Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

các phương pháp dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.76 KB, 14 trang )

• Phương pháp dạy học
• Khái niệm về phương pháp dạy học
Thuật ngữ phương pháp trong tiếng Hy Lạp là “Méthodos” có nghĩa là con
đường, cách thức hoạt động nhằm đạt được mục đích nhất định. Vì vậy, phương
pháp là hệ thống những hành động tự giác, tuần tự nhằm đạt được những kết quả
phù hợp với mục đích đã định.
Trong phương pháp dạy học, chủ thể tác động – người thầy giáo và đối tượng
tác động của họ là học sinh. Còn học sinh lại là chủ thể tác động của mình vào nội
dung dạy học. Vì vậy, người thầy giáo phải nắm vững những quy luật khách quan
chi phối tác động của mình vào học sinh và nội dung dạy học thì mới đề ra những
phương pháp tác động phù hợp.
2. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
2.1. Khái niệm tính tích cực
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã hội. Khác với
động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ
động, bằng lao động, sản xuất ra những của cải vật chất cần cho sự tồn tại của xã hội,
sáng tạo ra nền văn hóa ở mỗi thời đại. Hình thành và phát triển tính tích cực xã hội đã là
củng cố một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục nhằm đào tạo những con người
năng động, thích ứng và góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như là
một điều kiện đồng thời là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong quá trình giáo
dục.
2.2. Phương pháp tích cực
Phương pháp tích cực để chỉ những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo của người học. Phương pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của người học nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người học chứ không phải là tâp trung vào người dạy.
2.3. Những dấu hiệu đặc trưng của các phương pháp tích cực
Có bốn dấu hiệu cơ bản:
- Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh
- Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
- Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học nhóm


- Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò
3. Các phương pháp dạy học tích cực
Có rất nhiều phương pháp dạy học trong đó có một số nhóm phương pháp
thường được sử dụng hiện nay đó là:
- Phân nhóm các phương pháp dùng lời: bao gồm phương pháp thuyết trình và
phương pháp vấn đáp (đàm thoại):
- Phân nhóm các phương pháp dạy học trực quan: Phân nhóm này bao gồm
phương pháp trình bày trực quan và phương pháp quan sát.
- Phân nhóm phương pháp dạy học thực hành: Phân nhóm phương pháp dạy
học thực hành bao gồm phương pháp luyện tập, phương pháp ôn tập, phương
pháp công tác độc lập.
- Ngoài ra, còn có một số phương pháp như: phương pháp chương trình hóa,
Algorit hóa…
Các phương pháp trên đều là các phương pháp dạy học tích cực. Trong đó, tôi
sẽ trình bày phương pháp dạy học trực quan, phương pháp Algorit hóa và
phương pháp chương trình hóa.
• Phương pháp dạy học trực quan
Có thể chia phương pháp trực quan thành phương pháp trình bày trực quan và
phương pháp quan sát.
• Phương pháp trình bày trực quan
Đây là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kĩ
thuật dạy học trước, trong và sau khi nắm tài liệu mới trong khi ôn tập, củng
cố, hệ thống hóa và kiểm tra tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
Có hai hình thức thể hiện phương pháp trình bày trực quan đó là: hình thức minh
họa và hình thức trình bày.
Trong đó, hình thức minh họa thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính
chất minh họa như bản mẫu, biểu đồ, bức tranh, tranh chân dung các nhà khoa học, hình
vẽ trên bảng… Hình thức trình bày thường gắn với việc trình bày những thí nghiệm,
những thiết bị kỹ thuật, chiếu phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video. Trình bày thí
nghiệm là trình bày mô hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn cẩn thận

