Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

PHÁT TRIỂN DU LỊCH DI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.31 MB, 93 trang )

1
UBND TỈNH PHÚ THỌ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG

PHÁT TRIỂN DU LỊCH DI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Thị Huyền
Phú Thọ - 2014
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo thống kê của Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTDL), hiện nay trên cả nước có
khoảng trên 4 vạn di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong đó, có hơn 3
nghìn di tích được xếp hạng cấp quốc gia, hơn 5 nghìn di tích xếp hạng cấp tỉnh.
Cộng thêm vào đó là gần 1 nghìn di sản phi vật thể được sưu tầm nghiên cứu,
lưu trữ. Vì vậy, việc phát triển du lịch gắn với việc bảo tồn và phát huy giá trị của
những di sản văn hóa là điều hết sức cần thiết.
Trong quá trình đổi mới, mở cửa, giao lưu hội nhập hiện nay của đất nước, di
sản văn hóa và thiên nhiên trở thành 1 nhân tố quan trọng. Về bản chất, di sản văn
hóa và thiên nhiên đã mang tính nhân loại. Di sản là sản phẩm của thiên nhiên và con
người, vì thế di sản luôn có sức cuốn hút.
Điều đó còn được khẳng định ở danh mục các di sản văn hóa và thiên nhiên
được tôn vinh là di sản thế giới, được đưa vào Chương trình Kí ức thế giới, được
công nhận là khu Dự trữ sinh quyển thế giới, các vịnh đẹp nhất của thế giới, vườn
quốc gia ASEAN, v.v.
Thông qua các hoạt động du lịch, di sản văn hóa và thiên nhiên của nước ta
được giới thiệu rộng rãi trên khắp thế giới. Qua đó, đã giới thiệu hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam là một đất nước có truyền thống văn hóa lâu đời, thiên nhiên
tươi đẹp, hấp dẫn, sản vật dồi dào, ẩm thực phong phú, con người Việt Nam chăm lao
động, mến khách, thân thiện.
Di sản văn hóa Việt Nam được giới thiệu ra nước ngoài bằng nhiều hình thức,


có khi thông qua các màn trình diễn nghệ thuật truyền thống (Múa rối nước, Nhã
nhạc, Cồng chiêng Tây Nguyên, Tuồng, Chèo, Cải lương, Quan họ Bắc Ninh, Ca
trù…).
Một phần quan trọng lại qua các hội thảo, hội nghị ở nước bạn hoặc qua các
phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm. Khách nước ngoài đến thăm Việt Nam
thưởng ngoạn, nghiên cứu, trải nghiệm từ các di sản vật thể và phi vật thể, qua đó, họ
hiểu thêm các giá trị truyền thống của con người Việt Nam, đồng thời giúp cho họ có
niềm tin trong việc chọn Việt Nam làm điểm đến, đầu tư đáng tin cậy.
3
Việc các di sản văn hóa Việt Nam được UNESCO tôn vinh là những thương
hiệu đặc biệt không chỉ quảng cáo cho các di sản mà còn góp phần thu hút khách du
lịch nước ngoài đến Việt Nam nhiều hơn.
Tại các địa phương, di sản được bảo tồn, du lịch phát triển tạo ra sự chuyển đổi
cơ cấu kinh tế địa phương, người dân được hưởng lợi nhiều hơn thông qua việc tham
gia dịch vụ du lịch, ngành nghề thủ công truyền thống tại khu vực di sản và xung
quanh khu vực di sản được phục hồi mở rộng.
Di sản càng được tu bổ, tôn tạo, các hoạt động phát huy giá trị di sản sẽ được
mở rộng sáng tạo thêm như những Năm Du lịch (Hạ Long, Quảng Nam, Hà Nội),
Festival Huế, Đêm rằm phố cổ (Hội An)…
Lúc đầu, du khách chỉ đến thăm các công trình kiến trúc - mỹ thuật tại di sản,
đến nay du khách đã được thưởng thức thêm các giá trị văn hóa phi vật thể truyền
thống. Bên cạnh đó, các làng nghề truyền thống cũng được phục hồi, phát triển.
Nhiều ngành nghề mới ra đời làm giàu thêm cho đất nước góp phần phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống. Nhà hàng, khách sạn, các trung tâm dịch vụ, cửa hàng
bán đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống, các phương tiện giao thông được tân trang
tạo cho bộ mặt địa phương thay đổi hẳn so với trước đây.
Tuy nhiên, trên thực tế, còn có những nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về di
sản. Ở một số nơi, di sản hằng ngày, hằng giờ bị đe dọa, việc đầu tư cho di sản về cơ
chế, tài chính còn chưa thỏa đáng.
Ở nhiều địa phương, các di tích sau khi được xếp hạng tiếp tục trong tình trạng

hoang hóa, không có kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản để hỗ trợ cho sự phát
triển địa phương. Nói cách khác, nguồn tài nguyên di sản thực sự vẫn đang bị lãng
phí. Chưa kể rất nhiều di tích văn hóa, lịch sử quý giá bị lấn chiếm, khai thác bừa bãi,
di sản phi vật thể chưa được chăm lo gìn giữ, truyền dạy, phục hồi và có nguy cơ bị
mai một cao.
Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vùng đất Tổ nói chung và Phú
Thọ nói riêng rất phong phú, đặc sắc thậm chí có những di sản mang tính độc đáo
riêng có như các phong tục, tập quán, truyền thống, lễ hội, di sản văn hóa dân gian
lâu đời từ thời dựng nước. Đặc biệt và tiêu biểu nhất là hai di sản xứng tầm thế giới:
Hát xoan và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.
Như vậy, xét về tiềm năng, loại hình du lịch di sản ở tỉnh Phú Thọ là một loại
4
hình giàu tiềm năng phát triển, thể hiện ở các nội dung sau:
- Tài nguyên phong phú: hệ thống di sản đa dạng, độc đáo, có tính phân biệt hóa
cao so với hệ thống di sản cùng loại ở các địa phương khác trong cùng khu vực văn
hóa châu thổ Sông Hồng.
- Mật độ di sản tương đối dày (không gian văn hóa thời đại Hùng Vương: lễ hội,
phong tục, tập quán, truyền thuyết thời dựng nước cho đến hệ thống di tích, di chỉ
khảo cổ, di sản vật thể khác ). Đặc biệt có hai điểm nhấn hết sức đặc thù là hai di
sản văn hóa thế giới.
Tuy tiềm năng phát triển loại hình này ở Phú Thọ lớn nhưng điều kiện phát triển
thì còn nhiều hạn chế, thậm chí nhiều vấn đề nan giải.
- Cơ chế, chính sách: còn nhiều hạn chế trong việc kêu gọi, thu hút đầu tư cho
việc khai thác đúng đắn, hiệu quả, có định hướng hệ thống di sản vùng đất Tổ.
- Công tác quy hoạch, đầu tư: chưa được chú trọng thích đáng. Việc vinh danh
hai di sản thế giới ở địa phương vẫn còn là một việc làm chưa thực sự thúc đẩy sự
vận động và vào cuộc mang tính hệ thống, liên ngành từ nhận thức đến hành động, từ
các cấp, các ngành hữu quan đến các tầng lớp xã hội để có những thay đổi trong tư
duy và việc làm hữu ích cho việc phát triển kinh tế song song với bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa đất Tổ.

- Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch (Giao thông vận tải, thông tin
liên lạc, cơ sở dịch vụ lưu trú, ăn uống, dịch vụ bổ sung v.v. ): Còn quá yếu kém, bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du lịch chuyên nghiệp nói chung và du
lịch di sản nói riêng với tư cách là một loại hình du lịch đặc biệt dành cho những đối
tượng khách có trình độ học vấn và khả năng thanh toán cao trong thị trường du lịch
nội địa và quốc tế.
- Nguồn nhân lực du lịch: còn quá yếu và thiếu. Thiếu về nhân lực chuyên môn
được đào tạo, am hiểu về văn hóa dân tộc, văn hóa đất Tổ, am hiểu về di sản. Yếu về
trình độ kiến thức, trình độ và năng lực chuyên môn nghề nghiệp. Riêng đối với di
sản hát xoan, nguồn nhân lực còn có những đòi hỏi cao và đặc thù hơn như: niềm say
mê với nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, lòng tâm huyết với nghề, ý thức giữ gìn tinh
hoa văn hóa, bản lĩnh trước những hệ lụy của dòng chảy hội nhập, toàn cầu hóa và
giao thoa văn hóa mạnh mẽ của thời đại ngày nay v.v.
5
- Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch còn yếu, chưa có những chiến lược lâu dài
về xúc tiến du lịch, xây dựng hình ảnh và thương hiệu du lịch di sản riêng cho vùng
đất Tổ để du khách nội địa cũng như quốc tế biết đến Phú Thọ với sản phẩm du lịch
di sản độc đáo và duy nhất trong cả nước.
Như vậy, nhìn tổng thể, loại hình du lịch di sản ở Phú Thọ thực sự vẫn còn là
một khái niệm mới, một cách tiếp cận mới bởi vì tuy đã có nguồn tài nguyên tương
đối hấp dẫn cùng với một số điều kiện phát triển loại hình nhưng để có thể xây dựng,
khai thác và phát triển sản phẩm du lịch di sản vừa xứng tầm với giá trị tài nguyên
vừa tận dụng được những lợi thế về tiềm năng, điều kiện phát triển và mang lại
nguồn lợi cho nền kinh tế du lịch địa phương, còn đòi hỏi quá nhiều sự nỗ lực mang
tính đồng bộ, toàn diện. Có lẽ điểm khởi đầu sẽ phải từ nhận thức của tất cả các đối
tượng tham gia vào hoạt động du lịch di sản, từ chính quyền, các cấp, ngành tới cộng
đồng địa phương, cá nhân từng người dân đối với hệ thống di sản - nguồn tài sản vô
giá xung quanh chúng ta. Vì vậy, những nghiên cứu bước đầu mang tính lí luận và
thực tiễn sẽ góp phần hữu ích cho việc phát triển loại hình du lịch di sản nói riêng và
định hướng phát triển du lịch nói chung của tỉnh Phú Thọ.

Với những lí do như trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề “Phát triển du lịch di sản
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
- Ngoài nước (phân tích, đánh giá được những công trình nghiên cứu có liên
quan và những kết quả nghiên cứu mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu của đề tài).
Trong khoảng 40 năm trở lại đây, với sự ra đời của Công ước di sản thế giới và
xu thế bảo vệ di sản khắp toàn cầu, khái niệm di sản thường được hiểu là di sản thế
giới và du lịch di sản thường được coi là loại hình du lịch liên quan đến các di sản thế
giới.
Trên thế giới du lịch di sản dưới góc độ tiếp cận loại hình không chỉ được xem
là một loại hình của du lịch văn hóa. Ở hầu hết các quốc gia có tài nguyên di sản đều
rất chú trọng phát triển loại hình du lịch này với tư cách là một loại hình du lịch độc
lập.
Các quốc gia có những di sản thế giới nổi tiếng và độc đáo thì khai thác các sản
phẩm chủ yếu là tham quan, thưởng thức, khám phá, nghiên cứu, trải nghiệm các giá
trị của di sản thế giới. Trong đó bao gồm cả di sản thiên nhiên, di sản văn hóa, di sản
6
hỗn hợp. Đó là các chương trình du lịch văn hóa đặc thù như tham quan, khám phá
Kim Tự Tháp ở Ai Cập, thăm bảo tàng Louvre, tháp Eiffel ở Pháp, tháp nghiêng Pisa
(Italy); Chichen Itza ở Yucatán (Mexico); Khu di tích núi Võ Đang (Trung Quốc),
Independence (Hoa Kì) v.v. Đó cũng là các chương trình du lịch tự nhiên khám phá,
thưởng thức các giá trị kì thú, tuyệt mĩ của các di sản thiên nhiên như các Vườn quốc
gia, hệ thống hồ trong thung lũng tách giãn lớn ở Kenya, Vịnh hẹp Geirangerfjord ở
Na Uy, Thác Victoria (Zambia - Zimbabwe) v.v.
Các quốc gia có ít di sản thế giới hoặc không có thì khai thác loại hình này ở góc
độ kết hợp tham quan, giải trí, trải nghiệm các di sản văn hóa truyền thống của các
dân tộc bản địa, của quốc gia, kết hợp với tham quan, nghỉ dưỡng tại các điểm du lịch
văn hóa, điểm du lịch tự nhiên…
- Vì vậy, các công trình nghiên cứu về du lịch di sản với tư cách là một loại hình
riêng biệt, độc lập chưa có. Bản thân khái niệm du lịch di sản chưa hình thành rõ

ràng.
- Các tài liệu và công trình nghiên cứu về du lịch di sản dưới góc độ loại hình du
lịch văn hóa không nhiều. Tuy các tác giả đã có những nghiên cứu rất sâu dưới góc
độ khai thác giá trị di sản như tìm hiểu về các giá trị tinh thần, trí tuệ hàm chứa trong
các di sản văn hóa (Barbara T.Hoffman (2006), Art and cultural heritage: law,
policy, and practice, Cambridge University Press.; Tanselle and G.Thomas (1998),
Literature and Artifacts, Charlottesville, VA: Bibliographical Society of the
University of Virginia. v.v.) nhưng ở các công trình nghiên cứu này, các tác giả chỉ
tập trung vào khía cạnh giá trị của các di sản văn hóa với tư cách là tinh hoa sản
phẩm trí tuệ, tinh thần và cảm xúc của con người cho nên đã xếp di sản văn hóa trong
nhóm các loại hình và sản phẩm nghệ thuật.
- Chỉ đặc biệt hơn trong Cultural Tourism, tác giả Milena Ivanovic đã xếp du
lịch khám phá, tham quan, nghiên cứu di sản trong loại hình lớn là du lịch văn hóa,
tuy nhiên, sự lưu tâm cũng mờ nhạt và không được đặt ở vị trí ưu tiên là những loại
hình du lịch văn hóa tiêu biểu.
- Tác giả Dallen J.Timothy and Gyan P.Nyaupane trong Cultural heritage and
tourism in the developing world : a regional perspective đã chỉ ra mối liên hệ mật
thiết giữa di sản văn hóa và du lịch trong tương quan mối liên hệ bao trùm là sự phát
triển của thế giới. Tuy nhiên, du lịch di sản lại theo quan niệm của tác giả chưa được
7
tiếp cận ở góc độ là loại hình du lịch văn hóa.
- Hầu hết các công trình khác về di sản gây được sự chú ý và đạt được những
thành tựu đáng kể đều là những nghiên cứu mang tính ứng dụng trải nghiệm di sản
lớn như Bendels, G.H, Schnabel, R.and Clein trong Detail-preserving surface
inpainting; Archaeology and Cultural Heritage.
Đặc biệt hơn, ở công trình "Sampled 3D models for CH applications: A viable
and enabling new medium or just a technological exercise?" tác giả Paolo Cignoni
and Roberto Scopigno đã có một bước đột phá về công nghệ tái hiện di sản bằng kĩ
thuật 3D nhằm phục vụ tốt nhất cho công tác nghiên cứu cũng như thưởng thức,
khám phá giá trị di sản vật thể của nhân loại. Cùng chung chủ đề nghiên cứu này còn

