Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

tiểu luận môn phân tích tài chính lập báo cáo tài chính và phân tích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (659.76 KB, 48 trang )

MỤC LỤC
Danh sách nhóm 6
• Nguyễn Quang Hưởng
• Lê Thị Thanh Huyền
• Trần Thị Ánh Thơ
1
Chương 2: Lập báo cáo tài chính và Phân tích
I. QUY ĐỊNH VỀ LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Các nội dung cần báo cáo tài chính trong doanh nghiệp
• Tài sản.
• Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu.
• Doanh thu, thu nhập khác, chi phí kinh doanh và chi phí khác.
• Lãi, lỗ và phân chia kết quả kinh doanh.
• Thuế và các khoản nộp Nhà nước.
• Tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
• Các luồng tiền.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải cung cấp đầy đủ các thông tin khác trong “Bản
thuyết minh báo cáo tài chính” nhằm giải trình thêm về các chỉ tiêu đã phản ánh trên các
báo cáo tài chính tổng hợp và các chính sách kế toán đã áp dụng để ghi nhận các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh, lập và trình bày báo cáo tài chính.
1. Trách nhiệm lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp
Tất cả các doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành phần kinh tế đều phải lập và
trình bày báo cáo tài chính năm.
Các công ty, Tổng công ty có các đơn vị kế toán trực thuộc, ngoài việc phải lập
báo cáo tài chính năm của công ty, Tổng công ty còn phải lập báo cáo tài chính tổng hợp
hoặc báo cáo tài chính hợp nhất vào cuối kỳ kế toán năm dựa trên báo cáo tài chính của
các đơn vị kế toán trực thuộc công ty, Tổng công ty.
Đối với doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng
khoán còn phải lập báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ.
Các doanh nghiệp khác nếu tự nguyện lập báo cáo tài chính giữa niên độ thì được
lựa chọn dạng đầy đủ hoặc tóm lược.


Đối với Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp nhà nước có các đơn vị kế toán
trực thuộc còn phải lập báo cáo tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất giữa
niên độ.
Công ty mẹ và tập đoàn phải lập báo cáo tài chính hợp nhất giữa niên độ và báo
cáo tài chính hợp nhất vào cuối kỳ kế toán năm theo quy định tại Nghị định số
2
129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ. Ngoài ra còn phải lập báo cáo tài chính
hợp nhất sau khi hợp nhất kinh doanh theo quy định của Chuẩn mực kế toán số 11 “Hợp
nhất kinh doanh”
2. Nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính
Các kế toán viên khi lập báo cáo tài chính đều phải tuân thủ theo một nguyên tắc nhất
đinh và cách trình bày hợp lý. Nguyên tắc lập và trình bày báo cáo tài chính:
Thứ nhất là các báo cáo tài chính phải trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài
chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
Thứ hai là các báo cáo tài chính phải phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao
dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
Thứ ba là các báo cáo tài chính phải trình bày khách quan, không thiên vị;
Thứ tư là các báo cáo tài chính phải tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
Thứ năm là các báo cáo tài chính phải trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng
yếu.
Việc lập báo cáo tài chính phải căn cứ vào số liệu sau khi khoá sổ kế toán. Báo
cáo tài chính phải được lập đúng nội dung, phương pháp và trình bày nhất quán giữa các
kỳ kế toán. Báo cáo tài chính phải được người lập, kế toán trưởng và người đại diện theo
pháp luật của đơn vị kế toán ký, đóng dấu của đơn vị.
Việc thuyết minh báo cáo tài chính phải căn cứ vào yêu cầu trình bày thông tin
quy định trong các chuẩn mực kế toán. Các thông tin trọng yếu phải được giải trình để
giúp người đọc hiểu đúng thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp
Việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại
Chuẩn mực kế toán số 21 – “Trình bày báo cáo tài chính”.
Cơ sở dồn tích

Các giao dịch, các sự kiện và mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính của doanh nghiệp
liên quan đến tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi nhận
vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của kỳ kế toán liên quan tại thời điểm phát sinh,
không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài
chính được lập trên cơ sở dồn tích phải phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp
trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
3
Hoạt động liên tục
Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh
nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Báo cáo tài
chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ
tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý
định cũng như buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động
của mình. Khi đánh giá, nếu Giám đốc (hoặc người đứng đầu) doanh nghiệp biết được có
những điều không chắc chắn liên quan đến các sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra
sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thì những điều không
chắc chắn đó cần được nêu rõ. Nếu báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt
động liên tục, thì sự kiện này cần được nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài
chính và lý do khiến cho doanh nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục.
Để đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc người
đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi thông tin có thể dự đoán được tối
thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế toán.
Nhất quán
Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán
từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi:
a) Có sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi
xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể
trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện; hoặc
b) Một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc trình bày.
Doanh nghiệp có thể trình bày báo cáo tài chính theo một cách khác khi mua sắm

hoặc thanh lý lớn các tài sản, hoặc khi xem xét lại cách trình bày báo cáo tài chính. Việc
thay đổi cách trình bày báo cáo tài chính chỉ được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ
được duy trì lâu dài trong tương lai hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được xác
định rõ ràng. Khi có thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại các thông tin mang tính
so sánh cho phù hợp với các quy định của đoạn 30 và phải giải trình lý do và ảnh hưởng
của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Trọng yếu và tập hợp
Từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính.
Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào
4
những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng. Khi trình bày báo cáo tài chính, một
thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của
thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định
kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và
tính chất của các khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản
mục này không được trình bày riêng biệt. Để xác định một khoản mục hay một tập hợp
các khoản mục là trọng yếu phải đánh giá tính chất và quy mô của chúng. Tuỳ theo các
tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng khoản mục có thể là nhân tố quyết
định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có cùng tính chất và chức năng được tập
hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá trị của khoản mục là rất lớn. Tuy nhiên, các khoản
mục quan trọng có tính chất hoặc chức năng khác nhau phải được trình bày một cách
riêng rẽ.
Nếu một khoản mục không mang tính trọng yếu, thì nó được tập hợp với các
khoản đầu mục khác có cùng tính chất hoặc chức năng trong báo cáo tài chính hoặc trình
bày trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, có những khoản mục không
được coi là trọng yếu để có thể được trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại
được coi là trọng yếu để phải trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài
chính.
Theo nguyên tắc trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các quy
định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin

đó không có tính trọng yếu.
Bù trừ
Các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày trên báo cáo tài chính không được
bù trừ, trừ khi một chuẩn mực kế toán khác quy định hoặc cho phép bù trừ . Các khoản
mục doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ được bù trừ khi:
a) Được quy định tại một chuẩn mực kế toán khác; hoặc
b) Các khoản lãi, lỗ và các chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự
kiện giống nhau hoặc tương tự và không có tính trọng yếu. Các khoản này cần được tập
hợp lại với nhau phù hợp với quy định của đoạn 21.
Các tài sản và nợ phải trả, các khoản thu nhập và chi phí có tính trọng yếu phải
được báo cáo riêng biệt. Việc bù trừ các số liệu trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh hoặc Bảng cân đối kế toán, ngoại trừ trường hợp việc bù trừ này phản ánh bản
5
chất của giao dịch hoặc sự kiện, sẽ không cho phép người sử dụng hiểu được các giao
dịch hoặc sự kiện được thực hiện và dự tính được các luồng tiền trong tương lai của
doanh nghiệp.
Chuẩn mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác” quy định doanh thu phải
được đánh giá theo giá trị hợp lý của những khoản đã thu hoặc có thể thu được, trừ đi tất
cả các khoản giảm trừ doanh thu. Trong hoạt động kinh doanh thông thường, doanh
nghiệp thực hiện những giao dịch khác không làm phát sinh doanh thu, nhưng có liên
quan đến các hoạt động chính làm phát sinh doanh thu. Kết quả của các giao dịch này sẽ
được trình bày bằng cách khấu trừ các khoản chi phí có liên quan phát sinh trong một
giao dịch vào khoản thu nhập tương ứng, nếu cách trình bày này phản ánh đúng bản chất
của các giao dịch hoặc sự kiện đó. Chẳng hạn như :
a) Lãi và lỗ phát sinh trong việc thanh lý các tài sản cố định và đầu tư dài hạn,
được trình bày bằng cách khấu trừ giá trị ghi sổ của tài sản và các khoản chi phí thanh lý
có liên quan vào giá bán tài sản;
b) Các khoản chi phí được hoàn lại theo thoả thuận hợp đồng với bên thứ ba (ví
dụ hợp đồng cho thuê lại hoặc thầu lại) được trình bày theo giá trị thuần sau khi đã khấu
trừ đi khoản được hoàn trả tương ứng;

Các khoản lãi và lỗ phát sinh từ một nhóm các giao dịch tương tự sẽ được hạch
toán theo giá trị thuần, ví dụ các khoản lãi và lỗ chênh lệch tỷ giá, lãi và lỗ phát sinh từ
mua, bán các công cụ tài chính vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, các khoản lãi và lỗ
này cần được trình bày riêng biệt nếu quy mô, tính chất hoặc tác động của chúng yêu cầu
phải được trình bày riêng biệt theo qui định của Chuẩn mực “Lãi, lỗ thuần trong kỳ, các
sai sót cơ bản và các thay đổi trong chính sách kế toán”.
Có thể so sánh
Các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính nhằm để so sánh giữa các kỳ kế
toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính
của kỳ trước. Các thông tin so sánh cần phải bao gồm cả các thông tin diễn giải bằng lời
nếu điều này là cần thiết giúp cho những người sử dụng hiểu rõ được báo cáo tài chính
của kỳ hiện tại.
Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong báo cáo tài
chính, thì phải phân loại lại các số liệu so sánh (trừ khi việc này không thể thực hiện
được) nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện tại, và phải trình bày tính chất, số liệu
6
và lý do việc phân loại lại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số liệu
tương ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất của
những thay đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện.
Trường hợp không thể phân loại lại các thông tin mang tính so sánh để so sánh
với kỳ hiện tại, như trường hợp mà cách thức thu thập các số liệu trong các kỳ trước đây.
không cho phép thực hiện việc phân loại lại để tạo ra những thông tin so sánh, thì doanh
nghiệp cần phải trình bày tính chất của các điều chỉnh lẽ ra cần phải thực hiện đối với các
thông tin số liệu mang tính so sánh. Chuẩn mực “Lãi, lỗ thuần trong kỳ, các sai sót cơ
bản và các thay đổi trong chính sách kế toán" đưa ra quy định về các điều chỉnh cần thực
hiện đối với các thông tin mang tính so sánh trong trường hợp các thay đổi về chính sách
kế toán được áp dụng cho các kỳ trước.
II. MÔI TRƯỜNG LẬP BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Vấn đề nắm bắt được các nhân tố tác động đến bản chất và nội dung của hệ thống các
báo cáo tài chính để đánh giá đúng các thông tin kế toán tài chính trình bày trong đó là

rất quan trọng trong phân tích tài chính. Do đó, trong môi trường lập báo cáo tài chính
các nhân tố chủ yếu đó là: các quy tắc, chuẩn mực kế toán; động cơ quản trị; cơ chế giám
và tuân thủ, cơ quan quản lý và các nguồn thông tin khác.
1. Các quy tắc và chuẩn mực kế toán:
Hệ thống chuẩn mực kế toán hiện nay của Việt Nam có khoảng 30 chuẩn mực, được
soạn thảo và ban hành bởi Bộ tài chính. Việc một nhà phân tích cần nắm các quy tắc,
chuẩn mực là yếu tố quan trọng giúp một bài phân tích đạt hiệu quả cao hơn. Dưới đây là
một số nguyên tắc cơ bản của kế toán Việt Nam và yêu cầu cơ bản đối với một người kế
toán.
• Một số nguyên tắc cơ bản của kế toán Việt Nam
o Cơ sở dồn tích
o Hoạt động Liên tục
o Giá gốc.
o Phù hợp
o Nhất quán
o Thận trọng.
o Trọng yếu
• Yêu cầu cơ bản đối với một người kế toán
7
Trung thực: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở
các bằng chứng đầyđủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng, bản chất nội dung
và giá trị của nghiệp vụ kinh tếphát sinh.
Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với
thực tế, không bị xuyêntạc, không bị bóp méo
Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải được
ghi chép và báo cáođầy đủ, không bị bỏ sót.
Kịp thời: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng
hoặc trước thời hạnquy định, không được chậm trễ.
Dễ hiểu: Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong báo cáo tài chính phải rõ ràng,
dễ hiểu đối vớingười sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về

kinh doanh, về kinh tế, tàichính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề
phức tạp trong báo cáo tài chính phảiđược giải trình trong phần thuyết minh
Có thể so sánh: Các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một doanh
nghiệp và giữa các doanhnghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính toán và trình bày nhất
quán. Trường hợp không nhất quán thìphải giải trình trong phần thuyết minh để người sử
dụng báo cáo tài chính có thể so sánh thông tingiữa các kỳ kế toán, giữa các doanh
nghiệp hoặc giữa thông tin thực hiện với thông tin dự toán, kếhoạch.
Yêu cầu kế toán quy định tại các phần nói trên phải được thực hiện đồng thời. Ví dụ:
Yêu cầu trung thực đã bao hàm yêu cầu khách quan; yêu cầu kịp thời nhưng phải đầy đủ,
dễ hiểu và có thể so sánh được.
• Các nguyên tắc quan trọng trong kế toán đối với nhà phân tích:
Kế toán kép: kiểm soát chức năng ghi chép giúp hỗ trợ phân tích BCTC vì nó giúp tái
lập các giao dịch kinh doanh.
Chi phí lịch sử: giá trị của một tài sản được ghi nhận dựa theo giá gốc. Khi tiến hành
phân tích thì CP lịch sử thể hiện ưu điểm có tính khách quan, tuy nhiên nhược điểm của
nó là không phản ánh được giá trị hiện thời của tài sản trong hầu hết các trường hợp.
Kế toán dồn tích: doanh thu được ghi nhận khi thực hiện và chi phí.
Công bố đầy đủ: đối với nhà phân tích thì nguyên tắc này khá quan trọng, bởi vì Nhà
phân tích phải dựa vào các thông tin trên bản BCTC để hiểu rõ hơn các con số trên
BCTC và tái lập chúng theo mục tiêu phân tích.
8
Tính trọng yếu: đối với bất kỳ bản BCTC nào, mối quan tâm của những người đọc là
liệu những người lập BCTC và các kiểm toán viên có né tránh công bố các thông tin
không mong muốn ko. Ví dụ: một thông tin ko có tính trọng yếu nếu không được đưa
vào BCTC thì các kiểm toán viên vẫn có thể đưa ra quyết định chấp nhận toàn phần,
nhưng thông tin đó lại ảnh hưởng tới quyết định của nhà đầu tư thì nó có thể gây thiệt hại
đối với NĐT.
Tính bảo thủ: khi người lập BCTC có quan điểm kém lạc quan nhất trong điều kiện
không chắc chắn. Ví dụ: Chỉ ghi nhận ghi doanh thu khi có bằng chứng chắc chắn về khả
năng thu được tiền, ghi nhận chi phí khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.

