Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đông Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.47 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP
Đề tài:
Các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Đông Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Tên sinh viên : Phạm Thuỳ Ninh
Mã sinh viên : 106106041
Lớp : K51 Tài chính-Ngân hàng
Hà Nội, 2014
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
MỤC LỤC
SV: Phạm Thuỳ Ninh
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
DANH MỤC BẢNG BIỂU
SV: Phạm Thuỳ Ninh
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ST
T
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
1 NHNo Ngân hàng Nông nghiệp
2 NHNo&PTNT VN Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam
3 NHNN Ngân hàng nhà nước
4 NH Ngân hàng
5 KH Khách hàng
6 RR Rủi ro
7 TSC Trụ sở chính
8 PGD Phòng giao dịch


9 BGĐ Ban Giám đốc
10 NHTM Ngân hàng thương mại
11 TCTC Tổ chức tài chính
12 CBTD Cán bộ tín dụng
13 KHTH Kế hoạch tổng hợp
14 SXKD Sản xuất kinh doanh
15 TSĐB Tài sản đảm bảo
16 DPRR Dự phòng rủi ro
17 XLRR Xử lý rủi ro
18 TTTD Thông tin tín dụng
19 UTĐT Uỷ thác đầu tư
20 KDNH Kinh doanh ngoại hối
21 UBND Uỷ ban nhân dân
22 AMC Công ty quản lý nợ
SV: Phạm Thuỳ Ninh
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nhiều năm trở lại đây, lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và thị
trường tài chính đã trở thành một trong những lĩnh vực đáng quan tâm nhất của toàn
bộ nền kinh tế. Khi một trong các lĩnh vực trên gặp khó khăn hay trục trặc, ắt hẳn
nền kinh tế không thể đứng vững.
Cuộc khủng hoảng tài chính phố Wall của Mỹ năm 2008 bắt nguồn từ bong
bong bất động sản tan vỡ làm cả nền kinh tế thế giới chao đảo, từ đó gây ảnh hưởng
không nhỏ đến hầu hết các nước trên thế giới. Nền kinh tế Việt Nam cũng bị ảnh
hưởng bởi khủng hoảng, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát cao dẫn đến lãi suất cũng tăng cao
và nền kinh tế nói chung lâm vào tình trạng trì trệ như thị trường bất động sản đóng
băng, thị trường chứng khoán không còn là kênh thu hút vốn đầu tư hiệu quả, các
doanh nghiệp lớn kinh doanh thua lỗ, phát sinh nhiều nợ không có khả năng hoàn
trả vốn vay và lãi vay, hàng nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ do thiếu vốn, hoạt động

kinh doanh không hiệu quả nên phải đóng cửa, phá sản.
Trong tình hình đó, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng gặp không ít khó
khăn, tỷ lệ nợ xấu tăng cao và khó kiểm soát, tài sản đảm bảo đa số là bất động sản
nên ngân hàng khó thu hồi được vốn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh
doanh của các ngân hàng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu, mang lại nguồn thu lớn
nhất trong tổng thu của các NHTM Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động này luôn tiềm
ẩn nhiều rủi ro, có lúc xảy ra những rủi ro nghiêm trọng làm suy giảm năng lực tài
chính của ngân hàng và làm ảnh hưởng đến thị trường liên ngân hàng gây tác động
xấu đến nền kinh tế. Nhiều nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm khoảng 70%
trong tổng rủi ro của hoạt động ngân hàng. Thực tế hoạt động tín dụng của NHTM
Việt Nam trong thời gian qua là một minh chứng cho nhận định này: Hiệu quả và
chất lượng hoạt động tín dụng chưa cao, chưa cập nhật được những rủi ro phức tạp
hơn trong nền kinh tế hiện đại thể hiện ở tỷ lệ nợ xấu khá cao so với khu vực và
chưa có khuynh hướng giảm ổn định. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng quản trị rủi
ro tại các NHTM Việt Nam đang là vấn đề bức xúc cả trên phương diện lý thuyết và
thực tiễn.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 5
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này và qua thời gian thực tập tại
Chi nhánh NHNNo&PTNT Đông Hà Nội cùng với sự hướng dẫn giúp đỡ của TS.
Nguyễn Thị Thuỳ Dương em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Các giải pháp nhằm
hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội”
2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro tín
dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Đông Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng
1/2011 đến tháng 6/2014, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế
rủi ro tín dụng xảy ra tại đơn vị.
3. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu thứ cấp

được thu thập từ Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh; phương hướng, nhiệm vụ
kinh doanh của đơn vị 3 năm gần đây.
Cụ thể, chuyên đề được thực hiện trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương
pháp sau:
• Phương pháp thống kê, mô tả nhằm tập hợp các số liệu và đánh giá thực trạng hoạt
động kinh doanh, cụ thể là hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
• Phương pháp phân tích, so sánh nhằm đối chiếu, so sánh các số liệu, thông tin trong
quá khứ để tìm hiểu nguyên nhân và có các định hướng, giải pháp phù hợp, cụ thể.
• Phương pháp tổng hợp nhằm tập hợp số liệu trong nhiều năm để có cái nhìn tổng
quan, chung nhất về tình hình kinh doanh của Chi nhánh những năm gần đây.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 6
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
1.1.1. Khái niệm rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Bất cứ một ngân hàng nào trong quá trình hoạt động cũng luôn gặp phải
những yếu tố nằm ngoài dự tính có thể xuất phát từ nội bộ ngân hàng và cũng có thể
do ảnh hưởng từ thị trường hay môi trường bên ngoài. Những yếu tố đó xảy ra sẽ
gây tổn thất cho ngân hàng về mặt tài chính, về khả năng thanh toán hay về uy tín
của ngân hàng và đó chính là rủi ro trong hoạt động của ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng được hiểu là tất cả những
biến cố không mong đợi mà khi xảy ra sẽ dẫn đến tổn thất về tài sản của ngân hàng,
làm giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi
phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.
1.1.2. Phân loại rủi ro của ngân hàng
Tài sản của NH chủ yếu là các tài sản tài chính (các khoản cho vay, các
chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ ngân
hàng cho phép NH có thể chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới các vùng, các thị
trường khác nhau ngày càng xa trụ sở chính. Điều này một mặt cho phép NH giảm

