Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

căn cứ địa cách mạng ở trung trung bộ trong kháng chiến chống mỹ (1954-1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.33 KB, 57 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRẦN THÚY HIỀN

CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG
BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
(1954 – 1975)

Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 13

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ, NĂM 2015


Cơng trình được hồn thành tại:
Trường Đại học Sư phạm Huế

Người hướng dẫn khoa học:
1: PGS.TS Trần Ngọc Long
2: PGS.TS Trương Công Huỳnh Kỳ

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm Luận án cấp Đại
hoc Huế họp tại:……………………………………….
Vào hồi…..giờ……ngày…….tháng ……năm
Có thể tìm đọc tại Thư viện………………….


DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN


QUAN ĐÃ CƠNG BỐ
1. Trần Thúy Hiền (2011), “Căn cứ K20 trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 234.
2. Trần Thúy Hiền (2011), “Khu Sông Đà trong kháng chiến chống
Mỹ”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà
Nẵng, số 1.
3. Trần Thúy Hiền (2012), “Đấu tranh bảo vệ Căn cứ Trà Bồng
trong kháng chiến chống Mỹ (1959-1965)”, Tạp chí Khoa học và
Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số 3.
4. Trần Thúy Hiền (2013), “Kế hoạch chống phá căn cứ địa kháng
chiến ở các tỉnh duyên hải Trung Trung Bộ của chính quyền Việt
Nam Cộng hịa trong “Chiến tranh đặc biệt”, Tạp chí Lịch sử Quân
sự, số 255.
5. Trần Thúy Hiền (2014), “Tìm hiểu một số căn cứ địa cách mạng ở
các tỉnh Nam – Ngãi – Bình – Phú trong kháng chiến chống Pháp
(1945-1954)”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 8.


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong các cuộc khởi nghĩa, chiến tranh hay vận động
cách mạng, vấn đề căn cứ địa – hậu phương trở thành vấn đề
mang tính quy luật, đồng thời là nhân tố thường xuyên quyết
định thắng lợi của cuộc chiến tranh, khởi nghĩa hay các cuộc
cách mạng. Tiến trình lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc Việt
Nam đã khẳng định điều này.
Kế thừa truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc,
trên cơ sở quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin về khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng vào nước ta,
trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh và

Đảng Cộng sản Việt Nam hết sức chú trọng vấn đề xây dựng
căn cứ địa, đây là một trong những nhân tố tạo nên thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thắng lợi một phần là nhờ có Căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai,
Căn cứ địa Cao Bằng, Khu giải phóng Việt Bắc và hàng chục
chiến khu trong cả nước. Bước vào cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng
chọn và xây dựng Căn cứ địa Việt Bắc trở thành trung tâm đầu
não của cuộc kháng chiến. Nhiều vùng tự do, căn cứ địa – hậu
phương đã được xây dựng trên khắp cả nước: Thanh – Nghệ –
Tĩnh, Nam – Ngãi – Bình – Phú, Đồng Tháp Mười, U Minh,
Chiến khu Đ… Đây là một nhân tố hết sức quan trọng đưa đến
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ
(1945-1954).
Từ năm 1954 đến 1975, để chống lại cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ – một nước đế quốc mạnh nhất thế
giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Đảng ta đã
tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng để giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Để hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng to lớn này, ngoài việc xây dựng miền Bắc
1


thành hậu phương vững mạnh, thành căn cứ địa cách mạng của
cả nước, Đảng ta còn chủ trương xây dựng và phát triển hệ
thống căn cứ địa trên các địa bàn chiến lược ở miền Nam như
Trị Thiên, Tây Nguyên, Trung Trung Bộ, Nam Trung Bộ,
Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ… Do tác động của mục tiêu và
nhiệm vụ cách mạng đặt ra, cũng như các điều kiện tự nhiên,

kinh tế, chính trị, xã hội ở khu vực, vùng miền mà ở miền Nam
thời chống Mỹ có nhiều loại hình căn cứ địa với các quy mô
khác nhau. Mặt khác, các căn cứ địa cách mạng ở miền Nam
thời chống Mỹ có những điểm giống nhau nhưng cũng có
nhiều nét riêng do điều kiện lịch sử địa phương quy định.
Song, tất cả các căn cứ địa đã góp phần tạo ra tiềm lực to lớn
để quân và dân miền Nam đánh thắng các chiến lược chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.
Với vai trị và vị trí to lớn trên đây, vấn đề căn cứ địa trở
thành một phận hữu cơ của cuộc chiến tranh cách mạng ở miền
Nam thời chống Mỹ. Đây là một đối tượng lịch sử cần được
nghiên cứu để làm sáng tỏ vai trò và vị trí của một phương thức
chiến tranh cách mạng, góp phần làm sáng tỏ đầy đủ về lịch sử
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại do dân tộc ta
tiến hành. Vấn đề căn cứ địa thời chống Mỹ không chỉ cần và
phải được khôi phục, đánh giá một cách khách quan với những
biểu hiện của nó, mà cịn phải làm rõ những điểm nổi bật có
tính vùng miền của các căn cứ địa trên các địa bàn chiến lược ở
miền Nam.
Để góp phần thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
trên, vấn đề nghiên cứu căn cứ địa cách mạng ở khu vực Trung
Trung Bộ (bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên) cũng đặt ra hết sức
cần thiết. Đây là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng ở Khu
V; là cửa ngõ từ Biển Đông vào miền Trung và Tây Nguyên; là
bàn đạp để tỏa đi các hướng chiến lược và các chiến trường
khác, đồng thời cũng là điểm đầu tiếp nhận sự chi viện từ miền
Bắc vào bằng đường bộ và đường biển. Vì vậy, Trung Trung
2