về mặt sư phạm. Nó là cơ sở, điểm xuất phát trong quá trình nhận thức – học tập của học
sinh, là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn.
Thông qua sự trình bày thí nghiệm của giáo viên mà học sinh không chỉ lĩnh hội
dễ tri thức còn giúp họ học tập được những động tác mẫu mực của giáo viên, nhờ vậy dễ
dàng hình thành kỹ năng, kỹ xảo biểu diễn thí nghiệm. Ở trường phổ thông, thí nghiệm
có thể do giáo viên hướng dẫn và do học sinh tiến hành trong khi học bài mới hoặc luyện
tập trong phòng thí nghiệm.
• Phương pháp quan sát
Quan sát là sự tri giác có chủ định, có kế hoạch tạo khả năng theo dõi tiến hành và
sự biến đổi diễn ra trong đối tượng quan sát. Quan sát là hình thức cảm tính tích cực
nhằm thu thập những sự kiện, hình thành những biểu tượng ban đầu về đối tượng của thế
giới xung quanh. Quan sát gắn liền với tư duy
Quan Sát được học sinh sử dụng khi giáo viên trình bày phương tiện trực quan,
phương tiện dạy học hoặc khi học sinh tiến hành làm việc trong phòng thí nghiệm.
Phân loại: căn cứ vào cách thức quan sát có thể chia thành quan sát trực tiếp và
quan sát gián tiếp.
Căn cứ và thời gian quan sát có thể phân chia thành quan sát ngắn hạn, quan sát
dài hạn.
Căn cứ vào phạm vi quan sát có thể phân ra quan sát toàn diện và quan sát khía
cạnh.
Căn cứ vào mức độ tổ chức quan sát có thể phân chia thành quan sát tự nhiên và
quan sát có bố trí, sắp xếp.
3. Ưu điểm và hạn chế của nhóm phương pháp dạy học trực quan
• Ưu điểm
- Các phương pháp dạy học trực quan nếu được sử dụng khéo léo sẽ làm cho các
phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học tạo nên nguồn tri thức. Chức năng
đó của chúng chủ yếu gắn liền với sự khái quát những hiện tượng, sự kiện với phương
pháp nhận thức quy nạp.
- Chúng cũng là phương tiện minh hoạ để khẳng định những kết luận có tính suy diễn và
còn là phương tiện tạo nên những tình huống vấn đề và giải quyết vấn đề.

- Vì vậy, phương pháp dạy học trực quan góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của
học sinh.
- Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia của
nhiều giác quan kết hợp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm phát
triển năng lực chú ý, năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của học sinh.
3.2 Nhược điểm
Nếu không ý thức rõ phương tiện trực quan chỉ là một phương tiện nhận thức mà lạm
dụng chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập trung vào những dấu hiệu
bản chất, thậm chí còn làm hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của trẻ.
4. Những yêu cầu cơ bản của việc sử dụng phân nhóm phương pháp dạy học trực quan
- Lựa chọn thận trọng các phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học sao cho
phù hợp với mục đích, yêu cầu của tiết học.
- Giải thích rõ mục đích trình bày những phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy
học theo một trình tự nhất định tuỳ theo nội dung bài giảng.
- Các phương tiện đó cần chuẩn bị tỉ mỉ, chu đáo, cần giải thích rõ ràng những hiện
tượng, diễn biến quá trình và kết quả của chúng, hướng dẫn học sinh quan sát để phát
hiện nhanh những dấu hiệu bản chất của sự vật, hiện tượng.
- Cần chuẩn bị đủ hoặc thừa số lượng phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy
học phù hợp với nội dung của tiết học và số lượng học sinh. Không lạm dụng quá nhiều
phương tiện gây sự phân tán trong quá trình học của học sinh.
- Để học sinh quan sát có hiệu quả cần xác định mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ quan sát,
hướng dẫn quan sát, cách ghi chép những điều quan sát được. Từ đó học sinh có thể rút ra
những kết luận đúng đắn, có tính khái quát và biểu đạt những kết luận đó dưới dạng văn
nói hoặc văn viết một cách rõ ràng, chính xác.
- Bảo đảm cho tất cả học sinh quan sát sự vật, hiện tượng rõ ràng, đầy đủ, nếu có thể thì
phân phát các vật thật cho họ. Để các đồ dùng trực quan dễ quan sát cần dùng các thiết bị
có kích thước đủ lớn, bố trí thiết bị ở nơi cao, chú ý tới ánh sáng, tới những quy luật cảm
giác, tri giác.
- Chỉ sử dụng những phương tiện dạy học khi cần thiết. Sau khi sử dụng xong nên cất
ngay đi để tránh làm mất sự tập trung chú ý của học sinh.