bớt rủi ro thông qua đa dạng hoá khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm và thị trường,
song mặt khác cũng làm tăng tính rủi ro do tính biến động lớn trên thị trường thế
giới và khu vực do thông tin sai lệch…
Sau đây là một vài dẫn chứng về tổn thất trong hoạt động của NH:
- Đầu những năm 1990, các Quỹ tín dụng ở Việt Nam sụp đổ hàng loạt gây
ra tổn thất lớn cho những người gửi tiết kiệm.
- Vào năm 1997, nhiều NHTM Việt Nam do mở rộng cho vay tràn lan đã rơi
vào tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi cao.
- Vào cuối năm 1997, khủng hoảng tài chính đã làm cho nhiều NH ở Châu
Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản hoặc buộc phải sát nhập.
Trong các trường hợp trên, các trung gian tài chính đều thất bại trong quản lý
rủi ro. Rủi ro của NH có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song
đều có bản chất chung, đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà NH phải gánh chịu.
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản gồm: RR trong quản lý và kinh doanh
ngân quỹ, RR tín dụng, RR trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, RR trong cho
thuê và RR đối với các tài sản khác của NH.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 7
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Phân chia rủi ro theo nguyên nhân gồm: RR do người vay không trả nợ cho
NH; RR do lãi suất thay đổi; RR do tỷ giá thay đổi; RR do các nguyên nhân khác
như mất trộm, cháy, giấy tờ giả…. Sau đây là cách phân loại rủi ro phổ biến:
a/ Rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra những tổn thất mà NH phải chịu do
KH vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực
hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị
tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho
rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt
động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy,
khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, NH coi đó là một thành công trong
quản lý.
b/ Rủi ro lãi suất: là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi

ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng thường xuyên biến động với các mức độ khác
nhau có thể dẫn đến tổn thất. RR lãi suất có liên quan chặt chẽ đến RR tín dụng.
c/Rủi ro thanh khoản: là khả năng xảy ra tổn thất cho NH khi nhu cầu thanh
khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến, làm gia tăng các chi phí để
đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho NH mất khả năng thanh toán.
d/Các rủi ro khác: Rủi ro tỷ giá, RR tác nghiệp, RR môi trường…
1.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.1. Bản chất của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất
của NHTM – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tín dụng cụ thể, NH
cố gắng phân tích các yếu tố của người đi vay sao cho độ an toàn đối với NH là cao
nhất. NH chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy
nhiên không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các
vấn đề sẽ xảy ra, khả năng hoàn trả tiền vay của KH có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ NH, rủi ro tín dụng là không
thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, RRTD là bạn đường
trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Vì thế, rủi ro dự
kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 8
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả thì việc nhận biết các
đặc điểm của rủi ro tín dụng là rất cần thiết và hữu ích. RRTD có những đặc điểm
cơ bản sau:
- RRTD mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển
giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. RRTD xảy ra khi khách hàng gặp những
tổn thất, thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Nói cách khác, những rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây ra RRTD của
ngân hàng.
- RRTD có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa

dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của RRTD do đặc trưng ngân
hàng là trung gian tài chính kinh doanh tiền tệ.
- RRTD có tính tất yếu, tức là luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng
của ngân hàng thương mại: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng
không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này
làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng.
1.2.3. Nguyên nhân xảy ra rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Trong đó có thể kể đến
những nguyên nhân như:
a/ Môi trường kinh tế không ổn định và khó dự báo.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ là một loại hình kinh doanh đặc biệt, rất nhạy
cảm, chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Trong thời gian qua, nền kinh tế nước ta cũng như một số nước trong khu vực có
những biến động gây ảnh hưởng không nhỏ đến ngành ngân hàng. Sự khủng hoảng
kinh tế thế giới và khu vực tuy không tác động trực tiếp nhưng ít nhiều cũng gây
chao đảo hệ thống ngân hàng Việt Nam. Những điều chỉnh liên tục về lãi suất nhằm
kích cầu trong những năm qua cũng gây thiệt hại không ít cho các ngân hàng
thương mại. Năm 2000 do những biến động về tỷ giá đã gây nên tình trạng đô la
hoá, người ta đua nhau rút tiền gửi tiết kiệm mua ngoại tệ rồi gửi vào ngân hàng và
đặc biệt là việc gửi ngoại tệ ra nước ngoài. Nền kinh tế khó khăn và sự sụt giảm
nguồn vốn đầu tư nước ngoài dẫn đến giá bất động sản giảm, gây trở ngại cho ngân
hàng trong việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn vay.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 9
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Do đó, bất kỳ một biến động nào của nền kinh tế cũng gây ít nhiều ảnh
hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
b/ Môi trường pháp luật chưa chặt chẽ, không thống nhất.
Hệ thống văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động ngân hàng hiện nay,
tuy đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn chưa thực sự khoa học và thiếu đồng bộ, chưa
đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong thực tế kinh doanh của NHTM.

Nhiều hướng dẫn của các Bộ, Ngành khác nhau còn chồng chéo, rất khó khăn trong
triển khai thực hiện.
Hiện nay, điều kiện vay vốn, đặc biệt đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh gần như bắt buộc phải có tài sản thế chấp, trong khi đó chúng ta chưa có luật
về sở hữu nên chưa có cơ quan nào có trách nhiệm cấp chứng nhận sở hữu tài sản
và việc chuyển quyền sở hữu. Vì thế mà ngân hàng gặp khó khăn trong việc kiểm
tra tính xác thực của chủ sở hữu tài sản. Tín dụng thương mại đang rất phổ biến
trong giao dịch nhưng các quy định về lưu thông thương phiếu chưa có, dẫn đến
tình trạng chiếm dụng vốn dây dưa, lừa đảo, trốn thuế…gây khó khăn trong việc
kiểm soát. Hệ thống các văn bản quy định về đảm bảo tiền vay còn nhiều bất cập,
mang tính áp đặt, chưa nâng cao quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của ngân hàng và
khách hàng vay vốn.
Bên cạnh đó các cơ quan hữu quan chưa có được cái nhìn thấu đáo về ngân
hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ, nên chưa có được sự phối hợp đồng bộ, tích
cực với ngân hàng trong việc giải quyết những vấn đề liên quan. Cho đến nay
không ít người còn cho rằng việc cho vay và thu hồi nợ vay chỉ đơn thuần là việc
của ngân hàng, trong khi trên thực tế có nhiều khoản vay ngân hàng đã thực hiện
theo đúng mọi quy định của nhà nước mà vẫn không thu hồi được nợ. Lúc đó việc
thu hồi nợ đã vượt ra khỏi chức năng và khả năng của ngân hàng. Mặc dù đã có
nhiều thông tư liên tỉnh giữa ngân hàng nhà nước và các bộ ngành liên quan hướng
dẫn thực hiện những vấn đề có liên quan đến hoạt động của ngân hàng, nhưng thực
tế đòi hỏi phải có sự phối hợp nhiều hơn nữa giữa các cơ quan này với nhau trong
thời gian tới.
c/ Thông tin không cân xứng
Trong những giao dịch diễn ra trên thị trường tài chính, một bên thường
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 10
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
không biết tất cả những gì mà người ta cần biết về bên kia để có được những quyết
định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được gọi là thông tin
không cân xứng. Ví dụ một người vay một món tiền thường có thông tin tốt hơn về

