Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tổng quan về môn học quản trị logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.19 KB, 24 trang )

Quản trị logistic
Phần 1: Tổng quan về môn học quản trị logistics:
1.1Khái niệm, định nghĩa:
1.1.1 Khái niêm logistics:
Logistics là một thuật ngữ có nguồn gốc Hy Lạp (logistikos) phản ánh môn
khoa học nghiên cứu tính quy luật của các hoạt động cung ứng và đảm bảo
các yếu tố tổ chức, vật chất và kỹ thuật; (do vậy, một số từ điển định nghĩa là
hậu cần), để cho quá trình chính yếu được tiến hành đúng mục tiêu.
Logistics đơn giản như là thời gian liên quan đến việc định vị các nguồn lực.
Vì vậy, logistics nhìn chung được coi như một nhánh của quá trình tạo ra
một hệ thống liên quan đến nguồn lực con người hơn là một hệ thống về
máy móc.
Theo định nghĩa của Oxford thì logistics được hiểu là một nhánh của khoa
học quân sự liên quan đến việc tiến hành, duy trì và vận chuyển phương tiện
thiết bị và nhân sự.
Trong kinh doanh, logistics có thể hiểu như việc tập trung cả nội lực lẫn
ngoại lực bao hàm cả quá trình chu chuyển từ nhà "sản xuất gốc" đến "người
tiêu dùng cuối cùng". Chức năng chính của logistic bao gồm việc quản lý
việc mua bán, vận chuyển, lưu kho cùng với các hoạt động về tổ chức cũng
như lập kế hoạch cho các hoạt động đó. Người quản lý logistics kết hợp kiến
thức tổng hợp của mỗi chức năng từ đó phối hợp các nguồn lực trong tổ
chức để vận hành. Có hai khác biệt cơ bản của logistics. Một thì đánh giá
một cách lạc quan, đơn giản coi đó như là sự chu chuyển ổn định của nguyên
liệu trong mạng lưới vận chuyển và lưu trữ. Một thì coi đó là một sự kết hợp
các nguồn lực (nhân lực, vật lực...) để tiến hành quá trình.
1.1.2: Khái niệm quản trị logistics:
Nhóm 08 Page 1
Quản trị logistic
Theo hội đồng quản trị logistics của Mỹ (council of Logistics Management –
CLM) thì:
Logistics là quá trình hoạch định, thực thi và kiểm tra dòng vận động và dự


trữ một cách hiệu quả của vật liệu thô, dự trữ trong quá trình sản xuất, thành
phẩm và thong tin từ điểm khởi đầu tới điểm tiêu dung nhằm thỏa mãn những
yêu cầu của khách hàng.
Như vậy, logistics bắt đâù từ nguồn cung cấp nguyên vật liệu và kết thúc khi đã
phân phối hàng hóa cho người tiêu dung cuối cùng.Trong kinh doanh thương mại,
logistics được định nghĩa là :bao gồm việc hoạch định, thực thi và kiểm tra dòng
vận động của hàng hóa dịch vụ và thông tin từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu
dung thông qua các hành vi thương mại nhằm thỏa mãn nhu cầu mua hàng của
khách hàng và thu lợi nhuận.
Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà chuyên nghiệp về quản trị chuỗi cung ứng
(Council of Supply Chain Management Professionals - CSCMP):
“Quản trị logistics là một phần của quản trị chuỗi cung ứng bao gồm việc hoạch
định, thực hiện, kiểm soát việc vận chuyển và dự trữ hiệu quả hàng hóa, dịch vụ
cũng như những thông tin liên quan từ nơi xuất phát đến nơi tiêu thụ để đáp ứng
yêu cầu của khách hàng. Hoạt động của quản trị logistics cơ bản bao gồm quản trị
vận tải hàng hóa xuất và nhập, quản lý đội tàu, kho bãi, nguyên vật liệu, thực hiện
đơn hàng, thiết kế mạng lưới logistics, quản trị tồn kho, hoạch định cung/cầu, quản
trị nhà cung cấp dịch vụ thứ ba. Ở một số mức độ khác nhau, các chức năng của
logistics cũng bao gồm việc tìm nguồn đầu vào, hoạch định sản xuất, đóng gói, dịch
vụ khách hàng. Quản trị logistics là chức năng tổng hợp kết hợp và tối ưu hóa tất cả
các hoạt động logistics cũng như phối hợp hoạt động logistics với các chức năng
khác như marketing, kinh doanh, sản xuất, tài chính, công nghệ thông tin.”
Nhóm 08 Page 2
Quản trị logistic
Quản trị chuỗi cung ứng (Supply Chain Management -SCM)
Theo định nghĩa của Hiệp hội các nhà quản trị chuỗi cung ứng:
“Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạch định và quản lý tất cả các hoạt động liên
quan đến tìm nguồn cung, mua hàng, sản xuất và tất cả các hoạt động quản trị
logistics. Ở mức độ quan trọng, quản trị chuỗi cung ứng bao gồm sự phối hợp và
cộng tác của các đối tác trên cùng một kênh như nhà cung cấp, bên trung gian, các