Tuy nhiên, khi phân tích tín dụng thì tính bảo thủ lại làm tăng thêm biên an toàn. Đối với
một số người sử dụng thì tính bảo thủ được coi như là dấu hiệu của chất lượng thu nhập
cao.
2. Nhà quản trị
Trong môi trường lập BCTC thì nhà quản trị cũng đóng một vai trò quan trọng. NQT có
thể tác động trực tiếp và gián tiếp tới BCTC.
• Tác động trực tiếp: NQT là người kiểm soát cuối cùng đối với tính minh bạch
của hệ thống kế toán và các số liệu kế toán để hình thành nên BCTC. Ví dụ: tùy
theo mục đích cụ thể Nhà quản trị có thể điều chỉnh số liệu kế toán để làm đẹp
hoặc quản lý thu nhập của các BCTC.
• Tác động gián tiếp: NQT tác động tới tiến trình thiết lập chuẩn mực kế toán.
3. Cơ chế giám sát và thực thi
Cơ chế giám sát và thực thi bảo đảm tính tin cậy và minh bạch của hệ thống báo cáo tài
chính và được thực hiện bởi Ủy ban chứng khoán nhà nước, các tổ chức kiểm toán độc
lập…
Ủy ban chứng khoán: Cơ quan này đóng vai trò linh hoạt trong việc giám sát và thực thi
các chuẩn mực kế toán. Tất cả các công ty đại chúng phải nộp báo cáo tài chính được
kiểm toán cho Ủy ban chứng khoán Khi phân tích báo cáo tài chính, nhà phân tích cần
lưu ý xem công ty cần phân tích có bị xử phạt bởi Ủy ban chứng khoán hay không và vi
phạm về vấn đề gì. Trên thực tế, việc vi phạm trải đều từ hiểu sai các chuẩn mực cho đến
gian lận và bóp méo số liệu, các công ty vi phạm có thể bị buộc làm lại báo cáo hoặc
thậm chí bị phạt. Xem xét tiền sử của công ty với Ủy ban chứng khoán rất cần thiết khi
phân tích, nhất là khi đánh giá chất lượng thu nhập.
9
Kiểm toán: kiểm toán độc lập là một cơ chế quan trọng giúp đảm bảo chất lượng và tính
tin cậy của báo cáo tài chính. BCTC của tất cả các công ty đại chúng phải được kiểm
toán bởi một kế toán công chứng độc lập. Chuyên viên phân tích nên xem xét lịch sử
kiểm toán, bao gồm tất cả những thay đổi kiểm toán. Hoặc điều tra xem công ty kiểm
toán có tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn cho công ty hay không.
Giám sát công ty: Một nhà phân tích khi phân tích BCTC cần xem xét công ty có hệ

thống kiểm soát nội bộ không, thành phần ra sao, cơ chế như thế nào, hoạt động có tốt
không…
Sự kiện tụng: Một công ty có nguy cơ tranh chấp cũng khiến các nhà quản trị có trách
nhiệm hơn trong việc công bố các báo cáo.
4. Các nguồn thông tin thay thế
• Thông tin kinh tế, ngành và công ty: cũng được các nhà phân tích sử dụng để dự báo
về công ty. Ví dụ: sự thay đổi của các chỉ số vĩ mô có thể tác động đến thị trường chứng
khoán, hay sự thay đổi của dữ liệu doanh thu ngành, và các thông tin về công ty như:
chia tách, sáp nhập, thay đổi quản lý, công ty kiểm toán.
• Các công bố tự nguyện: Các nhà quản trị tự nguyện công bố các tin tức quan trọng khi
họ tin rằng kỳ vọng thị trường khác biệt với họ. Một động cơ khác là họ muốn điều khiển
các kỳ vọng của thị trường về gần với mục đích mà họ mong muốn.
• Trung gian thông tin: bao gồm cácchuyên gia phân tích, các tờ báo đầu tư, các nhà tư
vấn, các nhà xếp hạng tín nhiệm giúp cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra quyết định.
Trung gian thông tin tạo ra giá trị bằng việc xử lý và tổng hợp các thông tin thô và đa
dạng về một công ty và cho ra một hình thức báo cáo hữu ích dùng cho các quyết định
kinh doanh. Trung gian thông tin có thể hoạt động ít nhất một trong 4 chức năng sau:
Thu thập thông tin: Việc này liên quan đến vấn đề nghiên cứu và thu thập thông tin về
các công ty mà hiện chưa có ngay tức khắc được.
Diễn giải thông tin: khả năng phán đoán các sự kiện kinh tế vẫn chưa phản ánh vào trong
các số liệu kế toán để đưa ra một báo cáo nghiên cứu đầu tư hay một nhận định.
Phân tích triển vọng: phân tích công ty và phân tích báo cáo tài chính để đưa ra các dự
báo về thu nhập , dòng tiền và xếp hạng tín nhiệm nợ.
Các khuyến nghị: Đưa ra những khuyến nghị cụ thể như khuyến nghị mua/bán cổ phiếu
hay trái phiếu.
10
III. MỤC ĐÍCH CỦA KẾ TOÁN TÀI CHÍNH
1. Các mục tiêu của kế toán tài chính
Trách nhiệm quản lý: là một khái niệm nhìn về quá khứ, sử dụng bảng cân đối kế toán
và báo cáo thu nhập để đánh giá mức độ quản lý hiêu quả của các nhà quản trị đối với