lợi tức tiềm ẩn và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà người này có dự tính tiến
hành so với người cho vay. Việc thiếu thông tin tạo ra những vấn đề trong hệ thống
tài chính ở hai mặt: trước khi cuộc giao dịch diễn ra và sau khi cuộc giao dịch diễn
ra.
d/ Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
- Việc mở rộng hoạt động tín dụng quá mức thường tạo điều kiện cho rủi ro
tín dụng của ngân hàng tăng lên. Mở rộng tín dụng quá mức đồng nghĩa với việc lựa
chọn khách hàng kém kỹ càng, khả năng giám sát của cán bộ tín dụng đối với việc
sử dụng khoản vay giảm xuống đồng thời cũng làm cho việc tuân thủ chặt chẽ theo
quy trình tín dụng bị lơi lỏng.
- Cán bộ tín dụng là người trực tiếp nhận hồ sơ khách hàng, phân tích và
thẩm định khách hàng cũng như dự án vay vốn.Vì vậy nếu trình độ cán bộ tín dụng
không cao, thẩm định không tốt, có thể chấp nhận cho vay những khoản vay không
khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt.
- Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến
cho NHTM gặp phải rủi ro tín dụng.Việc đánh giá giá trị tài sản thế chấp, cầm cố
cũng là vấn đề rất lớn, hiện nay đang là vấn đề nổi cộm trong quy chế tín dụng tại
các NHTM.
- Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các NHTM
khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ sài, qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều
NHTM do quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những
khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn.
- Ngoài ra, còn rất nhiều nhân tố khác thuộc về NHTM gây ra rủi ro tín dụng
như: chất lượng thông tin và xử lý thông tin trong NHTM, cơ cấu tổ chức và quản
lý đội ngũ cán bộ, năng lực công nghệ
e/ Nguyên nhân từ phía khách hàng
- Khách hàng là cá nhân:
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 11
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Phải xét tới tình trạng thu nhập của họ. Nếu thu nhập không ổn định cũng có

nghĩa họ đang đứng trước nguy cơ thất nghiệp, vì thế mà khả năng trả nợ của họ sẽ
bị giảm sút. Đồng thời phải xét đến mức độ chênh lệch giữa thu và chi trong việc
KH sử dụng vốn vay không đúng mục đích, số chi lớn hơn số thu cũng sẽ dẫn tới
việc KH đó không trả được nợ, ngân hàng phải đối mặt với rủi ro.
- Khách hàng là doanh nghiệp:
+ Đối với các doanh nghiệp kinh nghiệm và năng lực hoạt động kinh doanh
còn đang ở trình độ thấp, hầu hết các doanh nghiệp này đều không nắm bắt được
thông tin kịp thời, thiếu thích nghi với cạnh tranh. Vì vậy, khi dự án vay vốn gặp
khó khăn, khả năng trả nợ của khách hàng gặp vấn đề, rủi ro tín dụng là điều không
thể tránh khỏi.
+ Lợi dụng điểm yếu của NHTM, nhiều khách hàng đã tìm cách lừa đảo để
được vay vốn. Họ lập phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố
giả mạo, hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng bộ hồ sơ.
+ Sử dụng sai mục đích so với hợp đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ trở
nên bấp bênh. Vì vậy, khi khách hàng đã sử dụng vốn sai mục đích, việc thanh toán
gốc và lãi đúng hạn rất khó xảy ra,rủi ro tín dụng xuất hiện.
+ Việc trốn tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đã uỷ quyền và bảo lãnh cũng là
một nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho NHTM. Một số công ty, tổng công ty đứng ra
bảo lãnh hoặc uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của NHTM
để tránh sự kiểm tra giám sát của ngân hàng cho vay chính.Khi đơn vị vay vốn mất
khả năng thanh toán, bên bảo lãnh và uỷ quyền không chịu thực hiện việc trả nợ
thay.
1.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
a/ Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Các chỉ tiêu gồm có:
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ, tỷ lệ nợ khó đòi trên nợ
quá hạn
- Nợ quá hạn thông thường (có khả năng thu hồi cao)
- Tốc độ tăng, giảm của các tỷ lệ trên: tỷ lệ càng cao, tốc độ tăng cho thấy
rủi ro cao, có xu hướng tăng và ngược lại.

SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 12
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Nợ quá hạn phát sinh khi khoản vay đến hạn mà KH không hoàn trả được
toàn bộ hay một phần tiền gốc hoặc lãi vay. Nợ quá hạn thường là biểu hiện yếu
kém về tài chính của KH và là dấu hiệu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong hoạt
động tín dụng ngân hàng, nợ quá hạn phát sinh là không tránh khỏi, nhưng nếu nợ
quá hạn vượt quá tỷ lệ cho phép sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một thời gian nhất định theo quy
định của NH, hoặc KH có dấu hiệu lừa đảo, phá sản…
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ
RRTD khác nhau. Đối với NH, việc KH không trả đúng hạn có liên quan đến thanh
khoản và rủi ro thanh khoản: Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho NH, hy vọng thu
lại tiền vay trở nên mong manh, NH cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
b/ Nợ có vấn đề (có khả năng trở thành nợ quá hạn)
Tỷ lệ càng cao, tốc độ tăng cho thấy rủi ro cao, có xu hướng tăng và ngược
lại. Nhiều khoản cho vay tuy chưa xếp vào nợ quá hạn, xong NH nhận thấy rủi ro
đang gia tăng (có các dấu hiệu không tốt như doanh thu sụt giảm, chi phí gia
tăng…).
c/ Tình hình tài chính và phương án của người vay, môi trường hoạt động
của người vay
Nếu tình hình tài chính của người vay tốt, phương án có hiệu quả cao và môi
trường hoạt động thuận lợi thì rủi ro tín dụng sẽ thấp. Những yếu tố này xấu đi sẽ
cấu thành các khoản nợ có vấn đề.
d/ Đảm bảo tiền vay
Nhiều trường hợp NH đòi hỏi người vay phải có TSĐB khi uy tín người vay
không cao hoặc hoạt động nhiều rủi ro. Như vậy TSĐB càng cao trên tổng dư nợ
cho thấy NH đang cấp tín dụng cho những khách hàng có rủi ro cao. Tuy nhiên
TSĐB sẽ góp phần làm giảm tổn thất cho NH khi KH không trả được nợ. Vì vậy,
khi xem xét yếu tố TSĐB phải chú ý tới từng trường hợp cụ thể.
e/ Một số NH sử dụng phương pháp chấm điểm (xếp hạng tín nhiệm) để

