Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Dự báo nhu cầu điện năng việt nam từ năm 2008 đến 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.24 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN TÌNH
DỰ BÁO NHU CẦU ĐIỆN NĂNG VIỆT NAM
TỪ NĂM 2008 ĐẾN 2015
Chuyên ngành: HỆ THỐNG ĐIỆN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT ĐIỆN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH TRẦN HOÀI LINH
Hà Nội - Năm 2008
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả tính toán trong đề tài là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong các công trình khác.
Nguyễn Văn Tình
2
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn này, học viên xin trân trọng cảm ơn
thầy giáo hướng dẫn: PGS.TSKH TRẦN HOÀI LINH đã tận tình giúp đỡ để
học viên hoàn thành các nội dung được trình bày trong luận văn.
Học viên xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thầy cô giáo Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội; sự hỗ trọ, giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã
tạo điều kiện cho học viên học tập và thực hiện đề tài này.
Mặc dù được các thầy cô tận tình hướng dẫn và bản thân học viên đã cố
gắng trong học tập và nghiên cứu, song luận văn không trách khỏi những thiếu
sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và người đọc.
3
MỤC LỤC
Nội dung Trang
Trang phụ bìa


Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Chương 1 - ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ TÌNH HÌNH
SỬ DỤNG ĐIỆN NĂNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000 - 2007
1.1. Sự phát triển kinh tế
1.2. Đánh giá về sự gia tăng dân số
1.3. Đánh giá về tình hình sử dụng điện năng từ 2000 đến 2007
1.3.1. Sơ bộ cơ cấu tổ chức của ngành Điện lực Việt Nam
1.3.2. Tóm lược tình hình sử dụng điện từ năm 2000-2007
1.4. Phân tích sự thay đổi về giá điện trong thời gian qua và các yếu tố
ảnh hưởng tới việc huy động vốn đầu tư phát triển nguồn điện
1.4.1. Phân tích sự thay đổi về giá điện
1.4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn đầu
tư phát triển nguồn điện
Chương 2 - MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO NHU CẦU
ĐIỆN NĂNG
2.1. Khái niệm chung
2.2. Một số phương pháp dự báo nhu cầu điện năng
2.2.1. Dự báo nhu cầu điện năng theo các ngành của nền kinh tế
quốc dân
2.2.2. Phương pháp ngoại suy
2.2.3. Phương pháp tương quan
2.2.4. Phương pháp tính hệ số vượt trước
2.2.5. Phương pháp chuyên gia
2.2.6. Phương pháp phân tích kinh tế
2.2.7. Phương pháp phân tích kinh tế - kỹ thuật
2.2.8. Phương pháp dự báo bằng phân tích quá trình
2.2.9. Dự báo nhu cầu điện năng trên cơ sở phân tích sự thay đổi

công nghệ
2.2.10. Phương pháp san bằng hàm mũ
2.2.11. Xác định toán tử dự báo tối ưu
2.2.12. Phương pháp đàn hồi
2.2.13. Phương pháp cường độ điện nămg
2.2.14. Phương pháp đa hồi quy (Simple-E)
4
Chương 3 - ỨNG DỤNG MATLAB MÔ PHỎNG MỘT SỐ PHƯƠNG
PHÁP DỰ BÁO VÀ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG CÁC PHƯƠNG
PHÁP CHO SỐ LIỆU QUÁ KHỨ
3.1. Nghiên cứu phần mềm MATLAB để thực hiện chương trình tính toán
3.1.1. Sơ lược về MATLAB
3.1.2. Một số ứng dụng của MATLAB
3.2. Lập trình mô phỏng một số thuật toán trong MATLAB và đánh giá
chất lượng thuật toán trên cơ sở số liệu quá khứ
3.2.1. Đánh giá tương quan giữa các đại lượng trong mô hình dự báo
3.2.2. Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam từ năm 2000 đến 2007
bằng phương pháp san bằng hàm mũ
3.2.3. Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam từ năm 2000 đến 2007
bằng phương pháp xác định toán tử dự báo tối ưu
3.2.4. Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam từ năm 2000 đến 2007
bằng phương pháp ngoại suy với phương trình dạng đa biến dạng
y
i
= a
1
x
i1
+a
2

x
i2
+ +a
m
x
im
+e
i
3.2.5. So sánh chọn phương pháp dự báo tối ưu
Chương 4 - DỰ BÁO NHU CẦU ĐIỆN NĂNG VIỆT NAM
TỪ NĂM 2008 - 2015
4.1. Xác định khoảng thời gian quá khứ
4.2. Dự báo nhu cầu điện nămg Việt Nam từ năm 2008 đến 2015 bằng
phương pháp xác định toán tử dự báo tối ưu với biến độc lập là Điện-
GDP
4.3. Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam từ năm 2008 đến 2015 bằng
phương pháp ngoại suy với phương trình dạng đa biến dạng
y
i
= a
1
x
i1
+a
2
x
i2
+ +a
m
x

im
+e
i
4.4. Tổng hợp kết quả
4.5. Đánh giá kết quả
Chương 5 - KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
chung. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vấn
tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát
triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách
thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế -
thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn,
công nghệ giữa các nước ngày càng gay gắt. Khoa học và công nghệ sẽ có
bước tiến nhảy vọt và những đột phá lớn, nhất là công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học.
Đối với Việt Nam, thời kỳ này là giai đoạn “Đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và
tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát
triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng
để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020”
1
. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngành Điện lực
1
: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội - 2006 -