Bộ là địa bàn giao tranh ác liệt giữa ta và địch. Tại đây, nhiều
căn cứ địa cách mạng đã được xây dựng như: Khu Sông Đà
(Đà Nẵng), Nước Oa, Nước Là, Sơn – Cẩm – Hà, Tiên Sơn
(Quảng Nam), Trà Bồng, Sơn Tây (Quảng Ngãi), Núi Bà, Hịn
Chè (Bình Định), Thồ Lồ, Vân Hòa (Phú Yên)… Các căn cứ
địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã hoàn thành tốt chức năng
và nhiệm vụ của mình, góp phần to lớn vào thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại địa bàn cũng như trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ nói chung của cả dân tộc.
Lịch sử hình thành, phát triển cùng những đóng góp của
các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước từ lâu đã thu hút sự quan tâm của giới
nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, vì nhiều lý do khác nhau,
vấn đề căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ mới chỉ được
đề cập một cách khái lược trong các cơng trình nghiên cứu về
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Khu
V cũng như trong các cơng trình tổng kết lịch sử truyền thống
địa phương. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề Căn cứ địa cách
mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ (19541975) sẽ mang lại nhiều ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ q trình hình
thành, phát triển, vai trị, vị trí, đặc điểm của căn cứ địa cách
mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Qua đó, bổ sung một số tư liệu làm rõ vai trò lãnh
đạo của các cấp ủy Đảng đối với vấn đề căn cứ địa; sự linh
hoạt, sáng tạo trong hoạt động tổ chức, xây dựng căn cứ địa
cách mạng ở các vùng miền. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần
làm sáng tỏ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và chiến
lược xây dựng căn cứ địa đã được vận dụng một cách sáng tạo
vào thực tiễn cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung

Trung Bộ.
Kết quả nghiên cứu của luận án cịn góp phần bổ sung
kiến thức nghiên cứu về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ,
3


cứu nước nói chung, đặc biệt là đối với Trung Trung Bộ nói
riêng.
Về ý nghĩa thực tiễn, từ những cứ liệu nghiên cứu để
bước đầu rút ra những bài học kinh nghiệm là một yêu cầu cần
thiết nhằm phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng thế trận
an ninh – quốc phòng trên địa bàn hiện nay. Kết quả nghiên
cứu của luận án cũng sẽ góp phần vào việc giáo dục truyền
thống yêu nước và cách mạng cho các tầng lớp nhân dân, là cơ
sở để trùng tu và bảo tồn các di tích căn cứ địa kháng chiến
thời chống Mỹ. Đây còn là nguồn tài liệu quý báu để nghiên
cứu và dạy học về lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước ở các bậc học.
Từ những ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên đây, chúng
tôi chọn vấn đề Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) làm đề tài nghiên cứu cho
luận án Tiến sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Quá trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ
địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Từ năm 1954 đến năm 1975. Tuy nhiên, để
việc trình bày nội dung chính được logic, luận án có đề cập

khái quát các căn cứ địa cách mạng trước năm 1954.
Về không gian: Thời kỳ kháng chiến chống thực dân
Pháp, địa bàn Trung Trung Bộ bao gồm các địa phương:
Quảng Nam – Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ tháng 7-1962, chính
quyền Việt Nam Cộng hịa chia Quảng Nam – Đà Nẵng thành
hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Tỉnh Quảng Nam gồm 9
quận: Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Đức Dục, Hiếu Đức,
Hiếu Nhơn, Hòa Vang, Quế Sơn, Thượng Đức và thị xã Đà
Nẵng. Tỉnh Quảng Tín gồm 6 quận: Hậu Đức, Hiệp Đức, Lý
4


Tín, Tam Kỳ, Tiên Phước và Thăng Bình. Về phía chính quyền
cách mạng, từ cuối năm 1962 đến năm 1967, tỉnh Quảng Nam
– Đà Nẵng được tách lại thành 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng
Đà. Tỉnh Quảng Nam (chính quyền Việt Nam Cộng hịa gọi là
tỉnh Quảng Tín) gồm các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam
Kỳ, Tiên Phước, Phước Sơn, Trà My. Tỉnh Quảng Đà (địch gọi
là tỉnh Quảng Nam) gồm các huyện Hòa Vang, Đại Lộc, Điện
Bàn, Duy Xuyên, Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, thị xã
Hội An và thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1964 đến tháng 111967, thực hiện sự chỉ đạo của Khu ủy V, thành phố Đà Nẵng
tách ra khỏi tỉnh Quảng Đà, gồm 3 quận: quận Nhất, quận Nhì
và quận Ba. Tháng 11-1967, trước cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Tết Mậu Thân, tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà Nẵng hợp
nhất thành Đặc khu Quảng Đà. So với các tỉnh Quảng Ngãi,
Bình Định, Phú Yên, mặc dù Quảng Nam – Đà Nẵng là địa bàn
trải qua nhiều lần tách, nhập, song về cơ bản địa giới hành
chính của địa phương này khơng thay đổi. Do vậy, từ đây đến
khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung

Trung Bộ bao gồm: Quảng Nam, Quảng Đà, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên.
Như vậy, về cơ bản địa bàn Trung Trung Bộ khơng có
sự thay đổi, chủ yếu vẫn bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà
Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên.
Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận
về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng; những
yếu tố tác động đến quá trình phục hồi, xây dựng, bảo vệ và
phát huy vai trò căn cứ địa (điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư,
tình hình kinh tế – xã hội, truyền thống lịch sử; tình hình xây
dựng căn cứ địa trước khi bước vào cuộc kháng chiến chống
Mỹ); những âm mưu, thủ đoạn đánh phá căn cứ của Mỹ và
chính quyền Việt Nam Cộng hịa; chủ trương của Đảng về xây
dựng căn cứ địa trong mỗi giai đoạn cách mạng; hoạt động xây
dựng căn cứ về các mặt: chính trị, qn sự, kinh tế, văn hóa –
xã hội; các cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ; đặc điểm, vai trò và
5


một số bài học đúc rút từ quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ
địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước (1954-1975).
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích:
Nghiên cứu, phục dựng một cách căn bản và tương đối
đầy đủ về hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ
nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, giáo dục truyền
thống và bổ sung tư liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của quân và dân trên địa bàn. Bên cạnh đó, luận án góp
phần cung cấp những luận cứ cho việc xây dựng thế trận an

ninh – quốc phịng ở địa bàn Trung Trung Bộ trong tình hình
mới.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Luận giải và làm rõ những yếu tố tác động đến q
trình xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trị căn cứ địa cách
mạng ở Trung Trung Bộ.
- Phân tích những âm mưu, thủ đoạn của Mỹ và chính
quyền Việt Nam Cộng hịa trong việc xóa bỏ căn cứ địa; chủ
trương, biện pháp xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng
của Trung ương Đảng và đảng bộ các địa phương; hoạt động
của quân và dân các tỉnh Trung Trung Bộ trong quá trình
xây dựng, bảo vệ và phát huy vai trò của căn cứ địa, hậu
phương tại chỗ.
- Luận giải và làm rõ những đặc điểm của căn cứ địa
cách mạng ở Trung Trung Bộ đặt trong mối quan hệ đối sánh
với căn cứ địa ở một số vùng miền; đúc rút những bài học kinh
nghiệm về xây dựng, bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung
Trung Bộ.

6


4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Nguồn tư liệu bao gồm:
- Các văn kiện: Hệ thống các văn kiện của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam về
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

- Tác phẩm của các vị lãnh tụ và lãnh đạo: Tác phẩm
của Hồ Chí Minh, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội về
cách mạng giải phóng dân tộc, về cuộc kháng chiến chống Mỹ,
về căn cứ địa cách mạng trong chiến tranh giải phóng dân tộc.
- Tài liệu lưu trữ: Các tài liệu liên quan đến cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước hiện được lưu trữ ở Bộ Tư lệnh
Quân khu V; Trung tâm lưu trữ Quốc gia II, thành phố Hồ Chí
Minh; Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam; Viện Lịch sử Đảng;
Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú n.
- Các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố: Các cơng trình
nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Viện
Lịch sử Quân sự Việt Nam, Viện Mác – Lênin, Viện Lịch sử
Đảng; Các chuyên khảo, bài viết, báo cáo khoa học đã được
công bố trên các tạp chí chun ngành trong những năm gần
đây; Các cơng trình Lịch sử Đảng bộ, Lịch sử kháng chiến và
Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân địa phương các tỉnh, thành
phố, quận (huyện) trên địa bàn; Các luận án, luận văn về đề tài
căn cứ địa cách mạng đã được bảo vệ và xuất bản.
- Tài liệu khảo sát thực tế: Tài liệu khảo sát thực địa tại
các di tích căn cứ địa cách mạng trên địa bàn nghiên cứu.
- Các hồi ký cách mạng: Hồi ký và lời kể của các cán bộ
lão thành cách mạng, nhân chứng lịch sử sống và hoạt động ở
địa bàn Trung Trung Bộ.
Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
7


logic là chủ yếu. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu còn sử

dụng một số phương pháp: so sánh, thống kê, phân tích, tổng
hợp, khái quát trên cơ sở khảo cứu các nguồn tư liệu văn bản,
thực địa và tiếp xúc nhân chứng lịch sử. Riêng đối với nguồn
tư liệu khai thác từ các nhân chứng lịch sử, tác giả tiến hành
đối chiếu, so sánh với các tư liệu văn bản để chọn lọc, khai
thác những thơng tin có giá trị tin cậy.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
- Luận án phục dựng một cách tổng thể về hệ thống
căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
- Thơng qua những phân tích, luận giải có tính khoa học,
luận án khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo trong quá trình vận
dụng quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng căn cứ địa
– hậu phương vào thực tiễn cách mạng ở Trung Trung Bộ.
- Đánh giá một cách tương đối khách quan về vai trò của
căn cứ địa đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Trung
Trung Bộ.
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài
liệu nghiên cứu, giảng dạy lịch sử kháng chiến chống Mỹ, lịch
sử địa phương và giáo dục truyền thống ở Trung Trung Bộ.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Danh mục các cơng trình khoa
học liên quan đã cơng bố, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung chính của luận án được chia làm 4 chương.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Khơi phục và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở
Trung Trung Bộ (1954-1960)
Chương 3: Kết hợp xây dựng với bảo vệ và phát huy vai
trò căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ (1961-1975)
Chương 4: Đặc điểm, vai trò và bài học kinh nghiệm


8


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Liên quan đến nội dung luận án có các nhóm cơng trình
sau:
1.1.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về căn cứ địa
cách mạng nói chung
1.1.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về căn cứ địa
cách mạng ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
1.1.3. Nhóm các cơng trình phản ánh trực tiếp hoạt
động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa cách mạng ở Trung
Trung Bộ
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN KẾ THỪA TỪ CÁC
CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ XUẤT BẢN
- Một là, phương pháp luận nghiên cứu vấn đề căn cứ
địa cách mạng: Nắm vững lý luận, khảo cứu tài liệu và tham
chiếu thực tế, so sánh giữa các vùng miền.
- Hai là, những vấn đề lý luận về căn cứ địa cách mạng
trong chiến tranh giải phóng dân tộc: Điều kiện xây dựng căn
cứ địa, việc lựa chọn địa bàn phù hợp, hoạt động xây dựng căn
cứ vững mạnh toàn diện, kết hợp hoạt động xây dựng và chiến
đấu bảo vệ, xây dựng căn cứ lòng dân.
-Ba là, hệ thống tư liệu về căn cứ địa cách mạng ở các
vùng miền khác nhau để có cái nhìn tổng quan, trên cơ sở đó
tiến hành so sánh, đối chiếu, tìm ra những đặc điểm riêng của
căn cứ địa ở Trung Trung Bộ.