phản ánh rủi ro tín dụng
Khái niệm mới về xếp hạng tín nhiệm được tập trung vào các nguyên tắc chủ
yếu bao gồm phân tích tín nhiệm trên cơ sở ý thức và thiện chí trả nợ của người đi
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 13
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
vay và từng khoản vay, đánh giá rủi ro dài hạn dựa trên ảnh hưởng của chu kỳ kinh
doanh và xu hướng khả năng trả nợ trong tương lai, đánh giá rủi ro toàn diện và
thống nhất dựa vào hệ thống kí hiệu xếp hạng.
Đây là phương pháp đo lường RRTD hiện đại, đòi hỏi NH phải có phần mềm
quản lý tập trung. KH vay vốn sẽ được chấm điểm dựa trên các yếu tố tài chính và
phi tài chính sau đó được xếp hạng. Hạng càng cao, rủi ro càng thấp và ngược lại.
f/ Tính đa dạng hoá trong tài sản của NH
Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lý NH còn sử dụng các hình thức đo RRTD
khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ KH, trích lập quỹ dự
phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay…
Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn
định, vùng hay bị thiên tai,… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến
người vay. Do vậy, mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dung phản
ánh rủi ro tín dụng.
Tính kém đa dạng của tín dụng
Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro, những thay đổi trong chu kỳ của
người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách
hàng, của một ngành hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hoá.
Để phản ánh RRTD, nhiều ngân hàng kết hợp phân loại nợ với giá trị tài sản
đảm bảo.
1.2.5. Tác động tiêu cực của rủi ro tín dụng tới ngân hàng
a/ Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận kinh doanh.
Những rủi ro tín dụng làm thiệt hại về mặt tài chính cho ngân hàng, gây khó
khăn cho quá trình hoạt động kinh doanh và làm giảm thu nhập của ngân hàng.

b/ Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán.
Rủi ro tín dụng khiến cho việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng gặp phải
nhiều khó khăn. Các khoản cho vay có thể mất hoặc khó đòi trong khi tiền gửi
khách hàng ngân hàng vẫn phải trả lãi, vốn theo thời hạn gây ra khó khăn bế tắc cho
ngân hàng làm mất đi những cơ hội kinh doanh tốt của ngân hàng
c/ Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín ngân hàng.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 14
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Khi nhìn vào bảng cân đối vốn của ngân hàng, nếu khoản mục nợ khó đòi,
nợ quá hạn lớn người ta có thể kết luận ngân hàng hoạt động tồi. Những thông tin
đó có thể xuất hiện trên truyền hình báo chí làm giảm lòng tin của người dân và các
doanh nghiệp đối với ngân hàng. Như vậy ngân hàng khó lòng thu hút được nguồn
vốn dồi dào, thậm chí khách hàng còn đổ đến rút vốn, các bạn hàng của ngân hàng
sẽ tìm ngân hàng khác để đặt quan hệ giao dịch
d/ Nếu rủi ro quá lớn có thể dẫn tới phá sản.
Trước tiên chỉ là rủi ro làm giảm thu nhập của ngân hàng. Nếu rủi ro lớn sẽ
khiến ngân hàng mất uy tín mọi người sẽ đổ xô đến rút tiền ra khỏi ngân hàng. Nếu
ngân hàng không ngăn chặn được thì ở một mức độ nào đó ngân hàng buộc phải
tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản. Hậu quả này không chỉ riêng ngân
hàng gánh chịu mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
e/ Các ảnh hưởng khác.
Hoạt động của ngân hàng có liên quan tới hầu hết các hoạt động trong nền
kinh tế xã hội. Rủi ro tín dụng có thể gây ra những hậu quả khó lường cả về phạm
vi và mức độ ảnh hưởng. Sự đổ vỡ của ngân hàng có thể làm cho nền kinh tế bị rối
loạn, an ninh chính trị cũng rối loạn theo, kéo theo hàng loạt các hậu quả khác như:
thất nghiệp, lạm phát,
1.2.6. Các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng
a/ Hạn chế sự phát sinh các khoản tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn, nợ khó đòi.

- Thực hiện quy định về an toàn tín dụng được ghi trong luật các tổ chức tín

dụng và trong nghị định của ngân hàng nhà nước.
- Xác định danh mục các khoản tài trợ với các mức rủi ro khác nhau.
Tại ngân hàng, các loại khách hàng khác nhau, các đối tượng cho vay khác
nhau sẽ có rủi ro khác nhau:
+ Tín dụng thương mại: Rủi ro liên quan tới khả năng đánh giá tình trạng
kinh doanh, tài chính của người vay do đó, ngân hàng cần thu thập thông tin cả
trong quá khứ lẫn tương lai của khách hàng. Tuy nhiên khía cạnh tương lai của công
ty quan trọng hơn so với quá khứ. Những khách hàng truyền thống, có mối quan hệ
tốt với ngân hàng sẽ có mức rủi ro thấp hơn so với các khách hàng khác. Rủi ro
trong cho vay thương mại chủ yếu là do những tác động của thị trường đối với
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 15
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
người vay (giá hàng bán giảm, giá nguyên vật liệu tăng, thiên tai, cạnh tranh,…).
+ Cho vay đối với người tiêu dùng: rủi ro liên quan tới thu nhập của người
vay và khả năng kiểm soát thông tin về người vay, thông tin thường ít, ngân hàng
khó kiểm soát người vay và khó thu nợ, công ăn việc làm của người vay không ổn
định…
+ Cho vay đối với các trung gian tài chính khác như các NHTM, các tổ chức
tài chính phi ngân hàng. Phần lớn các khoản vay này là không có đảm bảo, do vậy
nếu các tổ chức đi vay bị phá sản thì ngân hàng cho vay sẽ gặp rủi ro và bị tổn thất
lớn. Vì vậy rủi ro liên quan đến vị thế của tổ chức tài chính đi vay.
+ Cho vay đối với Nhà nước: Độ an toàn cao. Tuy nhiên trong khủng hoảng
kinh tế toàn cầu hoặc khu vực thì các khoản cho vay đối với Nhà nước cũng bị ảnh
hưởng.
- Xây dựng chính sách tín dụng và quy trình phân tích tín dụng hợp lý và
khoa học.
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trong ngân hàng đòi hỏi phải
có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua chính sách, quy tắc và sự kiểm soát
chung.
Chính sách tín dụng với mục tiêu chính là mở rộng tín dụng đồng thời hạn