trang 185, 186
6
giữ vai trò quan trọng. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, nhu cầu về điện năng
của nước ta trong những năm qua tăng rất nhanh, cụ thể:
- Năm 2003 sản lượng điện 34.906 GHh, tăng 15,3% so với năm 2002
- Năm 2004 sản lượng điện 39.695 GHh, tăng 13,7% so với năm 2003
- Năm 2005 sản lượng điện 44.922 GHh, tăng 13,2% so với năm 2004
- Năm 2006 sản lượng điện 51.318 GHh, tăng 14,2% so với năm 2005
- Năm 2007 sản lượng điện 58.412 GHh, tăng 13,8% so với năm 2006
Với tốc độ tăng trưởng như trên, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa-
hiện đại hóa đất nước, việc nghiên cứu dự báo nhu cầu điện năng trong tương lai
là vấn đề cần thiết, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch đầu tư xây dựng nguồn và
lưới điện đạt hiệu quả cao, nhất là trước đòi hỏi rất lớn về nguồn vốn đầu tư xây
dựng của ngành Điện hiện nay (mỗi năm riêng phần nguồn là trên 2,5 tỷ USD và
toàn ngành là trên 4 tỷ USD). Nếu dự báo phụ tải quá thừa so với nhu cầu sử
dụng thì dẫn đến hậu quả làm tăng vốn đầu tư để xây dựng các nhà máy điện
cung cấp, gây thiệt hại cho nền kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ vấn đề trên, được sự chấp thuận của Trường Đại học Bách
Khoa Hà Nội, bản thân thực hiện đề tài “ Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam
từ năm 2008 đến 2015”.
Luận văn được trình bày trong 5 chương, bao gồm:
Chương 1: Đánh giá sự phát triển kinh tế và tình hình sử dụng điện năng ở
Việt Nam giai đoạn 2000-2007
Chương 2: Một số phương pháp dự báo nhu cầu điện năng
Chương 3: Ứng dụng Matlab mô phỏng một số phương pháp dự báo và
đánh giá chất lượng các phương pháp cho số liệu quá khứ
Chương 4: Dự báo nhu cầu điện năng Việt Nam từ năm 2008 - 2015
Chương 5: Kết luận
Do thời gian nghiên cứu và khả năng bản thân có hạn, vì vậy không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy

cô giáo và người đọc.
7
Chương 1
ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG
ĐIỆN NĂNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2007
1.1. Sự phát triển kinh tế [3]
Ngày nay tất cả các quốc gia trên thế giới đều đề ra những mục tiêu phấn
đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau trong
quan niệm, nhưng sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một quốc gia
thường được đánh giá dựa trên sự gia tăng về kinh tế và sự tiến hóa về xã hội.
Phát triển kinh tế là một qúa trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế
trong một giai đoạn nhất định, trong đó bao hàm các sự tăng trưởng kinh tế và
sự tiến bộ về xã hội. Để phản ánh mức độ phát triển kinh tế, người ta thường
dùng nhóm chỉ số:
- Thể hiện sản lượng hàng hóa và dịch vụ tăng;
- Thể hiện sự tiến bộ xã hội và cơ cấu kinh tế - xã hội.
Cả hai chỉ số cơ bản phản ánh sản lượng hàng hóa và dịch vụ: tổng thu
nhập và GDP bình quân đầu người.
- Tổng thu nhập: Phản ánh một cách khái quát quy mô sản lượng hàng hóa
và dịch vụ đã làm ra trong năm mà nhân dân một nước có thể thu được. Hiện
8
nay người ta dùng chỉ số tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng sản phẩm quốc
hội (GDP) hay thu nhập quốc dân (NI) để phản ánh tổng thu nhập của một nước.
- GDP bình quân đầu người: Là tỉ số của tổng sản phẩm quốc nội với dân
số quốc gia đó tại cùng thời điểm.
Để làm rõ sự tiến bộ xã hội do tăng trưởng đưa lại, người ta sử dụng các
chỉ số nói lên sự tiến bộ xã hội, mà xoay quanh là sự biến đổi của con người,
bao gồm các chỉ số sau:
- Tuổi thọ bình quân trong dân số:
Sự tăng lên của tuổi thọ bình quân trong dân số ở một thời kỳ nhất định,

phản ánh một cách tổng hợp về tình hình sức khoẻ của dân cư trong một nước.
Các nước có sự văn minh trong đời sống và mức sinh sống thấp do kinh tế kém
phát triển tuổi thọ bình quân dưới 50 tuổi. Ở các nước phát triển chỉ số đó
khoảng 70 tuổi.
- Mức tăng dân số hàng năm:
Mức tăng dân số liên quan đến thu nhập bình quân trên đầu người của nền
kinh tế quốc gia. Sự tăng dân số cao, sự bùng nổ dân số của các nước kém phát
triển làm cho các nước này ngày càng nghèo đói thêm. Mức tăng dân số hàng
năm còn liên quan đến mật độ dân số đó là: tổng dân số quốc gia/tổng diện tích
quốc gia; tổng dân số quốc gia/tổng diện tích đất canh tác. Các nước đang phát
triển mức tăng dân số hàng năm trên 2% còn các nước phát triển hiện nay mức
tăng dân số hàng năm dưới 1%. Như vậy mức tăng dân số càng nhỏ thể hiện
mức phát triển của quốc gia càng cao.
- Số calo bình quân đầu người (calo/người/ngày):
Chỉ số này phản ánh mức sống, mức nhu cầu về lương thực, thực phẩm
của con người được qui đổi thành đơn vị năng lượng cần thiết cho con người là
calo. Đối với các nước đang phát triển mức thu nhập bình quân trên người tăng
lên thì số calo bình quân trên đầu người cũng tăng lên. Chỉ tiêu calo bình quân
trên đầu người chỉ có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển, thể hiện một nền
kinh tế giải quyết được nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm ở mức nào?
9
Còn đối với các nước đã phát triển vì mức sống cao nên chỉ tiêu này không có ý
nghĩa nữa.
- Tỷ lệ người có học (biết chữ) trong dân số:
Cùng với chỉ số này, còn dùng chỉ số tỷ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi
đi học, hay trình độ phổ cập văn hóa trong lao động và dân số. Các chỉ số này
phản ánh trình độ phát triển của xã hội, sự biến đổi về chất của xã hội. Xã hội
hiện đại đã coi việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu tư dài hạn
cho phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ lệ người biết chữ và trẻ em đi học cao, đồng
nghĩa với sự văn minh của xã hội và nó thường đi đôi với nền kinh tế có mức