rất nhiều tác giả và công trình khác như 3D photography của tác giả Curless, B.and
Seitz; Virtual reconstruction of broken and unbroken pottery của Kampel, M.and
Sablatnig. Tuy nhiên, ở các công trình loại này, vấn đề mà các tác giả tập trung
nghiên cứu và đề xuất chỉ là các giải pháp mang tính kĩ thuật và công nghệ nhằm hỗ
trợ cho việc nghiên cứu và thưởng thức giá trị di sản chứ không tiếp cận dưới góc độ
du lịch và du lịch văn hóa.
Tuy nhiên, với cách tiếp cận thuật ngữ di sản theo các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu tại hội thảo quốc tế "Re-theoreorizing heritage" diễn ra tại thành phố
Gothenburg (Thụy Điển), tháng 6 năm 2012 thì di sản không còn được coi là vật của
quá khứ với những giá trị và hình thái vĩnh viễn nữa. Thay vào đó là quan niệm di
sản là sản phẩm của thực tại, được tạo ra bởi những lo toan, trải nghiệm của đời sống.
Vì vậy, điểm mới của đề tài là đi sâu nghiên cứu du lịch di sản với tư cách là
một loại hình du lịch văn hóa đặc biệt. Trong đó vừa xây dựng một cơ sở lí luận loại
hình vừa đưa ra những đánh giá về điều kiện phát triển, tiềm năng về tài nguyên cũng
như những hiện trạng, thách thức cần giải quyết. Từ đó đưa ra những biện pháp cụ
thể nhằm phát huy giá trị di sản, phát triển loại hình du lịch này ở tỉnh Phú Thọ.
- Trong nước (phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực nghiên
cứu của đề tài ở Việt Nam. Nếu có các đề tài cùng bản chất đã và đang được thực
hiện ở cấp khác, nơi khác thì phải giải trình rõ các nội dung kỹ thuật liên quan đến
đề tài này).
Du lịch di sản ở tỉnh Phú Thọ là một khái niệm còn mới mẻ bởi vì cho tới gần
đây, cùng với xu thế khôi phục các giá trị văn hóa cổ truyền, gìn giữ và vinh danh
8
những di sản văn hóa quý báu của dân tộc thì hệ thống di sản vùng đất Tổ mới được
biết đến và bước đầu tạo được tên tuổi, vị thế của mình trong kho tàng di sản văn hóa
đa dạng của dân tộc.
Tuy nhiên, với cách tiếp cận thuật ngữ di sản theo các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu tại hội thảo quốc tế "Re-theoreorizing heritage" có lẽ việc nghiên cứu tiếp
cận du lịch di sản như một loại hình du lịch văn hóa đặc biệt là một điều cần thiết và
có lợi đối với định hướng phát triển du lịch nói chung và việc xây dựng, khai thác sản

phẩm du lịch nói riêng.
Ở trong nước, đã có các học giả, các nhà nghiên cứu lưu tâm đến vấn đề du lịch
di sản.
PGS.TS Lê Anh Tuấn, ThS. Nguyễn Thị Hồng Tâm đã có bài viết Nâng cao vai
trò của cộng đồng trong phát triển sản phẩm du lịch di sản. Tuy nhiên, nội dung chỉ
giới hạn trong việc phân tích thực trạng, khuyến cáo trách nhiệm của cộng đồng và
người làm du lịch đối với việc tôn trọng và bảo vệ các di sản thế giới.
PGS.TS Trần Đức Thanh đã có nhiều năm nghiên cứu và tâm huyết với việc xây
dựng cơ sở lí luận về du lịch phục vụ giảng dạy và nghiên cứu.
Tuy nhiên, loại hình du lịch di sản trong giáo trình Nhập môn khoa học du lịch
chỉ được liệt kê và xếp trong nhóm du lịch văn hóa.
Các nghiên cứu sâu hơn của tác giả về loại hình du lịch này mới chỉ dừng lại ở
các bài báo mang tính chuyên khảo như Du lịch di sản, Tạp chí Du lịch, số tháng
8/2012. Trong đó ông đã đề cập rất cụ thể từ khái niệm, đặc điểm thành phần khách,
các nguyên tắc phát triển du lịch di sản. Đây thực sự là một nghiên cứu bước đầu vô
cùng có ý nghĩa mở ra hướng tiếp cận và nghiên cứu du lịch di sản một cách hệ
thống.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu về di sản văn hóa ở Phú Thọ lại hết sức phong phú
và đa dạng. Có thể liệt kê một số nghiên cứu tiêu biểu trong Hội thảo khoa học Di
sản văn hóa trên địa bàn kinh đô Văn Lang như: Dấu tích làng cả, kinh đô đàu tiên
của dân tộc Việt Nam của TS. Nguyễn Anh Tuấn, Dấu tích kinh đô Văn Lang thời
đại Hùng Vương trên địa bàn thành phố Việt Trì của Đặng Đình Thuận, Lễ hạ điền
và tín ngưỡng phồn thực (xã Hy Cương) của Phạm Bá Khiêm, Minh Nông - vùng quê
truyền thuyết của ThS. Nguyễn Phi Nga, Sơn Vi - di chỉ văn hoá Sơn Vi và hội phết
độc đáo của ThS. Triệu Thị Hương Liên, Gia Thanh - di chỉ văn hóa xóm Rền và lễ
9
hội cầu đinh đặc sắc của ThS. Quách Phan Phương Nhân, Vi Cương - Triệu Phú - Cổ
Tích với lễ hội thời Hùng Vương và lễ hội Đền Hùng của ThS. Trần Văn Thục, Hiền
Lương - Lễ hội đền Mẫu Âu Cơ của ThS. Trần Văn Hùng, Tứ Xã - Di chỉ văn hoá Gò
Mun, di sản tín ngưỡng phồn thực của ThS. Bùi Huy Toàn, Làng Cả - Di chỉ văn hoá