- Đảm bảo phát triển năng lực quan sát chính xác của học sinh.
- Đảm bảo phối hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện trực quan và phương tiện
kỹ thuật dạy học. Có bốn hình thức phối hợp như sau:
+ Hình thức thứ nhất: Dưới sự chỉ đạo bằng lời của giáo viên, học sinh quan sát trực tiếp
các sự kiện, hiện tượng. Từ đó, chính họ rút ra những thuộc tính, những mối quan hệ của
chúng, những kết luận không cần suy luận.
+ Hình thức thứ hai: Trên cơ sở quan sát các đối tượng và dựa vào tri thức đã học của học
sinh, giáo viên dẫn dắt họ biện luận, nêu ra các mối liên hệ giữa những hiện tượng bằng
các biện pháp quy nạp, từ đó rút ra kết luận.
+ Hình thức phối hợp thứ ba là biện pháp minh hoạ đối với những hiện tượng đơn giản.
Bằng lời nói giáo viên thông báo trước những hiện tượng, sự kiện, kết luận rồi sau đó
trình bày phương tiện trực quan nhằm minh hoạ điều đã trình bày. Hình thức này ngược
với trường hợp thứ nhất.
+ Hình thức thứ tư là hình thức có tính chất suy diễn. Với nội dung phải nghiên cứu phức
tạp thì giáo viên bằng lời nói mô tả diễn biến của hiện tượng, kích thích học sinh tái hiện
những tri thức đã học có liên quan đến hiện tượng để giải thích hiện tượng đó. Tiếp đó,
giáo viên trình bày phương tiện trực quan để minh hoạ nhằm khẳng định những điều đã
trình bày của mình. Hình thức phối hợp này ngược với hình thức thứ hai.
Hai hình thức phối hợp đầu đòi hỏi học sinh phải tiến hành hoạt động nhận thức tích cực
hơn hai hình thức phối hợp sau. Song phải căn cứ vào tính chất nội dung, trình độ tri thức
và trình độ phát triển của học sinh mà lựa chọn hình thức nào cho thích hợp.
• Phương pháp dạy học Algorit hóa
1. Khái niệm algorit hóa
Algorit thường được hiểu là bản ghi chính xác, tường minh tập hợp những thao
tác sơ đẳng, đơn vị theo một trình tự nhất định (tùy mỗi trường hợp cụ thể) để giải quyết
bất kì vấn đề nào thuộc cùng một loại hay kiểu.
Định nghĩa này không mang tính chính xác toán học, nhưng nêu lên khá rõ bản
chất của khái niệm.
2. Các kiểu algorit dạy học
Có hai kiểu: Algorit nhận biết và Algorit biến đổi