tăng trưởng cao. Do vậy đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của một nước.
- Các chỉ số khác về phát triển kinh tế - xã hội:
Ngoài các chỉ số cơ bản nêu trên, người ta còn dùng các chỉ số đánh giá sự
phát triển xã hội ở mặt bảo hiểm, chăm sóc sức khẻo như: số giường bệnh, số
bệnh viện, viện an dưỡng, số bác sĩ, y sĩ tính bình quân cho một triệu dân. Về
giáo dục và văn hóa thì có tổng số các bác học, giáo sư, tiến sĩ, trường đại học,
viện nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà bảo tàng, thư viện tính bình quân cho ngàn
hoặc triệu dân.
Sự phát triển kinh tế - xã hội còn biểu hiện trong biến đổi về cơ cấu của
các ngành, các lĩnh vực sản xuất và các khu vực xã hội theo các chỉ số:
- Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm trong nước:
Chỉ số này phản ánh tỷ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và
dịch vụ trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ sản lượng của công
nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày càng tăng, còn tỷ lệ của nông nghiệp trong
GDP ngày càng giảm.
- Chỉ số về sản phẩm xuất nhập khẩu:
Tỷ lệ của sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện sự mở cửa của nền
kinh tế đối với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu
trong GDP tăng lên.
10
- Chỉ số về mức tiết kiệm đầu tư:
Tỷ lệ tiết kiệm đầu tư trong sản phẩm quốc dân (GDP) hay trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) thể hiện khả năng về tăng trưởng và phát triển kinh tế của
quốc gia. Đây là một nhân tố của sự tăng trưởng. Những nước có tỷ lệ đầu tư
cao (từ 20-30% GNP) thường là các nước có mức tăng trưởng cao.
- Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị:
Quy luật nền kinh tế-xã hội của quốc gia càng phát triển thì dân số và lao
động ở thành thị ngày càng tăng lên và ở nông thông ngày càng giảm đi. Công
nghiệp hóa phát triển nền kinh tế dẫn đến đô thị hóa, người ta thường biểu hiện

nội dung này bằng tỷ lệ lao động và dân số sống ở thành thị so với tổng lao động
và dân số của quốc gia. Đồng thời tỉ số dân sống ở thành thị cũng tăng lên theo
mức thu nhập bình quân trên đầu người tăng lên. Sự tăng dân số và lao động ở
thành thị nói lên sự văn minh trong đời sống của nhân dân, sự phát triển kinh tế
xã hội của một nước.
- Chỉ số về sự liên kết kinh tế:
Chỉ số này biểu hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lưu kinh tế giữa
các ngành và các khu vực trong nước. Sự chặt chẽ của mối liên kết được đánh
giá thông qua trao đổi các yếu tố đầu vào - đầu ra trong các ma trận liên ngành -
liên vùng.
Sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm cũng là một tiêu chuẩn
đánh giá sự tiến bộ của xã hội hiện đại. Cùng với sự công bằng, vấn đề độc lập
hay phụ thuộc về kinh tế, chính trị của quốc gia, sự tự do dân chủ của công dân,
sự tiến bộ trong thể chế chính trị, xã hội cũng được xem như một nội dung
quan trọng của sự phát triển đất nước. Tuy vậy cho đến nay vẫn còn những quan
điểm khác nhau về nội dung các tiêu chí trên nên chưa có chỉ số nào để đo lường
được các nội dung đó.
Từ năm 2000 đến nay nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng mạnh, tổng
sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,51%. Đạt được kết quả như
vậy là do hầu hết các ngành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế đều có mức
11
tăng trưởng khá cao, cụ thể: giá trị sản xuất bình quân hàng năm đối với nông
nghiệp tăng 4,11%, lâm nghiêp tăng 1,37%, thuỷ sản tăng 12,12%, công nghiệp
tăng 16,02%, xuất khẩu tăng 17,5% và nhập khẩu tăng 18,58%. Hệ thống kết
cấu hạ tầng: bưu chính - viễn thông, đường sá, cầu cảng, sân bay, điện, thuỷ
lợi được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu đều phát triển. Văn
hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; giáo dục
- đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở vật chất. Trình độ dân trí và chất lượng
nguồn nhân lực được nâng lên. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ
vào phổ cập giáo dục tiểu học. Khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên

và công nghệ chuyển biến tích cực, gắn bó hơn với yêu cầu thực tế của nền kinh
tế - xã hội. Những nhu cầu thiết yếu của nhân dân về ăn, mặc, ở, chăm sóc sức
khoẻ, điện sinh hoạt, học tập, đi lại, giải trí được đáp ứng tốt hơn. Mỗi năm
hơn 1,5 triệu lao động có việc làm mới. Công tác xoá đói, giảm nghèo trên phạm
vi cả nước đạt kết quả nổi bật, được dư luận thế giới đánh giá cao. Công tác dân
số - kế hoạch hóa gia đình đạt nhiều thành tích. Một vài chỉ số phản ánh sự phát
triển kinh tế của nước ta được thống kê ở phụ lục 1.
Từ số liệu thống kê cho thấy tổng sản phẩm trong nước thời gian qua liên
tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực, tỷ trọng nông
nghiệp giảm, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng. Dù
vậy nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua phát triển chưa vững chắc, hiệu
quả và sức cạnh tranh thấp; nhịp độ tăng trưởng kinh tế chậm dần. Nhịp độ tăng
trưởng tổng sản phẩm trong nước và GDP bình quân đầu người thấp; năng suất
lao động thấp, chất lượng nhiều sản phẩm chưa tốt, giá thành cao. Một số sản
phẩm nông nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp thiếu thị trường tiêu thụ cả
trong và ngoài nước do thiếu sức cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm;
cơ cấu đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm. Kinh tế nhà nước chưa được củng
cố tương xứng với vai trò chủ đạo, chưa có chuyển biến đáng kể trong việc sắp
xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước. Mức sống nhân dân, nhất là
nông dân ở một số vùng quá thấp. Chính sách tiền lương và phân phối trong xã
12
hội còn nhiều bất hợp lý. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị
và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh chóng. Cơ chế, chính sách
không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển. Một số cơ chế, chính
sách còn thiếu nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Có những
chính sách đúng bị biến dạng qua nhiều tầng nấc hành chính quan liêu. Tổ chức
bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lắp chức năng cùng với các thủ tục hành
chính phiền hà gây khó khăn và làm giảm động lực phát triển kinh tế - xã hội.
1.2. Đánh giá về sự gia tăng dân số
Dân số và phát triển kinh tế là hai vấn đề có tác động qua lại và quan hệ