-Bốn là, những kết quả nghiên cứu về một số căn cứ tiêu
biểu ở các địa phương Trung Trung Bộ trên các phương diện:
quá trình ra đời, tổ chức hoạt động, vai trò của căn cứ địa trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
9


- Phục dựng một cách đầy đủ, có hệ thống q trình xây
dựng, bảo vệ và phát huy vai trị của các căn cứ địa cách mạng
ở Trung Trung Bộ trên các lĩnh vực: quân sự, kinh tế, văn hóa,
giáo dục, y tế.
- Luận giải, làm rõ hơn âm mưu, thủ đoạn đánh phá của
quân Mỹ – VNCH đối với căn cứ địa cách mạng ở Trung
Trung Bộ trong mỗi giai đoạn lịch sử trên các lĩnh vực: quân
sự, chính trị, kinh tế.
- Trên cơ sở khảo cứu, bổ sung và hệ thống hóa tư liệu
từ nhiều nguồn để xây dựng góc nhìn “đa chiều” về căn cứ địa
cách mạng ở Trung Trung Bộ.
- Rút ra và khái quát những đặc điểm của căn cứ địa ở
Trung Trung Bộ, đặt trong sự tham chiếu với căn cứ địa ở Cực
Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và các căn cứ khác ở miền Nam.
- Kết quả nghiên cứu sẽ nhằm tiếp tục khẳng định và
làm nổi bật những đóng góp to lớn của các căn cứ địa cách
mạng ở Trung Trung Bộ trong quá trình đánh bại các chiến
lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền VNCH trên chiến
trường Khu V.
CHƯƠNG 2
KHƠI PHỤC VÀ BẢO VỆ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG
Ở TRUNG TRUNG BỘ (1954-1960)

2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG, BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY VAI TRỊ CĂN CỨ ĐỊA
CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội
Trung Trung Bộ bao gồm các tỉnh, thành phố: Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Địa bàn này có
những thuận lợi trong việc xây dựng căn cứ địa: vùng rừng núi
chiếm khoảng 3/4 diện tích, có thế liên hồn nối liền với Tây
Nguyên và Lào, có hành lang chiến lược Bắc – Nam đi qua; có
tiềm năng kinh tế với nhiều ngành nghề đa dạng; cộng đồng cư
10


dân ở đây giàu truyền thống yêu nước, ý chí tự lực, tự cường,
bền bỉ trong gian khó, cần cù trong lao động, đoàn kết trong
đấu tranh.
2.1.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân
dân Trung Trung Bộ
Cũng như nhiều địa phương trong cả nước, nhân dân
Trung Trung Bộ giàu truyền thống yêu nước, chống áp bức, bất
công, chống xâm lược. Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược
Việt Nam lần thứ nhất, nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp
đã nổ ra tiêu biểu như: phong trào Nghĩa hội ở Quảng Nam,
phong trào Ðông Du, phong trào Duy Tân, phong trào chống
thuế…
Trong cuộc vận động Cách mạng tháng Tám năm 1945,
Trung Trung Bộ là một trong những địa bàn tiến hành khởi
nghĩa giành chính quyền sớm trong cả nước.
2.1.3. Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong
quá trình vận động cách mạng Tháng Tám và kháng chiến

chống thực dân Pháp
Trước ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945,
Trung Trung Bộ xây dựng các căn cứ ở Phú Túc, Ơ Rây,
Đồng Xanh, Đồng Nghệ (Hịa Vang, Quảng Nam); Chiến
khu Vĩnh Tuy (Sơn Tịnh) và Chiến khu Núi Lớn (Mộ Đức) ở
Quảng Ngãi và hậu cứ ở An Đỗ, An Sơn (Hoài Nhơn), Lộc
Giang, Lộc Bài (Hoài Ân), Đại An, Đại Bình (An Nhơn) tỉnh
Bình Định.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp có các căn cứ:
Khu Sơng Đà; Chiến khu Trung Man (Đà Nẵng); Căn cứ Tiên
Phước; Khu kháng chiến Hạ Lào (Quảng Nam); Các chiến khu
của đội du kích Ba Tơ: Cao Mn (Ba Vinh, Ba Tơ); Núi Lớn
(Tây Mộ Đức); Vĩnh Tuy (hay Vĩnh Sơn, Sơn Tịnh) ở Quảng
Ngãi; Căn cứ Khu ủy Khu V ở Hoài Ân, Bình Định; Căn cứ
Thồ Lồ ở Phú Yên.

11


2.2. QUÁ TRÌNH PHỤC HỒI CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG
Ở TRUNG TRUNG BỘ (1954-1960)
2.2.1. Âm mưu và thủ đoạn xóa bỏ căn cứ địa cách
mạng của địch
* Âm mưu của địch: Sử dụng lực lượng quân sự và gián
điệp tiến hành dồn dân, chiếm đất, lập dinh điền, cướp bóc, bao
vây, phá hoại kinh tế, cắt đứt quan hệ giữa miền núi và đồng
bằng, tìm mọi cách kiểm sốt nhân dân để tiêu diệt các căn cứ
địa miền núi, đồng thời xây dựng căn cứ quân sự tại đây.
*Các thủ đoạn xảo quyệt được áp dụng:
- Về quân sự: Xây dựng hàng loạt các đồn bốt ở miền