Đông Sơn, kinh đô Văn Lang của TS. Hà Thị Lịch, Làng cổ Phú Lộc và lễ hội tiền
nông nghiệp đặc sắc của ThS. Nguyễn Thị Thịnh, Lễ hội làng Thanh Đình với trò
rước ông Khiu, bà Khiu của TS. Nguyễn Thị Thúy Hằng, Kinh Kệ - Di chỉ văn hóa
Phùng Nguyên và lễ hội nấu cơm thi độc đáo của ThS. Đào Kim Quế
Tác giả Phạm Bá Khiêm (Phó giám đốc Sở VH,TT &DL, Phó Chủ tịch Hội
DSVH tỉnh Phú Thọ) khẳng định: “DSVH Đất Tổ là một chỉnh thể thống nhất không
thể tách rời giữa di tích bất động sản và di tích động sản (DSVHVT & DSVHPVT);
giữa môi trường nhân văn và môi trường thiên nhiên (di sản thiên nhiên)”. [31; 7].
ThS. Trần Văn Khai (Nguyên Phó giám đốc Sở VH,TT &DL) đưa ra nhận
định: “Nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng núi Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng
và vùng núi Tây Bắc, vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâm của tiểu vùng Tây – Đông -
Bắc đem lại lợi thế trong mối liên kết vùng phát triển du lịch. [24; 220].
ThS. Nguyễn Thị Huyền (Trường Đại học Hùng Vương), trong nghiên cứu của
mình đã đánh giá: “Việt Trì là nơi gìn giữ những dấu tích văn hóa sâu đậm nhất về
kinh đô Văn Lang, nhà nước đầu tiên và hoạt động dựng nước của các vua Hùng.
Ngày nay, Việt Trì vẫn mang trong mình một sức mạnh tiềm tàng và vô tận của nền
văn hóa ấy; một không gian văn hóa nơi cội nguồn dân tộc - không gian Đất Tổ Hùng
Vương. Đó là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn thực sự có giá trị để trở thành tiềm
năng mang tính lợi thế phân biệt về du lịch văn hóa so với các tỉnh thành khác trong
cả nước”. [24; 228].
Ở một nghiên cứu khác, tác giả đã nhận định rõ hơn về tiềm năng phát triển loại
hình du lịch di sản trên địa bàn tỉnh Phú Thọ: "Hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể vùng đất Tổ nói chung và Phú Thọ nói riêng rất phong phú, đặc sắc thậm chí
có những di sản mang tính độc đáo riêng có như các phong tục, tập quán, truyền
thống, lễ hội, di sản văn hóa dân gian lâu đời từ thời dựng nước. Đặc biệt và tiêu
biểu nhất là hai di sản xứng tầm thế giới: Hát xoan và Tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương. Như vậy, xét về tiềm năng, loại hình du lịch di sản ở tỉnh Phú Thọ là một loại
hình giàu tiềm năng phát triển "
10
Các tác giả với các nghiên cứu nêu trên đã gặp gỡ và thống nhất ở chỗ nhấn

mạnh tính giá trị của hệ thống di sản văn hóa. Nếu được khai thác hợp lí chắc chắn
đem lại nguồn lợi lớn cho người dân và tỉnh Phú Thọ.
Vì vậy, đề tài xác định nghiên cứu du lịch di sản dưới góc độ là một loại hình du
lịch văn hóa và với hình thức du lịch trải nghiệm toàn bộ những di sản văn hóa cả vật
thể và phi vật thể, cả của quá khứ và hiện tại, không phân biệt so sánh lớn hay nhỏ, di
sản thế giới hay di sản quốc gia, địa phương mà chú trọng sự khác biệt trong cảm
nhận trải nghiệm của du khách.
Theo chúng tôi, điểm mới có thể ghi nhận của đề tài là tiếp cận khái niệm du
lịch di sản, tìm hiểu tiềm năng và điều kiện, đề xuất một số ý kiến về giải pháp góp
phần phát triển loại hình du lịch này ở tỉnh Phú Thọ với hai sản phẩm cụ thể:
- Một là sản phẩm du lịch đặc thù của vùng đất Tổ với tên gọi "Hành trình một
điểm đến hai di sản"
- Hai là sản phẩm du lịch phổ biến: "Du lịch trải nghiệm di sản đất Tổ" hoặc "Du
lịch di sản văn hóa cội nguồn đất Tổ".
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
+ Lí luận: Trên cơ sở khái quát hóa và hệ thống hóa các quan điểm, ý kiến cũng
như các tài liệu nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, đề tài hướng tới việc
xây dựng được một hệ thống cơ sở lí luận tương đối vững chắc cho phạm vi nghiên
cứu của đề tài. Trong đó, quan trọng nhất là việc xác định và khẳng định góc độ tiếp
cận của du lịch di sản là một loại hình du lịch văn hóa.
+ Thực tiễn: Từ nền tảng lí luận và những nghiên cứu, tìm hiểu và xử lí thông
tin, số liệu về hiện trạng, đề tài đi sâu phân tích khả năng cũng như định hướng phát
triển của loại hình du lịch di sản nói chung và sản phẩm du lịch di sản nói riêng trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ. Từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất về mặt giải pháp nhằm
phát huy giá trị nguồn tài nguyên di sản trên địa bàn tỉnh, góp phần phát triển loại
hình và sản phẩm du lịch di sản ở địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện những mục tiêu nghiên cứu nêu trên, đề tài tập trung giải quyết
một số nhiệm vụ chính sau:

+ Tìm hiểu cơ sở lí luận về vấn đề du lịch văn hóa, du lịch di sản.
11
+ Nghiên cứu tiềm năng, điều kiện phát triển, hiện trạng, xu thế phát triển loại
hình du lịch di sản nói chung và sản phẩm du lịch di sản nói riêng trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ.
+ Đưa ra những kiến nghị, đề xuất về mặt giải pháp phát huy giá trị nguồn tài
nguyên di sản trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, góp phần phát triển loại hình và sản phẩm
du lịch di sản ở tỉnh nhà.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Loại hình du lịch di sản dưới góc độ tiếp cận là một loại hình du lịch văn hóa.
Trong đó, đề tài tập trung nghiên cứu những lĩnh vực chủ yếu của du lịch văn
hóa nói chung và du lịch di sản Phú Thọ nói riêng như cơ sở vật chất kỹ thuật, sản
phẩm du lịch, di tích lịch sử, văn hóa, thị trường, nguồn nhân lực, công tác tổ chức,
quản lý, tuyên truyền, quảng bá, công tác bảo tồn các di sản và tác động của du lịch
đối với các di sản văn hóa ở tỉnh Phú Thọ
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Địa bàn tỉnh Phú Thọ
+ Thời gian: Sử dụng các kết quả nghiên cứu liên quan của các tác giả, tổ chức,
đơn vị khác từ trước tới nay (tính đến thời điểm năm 2013); các kết quả điều tra thực
tiễn của nhóm nghiên cứu trong năm 2013, 2014.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
* Quan điểm hệ thống
Quan điểm hệ thống là một trong những quan điểm được sử dụng rộng rãi trong
du lịch do tính chất tổng thể của đối tượng nghiên cứu. Theo quan điểm này, khi
nghiên cứu một vấn đề cụ thể nào đó phải đặt nó trong vị trí tương quan với nhiều
vấn đề, các yếu tố trong hệ thống cao hơn và trong cấp phân vị thấp hơn. Trong phạm
vi nghiên cứu của đề tài, nhóm nghiên cứu đã quán triệt quan điểm này để đặt đối
tượng nghiên cứu là loại hình du lịch di sản trong tương quan các loại hình du lịch