Trong một algorit biến đổi có thể chứa đựng những thao tác (thậm chí cả algorit) nhận
biết. Ngược lại, một algorit nhận biết có thể bao gồm những thao tác (hoặc algorit) biến
đổi.
Để giải bài toán, học sinh tiến hành thao tác theo các bước của Algorit giải (kiểu
algorit biến đổi), nhưng trong quá trình tiến hành học sinh phải tiến hành thao tác phân
tích nhận biết. Vd: chất khí màu nâu đó là NO
2
, đây chính là một thao tác trong algorit
nhận biết.
3. Ba khái niệm cơ bản của phép tiếp cận algorit
- Sự mô tả dưới dạng algorit cấu trúc của hoạt động.
- Bản ghi algorit của hoạt động.
- Quá trình algorit của hoạt động.
Phân tích ví dụ sau để hiểu rõ ba khái niệm trên:
3.1. Mô tả algorit
Đối với một hoạt động dạy mà ta muốn algorit hóa, trước hết cần phát hiện ra cấu
trúc của hoạt động đó và mô hình hóa cấu trúc của hoạt động.
Mô tả algorit là mô hình hóa cấu trúc của hoạt động, là bước đầu tiên của việc
algorit hóa hoạt động.
Bản thân algorit không giải quyết được bất cứ bài toán nào. Nhưng nó lại là cơ sở
xuất phát của quá trình algorit hóa.
3.2. Bản ghi algorit
Căn cứ vào sơ đồ mô tả cấu trúc của algorit giải (hoạt động của giải) theo sơ đồ
grap giải trên đây, ta “cắt” nó ra thành những công đoạn, những thao tác sơ đẳng của quá
trình giải (kí hiệu bằng đường chấm ). Sẽ thấy rõ ngay chương trình hoạt động giải bài
toán phải bao gồm các bước liên tiếp. Do đó phải biên soạn các bước dưới dạng tập hợp
những mệnh lệnh thao tác sơ đẳng, đơn trị, theo một trình tự nhất định. Đây chính là bản
ghi algorit của quá trình giải bài toán.
Sự mô tả algorit chỉ chốt lại cấu trúc của phép giải toán, còn bản ghi algorit có
chứa một chức năng điều khiển, điều khiển quá trình giải bài toán.

Bản ghi algorit cho ta biết phải hành động như thế nào, theo logic nào, bắt đầu từ
đâu, qua những bước gì và đi đến đâu.
Bản ghi algorit còn là công cụ tự điều khiển cho chủ thể khi chấp hành những
mệnh lệnh được chốt lại trong đó tức là tự điều khiển tư duy, thao tác…
3.3. Quá trình algorit của hoạt động
Dựa trên sự hướng dẫn khách quan của bản ghi algorit, người giải bài toán chỉ
việc chấp hành chính xác những mệnh lệnh trong bản ghi đó và đi tới đáp số một cách
chắc chắn. Đó chính là quá trình algorit của hoạt động, hay quá trình hoạt động theo
algorit.
4. Những nét đặc trưng cơ bản của algorit dạy học
Dạy học algorit là phương pháp dạy học tích cực. Với tinh thần “lấy học sinh là
trung tâm của quá trình dạy học. Phương pháp algorit có 3 đặc trưng cơ bản:
4.1. Tính xác định
Những mệnh lệnh thực hiện, những thao tác ghi trong algorit phải đơn trị, nghĩa là
hoàn toàn xác định (có hay không, đúng hay sai,…) phải loại trừ mọi ngẫu nhiên, tùy tiện
mơ hồ. Nội dung càng ngắn gọn càng tốt, nhưng nhất thiết phải dễ hiểu, ai cũng rõ nghĩa
của mệnh lệnh.
Ngoài ra mệnh lệnh phải tương ứng với thao tác dạy học sơ đẳng, ai cũng thực
hiện đúng, dễ dàng và như nhau.
4.2. Tính đại trà
Người ta chỉ algorit hóa những hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần, mang tính đại
trà, phổ biến, thuộc cùng một thể loại nào đó như giải bài toán, thí nghiệm, lắp ráp dụng
cụ hóa học…Không ai hoài công lập algorit cho một hoạt động riêng biệt, chỉ diễn ra một
vài lần.
4.3. Tính hiệu quả
Tính chất algorit là đối cực với tính chất ơrixtic. Nếu sử dụng phương pháp algorit
chắc chắn sẽ chỉ dẫn tới thành công, nghĩa là xác suất đạt kết quả của nó về lý thuyết,
p=1
2
. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, đó là vì algorit là mô hình cấu trúc đã biết của hoạt