núi, tổ chức bắt lính trong đồng bào dân tộc, mở hàng chục
cuộc hành quân càn quét đánh vào các căn cứ địa miền núi.
- Về chính trị: Tiến hành củng cố bộ máy hành chính
miền núi, phát triển lực lượng gián điệp, kiểm soát gắt gao hoạt
động của nhân dân, mua chuộc các tù trưởng, già làng, chia rẽ
sự đoàn kết Kinh – Thượng, đẩy mạnh hoạt dồn dân vào các
khu tập trung.
- Về kinh tế: Phong tỏa về kinh tế, độc quyền mua rẻ các
loại lâm thổ sản miền núi. Trong các cuộc hành quân càn quét,
địch ra sức cướp bóc, phá hoại tài sản của nhân dân.
2.2.2. Chủ trương của ta
Đối với hoạt động xây dựng và bảo vệ căn cứ địa, Nghị
quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng) năm 1959,
Nghị quyết Hội nghị Liên khu ủy V mở rộng (4-1960)… đã chỉ
rõ: Để bảo vệ các cơ quan đầu não và che giấu cán bộ, cần xây
dựng ở các địa phương những cơ sở an toàn và khu an toàn.
Khẩn trương xây dựng Tây Nguyên và miền Tây thành căn cứ
địa vững chắc, làm trở lực mạnh mẽ cho đồng bằng, tạo thế
chung cho cách mạng ở miền Nam.

12


2.2.3. Quá trình phục hồi căn cứ địa cách
mạng ở Trung Trung Bộ đáp ứng yêu cầu của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Từ năm 1954-1957, các địa phương Trung Trung Bộ
tích cực đẩy mạnh việc xây dựng, phục hồi các căn cứ: Khu
Sông Đà (Đà Nẵng), khu B1 (Quảng Nam); Vĩnh Thạnh (Bình
Định), Thồ Lồ (Phú Yên), Liên khu ủy V (Bến Hiên, Bến

Giằng, Quảng Nam)... Trong những năm 1958-1960, ở miền
núi phía Tây Trung Trung Bộ các căn cứ địa được xây dựng,
củng cố và mở rộng:
- Căn cứ Nước Oa (hay Vườn Cam) thuộc xã Trà Tân,
huyện Bắc Trà My. Từ giữa năm 1960 đến năm 1973, Nước Oa
trở thành nơi đứng chân của Khu ủy và BTL Quân khu V.
- Căn cứ Nước Là (Mật khu Đỗ Xá), thuộc xã Trà Mai,
huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Căn cứ Nước Là là nơi
đứng chân của Liên Khu ủy – Ban Quân sự Khu V từ năm 1960
đến năm 1963.
- Khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Nam bao
gồm các huyện Hiên, Giằng và miền Tây Hòa Vang. Đây là nơi
đứng chân của Tỉnh ủy Quảng Nam trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước.
- Khu căn cứ miền núi phía Tây tỉnh Quảng Ngãi bao
gồm 19 xã thuộc huyện Trà Bồng, 10 xã Sơn Tây, 8 xã Sơn Hà,
13 xã Ba Tơ và 4 xã Minh Long.
- Khu căn cứ miền Tây tỉnh Bình Định bao gồm hầu hết
huyện Vĩnh Thạnh, toàn bộ vùng cao huyện An Lão và 3 xã vùng
cao huyện Vân Canh.
- Khu căn cứ miền Tây tỉnh Phú Yên bao gồm các xã
Quang Hiển, Tân Vinh, Phước Tân, Phước Thuận, Đá Mài,
Phú Mỡ thuộc các huyện Miền Tây, Sơn Hòa.
2.3. CUỘC ĐẤU TRANH BẢO VỆ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH
MẠNG
13


Về chính trị, tư tưởng: Cán bộ, đảng viên ln bám sát
quần chúng, hịa mình vào cuộc sống của đồng bào các dân tộc

để tuyên truyền, vận động họ tham gia hoạt động xây dựng,
bảo vệ căn cứ địa. Bên cạnh đó, cũng tìm cách tranh thủ, lơi
kéo các tầng lớp trên, đặc biệt là già làng, trưởng bản, vận động
họ ủng hộ các phong trào đấu tranh của quần chúng và tham
gia hoạt động bảo vệ căn cứ địa.
Về cơng tác bố phịng chiến đấu, chống gián điệp xâm
nhập: Các căn cứ tổ chức rào làng; cắm chơng, thị; xây dựng
các tuyến chiến đấu, đẩy mạnh cơng tác phịng gian bảo mật,
chống gián điệp xâm nhập.
Về tổ chức đấu tranh chống chính sách dồn dân của
địch: Qua đấu tranh đồng bào Vĩnh Thạnh (Bình Định), Thồ
Lồ (Phú Yên) đã thất bại âm mưu dồn dân của Mỹ và chính
quyền Ngơ Đình Diệm, bảo vệ vững chắc các căn cứ cách
mạng.
CHƯƠNG 3
KẾT HỢP XÂY DỰNG VỚI BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY
VAI TRÒ CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG
TRUNG BỘ (1961-1975)
3.1. CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG TRUNG BỘ
TRONG GIAI ĐOẠN CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN
TRANH ĐẶC BIỆT” (1961-1965)
3.1.1. Tiếp tục củng cố các căn cứ địa miền núi,
phát triển căn cứ địa ở vùng đồng bằng
Đến cuối năm 1965, tại các vùng giáp ranh và đồng
bằng, các căn cứ mới được xây dựng: K20, Sơn – Cẩm – Hà,
Triều Tiên, Đà Lạt, Liên Xơ, Núi Bà, Hịn Chè, Vân Hịa, Đá
Bàn, Hịa Kiến khơng ngừng được củng cố, phát triển. Một
số căn cứ ven biển đồng thời là bến bãi tiếp nhận hàng vận
chuyển trên biển cũng được thành lập ở Vũng Rơ (Phú n),
Lộ Diêu (Bình Định), Đạm Thủy (Quảng Ngãi).