vốn đầu tư. Trách nhiệm của người quản trị là đáng tin cậy, có trách nhiệm bảo vệ tài
sản, gia tăng giá trị của cổ đông và bảo vệ các nhà cấp tín dụng.
Thông tin để ra quyết định: Sự thay đổi của kế toán đối với các triển vọng thông tin
thực tế hơn nhấn mạnh đến thông tin liên qua để ra quyết định kinh doanh, và gia tăng sự
chú ý đến các chuẩn mực kế toán đối với khả năng dự báo và sự hữu ích của quyết định
hơn là các giải trình và đo lường thành quả.
2. Chất lượng mong muốn của thông tin kế toán
Sự thích hợp: là khả năng thông tin tác động đến quyết định. Thông tin có thể thích hợp
theo 2 cách. Thứ nhất, thông tin có thể trực tiếp giúp cho người ra quyết định dự báo
được thu nhập trong tương lai.Thứ hai, thông tin có thể giúp người sử dụng xác nhân hay
xem lại các niềm tin hay kì vọng.
Tin tin cậy: thông tin được gọi là tin cậy khi nó có thể xác nhận được, tượng trưng cho
sự trung thực và trung lập.
Thông tin kế toán đòi hỏi sự đánh đổi giữa tính thích hợp và tính tin cậy. Ví dụ, một
phân tích có thể mất hiệu quả do sự suy giảm tính tin cậy đối với các khoản ước tính nợ
xấu và sự nghi ngờ có sự bóp méo. Tuy nhiên, giải pháp đáng tin cậy khác không phải là
thực hiện một ước tính mà là giảm tính thích hợp của thông tin này.
3. Sự phù hợp của thông tin kế toán tài chính
Các quyết định như đầu tư vốn vốn cổ phần và tăng nợ cần nhiều loại dữ liệu có tính tin
cậy và sự phù hợp khác nhau. Các dữ liệu này bao gồm thông tin về điều kiện kinh tế và
xu hướng ngành, cũng như thông về tài sản vô hình như tính trung thực và động cơ thúc
đẩy của nhà quản trị. Báo cáo tài chính là các chỉ số đo lường được của thành quả và
điều kiện tài chính trong quá khứ. Mặc dù dự quan trọng của thông tin định tính dựa trên
các báo cáo tài chính định lượng là khác nhau, một vài người sử dụng sẽ muốn thực hiện
quyết định kinh doanh mà không phân tích các báo cáo định lượng.
11
Chúng ta xem xét thông tin kế toán tài chính phản ánh tốt như thế nào đến việc giải thích
giá cổ phiếu trong hoạt động phân tích tài chính. Hình 2.1 theo dõi khả năng về thu nhập
và giá trị sổ sách có thể giải thích khoảng 50-70% các hành vi của giá cổ phiếu. Điều này
dẫn đến kết luận không thể thiết lập mức độ mà các con số kế toán trực tiếp quyết định

đến giá cổ phiếu. Đó là bởi vì có các nguồn thông tin khác như dự báo của các nhà phân
tích và các thống kê kinh tế được sử dụng trong việc hình thành giá cổ phiếu. Tuy nhiên
các phân tích này ỗ trợ giá trị phản hồi của thông tin kế toán bằng biểu lộ mối liên kết
chặt chẽ giữa các số liệu kế toán và giá cổ phiếu.
4. Những giới hạn của thông tin báo cáo tài chính
Các dự báo, báo cáo và khuyến nghị của chuyên gia phân tích cùng với những nguồn
thông tin khác là đối thủ cạnh tranh của thông tin kế toán. Các giới hạn của thông tin báo
cáo tài chính là:
Tính đúng lúc: Thông tin thực tế không phản ánh ngay tức thì vào BCTC
Tính thường xuyên: Các BCTC chỉ được công bố định kỳ, thường là mỗi quý
Tính hướng về tương lai: BCTC chỉ chứa đựng các dự báo có giới hạn, trong khi các
nguồn thông tin thay thế có các dự báo của các chuyên gia phân tích…
IV.KẾ TOÁN DỒN TÍCH
Hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng một trong hai phương pháp kế toán làm nền tảng
cho hệ thống kế toán: Kế toán dồn tích và kế toán dựa trên dòng tiền. Trên thế giới, hầu
hết các nước Châu Âu vẫn dùng kế toán trên cở sở tiền mặt trong lĩnh vực công. Chế độ
kế toán Việt Nam quy định các doanh nghiệp phải hạch toán kế toán dựa trên phương
pháp kế toán dồn tích nhằm đảm bảo tính phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên
lựa chọn phương pháp nào hợp lý và phù hợp nhất thì vẫn còn nhiều vấn đề tranh cãi.
12
1. Khuôn khổ kế toán dồn tích
1.1. Khái niệm: Theo định nghĩa của Chuẩn mực kế toán chung (VAS 01): “Mọi nghiệp
vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ
sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn
cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền.”
1.2. Dồn tích và dòng tiền
Kế toán dòng tiền: Đơn giản, dễ hiểu, tính toán dễ dàng.
Tuy nhiên, khi đo lường khả năng tạo ra tiền của một công ty thì dòng tiền lại bộc lộ
những hạn chế. Hầu hết các giao dịch kinh tế ngày nay là trên cơ sở tín dụng. Hơn nữa,
các công ty đầu tư hàng tỷ đồng vào hàng tồn kho và tài sản dài hạn, nhưng lợi ích nhận

được là trong các kỳ kế toán sau. Kế toán dòng tiền thất bại trong việc cung cấp một hình
ảnh tương ứng về điều kiện và thành quả tài chính của công ty.
Mối quan hệ dồn tích và dòng tiền
Thu nhập ròng = Dòng tiền hoạt động + Các bút toán dồn tích.
Dòng tiền hoạt động: Thể hiện tiền từ hoạt động kinh doanh đang diễn ra của công ty, là
dòng tiền từ tất cả các dự án.
Dòng tiền tự do: Chênh lệch giữa dòng tiền hoạt động và đầu tư tiền mặt. Là một phần
dòng tiền hoạt động được tự do sau khi công ty đã tái đầu tư vào tài sản mới. Phản ánh
những tác động thêm vào của hoạt động đầu tư và giảm đầu tư vào tài sản hoạt động.
Dòng tiền sử dụng ở đây là dòng tiền tự do: Thay đổi số dư trong tài khoản tiền mặt (bao
gồm của tương đương tiền).
Dồn tích: Tổng các điều chỉnh kế toán làm cho thu nhập ròng khác biệt so với dòng tiền
thuần.
Thu nhập ròng = Dòng tiền hoạt động + Các bút toán dồn tích.
Vấn đề về thời điểm và sự kết hợp.
Kế toán dòng tiền ghi nhận doanh thu và chi phí ngay khi thời điểm phát sinh. Sự khác
biệt giữa kế toán dồn tích và kế toán dòng tiền là vấn đề thời điểm và sự kết hợp. Kế toán
dồn tích khắc phục cả vấn đề thời điểm và sự kết hợp vốn có trong kế toán dòng tiền.
13
Vấn đề thời điểm nói đến việc dòng tiền không phát sinh đồng thời với các hoạt động
kinh tế tạo ra dòng tiền đó. Ví dụ: Hoạt động bán hàng tín dụng. Doanh nghiệp sẽ phát
sinh doanh thu vài kỳ kế toán này nhưng dòng tiền thu được sẽ phát sinh vào kỳ kế toán
sau đó.
Vấn đề sự kết hợp nói đến việc dòng tiền vào và ra phát sinh từ hoạt động kinh doanh
không được kết hợp với nhau về mặt thời gian. Ví dụ: Các chi phí phát sinh từ các ngành
dịch vụ. Chi phí sẽ được ghi nhận trước khi có dòng tiền ra và doanh thu sẽ được ghi
nhận khi nhận được tiền từ khách hàng, tức là khi có dòng vào.
Hai nguyên nhân cho vấn đề này:
- Nền kinh tế phát triển thì các giao dịch tín dụng ngày càng phổ biến và phức tạp.
- Chi phí thường xảy ra trước khi mang lại các lợi ích, nhất là các chi phí đầu tư ban

