Tải bản đầy đủ (.doc) (270 trang)

Luận văn thạc sĩ lời nói trong báo phát thanh việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 270 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát thanh là loại hình báo chí sử dụng ngôn ngữ âm thanh tổng hợp, bao gồm lời nói, tiếng động, âm
nhạc, tác động trực tiếp vào thính giác của đối tượng tiếp nhận. Trong ba thành tố của ngôn ngữ phát
thanh, lời nói đóng vai trò then chốt. Lời nói cung cấp thông tin, chuyên chở tư tưởng, khơi dậy cảm xúc,
là cầu nối hữu hiệu giữa đài phát thanh và công chúng thính giả.
Cũng như lời nói tự nhiên của con người, lời nói báo phát thanh được tạo thành từ ba yếu tố:từ vựng,
ngữ pháp, ngữ âm (mà đứng ở bình diện báo phát thanh, có thể gọi đại ý là ngôn từ vàcách đọc, nói
trên sóng). Ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, bình đẳng trong việc giúp lời nói thực hiện chức năng
thông tin, tuyên truyền. Chúng đồng thời cũng là phương tiện cơ bản nhất để nhà báo sáng tạo tác phẩm.
Bằng cách đan dệt ngôn từ thành câu, thành bài, bằng khả năng sử dụng giọng đọc, giọng nói truyền cảm,
nhà báo phát thanh có thể vẽ lên trong tâm trí thính giả một thế giới hiện thực vô cùng sống động, phong
phú, có thể đưa người nghe đến bất cứ nơi đâu, gặp gỡ bất kỳ ai Sự khác biệt giữa cây bút phát thanh
tài năng và cây bút bình thường có thể nằm ở cách dùng từ, đặt câu. Sự khác biệt giữa một giọng đọc tài
năng và giọng đọc trung bình có thể nằm ở khả năng vận dụng các yếu tố tốc độ, cao độ, cường độ,
trường độ, nhịp độ, âm sắc
Chính thế, mỗi nhà báo phát thanh cần nắm vững cách thức sử dụng từ vựng, ngữ pháp, nắm vững các
thủ pháp đọc, nói trên sóng. Để giúp nhà báo thực hiện được điều đó, cần có những khảo sát, đánh giá
thực tiễn một cách cụ thể, chính xác, từ đó, có những luận giải mang tính khoa học về cách thức nhà báo
sử dụng lời nói phát thanh của những người làm công tác nghiên cứu.
Trên phương diện lý thuyết, từ trước tới nay, ở Việt Nam, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào
thật sự hoàn chỉnh về lời nói báo phát thanh. Vì vậy, những câu hỏi tưởng không mới, như: Nhà báo
phát thanh Việt Nam hiện nay đang sử dụng lời nói như thế nào? Có vấn đề gì đang đặt ra từ thực
trạng đó? Nhà báo nên sử dụng từ vựng phát thanh ra sao? Nên đặt câu như thế nào? Nên vận
dụng các yếu tố tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ theo cách thức gì để có thể đọc, nói một
cách truyền cảm, hấp dẫn trên sóng? đến nay vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng.
Điều này dẫn đến tình trạng, nhiều nhà báo còn chủ yếu viết, đọc, nói theo kinh nghiệm cá nhân. Có
những cách viết, cách đọc, nói đúng, hấp dẫn. Nhưng cũng không ít trường hợp viết sai, đọc, nói vô hồn,
vô cảm vẫn không bị phát hiện, không chỉnh sửa, thành ra, lâu dần, trở thành thói quen không tốt, ảnh
hưởng đến hiệu quả thông tin. Hơn nữa, nó còn làm phương hại đến sự trong sáng, giàu đẹp của ngôn
ngữ tiếng Việt.