nhà cung cấp dịch vụ, khách hàng. Về cơ bản, quản trị chuỗi cung ứng sẽ tích hợp
vấn đề quản trị cung cầu bên trong và giữa các công ty với nhau. Quản trị chuỗi
cung ứng là một chức năng tích hợp với vai trò đầu tiên là kết nối các chức năng
kinh doanh và các qui trình kinh doanh chính yếu bên trong công ty và của các
công ty với nhau thành một mô hình kinh doanh hiệu quả cao và kết dính. Quản trị
chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những hoạt động quản trị logistics đã nêu cũng như
những hoạt động sản xuất và thúc đẩy sự phối hợp về qui trình và hoạt động của
các bộ phận marketing, kinh doanh, thiết kế sản phẩm, tài chính, công nghệ thông
tin.”
Thông qua định nghĩa trên, chúng ta thấy:
- logistics là quá trình quản trị, là chức năng quản trị cơ bản của doanh nghiệp
thương mại; kinh doanh thương mại là kinh doanh dịch vụ logistics.
- Logistics thương mại là quá trình dịch vụ khách hàng thông qua các hành vi
mua bán hàng hóa.
- Nhu cầu của khách hàng trong logistics là nhu cầu mua hàng: những lợi ích
có được trong khi mua hàng_ dịch vụ mặt hàng về số lượng, cơ cấu và chất
lượng; nhu cầu dịch vụ về thời gian, tốc độ, độ ổn định và tính linh hoạt;
nhu cầu dịch vụ về địa điểm , và nhu cầu bổ sung.
1.2Các thành phần cơ bản của logistics:
Theo quan điểm của Ronall Ballou thì logistics là tập hợp các hoạt động chức
năng được lặp đi lặp lại trong chuỗi cung ứng, nhờ đó nguyên vật liệu được
biến đổi thành thành phẩm và nhờ đó giá trị của chúng được tăng thêm trong
Nhóm 08 Page 3
Quản trị logistic
mắt khách hàng. Do đó,logistics là những hoạt động diễn ra trong chuỗi cung
ứng, bao gồm:
a) Dịch vụ khách hàng:
Hoạt động này tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm hay dịch vụ được trao
đổi. được đo bằng hiệu số giá trị đầu ra và giá trị đầu vào thể hienj qua sự
hài long của khách hàng.

b) Hệ thống thông tin:
Bao gồm thông tin trong nội bộ từng tổ chức( DN, NCC, KH). Thông tin
trong từng bộ phận chức năng của doanh nghiệp, trong các khâu dây chuyền
cung ứng(kho tang, bến bãi, vận tải…)….
c) Quản lý dự trữ: trong thực tế thì hoạt động dự trữ là rất càn thiết, song nó rất
tốn kém về chị phí. Vì vậy, quản lý dự trữ tốt sẽ giúp DN cân đối giữa vốn
đầu tư và các cơ hội đầu tư khác.
d) Quản trị vận chuyển:quản trị vận chuyển tốt sẽ góp phần đưa sản phẩm đến
đúng lúc, đúng nơi, đảm bảo yêu cầu khách hàng.
e) Quản trị kho hàng: bao gồm việc thiết kế mamgj lưới kho hàn, tính toán quy
mô và trang bị các thiết bị nhà kho, tổ chức nghiệp vụ kho….
f) Quản lý vật tư và mua hàng:bao gồm việc xác định nhu cầu vật tư, hàng hóa;
tìm kiếm và lựa chon NCC; tiến hành mua sắm, tổ chức vận chuyển, tiếp
nhận và lưu kho, bảo quản và cung cấp cho người sử dụng…
1.3 Vai trò của logistics đối với sự phát triển kinh tế:
1.3.1: đối với nền kinh tế quốc dân:
Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng vai trò quan trọng không thể thiếu
trong sản xuất, lưu thông và phân phối. Theo các nghiên cứu gần đây cho thấy
logistics chiếm khoảng 10-15 % GDP của hầu hết các nước ở Châu Âu, Bắc
Mỹ, Châu á- Thái Bình Dương.
Phần giá trị gia tăng tạo ra ngày càng lớn vì các tác động của nó thể hiện rõ qua
các khía cạnh sau đây:
- Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và
trên toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu sản xuất, lưu thông phân phối,
mở rộng thị trường.
Nhóm 08 Page 4
Quản trị logistic
- Tối ưu hóa các chu trình sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào đến khi sản
phẩm tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
- Tiết kiệm và giảm chi phí trong kênh phân phối

- Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa
hoạt động kinh doanh và vận tải quốc tế.
1.3.2 Đối với doanh nghiệp:
Đối với doạnh nghiêphj, logistics có vait rò quan trọng trong việc giải quyết bài
toán đầu vào, đầu ra sao cho hiệu quả.Logistics có thể thay đổi nguồn nguyên
liệu đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa,
dịch vụ,…logistics còn giúp giảm bớt chi phí, tăng khả năng cạnh tranh. Cụ thể
những tác động của logistics với doanh nghiệp là:
- Logistics nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí kinh doanh tăng
cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Logistics cho phép doanh nghiệp di chuyển hàng hóa và dịch vụ hiệu quả
đến khách hàng.
- Logistics hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt đọng sản
xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tang cho doanh nghiệp.
1.4.Phân loại logistics:
1.4.1: theo các hình thức logistics:
- logistics kinh doanh( Business logistics): là một phần của quá trình chuỗi cung
ứng, nhằm hoạch định, thực thi và kiểm soát một cách hiệu quả và hiệu lực các
dòng vận đông và dự trữ sảm phẩm, dịch vụ và thông tin có liên quan từ các điểm
khởi đầu tới điểm tiêu dung nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng.
- logistics quân đội (Military logistics) : là việc thiết kế và phối hợp các phương
diện hỗ trợvà các thiết bị, cho các chiến dịch, trận đánh.
Nhóm 08 Page 5
Quản trị logistic
- logistics sự kiện (Event logistics) là tập hợp các hoạt động, các phương tiện vật
chất kỹ thuật và con người cần thiết để tổ chức, sắp xếp lịch trình nhằm triển khai
các nguồn lực cho một sự kiện diễn ra thành công.
- logistics dịch vụ (Service logistics) bao gồm các hoạt động thu nhận, lập chương
trình và quản trị các điều kiện cơ sở vật chất, tài sản con người và vật liệu nhằm hỗ
trợ duy trì các quá trình dịch vụ và các hoạt động kinh doanh.

1.4.2 Theo quá trình nghiệp vụ:
- quá trình mua hàng (Procurement logistics): là các hoạt động liên quan đến việc
tạo ra sản phẩm và nguyên vật liệu từ các nhà cung cấp bên ngoài.
- quá trình hỗ trợ sản xuất (Manufacturing Support) tập trung vào hoạt động quản
trị chuỗi dự trữ một cách hiêu quả giữa các bước trong quá trình sản xuất.
- quá trình phân phối sản phẩm ra thị trường ( Market distribution) liên quan đến
việc cung cấp các dịch vụ khách hàng.
1.4.3 Theo đối tượng hàng hóa:
- logistics hàng tiêu dùng ngắn ngày
- logistics ngành ô tô
- logistics ngành hóa chất
- logistics ngành dầu khí
-…..
II.Thực trạng logistic tại Việt Nam.
Nhóm 08 Page 6
Quản trị logistic
Cách đây vài thế kỷ, thuật ngữ Logistics được sử dụng trong quân đội và
được hoàng đế Napoléon nhắc đến trong câu nói nổi tiếng "Kẻ nghiệp dư bàn
về chiến thuật, người chuyên nghiệp bàn về logistics".
Ngày nay, thuật ngữ logistics được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như một ngành
mang lại nhiều nguồn lợi to lớn. Theo Luật Thương mại Việt Nam, logistics là một
hoạt động thương mại do các thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công
đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho bãi, làm thủ tục hải quan và các loại
giấy tờ, tư vấn khách hàng, đóng gói, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hóa để hưởng phí thù lao. Hoặc hiểu một cách đơn giản, logistics là việc
thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa cùng những thông tin có liên quan từ nơi
hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ cuối cùng.
Ngành đem lại nguồn lợi khổng lồ.
Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình
này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và

thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics
đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có
thể hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành
sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng.
Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng
sản phẩm dịch vụ.
Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP. Ước tính GDP nước
ta năm 2006 khoảng 57,5 tỷ USD. Như vậy, chi phí logistics chiếm khoảng 8,6-
11,1 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn. Nếu chỉ tính riêng khâu quan trọng
Nhóm 08 Page 7
Quản trị logistic
nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một thị
trường dịch vụ khổng lồ.
Thực tế logistics ở Việt Nam.
1.Về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực đang thiếu một cách trầm trọng. Theo ứơc tính của VIFFAS,
nếu chỉ tính các nhân viên trong các công ty hội viên (khỏang 140 ) thì tổng số
khỏang 4000 người. Ðây là lực lượng chuyên nghiệp, ngoài ra ước tính khỏang
4000-5000 người thực hiện bán chuyên nghiệp. Nguồn nhân lực được đào tạo
từ nhiều nguồn khác nhau. Từ trước tới nay, các trường đại học, cao đẳng
chuyên ngành ngoại thương, hàng hải, giao thông vận tải cũng chỉ đào tạo
chung các kiến thức cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương, vận tải. Sách giáo
khoa, tài liệu tham khảo về loại hình dịch vụ này cũng chưa nhiều. Ngay cả
như các chuyên gia được đào tạo chuyên nghiệp trong lĩnh vực này vẫn còn
quá ít so với yêu cầu phát triển.
Nguồn nhân lực đối với bất cứ doanh nghiệp dịch vụ nào cũng đều là yếu tố quyết
định sự thành công của doanh nghiệp đó trên thương trường. Trong những năm gẩn
đây, ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đã và đang phát triển rất nhanh chóng, từ
một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh của đầu thập niên 90 đến nay đã có
hơn 600 công ty được thành lập và hoạt động từ Nam, Trung, Bắc. Theo thông tin

từ Sở kế hoạch đầu tư TP.HCM thì trung bình mỗi tuần có một công ty giao nhận,
logistics được cấp phép hoạt động hoặc bổ sung chức năng logistics. Sự phát triển
ồ ạt về số lượng các công ty giao nhận, logistics trong thời gian qua là kết quả của
Luật doanh nghiệp sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1-1-2000 với việc dở bỏ rất nhiều
rào cản trong việc thành lập và đăng ký doanh nghiệp. Hiện nay, đối với doanh
nghiệp làm dịch vụ giao nhận, logistics tại Việt Nam, vốn và trang thiết bị, cơ sở
Nhóm 08 Page 8
Quản trị logistic
hạ tầng, ngay cả các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn của ngành cũng không còn là
rào cản nữa và lợi nhuận biên (profit margin), lợi nhuận trên vốn tương đối cao
(theo các thống kê ở mức trung bình ngành vào khoảng 18-20%). Cứ theo đà này
thì trong vài năm nữa Việt Nam sẽ vượt cả Thái Lan (1100 công ty),
Singapore(800), Indonesia, Philipin (700-800) về số lượng các công ty logistics
đăng ký hoạt động trong nước. Các công ty giao nhận nước ngoài, mặc dù các quy
định về pháp luật Việt Nam chưa cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, bằng cách này, cách nọ cũng thành lập chừng vài chục doanh nghiệp, chủ
yếu tại TP.HCM. Việc phát triển nóng của ngành logistics theo chúng tôi là điều
đáng lo ngại do các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, xét về quy mô (con người,
vốn, doanh số…) vẫn rất nhỏ bé, ngoại trừ vài chục doanh nghiệp quốc doanh và
cổ phần là tương đối lớn (từ 200-300 nhân viên), số còn lại trung bình từ 10-20
nhân viên, trang thiết bị, phương tiện, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, chủ yếu mua
bán cước tàu biển, cước máy bay, đại lý khai quan và dịch vụ xe tải, một số có thực
hiện dịch vụ kho vận nhưng không nhiều. Nói chung là hoạt động thiếu đồng bộ,
manh mún và quy mô nhỏ, mức độ công nghệ chưa theo kịp các nước phát triển
trong khu vực Đông Nam Á.
Do phát triển nóng nên nguồn nhân lực cung cấp cho thị trường logistics tại Việt
Nam hiện nay trở nên thiếu hụt trầm trọng. Theo thông tin chúng tôi có được từ các
công ty săn đầu người như KPMG về việc tuyển chọn nhân viên kinh doanh
(sales), các doanh nghiệp tư nhân tại TP.HCM đăng báo tìm người… trong 3, 4
tháng vẫn không tìm ra người theo yêu cầu.

Theo VIFFAS, hiện chưa có thống kê chính xác về nguồn nhân lực phục vụ. Nếu
chỉ tính riêng các công ty thành viên Hiệp hội (có đăng ký chính thức), tổng số
nhân viên vào khoảng 5000 người. Đây là lực lượng được coi là chuyên nghiệp.
Nhóm 08 Page 9

×