đầu vào nhà xưởng, máy móc. Do đó, đo lường chi phí theo kế toán dòng tiền
không phản ánh được tình hình thành quả và tài chính.
Mặc dù trong suốt vòng đời của 1 dự án, dòng tiền và thu nhập phát sinh là ngang nhau.
Tức tổng doanh thu và chi phí phát sinh trong vòng đời 1 dự án được ghi nhận theo kế
toán dòng tiền hay kế toán dồn tích thì đều bằng nhau. Tuy nhiên, cái nhà đầu tư quan
tâm là trong ngắn hạn, khả năng và tình hình tài chính của một công ty là như thế nào.
Nếu vậy thì kế toán dòng tiền lại bộc lộ nhược điểm của nó.
1.3. Quá trình thực hiện dồn tích:
Ghi nhận doanh thu: Doanh thu được ghi nhận khi thu được hoặc được thực hiện hay có
thể được thực hiện. Đây là cách ghi nhận rộng. Trong khi kế toán dòng tiền chỉ ghi nhận
doanh thu được thực hiện thì kế toán dồn tích sẽ ghi nhận luôn doanh thu có thể được
thực hiện. Việc ghi nhận doanh thu là phức tạp vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà
chúng ta có thể tham khảo thêm ở chương sau.
Kết hợp chi phí: Kế toán dồn tích yêu cầu chi phí phải được kết hợp với doanh thu tương
ứng. Sự kết hợp này sẽ khác nhau đối với hai loại chi phí chủ yếu: Chi phí sản phẩm và
chi phí thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: Tất cả các chi phí sản phẩm được ghi nhận vào giá vốn hàng
tồn kho và sẽ được ghi nhận vào chi phí khi phát sinh doanh thu.
14
- Chi phí thời kỳ: Được kết hợp với doanh thu thời kỳ. Các chi phí này không liên
quan trực tiếp đến việc sản xuất hay bán sản phẩm dịch vụ nhưng sẽ được phân bổ
trong kỳ kế toán. Đó là các chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
Dồn tích ngắn hạn và dồn tích dài hạn
Việc phân tích dồn tích ngắn hạn và dồn tích dài hạn từ công thức:
Thu nhập ròng = Dòng tiền hoạt động + Các bút toán dồn tích.
Dồn tích ngắn hạn: Liên quan đến những khoản mục vốn luân chuyển. Nói lên sự khác
biệt thời gian ngắn hạn giữa thu nhập và dòng tiền. Những dồn tích này tạo ra các khoản
mục vốn luân chuyển trong bảng cân đối kế toán, còn được gọi là dồn tích vốn luân
chuyển.
Dồn tích ngắn hạn nảy sinh chủ yếu từ hàng tồn kho và các giao dịch tín dụng thương

mại mà làm tăng tất cả các loại tài sản phải thu, phải trả: Phải thu khách hàng, phải trả
người bán, chi phí trả trước và phải thu khác.
Dồn tích dài hạn: Phát sinh từ vốn hóa, liên quan đến khấu hao, chi phí trừ dần… Vốn
hóa là một quá trình trì hoãn các chi phí xảy ra trong hiện tại mà các lợi ích từ nó được
kỳ vọng trong tương lai. Quá trình này tạo ra các tài sản dài hạn như nhà xưởng, máy
móc và lợi thế thương mại. Chi phí của các tài sản này được phân bổ trong suốt thời kỳ
tạo ra lợi ích của nó và tạo thành một phần lớn của dồn tích dài hạn.
2. Sự thích hợp và hạn chế của kế toán dồn tích
2.1. Sự thích hợp
Về mặt lý thuyết
Báo cáo thu nhập và Bảng cân đối kế toán dựa trên nền tảng dồn tích thì thích hợp hơn
đối với việc đo lường khả năng tạo dòng tiền hiện tại cũng như tương lai của công ty.
Dồn tích ngắn hạn: Cải thiện sự phù hợp của kế toán bằng việc ghi nhận doanh thu và
chi phí. Do đó, phản ánh tốt hơn khả năng sinh lợi và cũng tạo ra tài sản ngắn hạn và nợ
ngắn hạn. Vì vậy, nó cung cấp thông tin hữu ích về tình hình tài chính.
Dồn tích dài hạn:
Dòng tiền tự do = dòng tiền hoạt động – đầu tư tài sản hoạt động dài hạn.
15
 Các khoản đầu tư của công ty phát sinh không thường xuyên và có giá trị lớn. Do
đó, kế toán dồn tích khắc phục được sự biến động lớn của dòng tiền tự do.
 Dòng tiền tự do nhắn gửi thông điệp đảo chiều về viễn cảnh của một công ty. Một
ví dụ được đưa ra trong hình 2.2 về vòng đời của một công ty. Ở giai đoạn khởi sự
và hầu như trong giai đoạn tăng trưởng, dòng tiền đầu tư là âm và vượt quá dòng
thu vào của dòng tiền hoạt động. Điều này dẫn đến dòng tiền tự do âm trong gần
hết 2 giai đoạn. Đến cuối giai đoạn tăng trưởng, bước của giai đoạn sung mãn,
dòng tiền bắt đầu dương. Đến giai đoạn suy thoái, công ty bắt đầu bán các tài sản,
tạo ra dòng tiền đầu tư dương. Dòng tiền đầu tư dương kết hợp với dòng tiền hoạt
động tạo nên dòng tiền tự do dương. Dòng tiền tự do trong 2 giai đoạn tăng
trưởng và suy thoái đưa đến thông điệp ngược chiều cho tình tình tài chính của
công ty.

Kế toán dồn tích khắc phục những nhược điểm này bằng cách vốn hóa đầu tư trong tài
sản dài hạn và phân bổ chi phí của chúng trong suốt thời kỳ tạo ra lợi ích. Quá trình vốn
hóa và phân bổ này làm cải thiện sự phù hợp của thu nhập bằng cách giảm tính biến
động và làm cho chi phí của đầu tư dài hạn phù hợp với lợi ích của nó.
Sự vượt trội của kế toán dồn tích trong việc cung cấp thông tin phù hợp về thành quả và
tình hình tài chính của một công ty và đối với việc dự báo dòng tiền tương lai vì:
16
 Thành quả tài chính: Việc ghi nhận doanh thu kết hợp với chi phí tạo ra một con số
tốt hơn trong việc đánh giá thành quả tài chính một công ty. Kế toán dồn tích đòi hỏi
ghi nhận doanh thu đảm bảo thu nhập được ghi chép một cách đầy đủ trong một thời
gian. Sự kết hợp đảm bảo rằng chi phí được ghi chép đúng và đầy đủ, chỉ những chi
phí nào đóng góp vào doanh thu mới được ghi nhận.
 Tình hình tài chính: Với các số liệu được ghi chép phù hợp, điều này giúp tạo ra được
một bảng cân đối kế toán phản ánh được tình hình tài chính của công ty.
 Dự báo dòng tiền tương lai: Thu nhập dồn tích là dự báo tốt hơn cho dòng tiền tương
lai vì
• Thông qua ghi nhận doanh thu, nó phản ánh được dòng tiền tương lai. Ví dụ:
Việc ghi nhận bán hàng trả chậm sẽ phản ảnh được dòng tiền sẽ nhận được từ
khách hàng trong tương lai.
• Kế toán dồn tích sắp xếp tốt hơn dòng tiền vào và ra theo thời gian thông qua
quá trình kết hợp. Do đó, thu nhập sẽ ổn định hơn và đây cũng là chỉ tiêu dự
báo sự phụ thuộc của dòng tiền.
Về thực nghiệm:
Kế toán dồn tích được cho là có tính tin cậy thấp. Tuy nhiên, đổi lại, kế toán dồn tích lại
có sự thích hợp cao. Thêm vào đó, các cơ chế tổ chức như: Chuẩn mực kế toán và kiểm
toán, đảm bảo mức thấp nhất tính tin cậy có thể chấp nhận được khi tuân thủ.
Xét ví dụ với hai công ty là Wail-Mart và Kmart:
17
Wal-Mart là mẫu hình điển hình cho các công ty tăng trưởng với tốc độ vốn hóa thị
trường cao gấp 5 lần khi kết thúc giai đoạn mẫu. Thu nhập ròng tăng 4 lần trong 10 năm