động, là bản ghi các mệnh lệnh thao tác để thực hiện, là quá trình triển khai chính xác
những mệnh lệnh đó.
5. Lợi ích của phương pháp algorit và việc dạy học cho học sinh phương pháp
algorit
Đối với học sinh:
1- Lợi ích đầu tiên mà phương pháp algorit mang lại là giúp học sinh hình thành 3
bước giải quyết vấn đề theo phương pháp algorit:
A- Mô hình hoá bằng phương pháp Grap
B- Lập bảng ghi algorit
C- Triển khai quá trình hoạt động dựa theo algorit
2- Phương pháp algorit giúp phát huy tính tích cực, tư duy có định hướng của học
sinh:
Có ý kiến cho rằng, các algorit có sẵn rập khuôn không phát huy tính tích cực của
học sinh. Thực ra, trong phần các đặc trưng của algorit cho ta biết, algorit được lập ra
không phải để giải một bài toán riêng biệt mà là cho một dạng toán, nó bao gồm các bước
đi mà người giải toán phải tiến hành để đi đến kết quả. Những bản ghi đó chỉ có tính định
hướng hướng giải một dạng toán chứ không phải là một bài giải cụ thể, giúp người giải
không cảm thấy khó khăn khi đứng trước bài toán, mà muốn giải nó, người giải cũng phải
tư duy, suy luận áp dụng cho bài toán cụ thể, và cứ như vậy tư duy học sinh sẽ phát triển
sau mỗi lần giải một bài cụ thể.
Nghĩa là các phương pháp giải những bài toán hóa học được cụ thể hóa bằng các
algorit mang lại lợi ích thiết thực cụ thể nhất, đó là đi đến kết quả bài toán chính xác,
nhanh chóng, tránh mò mẫm mất nhiều thời gian. Điều này sẽ có những động viên về mặt
tinh thần của từng đối tượng học sinh khác nhau:
- Học sinh khá giỏi: có được kết quả nhanh, chính xác đỡ mất thời gian, từ đó có
thể suy nghĩ đến những phương pháp giải khác.
- Học sinh yếu kém: bản thân các em sẽ có được niềm tin trong học tập hơn, các
em sẽ được động viên, khích lệ, từ đó sẽ hình thành ý thức học tập tốt hơn.
3- Hình thành phương pháp chung, phổ biến của tư duy khoa học và hoạt động có
mục đích. Từ đó giúp học sinh làm quen với phương pháp làm việc mà trong đó quy định

rõ các việc cần tiến hành theo trình tự chặt chẽ.
Bởi vì, bản ghi algorit và là công cụ điều khiển hoạt động vừa là công cụ tự điều
khiển cho người dùng algorit triển khai hoạt động.
Nói một cách khác, ban đầu algorit được lập ra là để điều khiển hoạt động của
người giải theo bản ghi các thao tác có sẵn có tính chất rập khuôn máy móc. Nếu chỉ hiểu
đến khía cạnh này thì phương pháp algorit dạy học không thể nào phát huy được tính tích
cực của học sinh mà còn làm cho học sinh thụ động hơn.
Tuy nhiên, đó chỉ là tác dụng ban đầu của algorit, thực tế chính từ những thói
quen làm việc luôn có mục đích, có kế hoạch đặc biệt là tư duy logic khoa học được phát
triển. Từ đó sẽ giúp cho học sinh phát triển năng lực tự học. Trong quá trình tự học, các
em sẽ hình thành nên những algorit ơrixtic kiến thức khác (algorit của quá trình tìm
kiếm) sáng tạo hơn, hiệu quả hơn để giải quyết vấn đề trong các tình huống có vấn đề do
giáo viên hoặc do cuộc sống, sản xuất đặt ra mà không hề rập khuôn máy móc.
Mặt khác, các thói quen làm việc theo các quy tắc chặc chẽ sẽ giúp hình thành
nhân cách toàn diện cho học sinh, hình thành nên thế giới quan duy vật biện chứng cho
các em: khi làm việc luôn biết tôn trọng các quy định có sẵn (các quy luật khách quan của
tự nhiên và xã hội) thì các công việc sẽ có kết quả như mong muốn.
Đối với giáo viên:
1- Việc dạy học bằng phương pháp algorit sẽ giúp người giáo viên hình thành
được các phương pháp giải bài toán hóa cho học sinh một cách tập trung vào trọng tâm,
nhanh chóng và có hiệu quả. Từ kết quả đạt được khi giải toán, học sinh sẽ được khích lệ
động viên, do đó hứng thú hoạt động, tích cực tham gia vào hoạt động chung của cả lớp
cũng như hoạt động tự học. Đặc biệt là học sinh yếu kém.
2- Giúp giáo viên thiết kế algorit các giờ thực hành thí nghiệm có hệ thống, hiệu
quả. Nhờ các algorit, học sinh sẽ thu được các kết quả thí nghiệm thật tốt. Các giờ thực
hành thí nghiệm sẽ không thể tiến hành thành công được nếu không tuân theo các algorit
hoạt động cụ thể.
3- Giúp người giáo viên thiết kế tốt nội dung “dạy học chương trình hoá” nhằm
làm cho học sinh tiếp thu tốt nhất, hệ thống các kiến thức mà giáo viên truyền thụ.
Như vậy, có thể tóm tắt lợi ích của phương pháp algorit như sau:

Đối với học sinh Đối với giáo viên
- Giúp học sinh hình thành 3 bước giải quyết vấn đề
theo phương pháp algorit:
A- Mô hình hoá bằng phương pháp Grap
B- Lập bảng ghi algorit
- Giáo viên hình thành được các phương pháp
giải bài toán hóa cho học sinh một cách tập
trung vào trọng tâm, nhanh chóng và có hiệu
quả.
C- Triển khai quá trình hoạt động dựa theo
algorit.
- Phương pháp algorit giúp phát huy tính tích cực,
tư duy có định hướng của học sinh. Có những động
viên về mặt tinh thần của từng đối tượng học sinh
khác nhau:
+ Học sinh khá giỏi: có được kết quả nhanh, chính
xác đỡ mất thời gian, từ đó có thể suy nghĩ đến
những phương pháp giải khác.
+ Học sinh yếu kém: bản thân các em sẽ có được
niềm tin trong học tập hơn, các em sẽ được động
viên, khích lệ, từ đó sẽ hình thành ý thức học tập tốt
hơn.
- Giúp học sinh làm quen với phương pháp làm việc
mà trong đó quy định rõ các việc cần tiến hành theo
trình tự chặt chẽ.
- Giúp giáo viên thiết kế algorit các giờ thực
hành thí nghiệm có hệ thống, hiệu quả.
- Giúp người giáo viên thiết kế tốt nội dung
“dạy học chương trình hoá” nhằm làm cho học
sinh tiếp thu tốt nhất, hệ thống các kiến thức mà

giáo viên truyền thụ.
Hiện nay, dạy học chương trình hóa còn ở giai đoạn thí điểm. Nhưng hiệu quả sư
phạm của nó đã có sức thuyết phục lớn.
Có thể nêu ra định nghĩa như sau: dạy học chương trình hóa là một kiểu dạy học
mà nội dung dạy học được sắp xếp theo một chương trình trên cơ sở của nguyên tắc điều
khiển hoạt động nhận thức (Algorit), có tính toán đầy đủ khả năng tiếp thu tốt nhất của
học sinh.
Dạy học chương trình hóa là sự dạy học được thực hiện dưới sự chỉ đạo sư phạm
của một chương trình dạy; trong sự dạy học này, những chức năng của hệ dạy được khách
quan hóa và sự hoạt động của hệ học (học sinh) được chương trình hóa. Ở đây chương
trình dạy được soạn thành một algorit dạy nhằm xác định chặt chẽ sự hoạt động của từng
học sinh riêng lẻ.
Đối với phương pháp algorit hóa có thể sử dụng rất hiệu quả đối với các bài toán,
toán hóa, toán lí… trong đó cũng có thể sử dụng đối với một vài bài trong môn công nghệ
10, chăn nuôi lợn…
Trong đó, môn hóa có thể sử dụng phương pháp này để giải quyết bài toán dung
dịch bằng sơ đồ đường chéo, các bài tập xác định công thức phân tử, công thức cấu tạo,
… đối với môn công nghệ 10 và chăn nuôi lợn ở trường trung cấp … có thể áp dụng
phương pháp này trong bài phối hợp khẩu phần ăn cho gia súc, lợn…
6. KẾT LUẬN
- Algorit dạy học có tác dụng rất lớn đối với việc giảng dạy các môn học ở trường
Phổ thông. Đặc biệt, với học sinh có học lực trung bình và yếu thì dạy theo algorit rất
hiệu quả:
* Cung cấp hướng giải đúng, tránh tình trạng mò mẫm, không có định hướng
trước.
* Từ 1 bài tập hay 1 ví dụ của giáo viên, học sinh có thể vận dụng cho nhiều dạng
bài tương tự nhau.
* Giúp học sinh làm việc có hệ thống, biết cách sử dụng hình ảnh trực quan để
làm cho bài toán trở nên trong sáng, dễ hiểu, tránh nhầm lẫn khi giải
* Giúp học sinh biết khai thác, sử dụng dữ kiện đề bài một cách hợp lý.