chế rủi ro tín dụng nhằm nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Chính sách tín dụng
nhằm hạn chế rủi ro như: Chính sách tài sản đảm bảo, chính sách bảo lãnh, chính
sách đồng tài trợ,…
Quy trình phân tích tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng quyết định, được
xây dựng một cách chi tiết và quán triệt xuống từng chi nhánh ngân hàng, từng cán
bộ ngân hàng. Quy trình phân tích tín dụng thể hiện những nội dung mà cán bộ tín
dụng phải thực hiện khi cho vay, nhằm hạn chế rủi ro như phân tích tình hình sản
xuất kinh doanh, thẩm định dự án vay vốn, lịch sử của người vay, mục đích vay,
kiểm soát trong khi cho vay…
Bên cạnh đó NH còn xây dựng quy chế kiểm tra, phân định trách nhiệm và
quyền hạn, khen thưởng và kỉ luật đối với các nhân viên tín dụng.
- Xác định dấu hiệu của các khoản vay có vấn đề, giới hạn các khoản tín
dụng và đa dạng hoá.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 16
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
+ Xác định các khoản cho vay có vấn đề
Khoản vay có vấn đề là nợ có đảm bảo hoặc không có đảm bảo mà ngân
hàng cho vay càng ngày càng lo ngại về khả năng của khách hàng vay trong việc
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và được ngân hàng cho vay phân loại vào nợ
nhóm 2,3,4 hoặc nhóm 5 tương ứng với rủi ro được xác định cho dù việc trả nợ vẫn
đang được thực hiện.
Việc nhận biết các khoản nợ có vấn đề có thể được dựa vào một số dấu hiệu sau:
(1) Khách hàng trả nợ không đúng hạn
(2) Thường xuyên có sự thay đổi kỳ hạn trả nợ
(3) Tình hình trả nợ diễn ra rất kém, vốn gốc trả mỗi lần rất ít
(4) Chấp nhận lãi suất cho vay cao bất thường
(5) Tài khoản phải thu và hàng tồn kho của khách hàng cho thấy những dấu hiệu bất
thường
(6) Sự suy giảm doanh thu và lợi nhuận của khách hàng
(7) Tỷ lệ nợ trên giá trị tài sản ròng tăng

(8) Chính sách chi trả cổ tức bất hợp lý
(9) Mất tài liệu và đặc biệt là mất các báo cáo tài chính
(10)Giá trị tài sản đảm bảo suy giảm
(11)Vốn lưu động suy giảm hoặc bất hợp lý
(12)Thiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ
(13)Khách hàng phải dựa vào các nguồn không thích hợp để trả nợ ngân hàng như bán
thanh lý tài sản thiết bị, nhà xưởng, …
+ Xác định tỷ trọng các khoản cho vay khác nhau
+ Xây dựng chiến lược đa dạng hoá đầu tư và cấp tín dụng
Việc đa dạng hóa đầu tư và cấp tín dụng là một nguyên lý quan trọng của
việc quản lý kinh doanh của ngân hàng vì nó thực hiện đa dạng hóa mối quan hệ
giữa ngân hàng với khách hàng. Đây cũng là việc phân tán rủi ro trên các món cho
vay. Mặt khác, ta thấy rủi ro tín dụng còn phụ thuộc vào một số yếu tố như tính chất
tín dụng, kì hạn tín dụng Vì vậy, ngân hàng cần có những quyết định đúng đắn,
hợp lý trong tín dụng để hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
b/ Xử lý nợ quá hạn, nợ có vấn đề
- Thành lập Công ty (hoặc phòng, ban) quản lý nợ xấu
Xây dựng chính sách xử lý nợ xấu thích hợp. Phân công và quy trách nhiệm
đòi nợ, liên kết các bên Ngân hàng - Khách hàng – Chính quyền địa phương trong
việc xử lý nợ.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 17
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
- Ngân hàng phân loại nợ quá hạn (nợ khó đòi, nợ quá hạn có khả năng thu
hồi) hoặc nợ có vấn đề theo các tiêu thức đã được quy định, phân tích nguyên nhân,
thực trạng, khả năng giải quyết.
- Trong trường hợp người vay có khó khăn tài chính tạm thời song vẫn có
khả năng và ý chí trả nợ, ngân hàng áp dụng chính sách hỗ trợ như cho vay thêm,
gia hạn nợ, giảm lãi suất…
- Trường hợp người vay lừa đảo, chây ì, không có khả năng trả, NH áp dụng
chính sách thanh lý như bán tài sản thế chấp, phong toả tiền gửi trên tài khoản,

kiện…
- Trường hợp do cán bộ NH gây ra, cán bộ NH phải có trách nhiệm đòi nợ,
bồi thường.
- Xử lý bằng quỹ dự phòng: Sử dụng quỹ dự phòng để loại trừ nợ xấu không
thể thu hồi ra khỏi nội bảng.
c/ Thực hiện bảo đảm tín dụng
Trong những trường hợp cần thiết như gặp những khách hàng chưa quen
biết, mức độ tín nhiệm của ngân hàng với khách hàng chưa cao, đòi hỏi ngân hàng
phải sử dụng các biện pháp tín dụng để giảm bớt mức độ rủi ro, tạo điều kiện thu
hồi nợ chắc chắn như:
- Bảo lãnh: Người bảo lãnh phải có đủ tư cách pháp nhân (nếu là một tổ
chức), có đủ năng lực pháp lý và năng lực hàng vi (nếu là cá nhân), phải có đủ khả
năng kinh tế để trả nợ thay trong trường hợp người vay không trả được nợ.
- Cầm cố: là việc ngân hàng cho khách hàng vay vốn bằng việc người vay
đưa tài sản của mình đến ngân hàng đảm bảo cho khoản vay mà họ có thể nhận
được món vay tối đa bằng 70% giá trị tài sản cầm cố. Đến hết thời hạn trả nợ mà
người vay không chịu trả hoặc không có khả năng trả nợ thì ngân hàng sẽ bán đấu
giá vật cầm cố để thu hồi nợ.
- Thế chấp tài sản: khi sử dụng hình thức thế chấp phải sử lý chặt chẽ các vấn
đề sau:
+ Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có giá trị
trao đổi trên thị trường.
+ Tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người vay và phải có goá trị
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 18
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
trao đổi trên thị trường.
+ Nếu là động sản mà ngân hàng khó quản lý được trong thời gian người vay
sử dụng vốn vay thì ngân hàng có thể yêu cầu người vay mua bảo hiểm động sản đó
và trao giấy tờ gốc cho ngân hàng. Những động sản thuộc quyền sở hữu của người
vay nhưng pháp luật không có quy định phải có giấy tờ chứng minh quyến sở hữu