với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 10%/năm. Tuy nhiên, dòng tiền tự do đang đưa ra tín hiệu
âm từ 1990 – 1996.
Kmart là mẫu hình điển hình cho các công ty suy thoái với mức độ vốn hóa giảm dần
khoảng 60% khi kết thúc giai đoạn. Thu nhập ròng giảm rõ rệt, gần 4 lần so với bắt đầu
giai đoạn. Trong khi đó, dòng tiền tự do lại biểu thị mối quan hệ chệch choạc giữa thành
quả hoạt động và giá cổ phiếu. Khi dòng tiền tự do âm thì Kmart có lợi nhuận và tăng
trưởng nhưng dòng tiền tự do dương thì Kmart suy thoái và tăng trưởng chậm lại.
Sự khác biệt chủ yếu của kế toán dồn tích và kế toán dòng tiền là sự kịp thời trong ghi
nhận các hoạt động kinh doanh. Kế toán dồn tích ghi nhận các tác động của hoạt động
kinh doanh kịp thời hơn. Hình 2.3 thể hiện khả năng giải thích cho lợi nhuận của cổ
phiếu của thu nhập ròng và dòng tiền hoạt động qua từng quý, từng năm và cho 4 năm.
Dù tính giải thích của thu nhập ròng không cao trong thời gian ngắn (từng quý) nhưng
trong thời gian dài (1 năm hay 4 năm) thì khả năng giải thích của nó khá cao. Ngược lại,
khả năng giải thích thu nhập chứng khoán của dòng tiền lại khá mờ nhạt. Chứng cứ này
ủng hộ quan điểm rằng kế toán dồn tích phản ánh hoạt động kinh doanh kịp thời hơn là
dòng tiền.
18
2.2. Hạn chế của kế toán dồn tích
Cơ sở kế toán dồn tích có thể là một con dao hai lưỡi. Bên cạnh những ưu điểm của kế
toán dồn tích thì kế toán dồn tích cũng có một số hạn chế như sau: Kế toán dồn tích đưa
sự phán đoán vào kế toán với những ước tính và điều chỉnh khác nhau. Điều này nếu
được sử dụng thích hợp thì sẽ mang lại hiệu quả, việc cho phép các phán đoán quản trị sẽ
làm tăng tính thích hợp của thông tin kế toán. Tuy nhiên, việc sử dụng các phán đoán
cũng mang lại rủi ro làm giảm khả năng so sánh, tính nhất quán của các báo cáo tài chính
dẫn đến việc bóp méo kế toán.
3. Các hàm ý của kế toán dồn tích
Sự thật và ảo tưởng về thu nhập dồn tích và dòng tiền.
Các ảo tưởng:
 Vì giá trị công ty phụ thuộc vào dòng tiền tương lai, chỉ có dòng tiền hiện tại là phù
hợp cho việc định giá. Thu nhập hiện tại là một dự báo tốt hơn của dòng tiền tương

lai hơn dòng tiền hiện tại. Bên cạnh đó, thu nhập giải thích giá cổ phiếu tốt hơn dòng
tiền.
 Giá trị công ty thì bằng với dòng tiền tương lai chiết khấu về hiện tại. Quan niệm này
có một số vấn đề cần được xem xét:
• Có nhiều cách xác định dòng tiền, không phải dòng tiền nào cũng xác định giá
trị công ty.
• Giá trị công ty bằng hiện giá chiết khấu dòng cổ tức tương lai. Hiện giá dòng
tiền tự do phát sinh từ công thức này nhưng nhiều dòng tiền khác thì không.
• Giá trị công ty là tổng giá trị sổ sách và chiết khấu thu nhập giữ lại, độc lập với
dòng tiền.
 Tất cả dòng tiền có giá trị phù hợp. Nhiều dòng tiền không tác động đến giá trị công
ty, một số dòng tiền khác lại có quan hệ nghịch với giá trị công ty. Hình 2.3 trình bày
một vài ví dụ.
 Tất cả các điều chỉnh kế toán dồn tích có giá trị không phù hợp. Một mục tiêu chính
của kế toán dồn tích là thực hiện các điều chỉnh cho các giao dịch mà có các hàm ý
dòng tiền tương lai, ngay cả khi không có dòng tiền vào hay ra phát sinh đồng thời.
 Dòng tiền là không thể bị thao túng. Thực tế, dòng tiền dễ bị thao túng hơn thu nhập
bằng cách trì hoãn các chi tiêu vốn hay thanh toán các chi phí làm tăng dòng tiền;
tăng tốc thu tiền từ khách hàng làm giảm dòng tiền.
19
 Tất cả thu nhập là thao túng được. Không phải tất cả các công ty đều quản lý thu
nhập.
 Không thể quản lý thu nhập theo hướng tăng lên trong dài hạn. Hầu hết các công ty
mỗi lần quản lý thu nhập theo hướng tăng lên trong nhiều năm. Khái niệm và các
thức quản lý sẽ được xem xét ở phần sau.
 Các quy tắc kế toán là không phù hợp cho việc định giá. Các quy tắc kế toán tác động
đến nhiều chỉ tiêu đo lường như thu nhập hiện tại, dự báo thu nhập, giá trị sổ sách,
từ đó tác động đến việc ước tính giá trị công ty. Vì vậy, phân tích kế toán và thực
hiện các điều chính kế toán cần thiết trước khi thực hiện phân tích viễn cảnh và định
giá là rất quan trọng.