mật thiết với nhau, điều này bắt nguồn từ vai trò hai mặt của con người trong đời
sống kinh tế. Một mặt con người là lực lượng sản xuất đầu tiên và quyết định
mọi quá trình phát triển; mặt khác con người lại là lực lượng hưởng thụ những
kết quả của sự phát triển đó. Khi xã hội càng phát triển thì mối quan hệ này lại
càng tăng lên vì dân số tăng tạo ra nguồn nhân lực quyết định sự phát triển kinh
tế; dân số quá thấp sẽ hạn chế sự phân công lao động xã hội, giảm khả năng
chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong tổ chức sản xuất xã hội. Nhưng nếu dân số
tăng nhanh sẽ hạn chế sự tích luỹ để tái sản xuất trong phạm vi từng gia đình
cũng như toàn xã hội. Dân số tăng nhanh còn gây ảnh hưởng xấu tới môi trường,
đẩy nhanh quá trình cạn kiệt tài nguyên. Dân số tăng nhanh càng ảnh hưởng tới
nhiẹp độ đô thị hóa, xã hội phải gánh vác nhiều khoản chi phí lớn về nhà ở,
đường sá, cung cấp nước, lương thực, thực phẩm, y tế, giáo dục Vì vậy, chiến
lược dân số là bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển.
Ngày nay nhờ những tiến bộ về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, y tế, giáo dục
và nhất là kết quả của công tác kế hoạch hóa gia đình được thực hiện trong
nhiều năm qua tại nước ta đạt thành tựu đáng kể, góp phần làm cho tỷ lệ dân số
Việt Nam những năm qua dù vẫn còn cao nhưng đã có xu hướng giảm dần, số
liệu cụ thể được thống kê ở phụ lục 2.
1.3. Đánh giá về tình hình sử dụng điện năng từ năm 2000 đến 2007
1.3.1. Sơ bộ cơ cấu tổ chức của ngành điện lực Việt Nam
13
Tổng công ty Điện lực Việt Nam được thành lập năm 1994 (nay là Tập
đoàn Điện lực Việt Nam, viết tắt là EVN), cơ cấu tổ chức gồm có Hội đồng
quản trị, Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc và các Ban chuyên môn cùng
với 91 đơn vị thành viên sau:
- Các Công ty phát điện do EVN nắm giữ 100% vốn điều lệ: 11;
- Các Công ty phát điện do EVN nắm giữ 50% vốn điều lệ: 17;
- Các ban quản lý dự án: 16;
- Các Công ty phân phối điện: 11;
- Công ty mua bán điện, tổng Công ty tuyền tải điện quốc gia: 2;

- Trung tâm điều độ hệ thống điện quốc gia, Trung tâm thông tin Điện lực,
Trung tâm công nghệ thông tin, Công ty thông tin viễn thông điện lực: 4;
- Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng điện: 4;
- Công ty Cổ phần sản xuất thiết bị điện: 3;
- Công ty liên kết: 18;
- Đơn vị sự nghiệp: 15.
Hiện tại EVN đang tiếp tục tiến hành sắp xếp, cổ phần hóa 7 đơn vị trong
đó có các Công ty Điện lực miền theo Quyết định 384/QĐ-TTg ngày 3/4/2007
của Thủ tướng Chính phủ; thành lập các Công ty cổ phần phát điện, Công ty tài
chính cổ phần Điện lực, tổng Công ty truyền tải điện quốc gia (đã chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 1/7/2008) cũng như góp vốn thành lập các Công ty kinh
doanh đa ngành nghề khác
Tổng số CBCNV trong toàn EVN tính đến ngày 31/12/2007 là: 86.928
người.
Hiện nay EVN đang quản lý lượng tài sản khoảng 135.000 tỷ đồng, bao
gồm các nhà máy điện với tổng công suất 14.186MW, 22.660 km đường dây
điện áp 66kV → 500kV, tổng dung lượng các trạm biến áp 52.746MVA,
250.765km đường dây điện áp 0,4kV → 35kV và 142.862MVA dung lượng
máy biến áp phân phối.
14
Dù phải đối phó với những thách thức lớn về nhu cầu điện năng luôn có
những biến động với xu thế tăng trưởng cao, trong khi đó việc đầu tư xây dựng
nguồn và lưới điện không theo kịp do thiếu vốn nhưng ngành Điện vẫn đảm bảo
cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt.
1.3.2. Tóm lược tình hình sử dụng điện từ năm 2000-2007
Đây là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp tục
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có quản lí của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, mở rộng kinh tế đối ngoại. Giai đoạn này nền kinh tế
Việt Nam giữ được nhịp độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch

tích cực, đời sống nhân dân được cải thiện. Chương trình đưa điện về nông thôn
càng được ngành điện đẩy mạnh trên cả nước, góp phần vào việc phát triển kinh
tế - xã hội, nâng cao trình độ dân trí, đời sống vật chất và tinh thần của người
dân nông thôn. Đến nay điện lưới quốc gia đã cung cấp điện cho 98.16% số
huyện, 96,95% số xã và trên 88,5% số hộ dân nông thôn, vượt trên nhiều nước
trong khu vực về chỉ tiêu số hộ dân nông thôn có điện. Điện năng tiêu thụ bình
quân tính theo đầu người của nước ta hiện nay khoảng 650kWh/người/năm.
Trong những năm qua, ngành điện đã đạt được những thành tựu hết sức to
lớn là đáp ứng cơ bản nhu cầu về điện của nền kinh tế và đời sống nhân dân.
Tốc độ tăng điện thương phẩm giai đoạn 2001-2006 đạt 51,1% (năm 2006 là
51,3 tỷ kWh). Tổng lợi nhuận trong giai đoạn này đạt gần 13.900 tỷ đồng. Năm
2007, điện thương phẩm đạt 58,4 tỷ kWh, tăng 13,82% so với cùng kỳ năm
2006 và vượt 1,6% so với kế hoạch Nhà nước giao, bán điện trực tiếp đến hơn
10,5 triệu khách hàng. Số khách hàng tăng 1,4 triệu so với năm 2006 và doanh
thu đạt 50,262 tỷ đồng tăng 23,1%. Các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh
và dịch vụ khác như kinh doanh viễn thông, cơ khí chế tạo, ngân hàng, chứng
khoán, bước đầu đã phát triển tạo tiền đề cho hoạt động đa ngành nghề của
ngành Điện.
15
Các biểu đồ ở hình 1.1, 1.2, 1.3 và 1.4 thống kê sản lượng, tốc độ, cơ cấu
và tỷ lệ tổn thất điện năng từ năm 2000 đến 2007.
Hình 1.1. Biểu đồ sản lượng điện thương phẩm
Hình 1.2. Biểu đồ tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm
16
Hình 1.3. Cơ cấu tiêu thụ điện năng
Hình 1.4. Biểu đồ tổn thất điện năng
1.4. Phân tích sự thay đổi về giá điện trong thời gian qua và các yếu tố
ảnh hưởng tới việc huy động vốn đầu tư phát triển nguồn điện
1.4.1. Phân tích sự thay đổi về giá điện
Từ năm 1999 đến nay biểu giá điện đã được điều chỉnh ba lần: tháng 7

năm 1999, tháng 10 năm 1999 và tháng 3 năm 2002. Lần điều chỉnh thứ nhất ở
phạm vi hẹp với khách hàng nước ngoài. Lần điều chỉnh thứ hai hướng tới các
khách hàng trong nước với mức giá tăng khoảng 11%. Tương tự như lần hai
mức giá lần ba tăng khoảng 12%. Thực tế thì còn có một lần điều chỉnh nữa vào
17
tháng 1 năm 2005 nhưng lần này là giảm giá do xóa bỏ chế độ giá riêng cho
khách hàng nước ngoài. Mặc dù có sự điều chỉnh giá lớn như vậy nhưng do
trượt giá của tiền đồng Việt Nam so với đồng USD và do cơ cấu tiêu dùng giữa
các năm khác nhau, mức tăng giá trong thực tế không đáng kể. Nếu giá năm
1999 là 4,48 cent/kWh thì giá năm 2004 cũng chỉ 5,00 cent/kWh và đến năm
2007 chỉ ở mức giá bình quân 860 đồng/kWh (khoảng 5,5 cent/kWh). Mức giá
này thấp hơn rất nhiều so với mức 7 cent/kWh vào năm 2001 mà Chính phủ Việt
Nam đã thỏa thuận với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng phát triển Châu Á
nhằm đạt được các khoản vay từ các tổ chức này. Điều này sẽ là trở ngại lớn đối
với ngành Điện khi nhu cầu về tài chính đáp ứng nhu cầu phụ tải sẽ càng lớn.
Biểu giá điện tử năm 1999 đến nay qua các lần điều chỉnh đã ngày càng
được hoàn thiện, hợp lý hơn đối với các hộ tiêu thụ, cụ thể: đối với khách hàng
công nghiệp, nông nghiệp, thương mại đã có mức giá phân theo cấp điệp áp
đồng thời phân ra các múi giờ (giờ cao điểm, giờ bình thường, giờ thấp điểm),
với mức giá thấp điểm bằng khoảng 30% giá cao điểm nhằm khuyến khích các
hộ này dùng vào giờ thấp điểm; đối với sinh hoạt đã có biểu giá luỹ tiến tạo chủ
động trong tiêu dùng đối với khách hàng; đối với khu vực nông thôn đã có giá
bán buôn cho thôn xã, khu tập thể với mức giá thấp hơn đáng kể so với khu vực
thành thị, thể hiện sự trợ giá rõ rệt; đã xóa bỏ được phân biệt về giá cho khách
hàng nước ngoài. Tuy nhiên vẫn còn một số bất cập như: giá hiện nay đã phân
theo thời gian trong ngày, nhưng thực chất giá này chưa được thực hiện đại trà
do chưa có công tơ đo đếm tương ứng và loại giá này không bắt buộc với một số
khách hàng; giá chưa phân biệt theo mùa sử dụng; chưa phân biệt theo vùng sử
dụng, chưa tính đến các điều kiện khác nhau về lãnh thổ và phân bố nguồn, lưới
mặc dù giá bán buôn cho các công ty cơ tính đến các yêu tố này, nên chưa

