyên liệu phục vụ phân vi sinh. Khoáng sản kim loại và kim loại
quý hiếm có sắt ở Phú Thiết - Lệ Thuỷ. Nguyên liệu hoá chất và phân bón có pyrit có
thể khác thác làm nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp địa phương hoặc cung cấp cho
những nhà máy hoá chất. Ngoài ra còn có nước khoáng và nước nóng, tại điểm Khe
Bang (Lệ Thuỷ) nhiệt độ nước lên tới 105 0C, nguồn nước có áp lực và lưu lượng khá
lớn (3, 54 l/s) đã được khai thác để sản xuất nước khoáng với công suất 7, 5 triệu
lít/năm.
2.1.2. Tình hình kinh tế xã hội.
2.1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế.
Kinh tế huyện Lệ Thủy tiếp tục có những bước tăng trưởng nhanh và ổn định.
Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đúng hướng; Các cơ chế, chính sách mới đã có
tác dụng huy động tiềm năng và thu hút nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện năm 2013 tăng 7, 5% so với năm 2012,
trong đó: ngành nông - lâm nghiệp, thủy sản tăng 5, 9%, công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp - xây dựng tăng 7, 9%; các ngành dịch vụ tăng 9, 3%.
Cơ cấu kinh tế (tính theo giá hiện hành): ngành nông - lâm nghiệp, thuỷ sản
chiếm 38%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 25, 5%; các ngành
dịch vụ chiếm 36, 5%. Cơ cấu kinh tế của huyện ngày càng chuyển dịch theo hướng
tích cực, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành
nông nghiệp trong tổng sản phẩm góp phần hoàn thành quá trình CNH, HĐH đất nước.
25

×