- Algorit không phải công cụ vạn năng, không được áp dụng rập khuôn algorit vào
mọi bài toán mà bỏ qua đặc điểm riêng của bài toán. Algorit dù hay đến đâu thì cũng
không thể áp dụng cho mọi trường trường hợp.
- Algorit dạy học bao gồm các thao tác cụ thể, khoa học, theo trình tự nhất định,
hỗ trợ học sinh tư duy. Nhưng bản thân nó cũng có tính 2 mặt và sẽ bộc lộ nhược điểm
nếu như giáo viên sử dụng không đúng.
• Phương pháp chương trình hóa
1. Định nghĩa:
Quá trình học trong đó học viên tiến tới theo nhịp độ riêng của họ bằng cách dùng
sách bài tập, sách giáo khoa hoặc các công cụ điện tử khác trong đó thông tin được cung
cấp theo từng bước rời rạc, kiểm tra việc học sau mỗi bước và cung cấp ngay thông tin
phản hồi về kết quả.
• Các hình thức trình bày bài học chương trình hóa
• Có các hình thức trình bày bài học trương trình hóa đó là:
• Sử dụng văn bản tĩnh
• Sử dụng dạng chương trình
• Dạng trình diễn đơn giản (ví dụ trên PowerPoint)
• Dạng trình diễn cấp cao (ví dụ trên Flash)
• Dạng trang web
Khái quát ưu, nhược điểm của các phương pháp như sau:
Các dạng trình bày Ưu điểm Nhược điểm
Sử dụng văn bản tĩnh
Bài học được biên
soạn thành file văn bản, học
viên dùng phần mềm thích
hợp để xem bài học trên
máy tính.
-Tương tự với dạng biểu diễn trên
giấy, tuy nhiên khả năng phân phối
được dễ dàng hơn thông qua việc trao

đổi file chứa bài học.
-Dễ biên soạn và sử dụng. Có thể dễ
dàng chuyển thành bài học trên giấy
bằng cách in ra văn bản.
-Tương tự đối với dạng biểu diễn
trên giấy.
-Cần có phần mềm và máy tính
thích hợp để sử dụng (nếu bài học
chưa được in ra).
-Không thể phản hồi nhanh chóng
và tự động kết quả kiểm tra của
người học.
Sử dụng dạng chương
trình
Bài học được soạn
thành dạng chương trình,
học viên chạy chương trình
để học.
-Dễ dàng thực hiện việc phản hồi
thông tin bằng cách viết các đoạn mã
thích hợp.
-Việc học bài ở dạng chương trình
đòi hỏi phải có máy tính thích hợp
(ngoại trừ chương trình Java, các
dạng chương trình khác không
chạy được trên mọi dạng máy
tính, mà việc viết trình Java khó
và mất thời gian)
-Không in được bài giảng ra giấy.
Dạng trình diễn đơn giản