khuyến khích tiết kiệm điện tại những nơi nguồn điện còn thiếu; giá điện cho
nông thôn chỉ qui định ở mức giá bán buôn, chưa có mức giá bán lẻ dẫn tới mức
giá mà khách hàng dân dụng nông thôn phải trả cho các cai thầu thậm chí còn
cao hơn mức giá các khách hàng ở thành thị trả (vấn đề này đang được khắc
18
phục); biểu giá điện hiện nay vẫn chỉ là biểu giá đơn, tức là điện được mua với
giá phẳng theo kWh, không có thành phần giá công suất do vậy chưa có tác
dụng thúc đẩy hộ tiêu dùng nâng cao số giờ sử dụng công suất cực đại của mình;
giá chưa phản ánh được chi phí thực mà các hộ tiêu dùng gây ra đối với phụ tải,
do vậy không tạo cho khách hàng thói quen suy nghĩ thay đổi chế độ sử dụng
của bản thân họ để vừa có giá rẻ vừa có lợi cho ngành điện (cụ thể mức giá hiện
tại còn thấp so với mức cần thiết cho quá trình sản xuất, truyền tải, phân phối
khiến co ngành điện khó có khả năng tự đầu tư xây dựng nguồn và lưới đáp ứng
được sự tăng trưởng nhu cầu sử dụng điện trong tương lai); về kết cấu giá thì
biểu giá hiện nay chưa hợp lý, các khách hàng thương mại, công nghiệp tiêu
dùng điện năng ở điện áp cao hơn, do vậy chi phí đáp ứng nhu cầu này ít hơn, lại
phải trả giá điện cao hơn khách hàng dân dụng tiêu dùng ở hạ áp với chi phí lớn
hơn do phải xây dựng thêm lưới phân phối và do tổn thất phân phối. Điều này
thể hiện rõ sự trợ giá cho khách hàng dân dụng. Đồng ý rằng việc trợ giá này là
cần thiết nhằm chiếu cố các hộ có thu nhập thấp nhưng biểu giá bậc thang cần
được xây dựng sao cho tránh được các hộ có thu nhập cao lợi dụng được sự trợ
cấp này. Ở khía cạnh khác, giá điện lại là thành tố rất quan trọng trong sản xuất
công nghiệp. Giá điện cao có thể dẫn đến giảm sức hấp dẫn của thị trường Việt
Nam đối với các doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam từ đó ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế. Trên quan điểm đó, về vĩ mô giá điện cho công
nghiệp cần được xây dựng ở mức càng thấp càng tốt để nâng cao lợi thế cạnh
tranh về chi phí của thị trường Việt Nam.
Thách thức về giá điện thời gian đến còn nhiều vì nó mang tính xã hội
cao, trong khi đời sống đa số nhân dân ta còn nghèo.
1.4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn đầu tư

phát triển nguồn điện
Một là, tính khả thi của dự án phát triển điện
Dự án đầu tư là căn cứ quan trọng nhất để quyết định việc bỏ vốn đầu tư,
là cơ sở để xây dựng kế hoạch thực hiện đầu tư. Vốn đầu tư cho phát triển nguồn
điện là tổng đầu tư của các dự án xây dựng các cơ sở sản xuất điện năng. Đầu tư
19
xây dựng nguồn điện có nhu cầu rất lớn về vốn. Hoạt động của doanh nghiệp đòi
hỏi phải có vốn. Huy động vốn và sử dụng nguồn vốn như thế nào có vai trò và
ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khảo sát của các
cơ quan chức năng cho thấy, nhu cầu điện năng của Việt Nam đã tăng mạnh
trong những năm gần đây, trung bình khoảng 15%/năm. Song, nguồn cung lại
chưa đáp ứng đủ cầu. Trước nhu cầu phát triển mới của đất nước, nhất là khi
Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO thì những đột biến về tiêu dùng điện
năng sẽ còn tiếp tục tăng cao. Làm thế nào để đáp ứng được nguồn điện cho xã
hội, nhưng vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh đang là bài toán khó đối với
ngành điện hiện nay.
Hai là, hệ thống pháp luật trong nước
Nhà nước ban hành luật đầu tư, luật Xây dựng, luật Đất đai, luật Thuế,
và ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành các Luật trên đồng thời với các
văn bản dưới Luật khác, nhằm khuyến khích đầu tư, mặt khác đảm bảo thu hút
vốn đầu tư vào các dự án, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao.
Luật Điện lực được thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa 11, làm tiền
đề xây dựng và phát triển ngành Điện Việt Nam trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó
là các Nghị định 105/2005/NĐ-CP của Chính phủ về hướng dẫn thi hành một số
điều của luật Điện lực, Nghị định 111/2006/NĐ-CP về quản lý đầu tư xây dựng,
Quyết định 30/2006 của Bộ công nghiệp về quản lý dự án điện độc lập (IPP),
với mục tiêu khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành
điện trong 2 khâu sản xuất và phân phối (trong khi Nhà nước tiếp tục giữ độc
quyền trong khâu truyền tải điện). Trong tương lai, khuôn khổ pháp lý càng
được mở rộng bằng việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO, từng bước hình

thành thị trường điện lực cạnh tranh có điều tiết của Nhà nước.
Chính phủ đã có Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển Điện lực quốc
gia giai đoạn 2006-2015, có xét đến năm 2005, làm cơ sở cho xây dựng kế
hoạch 5 năm 2006-2010.
Nhiều mô hình quản lý ngành điện, việc đa dạng hóa huy động vốn đầu tư
phát triển các công trình điện đã được nghiên cứu áp dụng trên thế giới, tạo tiền
20
đề và kinh nghiệm trong việc cải tiến mô hình quản lý, nâng cao hiệu quả trong
lĩnh vực sản xuất và kinh doanh điện năng.
Khoa học công nghệ thế giới có bước tiến đáng kể, trong đó công nghệ
thiết bị sản xuất, truyền tải và phân phối điện ngày càng được nâng cao, đặc biệt,
công nghệ thông tin phát triển nhanh, làm cho việc điều hành hệ thống càng trở
nên hiện đại hơn. Điều này góp phần không nhỏ trong việc thu hút vốn vào đầu
tư ngành điện.
Nền kinh tế nước ta vẫn giữ mức tăng trưởng nhanh, sự phát triển của các
ngành kinh tế tạo nhu cầu và thị trường lớn hơn cho ngành công nghiệp điện cả
quy mô và phạm vi.
Công cuộc đổi mới gắn liền với những cơ chế quản lý mới của nền kinh
tế, trong đó các doanh nghiệp được trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh
đã tạo được nguồn nội lực làm khả năng tự đầu tư được đảm bảo.
Chủ trương đẩy mạnh công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thời
gian vừa qua không những chỉ nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp, mà đã thực sự tạo khả năng huy động vốn tốt hơn cho
các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, trong đó có ngành điện. Đây là những nhân tố
quan trọng tạo môi trường kích thích việc đa dạng hóa huy động vốn đầu tư xây
dựng nguồn điện ở nước ta.
Ba là, sự phát triển của thị trường tài chính
Với hai dòng tài chính trực tiếp và gián tiếp, thị trường tài chính là nơi mà
ngành điện lực có thể huy động vốn với các kỳ hạn và cách thức khác nhau phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu một thị trường tài chính phát triển,