văn hóa, đồng thời đặt các di sản với vai trò là tài nguyên loại hình trong hệ thống
các giá trị văn hóa vùng đất Tổ.
* Quan điểm tổng hợp
Đối tượng nghiên cứu của đề tài phân bố trên phạm vi không gian lãnh thổ nhất
12
định và có đặc trưng riêng, việc áp dụng quan điểm tổng hợp lãnh thổ cho phép xem
xét các yếu tố, sự kiện trong mối quan hệ tương tác, phát triển ra các quy luật phát
triển, các nhân tố tác động đến sự phát triển của du lịch trong phạm vi lãnh thổ
nghiên cứu cũng như mối quan hệ chặt chẽ với các lãnh thổ khác.
Quan điểm tổng hợp là quan điểm truyền thống của địa lý học được vận dụng
trong đề tài dưới 2 góc độ khác nhau:
- Nghiên cứu toàn bộ các điều kiện, tài nguyên du lịch (tự nhiên, nhân văn), các
yếu tố kinh tế - xã hội, sự phân bố và biến động của chúng.
- Nghiên cứu sự kết hợp có quy luật của các hợp phần, trên cơ sở phân tích tổng
hợp các hợp phần của hệ thống lãnh thổ du lịch, phát hiện và xác định những đặc
điểm có tính đặc thù của tài nguyên di sản văn hóa.
* Quan điểm phát triển bền vững
Du lịch là một trong những ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên
du lịch có ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến cấu trúc
và chuyên môn hóa của vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của hoạt động du lịch - dịch
vụ. Sức hấp dẫn của vùng du lịch phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch. Thực tế
việc kinh doanh của ngành du lịch đã dẫn đến sự ô nhiễm môi trường tự nhiên cũng
như tác động và biến đổi môi trường văn hóa, xã hội, làm ảnh hưởng đến chất lượng
tài nguyên du lịch. Do đó phát triển du lịch cần phải chú ý sự phát triển bền vững khi
sử dụng các loại tài nguyên du lịch, phải đảm bảo để nguồn tài nguyên đó có giá trị
lâu dài cho các thế hệ mai sau, đặc biệt là nguồn tài nguyên du lịch nhân văn quan
trọng là hệ thống các di sản văn hóa.
Ngoài 3 quan điểm chủ đạo trên, đề tài còn sử dụng một số quan điểm khác như
quan điểm kinh tế, quan điểm lịch sử, quan điểm sinh thái, quan điểm dự báo
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau:
* Phương pháp phân tích và tổng hợp tư liệu: được dùng để xử lí các nguồn tư
liệu, thư tịch, sách báo, tạp chí nghiên cứu khoa học đã thu thập được nhằm làm rõ
đặc điểm, đánh giá tiềm năng du lịch của hệ thống di sản văn hóa trên vùng đất Tổ.
* Phương pháp điền dã, thực địa: Việc tiếp cận trực tiếp với đối tượng nghiên
cứu cho phép thu nhận trực tiếp những thông tin cập nhật, cụ thể mà các tài liệu
thành văn cũng như bản đồ không có ưu thế hơn. Với phương pháp này, giúp chúng
13
ta có thể chủ động quan sát, điều tra, ghi chép, chụp ảnh, phỏng vấn nhân dân địa
phương và những người làm việc hay cơ quan có liên quan đến hoạt động du lịch.
Các kết quả điều tra thực địa là cơ sở quan trọng để thẩm định lại số liệu nhận định
trong quá trình nghiên cứu.
* Phương pháp liên ngành: giúp liên kết sự đa dạng của những hiện tượng VH
vốn được các ngành khoa học khác nhau nghiên cứu một cách biệt lập, tổng hợp kết
quả nghiên cứu của các ngành khoa học khác nhau nhằm giải thích một cách toàn
diện bản chất của VH, nghiên cứu có hiệu quả các biểu hiện đa dạng, đa chiều kích
của VH. Phương pháp này giúp cho việc tích hợp kiến thức từ các ngành khoa học
khác nhau để xử lý một cách toàn diện và đồng bộ các đối tượng nghiên cứu của đề
tài là hệ thống di sản văn hóa trong phát triển du lịch.
* Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Phương pháp này được sử dụng để nghiên
cứu về sự hình thành và tiếp biến của những giá trị di sản VH truyền thống còn lưu
giữ cho tới ngày nay, đồng thời thấy được giá trị DL của hệ thống di sản đó.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu chủ yếu nêu trên, đề tài còn sử dụng một
số phương pháp khác như: Phương pháp chuyên gia, phỏng vấn, phương pháp dự báo
xu thế v.v
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung đề tài được bố cục thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận về du lịch văn hóa và du lịch di sản
Chương 2. Tiềm năng, thực trạng hoạt động du lịch văn hóa và du lịch di sản trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ

Chương 3. Đề xuất về giải pháp phát triển loại hình du lịch di sản trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ
14
15
NỘI DUNG
Chương 1
Cơ sở lí luận về du lịch văn hóa và du lịch di sản
1.1. Du lịch văn hóa
1.1.1. Khái niệm
Du lịch văn hóa là một loại hình du lịch. Hiện nay trên thế giới và ngay cả ở
Việt Nam có rất nhiều định nghĩa về loại hình du lịch này:
“Du lịch văn hóa bao gồm hoạt động của những người với động cơ chủ yếu là
nghiên cứu, khám phá về văn hóa như các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ
thuật biểu diễn, về các lễ hội và các sự kiện về văn hóa khác nhau, thăm các di tích
đền đài, du lịch nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành
hương”. (UNWTO)
“Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá những di tích
và di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp vào việc duy
tu, bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng cho những nổ lực bảo tồn và
tôn tạo, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng vì những lợi ích văn hóa – kinh tế – xã hội”
(ICOMOS).
Theo Luật du lịch Việt Nam thì “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào
bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống”.
Hay theo GS. Trần Quốc Vượng: “Du lịch văn hóa là loại hình chủ yếu hướng
vào việc quy hoạch, lập trình, thiết kế các tour lữ hành tham quan các công trình
kiến trúc cổ kim”
Như vậy, du lịch văn hóa là phương thức truyền tải các giá trị văn hóa của
một địa phương, một quốc gia bằng du lịch. Đây là loại hình du lịch khai thác các
giá trị văn hóa và sử dụng, phát triển các giá trị đó như là một tài nguyên du lịch. Du

lịch văn hóa mang sứ mệnh tôn vinh và bảo vệ các giá trị tốt đẹp của con người bên
cạnh đó du lịch văn hóa còn góp phân đánh thức, làm sống dậy các giá trị văn hóa
của dân tộc, nhân loại.
1.1.2. Tài nguyên du lịch văn hóa
16
Du lịch văn hóa sử dụng văn hóa như là nguồn lực. Có hai loại tài nguyên
thuộc về văn hóa được sử dụng trong loại hình du lịch này là: tài nguyên nhân văn và
tài nguyên xã hội [2]
- Tài nguyên du lịch nhân văn: Là những của cải, vật chất và của cải tinh thần
do con người sáng tạo ra, có khả năng thu hút con người tiến hành hoạt động du lịch
văn hóa.
- Tài nguyên du lịch xã hội: Là những nét riêng biệt về phong tục, tập quán,
quan niệm và phương thức sản xuất, sinh hoạt trong đời sống dân cư ở mỗi dân tộc
Tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch xã hội được khai thác nhằm
phục vụ cho du lịch văn hóa được gọi chung là tài nguyên du lịch văn hóa. Tài
nguyên du lịch văn hóa mang một số tính chất chung như: Tính đa dạng, tính không
dịch chuyển, tính hấp dẫn, tính độc đáo và đặc biệt là tính dễ tổn thất
Tài nguyên văn hóa được chia ra 2 loại cơ bản là tài nguyên văn hóa vật thể và
tài nguyên văn hóa phi vật thể
Bảng 1.1: Tài nguyên văn hóa vật thể và phi vật thể
Tài nguyên văn hóa vật
thể
Tài nguyên văn hóa phi vật thể
- Kiến trúc
- Điêu khắc
- Hội họa
- Trang phục
- Trang sức
- Ẩm thực
- Công cụ lao động, sản