Sự thật:
Kế toán dồn tích (thu nhập) thì thích hợp hơn dòng tiền. Dòng tiền hiện tại thì kém phù
hợp hơn thu nhập hiện tại.
Dòng tiền có tính tin cậy cao hơn dồn tích. Dòng tiền có thể đóng một vai trò hỗ trợ quan
trọng với thu nhập dồn tích. Khi phân tích dòng tiền, dòng tiền dễ biến động hơn thu
nhập.
Các con số kế toán dồn tích bị lệ thuộc vào những bóp méo kế toán. Sự tồn tại của các
phương pháp kế toán khác nhau đi kèm với việc quản lý thu nhập làm giảm khả năng so
sánh và tính nhất quán của các con số kế toán dồn tích. Các quy tắc kế toán độc đoán và
các sai số ước tính cũng có thể tạo nên sự bóp méo kế toán.
20
Giá trị công ty có thể được xác định bằng cách sử dụng các con số kế toán.
KẾT LUẬN
Kế toán dòng tiền:
- Đơn giản, dễ hiểu, tính toán dễ dàng.
- Tính khách quan cao khi trình bày thông tin trong BCTC. Tiền thu vào và chi ra là
những hoạt động “hữu hình”, số tiền và ngày thu, chi tiền được xác định chính
xác, cụ thể không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà quản trị doanh nghiệp.
Phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền thường được áp dụng đối với những doanh
nghiệp nhỏ mà hoạt động chủ yếu dựa trên các luồng tiền ra vào, đặc biệt là các doanh
nghiệp dịch vụ không liên quan đến hàng hoá tồn kho. Trên thế giới, đứng trên quan
điểm của thuế, một số trường hợp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền mang
lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Theo phương pháp này, thu
nhập có thể được ghi nhận vào năm tài chính sau, trong khi chi phí hay giá vốn có thể đã
được ghi nhận trước, tại thời điểm thanh toán. Do đó, nó đảm bảo nguyên tắc thận trọng
trong kế toán cũng như thận trọng trong kinh doanh. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, cơ
quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp này.
Kế toán dồn tích:
Với các ưu điểm đã phân tích trên, phương pháp kế toán dồn tích được lựa cho hầu hết
các doanh nghiệp có khối lượng doanh thu cao, không phân biệt bán chịu hay bán thu

tiền ngay, và có kết cấu phức tạp. Thêm vào đó, những doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động có liên quan đến hàng hoá tồn kho phải áp dụng phương pháp này; và việc áp dụng
kế toán dồn tích là thực sự cần thiết đối với những doanh nghiệp phát sinh các hoạt động
bán chịu, khi đó nó sẽ đảm bảo tính phù hợp giữa doanh thu và chi phí phát sinh trong
một kỳ kế toán nhất định.
V. PHÂN TÍCH KẾ TOÁN
Phân tích kế toán là một tiến trình đánh giá quy mô các số liệu kế toán của một công ty,
phản ánh thực trạng kinh tế. Phân tích kế toán liên quan đến một số nhiệm vụ:
 Đánh giá rủi ro kết toán và chất lượng thu nhập của một công ty, uớc tính khả
năng tạo thu nhập.
21
 Tìm hiểu những tác động tiêu cực do kế toán gây ra đối với các báo các tài chính,
trên cở sở đó thực hiện một số biện pháp xử lý, điều chỉnh cần thiết nhằm tăng
cường tính hiệu quả, chính xác của nguồn thông tin hỗ trợ cho phân tích tài chính.
 Tìm ra các nguyên nhân gây sai lệch báo cáo tài chính giúp nhà quản trị đưa ra
những quyết định phù hợp với tình hình thực tế của công ty.
1. Nhu cầu phân tích kế toán:
Kế toán dồn tích cải thiện kế toán dòng tiền bằng cách phản ánh các hoạt động kinh tế
trong một phạm vi thời gian dùng đúng lúc hơn. Nhưng bên cạnh đó kế toán dồn tích tạo
ra một số biến dạng kế toán mà cần phải nhận ra và điều chỉnh để thông tin kế toán phản
ánh tốt hơn các hoạt động kinh doanh.
Các báo cáo tài chính được chuẩn bị cho một loạt các dạng người dùng và nhu cầu thông
tin đa dạng. Điều này nghĩa là thông tin kế toán yêu cầu phải được chỉnh sửa để đáp ứng
mục tiêu phân tích của từng kiểu người sử dụng.
1.1. Các biến dạng kế toán: Là những lệch lạc của thông tin được báo cáo trong báo cáo
tài chính từ các thực trạng kinh doanh. Những biến dạng này xuất phát từ bản chất của kế
toán dồn tích, bao gồm:
1.1.1. Chuẩn mực kế toán: Có 3 nguồn biến dạng có thể nhận biết được:
 Các chuẩn mực kế toán có thể là kết quả của một tiến trình chính trị. Các nhóm khác
nhau dùng các cách khác nhau vận động hành lang để bảo vệ quyền lợi của họ.

Trong tiến trình này các chuẩn mực đôi khi thất bại trong việc đòi hỏi thông tin phù
hợp nhất. Ví dụ là hạch toán quyền chọn cổ phiếu cho người lao động.
 Sự biến dạng nảy sinh từ một vài nguyên tắc kế toán. Chẳng hạn nguyên tắc chi phí
lịch sử có thể làm giảm sự thích hợp của bảng cân đối kế toán bằng cách không phản
ánh giá trị thị trường hiện tại của tài sản và nợ phải trả.
 Do chủ quan của người lập. Bởi vì kế toán viên không thể làm trái với những điều
chuẩn mực và phương pháp hạch toán đã quy định. Do đó họ sẽ lợi dụng những kẻ
hở của chuẩn mực kế toán, của phương pháp hạch toán để lập báo cáo tài chính theo
hướng có lợi cho công ty.Chẳng hạn kế toàn viên thường ghi giảm giá trị của tài sản
hư hỏng nhưng lại hạn chế ghi tăng giá trị tài sản.
1.1.2. Các sai số ước tính: Những ước tính trong kế toán dồn tích tạo ra các sai số làm
méo mó sự phù hợp của các số liệu kế toán dồn tích.
22
1.1.3. Tính tin cậy so với sự thích hợp: Các chuẩn mực kế toán đánh đổi giữa tính tin
cậy và sự thích hợp. Một tầm quan trọng đối với tính tin cậy là nó thường ngăn ngừa việc
ghi nhận các tác động của một sự kiện kinh doanh và giao dịch trong các báo cáo tài
chính cho tới khi kết quả dòng tiền có thể ước tính một cách hợp lý.
1.1.4. Quản lý thu nhập: Quản lý thu nhập thường là hậu quả rắc rối nhất của kế toán
dồn tích. Việc sử dụng phán đoán trước và ước tính trong kế toán dồn tích cho phép nhà
quản trị tiếp cận thông tin nội bộ và làm gia tăng sự hữu ích của các con số kế toán. Tuy
nhiên một vài nhà quản trị thực hiện sự tự do này để quản lý số liệu kế toán, nhất là thu
nhập vì lợi ích cá nhân, do đó làm giảm chất lượng của chúng. Quản lý thu nhập có thể
có 2 hình thức: (1) Thay đổi phương pháp kế toán và (2) Thay đổi các ước tính kế toán
và chính sách kế toán xác định nên các số liệu kế toán.
1.2. Mục tiêu phân tích:
Nhu cầu thông tin của người sử dụng khác nhau dựa trên mục tiêu và phân tích của họ.
Trong phân tích vốn cổ phần, thông tin kế toán nên đem lại một cái nhìn không thiên vị
về tình hình và thành quả tài chính của công ty. Nó cũng làm cho việc xác định thu nhập
tiềm năng trong tương lai của công ty trở nên dễ dàng. Tuy nhiên trong trường hợp phân
tích tín dụng, việc thông tin kế toán phản ánh một cách khắt khe tình hình và thành quả