thì nên áp dụng cho vay cầm cố và được quản lý tại kho của ngân hàng.
- Cho vay tín chấp: Chỉ áp dụng đối với khách hàng đã trở nên tin cậy với
ngân hàng.
1.2.7. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu, phòng ngừa và hạn chế RRTD của một số nước
trên thế giới.
a/ Kinh nghiệm của Canada
Ở Canada, để giúp các ngân hàng, các nhà đầu tư có được những thông tin
tin cậy và cần thiết, người ta đã thành lập các công ty chuyên kinh doanh thông tin
tín dụng. Một trong những công ty hàng đầu về thông tin tín dụng, đó là “Services
Finaucis Ben”. Công ty Ben thu thập các thông tin tín dụng để cung cấp cho các
NHTM theo cách sau:
Trước hết, cần tra cứu những thông tin đã có được cập nhật và lưu trữ một
cách khoa học. Bước tiếp theo, thu thập qua các việc nghiên cứu và tài liệu, tin tức
của các cơ quan và các tổ chức dịch vụ của Nhà nước như một cơ quan thống kê, tài
chính, thuế Đồng thời cũng phải quan tâm đến thông tin bên ngoài như báo chí,
các nhà cung cấp, khách hàng
Công ty Ben cũng thu thập thông tin từ việc điều tra tại chỗ. Các nhân viên
điều tra thông tin tín dụng phải là người chuyên nghiệp. Điều quan trọng là sau cuộc
tiếp xúc, nhân viên thông tin tín dụng phải có một khả năng nhận xét.
Cuối cùng, công ty Ben sẽ phân tích, tổng hợp các thông tin đã có và tiến
hành “phân dạng rủi ro” để cụng cấp cho các ngân hàng.
b/ Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Tính đến năm 1998, nợ xấu của toàn bộ hệ thống tài chính Hàn Quốc lên tới
118 ngàn tỉ won, bằng 18% tổng dư nợ (tương đương khoảng 27% GDP của Hàn
Quốc năm 1998).
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 19
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Để giải quyết lượng nợ xấu khổng lồ, Chính phủ Hàn Quốc đã cải tiến lại
chức năng và nhiệm vụ của KAMCO, vốn là một Công ty quản lý tài sản nợ thuộc
Ngân hàng phát triển Hàn Quốc – KDB. KAMCO được sở hữu bởi ba đơn vị: Bộ

Tài chính và Kinh tế, KDB và các định chế tài chính khác.
KAMCO mua các khoản nợ xấu của các TCTC dựa trên các tiêu chí và
phương pháp khác nhau. Khi một TCTC đề nghị bán nợ xấu, KAMCO sẽ phân tích,
định giá và đàm phán với giá bán cuối cùng. Việc định giá nợ xấu của KAMCO
được dựa trên khả năng mất vốn của các khoản nợ, theo các quy định về an toàn
vốn. Sau đó KAMCO tiến hành định giá nợ xấu dựa trên đặc điểm của từng khoản
nợ.
Có thể nói, những hành động quyết đoán của KAMCO trong giai đoạn đầu
đã giúp cho các Công ty mua bán nợ xấu tư nhân của Hàn Quốc mạnh dạn hơn tham
gia vào thị trường. Tính tới tháng 4 năm 2003, KAMCO đã mua lại tổng cộng 1.101
ngàn tỷ won nợ xấu theo giá sổ sách của toàn bộ hệ thống tín dụng với tổng số tiền
39,8 ngàn tỉ won và đồng thời bán được 65,9 ngàn tỷ won theo giá sổ sách với tổng
số tiền thu về là 31,1 ngàn tỷ won.
c/ Kinh nghiệm xử lý nợ quá hạn của Mỹ
Để giải quyết nợ quá hạn, Mỹ đã thành lập các công ty quản lý tài sản (Asset
Management Company – AMC). Công ty này có nhiệm vụ mua lại số nợ khó đòi
của các NHTM. AMC phát hành trái phiếu do Chính phủ (Bộ Tài chính) đứng ra
bảo lãnh và các ngân hàng sẽ mua toàn bộ số trái phiếu này. AMC dùng số tiền thu
được từ việc phát hành trái phiếu đó để mua lại toàn bộ số nợ của các ngân hàng
(thường là theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định). Sau đó, AMC sẽ dùng mọi cách để
tối đa hóa khả năng thu nợ thông qua các biện pháp khác nhau như sử dụng tài sản
thế chấp để góp vốn liên doanh, liên kết, cho thuê, chuyển nợ thành cổ phần
Như vậy, thực chất của quá trình trên là ngân hàng đổi nợ của mình để lấy
trái phiếu do AMC phát hành và thu lại tiền khi trái phiếu đến hạn.
Mô hình này đã tỏ ra rất thành công ở Mỹ, đã được Trung Quốc thử nghiệm
và các NHTM Việt Nam cũng đang tham khảo mô hình hoạt động của các AMC
của Mỹ để áp dụng vào các công ty quản lý tài sản của Việt Nam.
d/ Kinh nghiệm của Hungary
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 20
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương

Hungary là quốc gia Đông Âu đã phải trải qua giai đoạn chuyển đổi từ nền
kinh tế tập trung sang kinh tế thị trường với những yêu cầu về cải cách kinh tế,
trong đó có công tác tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. Yêu cầu phải tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng được đặt ra tại Hungary vào đầu thập niên 90 khi tỷ lệ nợ xấu tại
nước này trên mức 30%. Chính vì vậy, việc xử lý nợ xấu ngân hàng là một nhiệm
vụ trọng tâm trong công tác tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tại quốc gia này. Hàn
Quốc và Hungary có cách thức giải quyết nợ xấu riêng nhưng có một điểm trùng
hợp là cả 2 quốc gia này đều thành lập một tổ chức chuyên biệt để giải quyết nợ
xấu. Tuy nhiên, cách thức xử lý nợ xấu tại 2 nước là không hoàn toàn giống nhau và
đạt được những thành công, thất bại khác nhau. Xử lý thì nợ xấu tại Hungary được
chia làm hai nhóm: Các khoản nợ lớn và phức tạp được giao cho một cơ quan trực
thuộc Chính phủ và Ngân hàng Phát triển Hungary (HDB) giải quyết. Các khoản nợ
còn lại do các ngân hàng tự giải quyết theo thỏa thuận với Bộ Tài chính. Quá trình
xử lý nợ xấu tại Hungary bao gồm 3 quá trình nối tiếp nhau: Làm sạch danh mục
vốn đầu tư của các ngân hàng, xóa nợ cho các doanh nghiệp nhà nước quan trọng và
tái cấp vốn cho các ngân hàng.
Đầu tiên, Hungary thực hiện lành mạnh hóa danh mục vốn đầu tư của các
ngân hàng. Hungary cho phép các ngân hàng chuyển các khoản nợ xấu hoặc nợ cũ
sang trái phiếu kỳ hạn 20 năm. Một cơ quan thu hồi nợ xấu được thành lập vào
tháng 12/1992, cơ quan này dùng trái phiếu chính phủ để đổi lấy các khoản nợ xấu
được coi là các khoản nợ lớn và quan trọng. Cơ quan này có quyền bán các khoản
nợ xấu hoặc tham gia vào quá trình tái cấu trúc các doanh nghiệp không có khả
năng trả nợ. Đối với các khoản nợ xấu còn lại, các ngân hàng tự giải quyết theo hợp
đồng với Bộ Tài chính, và hạn chế các khoản cho vay mới. Để khuyến khích các
ngân hàng tự xử lý vấn đề nợ xấu, Chính phủ Hungary cấp cho các ngân hàng 2%
phí xử lý nợ xấu. Trên thực tế, mức trợ cấp này là quá thấp nên hầu hết các ngân
hàng đã tìm cách bán các khoản nợ xấu cho các công ty xử lý nợ xấu tư nhân trên
thị trường. Những khoản nợ xấu không thể giải quyết và không thể bán cuối cùng
lại chuyển giao cho HDB và trong hầu hết các trường hợp, HDB đã phải xóa nợ các
khoản nợ xấu này. Chi phí cho quá trình lành mạnh hóa danh mục đầu tư của các