xuất
- Vũ khí chiến đấu
- Phương tiện sinh hoạt
- Tôn giáo, tín ngưỡng
- Phong tục, tập quán
- Lễ hội
- Ngôn ngữ
- Văn học nghệ thuật
- Âm nhạc
- Vũ đạo
- Võ thuật
- Nghề thủ công truyền thống
- Các di sản truyền khấu dân gian
- Nghệ thuật diễn xướng
Tuy nhiên không phải tài nguyên văn hóa nào cũng là tài nguyên du lịch văn
hóa. Tài nguyên du lịch văn hóa là toàn bộ tài nguyên văn hóa có khả năng kết hợp
với các loại dịch vụ du lịch tương ứng để tạo thành sản phẩm du lịch [14]
17
1.1.3. Sản phẩm du lịch văn hóa
Hiện nay có rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm về sản phẩm
du lịch văn hóa. Sản phẩm du lịch văn hóa mang đầy đủ đặc điểm của một sản phẩm
du lịch và một sản phẩm văn hóa.
Theo cuốn Markettinh du lịch của Phạm Huy Khang: “sản phẩm du lịch là tập
hợp của nhiều hoặc thành phần khác nhau bao gồm những vật chất hữu hình và vô
hình, hầu hết các sản phẩm du lịch là những dịch vụ và kinh nghiệm”.
Theo điều 4, Luật du lịch Việt Nam năm 2005: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các
dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”.
Như vậy có thể tiếp cận khái niệm sản phẩm du lịch ở những quan điểm sau:
- Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch được
tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng

các nguồn lực: cơ sở vật chất kĩ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một
quốc gia nào đó. Sản phẩm du lịch được hợp thành bởi những bộ phận sau:
+ Dịch vụ vận chuyển.
+ Dịch vụ lưu trú, ăn uống.
+ Dịch vụ tham quan giải trí.
+ Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm.
+ Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch.
- Sản phẩm du lịch là một phức hợp cấu thành từ ba yếu tố căn bản: Tài
nguyên du lịch, các dịch vụ du lịch và hệ thống cơ sở vật chất - kĩ thuật.
Sản phẩm du lịch có hai loại cơ bản:
- Sản phẩm du lịch hữu hình dưới dạng vật thể: Ví dụ: Đồ lưu niệm, các món
ăn, đồ uống mà khách du lịch sử dụng trong nhà hàng và các loại hàng hóa khác. Sản
phẩm dạng này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng tương đối quan trọng trong sản phẩm
du lịch nói chung. Vì sản phẩm du lịch ở dạng này phản ánh được mức độ phát triển
của điểm du lịch, chất lượng phục vụ cũng như chất lượng sản phẩm có để lại dấu ấn
đối với du khách.
- Sản phẩm du lịch vô hình dưới dạng phi vật thể và chỉ có thể biết được thông
qua cảm nhận của khách du lịch.
Bên cạnh đó xuất phát từ định nghĩa văn hóa của GS dân tộc học Từ Chi “Tất
cả những gì không phải thiên nhiên đều là văn hóa” thì sản phẩm văn hóa là sản
18
phẩm của con người, do con người và vì con người. Bất kì một sản phẩm nào do con
người sáng tạo, sản xuất ra đều được coi là sản phẩm văn hóa.
Bảng 1.2: So sánh sản phẩm du lịch và sản phẩm văn hóa [29, 33]
Sản phẩm văn hóa Sản phẩm du lịch
-Bền vững, tính bất biến cao. -Thích ứng, tính khả biến cao.
-Mang nặng dấu ấn của cộng đồng
cư dân bản địa.
-Mang nặng dấu ấn của các cá
nhân, các nhà tổ chức, khai thác.

-Dùng cho tất cả các đối tượng khác
nhau, phục vụ mọi người.
-Chỉ dùng cho khách du lịch,
phục vụ những đối tượng sử dụng dịch
vụ du lịch.
-Sản xuất ra không phải để bán, chủ
yếu phục vụ đời sống sinh hoạt văn hóa –
tinh thần của cư dân bản địa.
-Sản xuất ra phải được bán ra thị
trường, bán cho du khách, phục vụ nhu
cầu của các đối tượng du khách là cư
dân của các vùng miền khác nhau.
-Chú trọng giá trị tinh thần, giá trị
không đo được hết bằng giá cả.
-Giá trị văn hóa đi kèm giá trị
kinh tế - xã hội. Giá trị được đo bằng
giá cả.
-Quy mô hạn chế, thời gian và
không gian xác định.
-Quy mô không hạn chế, thời
gian và không gian không xác định.
-Sản phẩm mang nặng định tính,
khó xác định định lượng. Giá trị của sản
phẩm mang tính vô hình thể hiện qua ấn
tượng, cảm nhận,…
-Định tính, định lượng được thể
hiện qua thời gian hoạt động. Giá trị
của sản phẩm là hữu hình, biểu hiện
thong qua những chỉ số kinh tế thu
được.

Như vậy khi sản phẩm văn hóa tham gia vào quá trình kinh doanh du lịch thì
trở thành sản phẩm du lịch văn hóa và một lẽ tất nhiên sản phẩm du lịch văn hóa này
do con người sáng tạo và chi phối theo nhiều hướng.
Sản phẩm du lịch văn hóa xét về mặt bản chất thì là dịch vụ. Tuy nhiên nếu chỉ
là dịch vụ thì chưa đủ, yếu tố quyết định đến sản phẩm du lịch văn hóa là tài nguyên
du lịch văn hóa. Tài nguyên du lịch nào sẽ quyết định loại hình du lịch đấy, dịch vụ
du lịch đấy. Sản phẩm du lịch văn hóa phải là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch văn
hóa và các dịch vụ du lịch văn hóa thích hợp phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám
phá, trải nghiệm của du khách về những điều khác biệt, mới lạ của các nền văn hóa
khác nhau.[14]
19
1.1.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là một thành phần quan trọng trong việc khai
thác có hiệu quả tài nguyên du lịch và thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Vậy cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch là toàn bộ những phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo
ra và thực hiện các dịch vụ du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của du khách
Hiểu theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch không chỉ là cơ sở vật
chất của riêng ngành du lịch (nhà hàng, khách sạn, hệ thống điện, nước, vệ sinh phục
vụ tại điểm du lịch) mà còn bao gồm cả cơ sở hạ tầng của các ngành kinh tế khác có
liên quan (mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước của
vùng )
Hiểu theo nghĩa hẹp, thì cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch gồm tất cả phương
tiện vật chất với công suất, các bố trí cơ cấu đồng bộ trong khu vực du lịch nhằm tạo
ra các dịch vụ để tổ chức, thực hiện các dịch vụ du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch cũng phụ thuộc nhiều vào tài nguyên du lịch
(loại hình, sức chưa ). Tuy nhiên sự phụ thuộc đó không phải là sự phụ thuộc một
chiều mà là mối quan hệ tương tác lẫn nhau.
Như vật cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa cũng phụ thuộc nhiều vào
tài nguyên du lịch văn hóa. Chính vì thế mà nó bao gồm toàn bộ cơ sở vật chất kỹ
thuật của điểm du lịch văn hóa phục vụ trực tiếp cho khách đến tham quan, tìm hiểu