tài chính của công ty lại là một điều tốt.
Vì vậy các điều chỉnh kế toán là cần thiết để thỏa mãn mục tiêu phân tích và nhu cầu của
từng người sử dụng.
1.2.1. Phân tích so sánh:
Thường liên quan đến việc thực hiện so sánh giữa công ty và thời gian. Trước khi thực
hiện so sánh, điều quan trọng là đảm bảo thông tin giữa các công ty phải sử dụng các
nguyên tắc có thể so sánh được. Ví dụ, khi so sánh tỷ số nợ trên vốn cổ phần giữa hai
công ty phải đảm bao rằng cả hai tài khoản thuê mua của hai công ty là trong một pham
vi có thể so sánh. Nếu một công ty vốn hóa khoản thuê mua trong khi công ty còn lại vẫn
giữ khoản thuê mua này thì việc so sánh trở nên kém ý nghĩa. Tương tự, không thích hợp
khi so sánh thông tin về một công ty theo thời gian nếu công ty thay đổi một hay nhiều
nguyên tắc kế toán trong thời kỳ so sánh. Vậy cần thiết phải điều chỉnh các dữ liệu kế
23
toán để đảm bảo khả năng có thể so sánh, tính nhất quán hay cả hai, phụ thuộc vào nhu
cầu phân tích.
1.2.2. Đo lường thu nhập:
Thu nhập đáp ứng hai vai trò khác nhau nhưng quan trọng như nhau: (1) Đo lường thay
đổi ròng trong tài sản của chủ sở hữu trong một thời kỳ; (2) Chỉ ra khả năng tạo lợi
nhuận của một công ty, là khả năng tạo thu nhập.
 Thu nhập kinh tế (thu nhập có thể phân phối) là bằng dòng tiền cộng thay đổi trong
giá trị thị trường của tài sản ròng. Nó biểu hiện thay đổi trong tài sản của chủ sở hữu.
Để xác định thu nhập kinh tế, cần thực hiện hướng về bảng cân đối kế toán - nghĩa là
tất cả các thay đổi trong vốn cổ phần không phát sinh từ nguồn chủ sở hữu (cổ tức và
khoản vốn góp) được gộp vào.
 Thu nhập thường xuyên (khả năng tạo thu nhập bền vững) là dòng tiền cố định, bằng
với hiện giá của dòng tiền tương lai thực. Nó biểu hiện tiềm năng thu nhập trung bình
của công ty và là một chỉ số của giá trị. Để xác định thu nhập này chúng ta cần thực
hiện một cách loại trừ - nghĩa là chỉ bao hàm các thành phần thu nhập liên tục và ổn
định.
1.3. Ý nghĩa của phân tích kế toán: Xuất phát từ các nguyên nhân:

- Chuẩn mực kế toán khác nhau sẽ gây nên các sai lệch khác nhau trên kết quả của báo
cáo tài chính.
- Phương pháp hạch toán kế toán khác nhau dẫn tới kết quả khác nhau của báo cáo tài
chính.
- Mục đích, đối tượng mà người lập báo cáo hướng tới (nhà quản trị, nhà đầu tư, nhà tài
trợ) mà việc lập báo cáo sẽ có những sai lệch với tình hình thực tế của doanh nghiệp
- Tính chủ quan của người lập báo cáo.
- Mặt khác, phân tích kế toán đòi hỏi người thực hiện phải có kiến thức về kế toán. Trong
trường hợp các nhà phân tích thiếu những kiến thức này thì họ thường có khuynh hướng
bỏ qua phân tích kế toán. Vì vậy họ sẽ không thấy được hết ý nghĩa của các báo cáo tài
chính và điều này sẽ rất nguy hiểm cho phân tích tài chính.
2. Quản lý thu nhập
- Theo Schipper 1989, "Thu nhập là sự can thiệp có mục đích của ban quản lý trong tiến
trình xác định thu nhập, thường là để thỏa mãn mục đích cá nhân.
24
- Quản lý thu nhập có thể mang tính trang điểm khi các nhà quản trị bóp méo thu nhập
dồn tích mà không gây ảnh hưởng đến dòng tiền. Nó cũng có thể là thực khi mà nhà
quản trị thực hiện các hành động làm thay đổi dòng tiền vì mục đích quản lý thu nhập.
- Quản lý thu nhập mang tính trang điểm là một hậu quả tiềm tàng của việc áp dụng rộng
rãi kế toán dồn tích. Các chuẩn mực kế toán và cơ chế giám sát làm giảm đi phạm vi
rộng rãi này. Tuy nhiên, thật bất khả thi để loại bỏ vấn đề do sự phức tạp và đa dạng của
các hoạt động kinh doanh. Hơn nữa kế toán dồn tích đòi hỏi các ước tính và phán đoán.
Điều này tạo nên một vài biến dạng quản lý trong việc xác định các con số kế toán. Mặc
dù sự tư do này cho phép các nhà quản trị cơ hôi bộc lộ một hình ảnh nhiều thông tin hơn
về hoạt động kinh doanh của công ty, nó cũng cho phép họ làm sai lệch cac báo cáo tài
chính và quản lý thu nhập.
- Các nhà quản trị cũng thực hiện các hành động làm thay đổi dòng tiền, thường bất lợi,
vì mục đích quản lý thu nhập. Động cơ quản lý thu nhập cũng ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư và tài trợ của nhà quản lý.
2.1. Các chiến lược quản lý thu nhập:

2.1.1. Tăng thu nhập:
Một chiến lược quản lý thu nhập là gia tăng thu nhập một kỳ báo cáo để phác họa một
hình ảnh công ty tốt đẹp. Có khả năng tăng thu nhập trong phạm vi nhiều kỳ. Trong tình
huống tăng trưởng, các đảo ngược dồn tích thì nhỏ hơn các dồn tích hiện tại làm tăng thu
nhập. Điều này dẫn tới trường hợp là một công ty có thể báo cáo thu nhập cao từ việc
quản lý thu nhập chủ động trong thời kỳ dài. Các công ty cũng có thể quản lý thu nhập
tăng trong vài năm và sau đó đảo ngược các dồn tích bằng chi phí một lần. Khoản chi phí
một lần này thường được báo cáo ở cuối bảng báo cáo và do đó có thể hiểu là ít liên
quan.
2.1.2. Sự tẩy xóa:
Chiến lược tẩy xóa liên quan đến việc thực hiện càng nhiều càng tốt các khoản xử lý nợ
xấu trong một kỳ. Kỳ được chọn thường là kỳ mà kết quả kinh doanh kém hay thời kỳ
mà có các sự kiện bất thường như thay đổi hội đồng quản trị, một sự xác nhập hay tái cấu
trúc. Chiến lược tẩy xóa cũng được sử dụng kết hợp với một chiến lược tăng thu nhập
cho các năm khác. Bởi vì bản chất bất thường và không định kỳ của sự tẩy xóa, người sử
25

×