(ví dụ trên PowerPoint)
Bài giảng được đánh máy
và thiết kế, chiếu đơn giản
trên powerpoint
-Dễ tạo và dễ sử dụng.
-Biểu diễn được hầu hết các dạng dữ
liệu tĩnh và động
- Việc viết trình để thực hiện phản
hồi thông tin là khó khăn.
- Kích thước bé của từng trang
trình diễn không thuận lợi để bố
trí các phần kiến thức dài.
- Để sử dụng cần có phần mềm và
máy tính thích hợp.
-Chỉ giữ lại được các phần trình
bày tĩnh của bài giảng khi được in
ra giấy.
Dạng trình diễn cấp
cao (ví dụ trên Flash)
- Thể hiện rất tốt các dạng dữ liệu
tĩnh và động.
- Khả năng lập trình để phản hồi
thông tin khá mạnh.
-Mất nhiều công sức để tạo bài
học.
-Khả năng lập trình tuy tốt nhưng
khó thực hiện.
-Để học, cần có phần mềm và
máy tính thích hợp.
-Không in được bài giảng ra giấy.

Dạng trang web
Bài giảng được biên soạn ở
dạng các trang
web(HTML,DHTML,
JSP,ASP,Servlet…)
người học dùng máy tính
với trình duyệt web bất kỳ
để xem.
- Rất dễ tạo bài giảng bằng các phần
mềm soạn thảo văn bản mạnh (như
MS Word) hoặc bằng các phần mềm
soạn thảo web chuyên nghiệp như
FrontPage…
- Khả năng thể hiện các dạng dữ liệu
khác nhau rất mạnh: chữ, ảnh tĩnh,
ảnh động, âm thanh, phim…
- Khả năng lập trình là khá mạnh
- Việc phân phối bài giảng được tiến
hành rất thuận lợi.
- Giải quyết được nhược điểm phụ
thuộc vào máy tính (hệ điều hành) và
phần mềm cụ thể để xem các định
dạng tài liệu khác nhau.
-Trường hợp đặt bài giảng lên
Internet thì cần phải có web server
riêng hoặc là thuê chỗ trên các
web server của các nhà cung cấp
dịch vụ Internet. Điều này đòi hỏi
phải trả một khoản chi phí đầu tư
ban đầu và chi phí duy trì hàng

tháng.
-In được bài giảng ra giấy nhưng
làm mất đi tính năng động của nó.
• Kết luận
Phương pháp dạy học chương trình hóa có thể giúp học sinh tự học qua web, bên
cạnh đó giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sau đó đưa bài giảng cho học sinh
với nhiều hình thức trình bày khác nhau (trình bày trên giấy, dạng perpoint,…) và
trên cơ sở được giáo viên hướng dẫn và bài giảng học sinh có thể tự học ở nhà.
Lúc này người giáo viên chỉ đóng vai trò phụ và việc tự học của học sinh là rất
quan trọng và cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
• Tiểu luận môn các phương pháp dạy học hiện đại, TS. Trang Thị Lân

9.htm
• Từ phương pháp dạy học chương trình hóa, tạp chí khoa học, Hà
Viết Hải, ĐH Sư phạm, ĐH huế.
www.hueuni.edu.vn/hueuni/issue_file/22_bai05.doc

%E1%BA%A1y-h%E1%BB%8Dc-neu-va-phan-tich-khai-niem-
%C6%B0u-nh%C6%B0%E1%BB%A3c-di%E1%BB%83m-c%E1%BB
%A7a-t%E1%BB%ABng-ph%C6%B0%C6%A1ng-phap-va-nh%E1%BB
%AFng-yeu-c%E1%BA%A7/
• Giáo trình lí luận dạy học công nghệ ở trường trung học cơ sở, phần kĩ
thuật nông nghiệp, Nguyễn Đức Thành (chủ biên), Nguyễn Đình Tuấn,
Nxb ĐH sư phạm.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×