Sự hạn chế trong sáng tạo ngôn từ và nghệ thuật đọc, nói trên sóng là một trong những rào cản lớn nhất
đối với sự tiếp nhận của thính giả.
Trước tình hình đó, việc khảo sát, phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng sử dụng lời nói tiếng
Việt trên Đài phát thanh Việt Nam hiện nay - mà đại diện tiêu biểu nhất là Đài TNVN, từ đó, nêu ra những
vấn đề còn tồn tại, đề xuất hướng giải quyết nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả lời nói phát
thanh là một việc làm cần thiết. Đó là lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài: “Lời nói trong báo phát thanh
Việt Nam hiện nay” (Khảo sát các chương trình trên hệ VOV1, VOV2, VOVGT - Đài TNVN từ tháng
6/2008-6/2010) làm đề tài cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành báo chí học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là đánh giá một cách toàn diện về cách thức sử dụng ngôn từ và cách đọc, nói của
nhà báo phát thanh Việt Nam hiện nay. Từ đó, phát hiện những vấn đề đang đặt ra trong sử dụng, sáng tạo
lời nói phát thanh, thảo luận hướng giải quyết những vấn đề đó nhằm giúp lời nói phát thanh đạt được
hiệu quả giao tiếp tốt nhất.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đến mục đích nêu trên, luận án phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý thuyết liên quan đến lời nói và lời nói báo phát thanh trong thời điểm hiện
nay.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá cách thức sử dụng lời nói báo phát thanh ở Đài TNVN trên hai phương
diện: phương diện sử dụng ngôn từ và phương diện đọc, nói trên sóng.
- Nêu lên những vấn đề đang đặt ra đối với việc sử dụng lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay và
hướng giải quyết những vấn đề đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong thực tế, lời nói được thể hiện trên báo phát thanh bao gồm lời nói của phát thanh viên; lời nói của
nhà báo; lời nói của cộng tác viên; lời nói của công chúng. Những lời nói của các đối tượng kể trên được
thể hiện cả trong phát thanh qua Radio, phát thanh trên mạng Internetvà phát thanh có hình, nhưng
nếu nghiên cứu về tất cả các dạng lời nói ở tất cả các phương thức sản xuất chương trình phát thanh
hiện có ở nước ta thì sẽ rất rộng và phức tạp. Vì vậy, trong luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu riêng

về lời nói tiếng Việt của nhà báo phát thanh, được thể hiện trong các chương trình phát
thanh qua radio – một dạng phát thanh phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay – đang được sử dụng ở các hệ
VOV1, VOV2, VOVGT của Đài TNVN, từ tháng 6/2008 đến tháng 6/2010.
4. Giả thuyết nghiên cứu của luận án
Hiện nay, trên Đài TNVN, nhà báo đang áp dụng những cách thức sáng tạo lời nói rất đa dạng, phong phú.
Ở một chừng mực nhất định, hệ thống lời nói trong các chương trình phát thanh đã đáp ứng yêu cầu đơn
giản, dễ hiểu, phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp. Tuy nhiên, do hạn chế nhất định về kiến thức
ngôn ngữ và trình độ, năng lực chuyên môn của một bộ phận nhà báo, nên vẫn còn không ít tác phẩm
vướng lỗi diễn đạt, lỗi thể hiện trên sóng.
Thực trạng đó đang đặt ra những câu hỏi lớn cần giải quyết là:
- Nên dùng từ trong phát thanh như thế nào?
- Nên sử dụng câu phát thanh ra sao?
- Nên xem phương thức thể hiện nào là chủ đạo trong các phương thức thể hiện trên sóng:đọc, đọc kết
hợp với nói và nói?; hoặc nên kết hợp các phương thức này như thế nào?
- Nên vận dụng các yếu tố thuộc ngữ điệu lời nói như tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ, nhịp độ, âm
sắc như thế nào để có thể đọc, nói truyền cảm?
- Nên khai thác các phương tiện ngữ âm khác như: chất giọng, cách kết hợp giọng, cách ngừng lời,
cách phát âm… trong các chương trình ra sao để đảm bảo lời nói đạt được hiệu quả cao nhất?
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài này là Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về vai trò, chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động của
báo chí cách mạng. Đây chính là nền tảng phương pháp luận để tác giả dựa vào đó, đưa ra các luận điểm,
kết luận về vai trò của lời nói báo phát thanh cũng như những nguyên tắc sử dụng lời nói của nhà báo
phát thanh Việt Nam hiện nay.
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu đề tài này là lý luận báo chí và báo chí phát thanh; của Luật báo chí và
những quy định về đạo đức nhà báo Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng kế thừa một số
quan điểm lý thuyết về ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ báo phát thanh nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