ngân hàng tương đương 3,7% GDP Hungary thời điểm đó. Tuy nhiên, công tác xử
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 21
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
lý nợ xấu nêu trên tại Hungary chỉ mang tính chất tạm thời và cũng chỉ có kết quả
hạn chế do:
(i) Việc chuyển các khoản nợ xấu sang trái phiếu không bao gồm các khoản nợ còn
nghi ngờ và các khoản nợ dưới chuẩn (tương đương nợ nhóm 3 và nhóm 4 tại Việt
Nam).
(ii) Giải pháp trên chưa giải quyết được vấn đề đầu tư kém hiệu quả của các ngân hàng.
(iii) Quá trình xử lý nợ xấu không đi kèm với sự thay đổi trong cách quản lý và hoạt
động của ngân hàng
(iv) Chính phủ Hungary yêu cầu một công ty kiểm toán tham gia vào quá trình làm sạch
danh mục đầu tư của các ngân hàng nhưng công tác kiểm toán thực hiện quá nhanh
và sơ sài.
Tuy nhiên, vấn đề nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Hungary chưa thể được
giải quyết do hoạt động ngân hàng không hiệu quả vẫn tiếp diễn. Chính vì vậy,
Chính phủ Hungary đã quyết định xử lý nợ xấu trực tiếp từ hai chủ thể chính liên
quan đến vấn đề nợ xấu là các doanh nghiệp nhà nước và ngân hàng.
Chính phủ Hungary đã xóa nợ cho các doanh nghiệp nhà nước mà Chính phủ
coi là quan trọng. Các khoản nợ xấu này được xóa trên bảng cân đối của ngân hàng,
đổi lại ngân hàng sẽ được nhận trái phiếu chính phủ kỳ hạn 20 năm. Chi phí cho
công tác xóa nợ này tương đương khoảng 1,6% GDP.
Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu tại Hungary vẫn ở mức cao, xấp xỉ 30% vào năm
1993 do Hungary bắt đầu áp dụng cách phân loại nợ mới theo tiêu chuẩn quốc tế,
nên một số khoản nợ xấu mới đã xuất hiện. Trong khi đó, tình trạng tài chính của
các doanh nghiệp mắc nợ vẫn tiếp tục bị xấu đi.
Do vậy, Hungary quyết định sẽ tái cấp vốn cho các ngân hàng nhằm giúp các
ngân hàng đạt được tỷ lệ CAR 8%. Tái cấp vốn được thực hiện dưới hình thức
Chính phủ dùng trái phiếu Chính phủ để mua các cổ phiếu mới phát hành của các
ngân hàng nằm trong chương trình tái cấp vốn. Kết quả là sở hữu Nhà nước trong

ngân hàng tăng tạm thời. Sau đó, Hungary gia hạn cho các khoản vay phụ cho các
ngân hàng nhằm không làm gia tăng sở hữu Nhà nước trong hệ thống ngân hàng.
Tiếp theo, các ngân hàng phải tự giải quyết nợ xấu. Hầu hết các ngân hàng đều
được yêu cầu thành lập một bộ phận riêng để giải quyết nợ xấu (ngay trong chính
ngân hàng hoặc một bộ phận độc lập). Việc này sẽ giúp tách bạch được hoạt động
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 22
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
xử lý nợ xấu với các hoạt động bình thường của ngân hàng và giúp phân loại được
ngân hàng tốt và xấu cho quá trình tư nhân hóa. Các ngân hàng được tái cấp vốn
được yêu cầu phải nộp một kế hoạch củng cố hoạt động cụ thể nhằm lành mạnh hóa
hoạt động (bao gồm hợp lý hóa công tác quản lý, cải cách kiểm soát nội bộ và hiện
đại hóa hoạt động ngân hàng). Việc triển khai thực hiện đề xuất tiến hành theo một
bản thỏa thuận ký kết giữa ngân hàng và Bộ Tài chính.
Bằng cách xử lý các khoản nợ xấu lớn thông qua một cơ quan chuyên biệt và
HDB, các khoản nợ xấu còn lại do ngân hàng tự giải quyết; kết hợp cùng công tác
giải quyết nợ xấu trực tiếp từ phía các doanh nghiệp nhà nước và tái cấp vốn cho
ngân hàng, Hungary đã thành công trong công tác xử lý nợ xấu. Nợ xấu tại Hungary
đã giảm từ gần 30% vào năm 1993 xuống khoảng 5% vào năm 1997 với chi phí xử
lý nợ xấu của Hungary khoảng 13% GDP.
Tóm lại, bằng cách kết hợp nhiều giải pháp, công tác xử lý nợ xấu của
Hungary tỏ ra khá hiệu quả. Điều này có được là nhờ công tác xử lý nợ xấu của
Hungary được điều chỉnh kịp thời khi các biện pháp giải quyết nợ xấu ban đầu tỏ ra
không hiệu quả. Hơn thế nữa, các biện pháp Hungary sử dụng đã xử lý được triệt để
hơn gốc rễ phát sinh nợ xấu.
e/ Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Tăng cường hiệu quả hoạt động của công ty Quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng Việt Nam VAMC.
Đầu tháng 7 năm 2013, theo Nghị định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ,
Quyết định số 843/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 1459/QĐ-
NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công ty Quản lý tài sản (VAMC) được