điểm du lịch văn hóa như: Lưu trú, các nhà hàng, hệ thống giao thông, thông tin liên
lạc, khu giải trí, điện nước, bến bãi Chính cơ sở vật chất của du lịch văn hóa là một
trong các yếu tố góp phần quyết định chất lượng dịch vụ, góp phần giúp cho du lịch
văn hóa phát triển
1.1.5. Nhân lực trong du lịch văn hóa
Nhân lực du lịch bao gồm những người trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra những
sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của con người và nhu cầu phát triển xã hội.
Nguồn nhân lực du lịch được hiểu là nguồn lao động tham gia vào các hoạt
động của ngành Du lịch. Nguồn lực lao động ở đấy là tổng thể của thể lực và trí lực.
Nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch có thể phân thành 3 nhóm sau:
- Nhóm nhân lực có chức năng quản lý nhà nước về du lịch: bao gồm những
người làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương xuống
đến địa phương như Tổng cục Du lịch, Sở Du lịch hoặc Sở Thương mại, Du lịch ở
20
các tỉnh, thành phố, phòng quản lý du lịch ở các quận, huyện. Bộ phận lao động này
có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển du lịch của guốc
gia và của từng địa phương, tham mưu cho các cấp Đảng và chính quyền trong việc
đề ra đường lối và chính sách phát triển du lịch bền vững và có hiệu quả.
- Nhóm nhân lực có chức năng sự nghiệp ngành du lịch: bao gồm những người
làm việc ở các cơ sở giáo dục, đào tạo như cán bộ giảng dạy, nghiên cứu ở các trường
đại học, cao đẳng, trung học và cán bộ nghiên cứu ở cá viện khoa học về du lịch.
- Nhóm nhân lực có chức năng kinh doanh du lịch. Trong nhóm nhân lực chức
năng kinh doanh du lịch có thể phân thành 4 bộ phận: bộ phận nhân lực có chức năng
quản lý chung của doanh nghiệp du lịch, bộ phận nhân lực có chức năng quản lý theo
các nghiệp vụ kinh tế trong doanh nghiệp du lịch, bộ phận nhân lực có chức năng
đảm bảo điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp du lịch, bộ phận nhân lực trực tiếp
cung cấp dịch vụ cho khách trong doanh nghiệp du lịch
Như vậy nhân lực trong du lịch văn hóa là toàn bộ những người trực tiếp hoặc
gián tiếp làm việc có liên quan đến du lịch văn hóa. Bao gồm đội ngũ quản lý nhà
nước về du lịch văn hóa, đào tạo nhân lực du lịch và kinh doanh du lịch văn hóa,

trong đó ở Phú Thọ cần phải quan tâm đầu tư ngay cho đội ngũ hướng dẫn viên và
thuyết minh viên tại điểm.
1.1.6. Điểm đến du lịch văn hóa
Điểm đến du lịch là một khái niệm khá rộng. Điểm đến du lịch có thể là một
điểm du lịch nhưng cũng có thể là một thành phố, thị xã, khu vực thậm chí là quốc
gia hay lục địa. Điểm đến du lịch có thể chứa một hoặc nhiều điểm thăm quan hấp
dẫn
“Điểm đến du lịch là một không gian vật chất mà du khách ở lại ít nhất một
đêm. Nó bao gồm các sản phẩm du lịch như các dịch vụ hỗ trợ, các điểm đến và
tuyến điểm du lịch trong thời gian một ngày. Nó có các giới hạn vật chất và quản lý
giới hạn hình ảnh, sự quản lý xác định tính cạnh tranh trong thị trường. Các điểm
đến du lịch địa phương thường bao gồm nhiều bên hữu quan như một cộng đồng tổ
chức và có thể kết nối lại với nhau để tạo thành một điểm đến du lịch lớn hơn”
(UNWTO - 2004)
Các yếu tố cấu thành điểm đến du lịch:
21
- Điểm hấp dẫn du lịch: Theo điều 4 của Luật Du lịch Việt Nam (2005) thì
“Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch”.
- Giao thông đi lại: sự phát triển và duy trì giao thông có hiệu quả nối liền với
các thị trường nguồn khách là điều kiện căn bản cho sự thành công của các điểm đến
du lịch
- Các tiện nghi, ăn nghỉ, dịch vụ hỗ trợ và các hoạt động bổ sung
Vậy điểm đến du lịch văn hóa có thể hiểu là những điểm có tài nguyên du lịch
văn hóa nổi trội, có khả năng hấp dẫn du khách; hoạt động kinh doanh du lịch văn
hóa có hiệu quả và đảm bảo phát triển bền vững.
Điểm đến trong du lịch di sản chính là toàn bộ những điểm có tài nguyên du
lịch văn hóa di sản như di tích lịch sử, khảo cổ, các danh lam, linh từ, các di sản văn
hóa đã được công nhận ở các cấp từ địa phương tới TW, được vinh danh trên thế
giới.

1.1.7. Thị trường của du lịch văn hóa
Thị trường du lịch là phạm trù cơ bản của kinh doanh sản phẩm hàng hóa du
lịch, nó là tổng thể các hành vi và quan hệ kinh tế của cả du khách và người kinh
doanh phát sinh trong quá trình trao đổi.
Theo nghĩa hẹp :Thị trường du lịch chỉ là thị trường nguồn khách du lịch, tức
là vào một thời gian nhất định, thời điểm nhất định tồn tại người mua hiện thực và
người mua tiềm năng có khả năng mua sản phẩm hàng hóa du lịch
Theo nghĩa rộng : Thị trường du lịch chỉ là tổng thể các hành vi và quan hệ
kinh tế thể hiện ra trong quá trình trao đổi sản phẩm du lịch. Mâu thuẫn cơ bản của
thị trường du lịch là mâu thuẫn giữa nhu cầu và cung cấp sản phẩm du lịch
Phân loại thị trường du lịch :
- Phân loại thị trường theo phạm vi lãnh thổ bao gồm thị trường du lịch quốc tế
và thị trường du lịch nội địa
- Phân loại theo đặc điểm không gian của cung và cầu du lịch gồm có thị
trường gửi khách và thị trường nhận khách
- Phân loại theo thực trạng thị trường du lịch gồm thị trường du lịch thực tế,
thị trường du lịch tiềm năng và thị trường du lịch mục tiêu.
22
Thị trường du lịch văn hóa được hiểu là một kiểu thị trường du lịch mục tiêu
được lựa chọn cho loại hình du lịch văn hóa. Thị trường du lịch văn hóa là nơi diễn
ra tất cả các hoạt động và quan hệ kinh tế thể hiện ra trong quá trình trao đổi sản
phẩm du lịch văn hóa.
Như vậy thì đối với loại hình du lịch di sản, đối tượng khách có thể cụ thể và
chuyên biệt hơn một chút hướng vào nhóm khách có nhu cầu trải nghiệm, thưởng
thức, khám phá ở mức độ yêu cầu cao hơn và sâu hơn về các sản phẩm du lịch và
chất lượng văn hóa của các sản phẩm du lịch.
1.1.8. Tổ chức, quản lý du lịch văn hóa
Công tác tổ chức, quản lý du lịch văn hóa cũng đồng nghĩa với công tác tổ
chức quản lý, phát huy và bảo tồn các di sản văn hóa. Đây là điều kiện quan trọng để
đảm bảo tính hiệu quả và bền vững để phát triển du lịch văn hóa. Việc tổ chức quản