14


3.1.2. Đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ căn cứ địa
Trong giai đoạn 1961-1965, quân dân Trung Trung Bộ
đã đập tan các cuộc càn điển hình của địch: “Lam Sơn 7”,
“Lam Sơn 8”, “Bình Châu” đánh vào căn cứ Sơn – Cẩm – Hà,
“Chiến dịch quyết thắng 202” đánh vào căn cứ Mang Xinh,
chiến dịch “Dân thắng” đánh vào Căn cứ Vân Hòa…
3.2. CHỦ ĐỘNG XÂY DỰNG KẾT HỢP VỚI BẢO VỆ CĂN
CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG, GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN
LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” (1965-1968)
3.2.1. Phát triển thực lực căn cứ địa cách mạng đáp
ứng yêu cầu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
Trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ”
của đế quốc Mỹ, căn cứ địa ở Trung Trung Bộ tiếp tục được
xây dựng toàn diện trên các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa –
xã hội, quân sự.
3.2.2. Tổ chức chiến đấu, đánh thắng các cuộc hành
quân càn quét của địch vào căn cứ
Các căn cứ tăng cường cơng tác bố phịng xây dựng
các hầm chơng, bãi mìn, chủ động phối kết hợp giữa các lực
lượng, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích chống địch
càn quét, từng bước làm thất bại các cuộc tấn công của địch
vào các căn cứ: K20, Sơn – Cẩm – Hà, rừng dừa Bảy Mẫu,
Vân Hòa, Núi Bà.
3.2.3. Phát huy vai trò hậu phương tại chỗ của căn
cứ địa cách mạng
Trong giai đoạn 1965-1968, các căn cứ địa ở Trung
Trung Bộ đã góp sức cùng hệ thống căn cứ địa, căn cứ du kích,

“lõm chính trị” ở Khu V động viên tại chỗ được số quân bằng
43% tổng số quân tuyển tại chỗ trong suốt cuộc chiến tranh; đã
khai thác tại chỗ được 78% tổng số lương thực, 94% số thực
phẩm sử dụng tại chiến trường.

15


3.3. KHÔI PHỤC CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG, TẠO THẾ
VÀ LỰC MỚI GÓP PHẦN KẾT THÚC THẮNG LỢI CUỘC
KHÁNG CHIẾN (1969-1975)
3.3.1. Củng cố căn cứ địa cách mạng sau Tổng tiến công
và nổi dậy Mậu Thân 1968 (1969-1973)
Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, các căn cứ
địa cách mạng ở Trung Trung Bộ đã nhanh chóng phục hồi, củng
cố thực lực về mọi mặt: sản xuất tự túc được đẩy mạnh; đời sống
văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ; các phong trào thi đua yêu nước
diễn ra sôi nổi; một số căn cứ mới được hình thành và mở rộng:
Khu A, Căn cứ Quế Tiên, Căn cứ lõm Bầu Bính, Chiến khu Tiên
Sơn, Căn cứ Tây Nam.
3.3.2. Đẩy mạnh phát triển thực lực căn cứ địa cách
mạng (1973-1975)
Từ sau Hiệp định Paris, căn cứ địa cách mạng ở Trung
Trung Bộ được củng cố, phát triển trên nhiều mặt qn sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội.
Với thực lực không ngừng được củng cố, phát triển, trong
mùa Xuân lịch sử năm 1975, quân dân căn cứ địa cách mạng ở
Trung Trung Bộ đã huy động cao độ sức người, sức của để đóng
góp cho sự nghiệp giải phóng q nhà.
CHƯƠNG 4

ĐẶC ĐIỂM, VAI TRỊ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
4.1. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG
Ở TRUNG TRUNG BỘ
4.1.1. Các căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ
phong phú về loại hình, đa dạng về quy mơ và hình thức tổ
chức
Việc xây dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng với sự
phong phú về loại hình, đa dạng về quy mơ và hình thức tổ
16


chức đồng thời tập trung chủ yếu ở địa bàn miền núi là một sự
lựa chọn sáng tạo, phù hợp với quy luật phát triển của cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhờ đó, quân dân Trung Trung
Bộ đã giải quyết được vấn đề đất đứng chân tương đối an
toàn, xây dựng, củng cố lực lượng, tạo thế đứng vững chắc
về quân sự để trường kỳ kháng chiến.
4.1.2. Căn cứ địa cách mạng ở Trung
Trung Bộ thường xuyên có sự biến động
Căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ thường xun có
sự biến động do điều kiện địa hình, do bị địch đánh phá ác liệt, do
quá trình chia tách, sáp nhập. Để khắc phục sự biến động này, các
cấp ủy Đảng, chính quyền đã phát huy cao độ tinh thần chiến đấu,
ý thức phòng gian bảo mật của quân dân nhằm bảo vệ căn cứ
vững chắc. Mặt khác, cũng đẩy mạnh phong trào kháng chiến ở
các địa phương, qua đó, ngày càng mở rộng địa bàn hoạt động
của các căn cứ địa.
4.1.3. Căn cứ địa ở Trung Trung Bộ có khả năng
đảm bảo sản xuất tự túc, tự cấp
Trong quá trình kháng chiến, các căn cứ địa ở Trung Trung