thì đó là điều kiện thuận lợi tạo cho ngành điện có nhiều cơ hội lựa chọn và khai
thác nguồn vốn phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình.
Một thị trường tài chính phát triển đòi hỏi phải có hệ thống thông tin được
công khai trên thị trường, phải phát triển cạnh tranh trên cơ sở có sự can thiệp
của Nhà nước ở mức độ thích hợp. Ở Việt Nam, thị trường tài chính đã và đang
phát triển, góp phần cung ứng vốn cho hoạt động của các ngành kinh doanh nói
chung và ngành Điện nói riêng, cũng như trong việc thu hút các nhà đầu tư tham
21
gia thị trường. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, thị trường tài chính
quốc tế phát triển là nơi cung ứng vốn cho ngành tốt nhất để phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế có tác dụng kích thích kinh tế Việt Nam phát
triển, nền kinh tế Việt Nam chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường, các hoạt
động kinh doanh phải tuân thủ theo quy luật của thị trường. Nền kinh tế Việt Nam
đã và đang hội nhập nền kinh tế thế giới, trong đó thị trường tiền tệ và thị trường
vốn cũng đang phát triển và đây là điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá huy
động vốn để phát triển ngành Điện. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và
thực sự đã hội nhập vào nền kinh tế thế giới, thị trường vốn quốc tế có quy mô
lớn là một cơ hội cho đầu tư phát triển nói chung, phát triển nguồn điện nói riêng.
Bốn là, cơ cấu đầu tư và phương thức huy động vốn đầu tư.
Cơ cấu đầu tư phương thức huy động vốn đầu tư có tác động quan trọng
đến phát triển nguồn điện. Nếu vướng mắc trong cơ cấu đầu tư và phương thức
huy động vốn đầu tư thì việc đầu tư sẽ bị kéo dài. Chẳng hạn, các công trình sản
xuất điện năng nhằm khai thác các nguồn tiềm năng thiếu đồng bộ, chỉ chú ý
phát triển thuỷ điện mà thiếu coi trọng phát triển nhiệt điện và các nguồn điện
năng khác mà ta có tiềm năng, thì việc cung ứng điện cho các nhu cầu sản xuất
và đời sống không thể thường xuyên liên tục, sẽ gây ra tình trạng thiếu điện vào
mùa khô, gây thiệt hại cho các cơ sở mua điện, ảnh hưởng xấu đến an ninh
nguồn điện quốc gia, do đó thiếu sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi đưa vốn
vào phát triển nguồn điện. Nếu chỉ chú ý việc đầu tư phát triển nguồn điện mà
không có đầu tư thích đáng vào phát triển lưới điện thì nhất định sẽ dẫn đến tình

trạng quá tải, hoặc hạn chế cung cấp điện ở nhiều khu vực, do vậy, vào giờ cao
điểm vẫn buộc phải vận hành các cụm diesel tại chỗ với giá thành rất cao, trong
khi nguồn điện vẫn có khả năng đáp ứng, tức là đầu tư kém hiệu quả. Đấy cũng
là một nguyên nhân cản trở tính tích cực của các chủ thể thị trường trong việc
đầu tư phát triển nguồn điện.
Ở nước ta, việc đền bù để di dân giải phóng mặt bằng phục vụ cho xây
dựng thuỷ điện đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn, đồng thời phải có chính sách xã
hội của Nhà nước đảm bảo việc di dân và tạo việc làm ổn định cuộc sống lâu dài
cho những người thuộc diện di dời. Nếu có cơ chế đầu tư thích hợp, tạo điều
22
kiện để người dân khu vực bị thu hồi đất tham gia vốn vào các công trình phát
triển nguồn điện và lưới điện thì tiến độ triển khai công trình sẽ nhanh hơn, sẽ
tạo sức hấp dẫn hơn cho việc thực hiện đa dạng hóa đầu tư phát triển nguồn
điện. Trên thực tế, một số công trình xây dựng nguồn điện và lưới điện triển
khai chậm và kéo dài có nguyên nhân chủ yếu là do vướng mắc trong vấn đề đền
bù giải phóng mặt bằng.
Năm là, phương thức tổ chức việc huy động vốn và tình hình sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất điện.
Nếu doanh nghiệp nhà nước được chuyển đổi sở hữu (như thực hiện cổ
phần hóa), chuyển đổi cơ chế quản lý (ví dụ như cơ chế giá, cơ chế bù công ích,
cơ chế hỗ trợ đầu tư đưa điện đến vùng sâu, vùng xa ), thì sẽ có nhiều cơ hội
hơn trong việc huy động vốn của các chủ đầu tư trong xã hội. Nếu doanh nghiệp
được phép phát hành cổ phiếu và cổ phiếu có tính đại chúng, được đưa ra niêm
yết công khai trên thị trường chứng khoán thì khả năng thực hiện đa dạng hóa
huy động vốn đầu tư cũng được thuận lợi hơn.
Do ngành điện là một ngành thuộc kết cấu hạ tầng, việc sản xuất diện của
nước ta phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, vào những biến động nhiên liệu trên thị
trường thế giới, có nhiều hoạt động mang tính công ích, nhưng cơ chế sản xuất
kinh doanh và tài chính chưa được điều chỉnh thích hợp, nên đây cũng là một
nhân tố quan trọng làm hạn chế đến việc huy động vốn đầu tư phát triển nguồn