lý du lịch văn hóa nhằm mục đích khai thác, phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa
trong du lịch. Như vậy, việc tổ chức, quản lý du lịch văn hóa dựa trên cơ sở nội dung
quản lý nhà nước về du lịch như sau:
Đối với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch văn hóa
Ngành du lịch hiện nay đã và đang không ngừng phát triển, các di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể đã trở thành nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng trong việc
phát triển du lịch của một vùng, miền. Vì thế, việc khai thác và sử dụng đúng ý
nghĩa, mục đích của các di sản văn hóa là quyết định hiệu quả thành công của ngành
kinh doanh du lịch.
Tổ chức quản lý nhà nước về du lịch văn hóa hiện nay đang là vấn đề được
lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo ngành và các doanh nghiệp quan tâm. Tổ chức quản lý
nhà nước được thực hiện tốt sẽ góp phần vào hiệu quả kinh doanh của ngành du lịch
và định hướng phát triển bền vững của ngành. Căn cứ vào điều 10, Luật du lịch Việt
Nam quy định nội dung quản lý nhà nước về du lịch từ đó suy ra các chức năng và
nhiệm vụ trong việc tổ chức quản lý du lịch văn hóa của các cấp chính quyền từ trung
ương đến địa phương và các đơn vị kinh doanh du lịch như sau:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch và chính sách phát
triển du lịch văn hóa.
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản, các tiêu chuẩn định
mức kinh tế - kỹ thuật của hoạt động du lịch văn hóa trong phạm vi pháp luật du lịch.
23
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch văn hóa.
- Tổ chức và quản lý hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch văn hóa; nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ.
- Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch văn hóa, xác định khu du lịch
văn hóa, điểm du lịch văn hóa, tuyến du lịch văn hóa để xây dựng quy hoạch phát
triển du lịch văn hóa.
- Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế và hoạt động xúc tiến du lịch văn hóa ở
trong và ngoài nước.
- Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và sự phối hợp của các cơ quan

nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch văn hóa.
- Quy định trách nhiệm cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động
du lịch văn hóa.
- Kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong
hoạt động du lịch văn hóa.
Đối với chính quyền địa phương
Theo sự phân cấp về quyền hạn và trách nhiệm của chính phủ, UBND cấp tỉnh,
cấp thành phố có trách nhiệm thực hiện đúng và tốt nhiệm vụ được phân công trong
công tác quản lý nhà nước về du lịch văn hóa ở từng địa phương. Việc quản lý phải
được cụ thể hóa trong công tác quy hoạch, ban hành quy chế, các chính sách phát
triển du lịch văn hóa phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa
phương.
Đối với cơ sở kinh doanh du lịch văn hóa
Các cơ sở kinh doanh du lịch văn hóa phải chấp hành mọi quy định của nhà
nước về tổ chức, quản lý các hoạt động có liên quan đến du lịch văn hóa. Bên cạnh
việc khai thác có hiệu quả các giá trị di sản văn hóa, các doanh nghiệp phải biết giữ
gìn và tôn tạo nguồn tài nguyên vô giá này để hoạt động kinh doanh phát triển bền
vững.
1.1.9. Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá du lịch văn hóa
Trong kinh doanh việc xúc tiến, tuyên truyền quảng bá sản phẩm luôn đóng vai
trò quan trọng để khẳng định tính hiệu quả của công việc và sự tồn tại của sản phẩm
trên thị trường. Công tác quảng bá trong du lịch góp phần quan trọng trong việc giới
thiệu hình ảnh sản phẩm du lịch đến với du khách và mang về hiệu quả thiết thực cho
24
ngành du lịch. Vì thế, việc xúc tiến tuyên truyền quảng bá trong du lịch có thể được
hiểu “Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm,
thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch”
1
.[27, 4]
Như vậy xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá trong du lịch văn hóa là tranh thủ

mọi cơ hội có thể để quảng bá hình ảnh du lịch văn hóa đến với thị trường du lịch
trong và ngoài nước. Mục đích của việc xúc tiến, tuyên tuyền, quảng bá trong du lịch
văn hóa là hoạt động giới thiệu các sản phẩm du lịch văn hóa để du khách có thể
chiêm ngưỡng, đánh giá, nghiên cứu, đồng thời, tạo điều kiện thúc đẩy du lịch văn
hóa phát triển và mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất cho ngành du lịch.
1.1.10. Bảo tồn di sản văn hóa trong du lịch
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên về di sản văn hóa vật thể, phi vật thể
khá đa dạng, phong phú. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng trong phát triển du lịch
văn hóa của đất nước.Có thể nhận thấy ở đâu có di sản văn hóa, ở đó có khách du lịch
đến. Mà du lịch thì sẽ kéo theo các hoạt động dịch vụ khác. Du lịch là một phương
thức để đưa di sản đến với công chúng. Thông qua hoạt động du lịch, những di sản
văn hoá vốn đang “khô cứng” hoặc đang bị “bảo tàng hóa” trở thành những di sản
sống, được phục vụ, được cống hiến với sứ mạng nhân văn cao cả. Hoạt động bảo tồn
di sản văn hóa có ý nghĩa lớn đối với phát triển du lịch.
Luật Di sản của Việt Nam đã khẳng định “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản
quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa
nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân
ta”
2
.Như vậy, việc bảo tồn di sản văn hóa và các giá trị văn hóa trong du lịch bao giờ
cũng là cần thiết và cấp bách. Từ hoạt động thực tiễn của việc bảo tồn di sản ở Việt
Nam trong nhiều năm qua thể hiện cách nhìn nhận không đúng về di sản, sự không
thống nhất về cách nghĩ cách làm của các nhà quản lý đã làm cho các di sản bị tổn
hại và đôi khi đánh mất luôn cả giá trị thực của nó. Xét về mặt du lịch văn hóa những
việc làm sai trái trong công tác bảo tồn các di sản văn hóa sẽ làm cho nguồn tài
nguyên du lịch bị mai một. Do vậy việc bảo tồn tài nguyên du lịch văn hóa cần phải
có quy trình cụ thể như sau:
Sơ đồ 1.1: Quy trình bảo tồn di sản
1
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2009), Luật Du lịch, Nxb Lao động, tr.4

2
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Di sản Văn hóa
25
1.2. Du lịch di sản
1.2.1. Khái niệm
Với sự ra đời của công ước bảo vệ di sản thế giới và nhất là khi số lượng các địa
điểm được ghi vào danh sách di sản thế giới của UNESCO ngày càng gia tăng mà
Việt Nam cũng là một ví dụ, khái niệm di sản thường được hiểu là di sản thế giới.
Di sản thế giới là di chỉ hay di tích của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa
mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố có giá trị thẩm mỹ, văn hóa, lịch
sử nổi bật toàn cầu do các nước có tham gia Công ước di sản thế giới đề cử cho
Chương trình quốc tế Di sản thế giới, được công nhận và quản lí bởi UNESCO. Đây
phải là những mẫu tiêu biểu có giá trị toàn cầu đáp ứng ít nhất 1 trong 10 tiêu chí
được nêu ra trong Công ước Di sản thế giới.
Tính đến năm 2011, trên thế giới có tất cả 936 di sản được liệt kê, trong đó có
725 di sản về văn hóa, 183 di sản thiên nhiên và 28 di sản thuộc cả hai loại. Các di
sản đó hiện diện tại 153 quốc gia.
Sau khi được ghi vào danh sách di sản thế giới, các di sản thu hút nhiều khách
tham quan hơn so với trước. Một sản phẩm du lịch mang tên "du lịch di sản" được
thường xuyên nhắc đến. Điều này đã làm cho mọi người hiểu du lịch di sản chỉ là
Nhận diện di sản
Nghiên cứu và kiểm kê di sản
Xây dựng chính sách bảo tồn
Chỉ định cơ quan bảo tồn
Trùng tu, tôn tạo & phát triển
Quản lý & quảng bá di sản

×