Bộ đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo sản xuất tự túc, tự
cấp. Tuy nhiên khả năng này bị hạn chế do đất đai kém màu mỡ,
khí hậu khắc nghiệt, thiên tai xảy ra thường xuyên, giao thơng
khó khăn... Vì vậy, để duy trì cuộc chiến đấu lâu dài, các căn cứ
rất cần sự chi viện từ hậu phương miền Bắc. Đây chính là
nguồn lực cơ bản để tăng cường sức mạnh về mọi mặt cho các
căn cứ địa ở Trung Trung Bộ.
4.1.4. Hệ thống căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung
Bộ dễ bị chia cắt, cô lập khi địch tập trung lực lượng đánh
phá mạnh
Do địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thơng đi lại khó khăn,
các căn cứ chủ yếu tập trung ở miền rừng núi với quy mô vừa và
nhỏ, khả năng dự trữ về hậu cần không nhiều... nên khi địch tập
trung lực lượng đánh phá mạnh, phong tỏa từ nhiều hướng, các
căn cứ dễ bị chia cắt, cơ lập. Vì vậy, để bảo vệ các căn cứ, bên
17


cạnh vấn đề về xây dựng LLVT, hệ thống bố phòng, chuẩn bị
nguồn hậu cần dự trữ tương đối dồi dào, cần triển khai thế trận
chiến tranh nhân dân rộng khắp để có thể bảo vệ căn cứ từ xa,
đồng thời đảm bảo hệ thống thông tin liên lạc với các căn cứ và
địa phương lân cận, kịp thời có sự hỗ trợ khi bị đánh phá.
4.2. VAI TRÒ CỦA CĂN CỨ ĐỊA CÁCH MẠNG Ở TRUNG
TRUNG BỘ
4.2.1. Nơi đứng chân và hoạt động của các
cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy kháng chiến
của Khu V và các tỉnh trên địa bàn
Các cơ quan lãnh đạo, chỉ huy kháng chiến của Khu V,
các tỉnh và các huyện ở Trung Trung Bộ đều đứng chân ở căn

cứ. Căn cứ địa cách mạng là nơi đảm bảo sự liên lạc và tiếp
nhận sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc; nơi diễn ra
nhiều hội nghị đề ra những chủ trương, quyết định quan trọng
của cuộc kháng chiến.
4.2.2. Là hậu phương tại chỗ, trực tiếp bảo đảm cung
cấp sức người, sức của cho các lực lượng kháng chiến; nơi
nhân dân gửi gắm niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng
Các căn cứ địa ở miền núi là nơi tổ chức sản xuất, đảm bảo
cung cấp một phần quan trọng nhu cầu về nhân lực, vật lực cho
kháng chiến. Ở vùng đồng bằng, các cơ sở chính trị, “căn cứ lõm” ở
đô thị tuy không phải là nơi trực tiếp sản xuất tự cấp, tự túc nhưng là
nơi tổ chức quyên góp ủng hộ kháng chiến của các tầng lớp nhân
dân trong vùng địch. Bên cạnh đó, căn cứ địa cịn là chỗ dựa về
chính trị, tinh thần, là nơi để đồng bào các dân tộc hướng về
Đảng, Bác Hồ, củng cố niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp
cách mạng.
4.2.3. Là bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT
tổ chức các chiến dịch, trận đánh tiêu hao sinh lực địch và
phát triển chiến tranh du kích
Các căn cứ Sơng Đà, K20, Vĩnh Sơn, Núi Bà… giữ vai
trò là bàn đạp xuất phát tiến công của các LLVT trước các trận
18


đánh lớn tấn cơng địch ngồi căn cứ. Lực lượng du kích tại căn
cứ phối hợp cùng bộ đội chủ lực tổ chức chiến đấu, tiêu hao
nhiều bộ phận sinh lực địch, bẻ gãy nhiều cuộc càn quét, bảo
vệ an toàn căn cứ.
4.2.4. Là nơi tiếp nhận sự chi viện bằng đường bộ,

đường biển cho chiến trường Khu V, góp phần hình thành
thế bao vây chia cắt, trực tiếp uy hiếp lực lượng của địch ở
Trung Trung Bộ
Ngoài nhiệm vụ hậu phương tại chỗ cho cuộc kháng
chiến tại địa phương, một số căn cứ như: Sông Đà, bến Vũng
Rô, bến Lộ Diêu… trở thành nơi tiếp nhận hàng hóa từ hậu
phương lớn miền Bắc vào cho các địa phương ở Khu V.
4.3. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
4.3.1. Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải chú trọng
đặc điểm địa – chính trị, địa – quân sự, địa – kinh tế, địa –
văn hoá của địa phương
Trung Trung Bộ là địa bàn có đặc điểm địa – chính trị,
địa – qn sự, địa – kinh tế, địa – văn hoá thuận lợi cho việc
xây dựng căn cứ địa cách mạng. Dựa vào những đặc điểm này,
quân dân Trung Trung Bộ đã biết khai thác hiệu quả để xây
dựng hệ thống căn cứ địa cách mạng đáp ứng yêu cầu của cuộc
kháng chiến tại địa phương.
4.3.2. Phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền
và các đồn thể nhân dân trong q trình xây dựng và bảo
vệ căn cứ địa cách mạng
Tổ chức Đảng, chính quyền và các đồn thể nhân dân đã
thực sự phát huy vai trị trong việc đồn kết, giáo dục, động viên
các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia hoạt động xây dựng và
bảo vệ căn cứ địa.
4.3.3. Tăng cường xây dựng, củng cố khối đại đoàn
kết tồn dân, thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, LLVT tại các căn cứ địa
đã chú trọng giải quyết các vấn đề: tôn trọng phong tục, tập
quán, tự do tín ngưỡng của đồng bào; tranh thủ lôi kéo các tầng
19



lớp bên trên người dân tộc và những người làm việc cho bộ
máy của địch ở thôn, xã; nâng cao đời sống mọi mặt cho đồng
bào; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc. Nhờ đó,
khối đồn kết dân tộc được củng cố, căn cứ địa được bảo vệ
vững chắc.
4.3.4. Xây dựng căn cứ địa cách mạng vững mạnh
toàn diện; kết hợp xây dựng với bảo vệ, bảo vệ để xây dựng
Việc kết hợp xây dựng căn cứ với bảo vệ căn cứ phản
ánh quy luật chung của lịch sử dân tộc đó là dựng nước đi đôi
với giữ nước, xây dựng chế độ mới gắn liền với bảo vệ chế độ
mới.
4.3.5. Kết hợp đồng thời việc xây dựng căn cứ địa
cách mạng ở miền núi với xây dựng căn cứ du kích ở vùng
địch tạm chiếm, các cơ sở, “lõm chính trị” trong nội đơ
Sự tồn tại của các loại hình căn cứ tạo thành mạng lưới
rộng rãi tồn tại đan xen trong thế cài răng lược giữa ta và địch
ở nhiều địa bàn. Điều này phản ảnh sự linh hoạt, sáng tạo của
quân dân trong hoạt động tổ chức xây dựng căn cứ địa cách
mạng ở Trung Trung Bộ.