điện. Trên thực tế, phần lớn vật tư và một phần không nhỏ nhiên liệu phải nhập
bằng ngoại tệ mạnh và tỷ giá đồng tiền Việt Nam thay đổi nhanh hơn tốc độ
điều chỉnh giá điện, giá thành nhiên liệu chiếm tới 40-60% trong giá thành sản
xuất điện và giá nhiên liệu luôn tăng. Đây là một nhân tố tác động tiêu cực
không nhỏ, gây khó khăn cho ngành Điện trong cân đối tài chính, tác động tiêu
cực tới việc huy động vốn đầu tư xây dựng nguồn điện.
Việc điều chỉnh giá điện nhằm mục đích tạo nguồn vốn đầu tư, nhưng do
nhiều nguyên nhân khách quan, tiến trình tăng giá điện chậm, tỷ giá biến động
lớn nên hiệu quả điều chỉnh giá cho mục đích đầu tư chưa cao. Thêm vào đó, do
có nhiều hoạt động mang tính công ích như đầu tư đưa điện về nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo làm hiệu quả đầu tư không cao,
23
trong khi đó việc đánh giá hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp phụ thuộc vào
yếu tố trên, làm hạn chế nguồn vốn đầu tư tự có của các doanh nghiệp sản xuất
điện, tác động xấu đến thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp này,
gây tâm lý người lao động không muốn đưa vốn đầu tư vào phát triển nguồn điện.
Sáu là, hoạt động tư vấn đầu tư
Hoạt động tư vấn là một nhân tố rất quan trọng để tăng cường khả năng đa
dạng hóa vốn đầu tư xây dựng nguồn điện. Nếu hoạt động tư vấn còn có những
bất cập về năng lực, thiếu đồng bộ, thiếu năng lực công nghệ và chuyên gia giỏi
chuyên sâu, hoặc chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin chuyên
ngành để cung cấp thông tin nhanh, đúng, đủ, về trình độ phát triển công nghệ,
thiết bị, vật liệu mới phục vụ sản xuất, không có những đổi mới để hoàn thiện
các định mức chi phí, nhằm giảm giá thành công trình phù hợp năng lực thiết bị
thi công, biện pháp thi công, thì tốc độ và quy mô của việc đa dạng hóa việc huy
động nguồn vốn sẽ khó có thể tăng nhanh được.
Ngoài các nhân tố trên, việc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta cũng là
nhân tố rất quan trọng để chúng ta thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài vào phát
triển nguồn điện. Chúng ta đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới
(WTO), đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng Đây là nhân tố tạo

khả năng thúc đầy phát triển nguồn điện của nước ta. Tuy nhiên, để khả năng đó
biến thành hiện thực, chúng ta cần có cơ chế chính sách và biện pháp phát triển
thị trường để tạo sức hấp dẫn cho cá nhân và tổ chức nước ngoài vào nước ta
hợp tác đầu tư.
Nhìn chung, nhu cầu phụ tải điện nước ta trong những năm qua tăng
trưởng nhanh và liên tục, đạt mức cao nhất trong khu vực. Mặc dù năm 2002
EVN đã trình chính phủ điều chỉnh một số nội dung trong Tổng sơ đồ V nhưng
vẫn không đáp ứng được nhu cầu điện thực tế tăng cao do chưa lường hết những
yếu tố tác động của nền kinh tế đang phát triển nhanh và ngày càng hội nhập.
Đặc biệt, vào đầu năm 2005 do dự phòng nguồn thấp, cộng với thời tiết nắng
nóng đột biến và mực nước sông ở niềm Bắc thấp hơn nhiều năm, các nhà máy
thuỷ điện như Hoà Bình, Thác Bà phải vận hành dưới mực nước chết nhưng vẫn
24
thiếu điện để cung cấp, gây nên tình trạng cắt điện trên diện rộng ở 26 tỉnh miền
Bắc; nhờ sự chỉ đạo điều hành kịp thời của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực vượt
bậc, ngành điện đã cơ bản đảm bảo cung cấp điện ổn định, tin cậy cho nhu cầu
phát triển kinh tế xã hội, đóng góp vào nhịp tăng trưởng chung của kinh tế xã
hội, mặt dù chi phí ngày càng cao nhưng giá điện thực tế lại không tăng đáng kể.
Vì vậy, nếu chính phủ không tiếp tục lộ trình tăng giá điện sẽ dẫn đến giá điện
không đủ bù được các chi phí sản xuất và có vốn để tái đầu tư phát triển nguồn
điện và mở rộng hệ thống điện, đồng thời cũng không tạo được hấp dẫn cho việc
mở rộng thị trường phát điện cạnh tranh trong những năm tiếp theo.
Chương 2
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO NHU CẦU ĐIỆN NĂNG
2.1. Khái niệm chung
Nhu cầu điện năng là số liệu đầu vào rất quan trọng, quyết định rất lớn
chất lượng của việc quy hoạch hệ thống điện.
Trên cơ sở định hướng phát triển ngành điện người ta xây dựng quy hoạch
phát triển hệ thống điện cho từng giai đoạn 5 năm có xét đến triển vọng 10-15
năm sau. Các quy hoạch phát triển này đôi khi còn có tên gọi là “tổng sơ đồ phát

triển điện lực” cho một giai đoạn nối tiếp nhau, trong đó phần triển vọng cho
tương lai sẽ được cập nhật và hiệu chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
Dữ liệu đầu vào quan trọng để lập quy hoạch hệ thống điện là dự báo nhu
cầu điện năng cho từng mốc thời gian trong tương lai. Thông thường khi dự báo
người ta xem xét ba kịch bản khác nhau: kịch bản cơ sở với mức tăng trưởng
trung bình đã thống kê có xét đến xu thế phát triển trong tương lai; kịch bản cao
(lạc quan) với giả định là tương lai sẽ có tình huống tốt đẹp hơn dự kiến và kịch
bản thấp (bi quan) đề phòng có những khả năng xấu hơn dự kiến.
Vai trò của dự báo nhu cầu điện năng có tác dụng rất to lớn, nó liên quan
đến quản lý kinh tế nói chung và quy hoạch hệ thống điện nói riêng. Dự báo và
quy hoạch là hai giai đoạn liên kết chặt chẽ với nhau của một quá trình quản lý.
25

×