thành lập và đi vào hoạt động. Gần 1 năm hoạt động, hiện nay VAMC đã đạt được
những hiệu quả nhất định trong việc xử lý nợ xấu cho các ngân hàng cũng như các
doanh nghiệp, tuy nhiên hiệu quả vẫn chưa thực sự rõ rệt và tình hình nợ xấu cũng
như diễn biến nền kinh tế chưa có dấu hiệu khởi sắc. Chính vì thế, với các bài học
rút ra từ các nước bạn, Việt Nam cần tăng cường hiệu quả hoạt động của công ty
này hơn nữa. Việc xử lý nợ của VAMC có thể theo một số hình thức sau:
+ Xóa nợ thông qua việc thay thế bằng các trái phiếu do Chính phủ phát
hành. Theo mô hình của Hungary, NHNN có thể cho phép các ngân hàng chuyển
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 23
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
các khoản nợ xấu hoặc nợ cũ sang trái phiếu kỳ hạn 20 năm. VAMC sẽ dùng trái
phiếu Chính phủ để đổi lấy các khoản nợ xấu được coi là các khoản nợ lớn và quan
trọng. Cơ quan này có quyền bán các khoản nợ xấu hoặc tham gia vào quá trình tái
cấu trúc các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.
+ Hoán đổi các khoản nợ của tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp nhà nước với
các NHTM cho vay (gồm cả các NHTM Cổ phần và NHTM có vốn Nhà nước chi
phối) thành vốn cổ phần. Theo đó, sở hữu Nhà nước sẽ gia tăng trong một số
NHTM (gồm cả NHTM cổ phần). Điều này tuy tốn chi phí nhưng sẽ tạo thuận lợi
cho NHNN trong chỉ đạo việc hợp nhất, sáp nhập các NHTM phục vụ quá trình tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Nguồn vốn của VAMC nên hình thành từ việc phát hành trái phiếu do Chính
phủ bảo lãnh. Trên thực tế, hoạt động của NHTM Việt Nam nếu được tái cấu trúc
thành công và kinh doanh trong một môi trường thuận lợi thì sẽ tạo lượng lợi nhuận
rất lớn (điều này đã được chứng minh trong giai đoạn từ 2005 đến 2009), tăng tính
khả thi trong việc hoàn trả các khoản nợ trái phiếu được bảo lãnh bởi Chính phủ.
- Việc xử lý nợ xấu thông qua các cơ quan quản lý tài sản của các NHTM.
Theo tính toán, đến nay các NHTM đã trích lập dự phòng tín dụng 70.000 tỷ,
trong đó 84% nợ xấu có tài sản đảm bảo với giá trị tài sản đảm bảo tương đương
130% giá trị các khoản nợ và đa phần là bảo đảm bằng bất động sản. Như vậy, các
NHTM hoàn toàn có thể chủ động xử lý các khoản nợ xấu của mình (với điều kiện

là có tài sản bảo đảm). Vấn đề là phải xây dựng cơ chế hợp lý. Cơ chế phải đảm bảo
được 5 nguyên tắc: (1) Hỗ trợ các NHTM thu hồi được vốn đã đầu tư vào nợ xấu
nhanh chóng nhưng không gây ra tổn thất quá lớn cho các NHTM; (2) việc thu hồi
nợ xấu không làm trầm trọng thêm tình hình thị trường bất động sản; (3) giảm thiểu
tối đa thiệt hại của các nhà đầu tư; (4) giảm thiểu tối đa chi phí của Chính phủ; (5)
tách biệt hoạt động xử lý nợ xấu và hoạt động kinh doanh của NHTM. Căn cứ theo
kinh nghiệm của các quốc gia được nghiên cứ trên, nên thực hiện cơ chế như sau:
Thứ nhất, các NHTM bắt buộc phải sử dụng dự phòng để xử lý những
khoản vay đối với các doanh nghiệp tư nhân mà không có tài sản bảo đảm hoặc có
tài sản bảo đảm nhưng sụt giảm nghiêm trọng giá trị hoặc tranh chấp pháp lý quá
phức tạp.
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 24
Chuyên đề thực tập GVHD: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Dương
Thứ hai, tất cả các NHTM có nợ xấu bắt buộc phải thành lập công ty quản lý
nợ (AMC) để tách hoạt động xử lý nợ xấu khỏi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thứ ba, các NHTM sẽ nhóm toàn bộ các khoản nợ xấu này lại và bán cho
các AMC trực thuộc NHTM. Các AMC của NHTM sẽ căn cứ theo mức độ rủi ro
của các khoản nợ, giá trị thực của tài sản bảo đảm để phát hành ra các loại trái phiếu
(đây là một dạng của phương thức chứng khoán hóa các khoản vay có bảo đảm).
Chẳng hạn, AMC có thể chia trái phiếu thành 3 hạng ứng với 3 nhóm nợ là nhóm 3,
4 và 5. Mỗi loại này sẽ có mức lãi suất khác nhau nhưng tối thiểu phải cao hơn lãi
suất tiền gửi cùng kỳ hạn. Số tiền thu hồi này sẽ được chuyển cho NHTM để phục
vụ việc cho vay các hoạt động kinh doanh, sản xuất.
Thứ tư, Chính phủ nên thực hiện bảo lãnh với các trái phiếu trên đồng thời
thành lập cơ quan quản lý bất động sản trực thuộc Chính phủ để quản lý các bất
động sản trong trường hợp Chính phủ phải thực hiện chi trả bảo lãnh cho các trái
phiếu. Chỉ với sự bảo lãnh của Chính phủ thì các nhà đầu tư trong nước và quốc tế
mới thấy được sự hấp dẫn từ các loại trái phiếu trên. Hơn thế, sự trầm lắng của bất
động sản cũng như hoạt động tín dụng bất động sản chỉ là tạm thời ở Việt Nam nếu
nhìn toàn bộ chu kỳ phát triển của thị trường này tại Việt Nam từ năm 1991 đến

nay. Khi thị trường phục hồi thì mọi thứ sẽ trở lại quỹ đạo tích cực. Vấn đề là cơ
chế phải tạo điều kiện cho các NHTM và thị trường vượt qua giai đoạn khó khăn
hiện nay.
Thứ năm, Chính phủ nên giao nhiệm vụ rõ ràng cho NHNN trong việc ban
hành quy chế về hoạt động AMC cũng như hoạt động chứng khoán hóa. Đồng thời
xác định rõ trách nhiệm của NHNN trong việc giám sát hoạt động trên, tránh tối đa
các NHTM sử dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa trên để làm gia tăng rủi ro hệ thống
(giống trường hợp của Mỹ giai đoạn 2007-2009).
Việc xử lý nợ xấu của Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của các quốc gia, tuy
nhiên, việc vận dụng các kinh nghiệm trên phải tính đến điều kiện của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay là (1) kinh tế vĩ mô chưa thực sự ổn định; (2) hoạt động
cho vay phần lớn dựa trên tài sản bảo đảm là bất động sản trong khi thị trường bất
động sản chỉ có thể phục hồi trong trung hạn; (3) xử lý nợ xấu không được gây tổn
thất quá lớn cho Chính phủ và bản thân các NHTM. Với 2 nhóm bài học xử lý nợ
SV: Phạm Thuỳ Ninh Page 25

×