20


KẾT LUẬN
1. Trung Trung Bộ là địa bàn có điều kiện tự nhiên, kinh
tế – xã hội thuận lợi cho hoạt động xây dựng căn cứ địa cách
mạng. Trong cuộc vận động cách mạng Tháng Tám năm 1945
và kháng chiến chống Pháp, nhiều căn cứ địa được xây dựng ở

vùng rừng núi, sông biển, đồng bằng. Các căn cứ đã đáp ứng
được yêu cầu khách quan của khởi nghĩa và chiến tranh cách
mạng, đồng thời góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của
cả dân tộc. Từ sau hiệp định Genève năm 1954, nhằm đối phó
với chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo của đế quốc Mỹ và
chính quyền Ngơ Đình Diệm đối với phong trào cách mạng
miền Nam, quân dân các địa phương Trung Trung Bộ đã tích
cực khôi phục các căn cứ địa được xây dựng trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp để giữ gìn, bảo vệ lực lượng, từng
bước tạo thế và lực đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Từ thực tiễn đấu tranh của quần chúng và
yêu cầu của phong trào cách mạng trong tình hình mới, Trung
ương Đảng và Liên Khu ủy V đã sớm xác định đường lối xây
dựng căn cứ địa cách mạng ở miền Nam, đặc biệt là đối với địa
bàn Tây Nguyên và miền núi các tỉnh. Quán triệt và vận dụng
sáng tạo đường lối của các cấp ủy Đảng, quân dân Trung Trung
Bộ đã kiên trì đấu tranh làm thất bại âm mưu dồn dân, tiêu diệt
lực lượng cách mạng của địch; đồng thời tiếp tục khôi phục,
củng cố, xây dựng thêm nhiều căn cứ địa mới đảm bảo đáp ứng
yêu cầu xây dựng đất đứng chân và tiềm lực để chuẩn bị tiến
hành kháng chiến lâu dài. Việc khôi phục, xây dựng kịp thời
các căn cứ địa đã tạo điều kiện để quân dân Trung Trung Bộ
sớm nổi dậy tiến hành khởi nghĩa từng phần và chiến tranh du
kích cục bộ. Mặc dù đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH đã sử
dụng nhiều thủ đoạn chiến tranh vô cùng tàn khốc nhằm tiêu
diệt lực lượng cách mạng và triệt phá căn cứ địa nhưng với ý
chí cách mạng kiên cường và tinh thần bền bỉ đấu tranh, quân
và dân Trung Trung Bộ đã vượt qua nhiều gian nan, thử thách,
21



bảo vệ vững chắc và phát huy hiệu quả vai trò của hệ thống căn
cứ địa cách mạng, nỗ lực góp phần quan trọng cùng chiến
trường tồn Khu V từng bước làm thất bại các chiến lược chiến
tranh của đối phương.
2. Quá trình xây dựng và phát triển của các căn cứ địa
cách mạng ở Trung Trung Bộ diễn ra cam go, quyết liệt và liên
tục. Đó là q trình đấu tranh tồn diện, bền bỉ, gian nan và
khơng tránh khỏi những bước quanh co, thậm chí tổn thất nhất
định. Song từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, các cán bộ, đảng
viên đã biết dựa vào nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước
và tinh thần đoàn kết cộng đồng các dân tộc, gắn liền việc động
viên sự đóng góp của nhân dân với chăm lo bồi dưỡng, củng cố
sức dân. Để làm được điều này, các cấp ủy Đảng, chính quyền
ở các căn cứ địa thường xuyên thực hiện tốt cơng tác chính trị,
tư tưởng, nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân về nhiệm
vụ, vai trò, ý nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước,
từ đó tích cực tham gia xây dựng căn cứ địa; đồng thời chú
trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế, giáo dục, y tế… từng bước
cải thiện đời sống người dân, xây dựng những nền tảng ban
đầu của chế độ mới. Quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ địa
được tiến hành thường xuyên trên cơ sở lấy “căn cứ lòng dân”
làm nền tảng căn cứ vững chắc nhất. Trải qua quá trình hình
thành, phát triển và đứng vững qua nhiều thử thách ác liệt của
chiến tranh, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung Bộ trong
kháng chiến chống Mỹ là biểu trưng cho tinh thần yêu nước, ý
chí đấu tranh kiên cường, sức mạnh đoàn kết và niềm tin to lớn
của cộng đồng các dân tộc đối với Đảng, Bác Hồ.
3. Chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên và đặc điểm
chiến trường Khu V, căn cứ địa cách mạng ở Trung Trung

Bộ trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là sự đa dạng về
loại hình, phong phú về quy mơ, linh hoạt trong hình thức tổ
chức, hợp thành hệ thống liên hoàn, thuận lợi cho hoạt động
di chuyển và trụ bám của các lực lượng kháng chiến. Các
căn cứ tồn tại đan xen khắp ba vùng chiến lược tạo thế cài
22


×