-Phương pháp nghiên cứu tư liệu: nghiên cứu một số sách, báo, tài liệu về ngôn ngữ học, ngôn ngữ
báo chí, báo phát thanh, ngôn ngữ báo phát thanh để tìm kiếm những kiến thức lý thuyết phục vụ cho mục
đích nghiên cứu của đề tài. Ngoài ra, chúng tôi đọc văn bản tác phẩm để lấy thêm các cứ liệu cần thiết cho
việc phân tích cách thức sử dụng lời nói trong báo phát thanh.
-Phương pháp phân tích, tổng hợp: Tổng số chương trình được chúng tôi chọn khảo sát là 60 chương
trình, trong đó, mỗi chương trình có thể được khảo sát ở nhiều số phát sóng khác nhau ở thời điểm từ
tháng 6/2008 đến 6/2010. Trong số các chương trình phát sóng được chọn khảo sát, chúng tôi lựa chọn
100.000 từ ở 12 thể loại và phi thể loại khác nhau để khảo sát về tỉ lệ sử dụng các lớp từ; lựa chọn 10.000
câu ở 39 chương trình khác nhau để khảo sát tỉ lệ sử dụng các yếu tố thuộc về câu; chọn 480 tin, bài ở 48
chương trình để nhận xét cách vận dụng ngữ điệu đọc, nói trên sóng; chọn 165.138 âm tiết để khảo sát
tốc độ đọc, nói…
Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã có, chúng tôi phân tích, đánh giá cách thức sử dụng các yếu tố từ vựng,
ngữ pháp, cách đọc, nói của nhà báo phát thanh, từ đó, đi đến những kết luận mang tính khoa học.
-Phương pháp thống kê: Thống kê các lớp từ, thống kê số lượng câu, số lượng giọng nói, thống kê các
dạng câu, tốc độ, trường độ các tiếng trong câu Sau đó, các số liệu này được xử lý bằng phần mềm xử
lý thông tin định lượng SPSS nên kết quả thu về cụ thể, chính xác.
-Phương pháp quan sát, miêu tả các hiện tượng ngữ âm: Quan sát trực tiếp cách phát âm của các nhà
báo phát thanh để đưa ra một số nhận xét về cách đọc, cách nói của họ trên sóng.
Ngoài ra, chúng tôi còn quan sát gián tiếp qua phương tiện kỹ thuật. Từ những chương trình phát thanh
được phát sóng ở Đài TNVN trong vòng 2 năm, lời nói của nhà báo được ghi lại bằng phần mềm Cool Edit,
dưới dạng các file Wave, sau đó được phân tích theo các thông số âm học như cao độ, cường độ, trường
độ, tốc độ. Kết quả này được lấy làm dẫn chứng cho việc phân tích, đánh giá các phương tiện ngữ âm của
lời nói.
-Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn trực tiếp một số nhà báo, nhà quản lý ở Đài TNVN để tìm hiểu
cách thức sáng tạo, sử dụng lời nói của họ.
- Phương pháp điều tra ý kiến của nhà báo và thính giả bằng phiếu hỏi: Luận án sử dụng 40 phiếu
thăm dò ý kiến các PTV, PV, BTV để biết ý kiến của họ về cách đọc, nói của các nhà báo Đài TNVN. Ngoài
ra, chúng tôi phát 600 phiếu tham khảo ý kiến thính giả ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam để thu nhận những
đánh giá cũng như nhu cầu của thính giả về lời nói trong báo phát thanh Việt Nam hiện nay. Trong
phương pháp này, chúng tôi tiến hành lấy kết quả bằng cách sử dụng phần mềm xử lý thông tin định

lượng SPSS.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
Là luận án đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về các khía cạnh của lời nói báo phát thanh, luận án có
một số đóng góp mới như sau:
Thứ nhất, luận án làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về lời nói trong báo phát thanh Việt Nam
hiện nay, như: Lời nói trong báo phát thanh hiện nay gồm những thành tố nào? Mối quan hệ giữa
các thành tố đó ra sao? Những yếu tố nào ảnh hưởng đến phương thức sáng tạo lời nói của nhà
báo phát thanh hiện nay? Người làm phát thanh phải khai thác lời nói theo những yêu cầu gì để đảm
bảo lời nói đạt được hiệu quả cao nhất? Công chúng hiện đại có nhu cầu và khả năng tiếp nhận lời
nói báo phát thanh hiện nay như thế nào?
Thứ hai, luận án trả lời được những câu hỏi về cách sử dụng từ vựng phát thanh, như: Từ vựng phát
thanh được tạo nên bởi những lớp từ nào? Đặc điểm sử dụng các lớp từ đó của nhà báo phát thanh
là gì? Trong các lớp từ của từ vựng phát thanh - lớp từ KN, lớp từ thuộc PCV, lớp từ THVPC, lớp từ
được ĐDVPC - lớp từ nào được sử dụng phổ biến, lớp từ nào ít được sử dụng, lớp từ nào phù hợp
và lớp từ nào chưa thực sự phù hợp với lời nói phát thanh? Từ thực tế khảo sát, luận án đề xuất cách
thức sử dụng từ vựng phù hợp cho lời nói phát thanh.
Thứ ba, luận án trả lời các câu hỏi về cách sử dụng câu cú của nhà báo phát thanh hiện nay như: Có
những kiểu dạng câu nào được sử dụng trong lời nói phát thanh? Kiểu dạng câu nào phổ biến, kiểu
dạng câu nào không phổ biến? Kiểu dạng câu nào phát huy được hiệu quả thông tin và kiểu dạng
câu nào còn hạn chế, bất cập? Từ thực tế đó, luận án đề xuất cách thức khắc phục cách sử dụng câu
chưa hợp lý.
Thứ tư, về phương diện đọc, nói trên sóng, luận án làm sáng tỏ những khía cạnh như: Có bao nhiêu
phương thức thể hiện lời nói trên sóng? Đặc điểm của mỗi phương thức thể hiện này là gì? Nhà báo
phát thanh đang vận dụng các yếu tố ngữ điệu và các phương tiện ngữ âm khác như thế
nào? Cũng trên cơ sở khảo sát, luận án nêu những vấn đề đang đặt ra trong việc đọc, nói và thảo luận về
hướng giải quyết chúng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận:
Nếu được thực hiện thành công, luận án sẽ góp phần làm phong phú thêm kiến thức lý thuyết về phương
thức sáng tạo ngôn từ và phương thức đọc, nói trên sóng phát thanh. Những kết quả của luận án còn là

cơ sở cho các đề tài nghiên cứu tiếp theo về ngôn ngữ phát thanh, ví dụ: lời nói phát thanh cho đồng
bào các dân tộc thiểu số; lời nói trên đài phát thanh địa phương; tiếng động, âm nhạc trên báo phát
thanh; sử dụng ngôn ngữ phát thanh cho vùng nông thôn Việt Nam; lời nói của công chúng trong
báo phát thanh
7.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Về mặt thực tiễn, luận án hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho đội ngũ PV, BTV, PTV, người dẫn chương
trình, các nhà quản lý ở các Đài phát thanh, giúp họ sáng tạo lời nói đạt chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Những vấn đề mà luận án nghiên cứu cũng như những kết quả thu được có thể còn giúp nhà báo truyền
hình, những người làm công việc thuyết trình miệng có thêm kinh nghiệm nói năng, giao tiếp với công
chúng. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu cách sử dụng tiếng Việt, cách nói năng, giao tiếp trên phát thanh,
cách rèn luyện phát âm , luận án còn có thể góp phần vào việc giữ gìn và phát triển sự trong sáng, giàu
đẹp của tiếng Việt.
Luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, học tập báo phát thanh ở bậc Đại học và
sau Đại học.
8. Kết cấu Luận án
Ngoài Mở đầu, Tổng quan nghiên cứu của đề tài, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục
các công trình của tác giả có liên quan đến đề tài và Phụ lục, các nội dung chủ yếu của luận án được
thể hiện trong 4 chương, 11 tiết, 200 trang.







TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào trực tiếp nghiên cứu về các vấn đề của lời nói báo phát thanh. Vì vậy,
để có cơ sở xây dựng hệ thống lý thuyết về lời nói báo phát thanh, chúng tôi thấy cần thiết phải tiếp cận
những kiến thức về ngôn ngữ học, ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ báo phát thanh.
1. Tài liệu về ngôn ngữ học

Về vấn đề ngôn ngữ và lời nói cũng như mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, các thành tố của lời nói…
đã được các nhà ngôn ngữ học trong và ngoài nước bàn đến rất nhiều.
F.de Saussure với những bài giảng của mình trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương[118] được
giới ngôn ngữ học trên toàn thế giới công nhận là người đầu tiên đưa ra quan niệm mang tính khoa học
về ngôn ngữ, lời nói và mối quan hệ giữa chúng. Ông cho rằng, ngôn ngữ và lời nói là hai sự vật hoàn
toàn tách biệt nhau, nhưng lại có mối quan hệ khăng khít và giả định lẫn nhau. Trong luận án, chúng tôi
lấy quan điểm của ông làm điểm tựa khi đề cập đến những vấn đề này.
Cuốn Các bình diện của từ và từ tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu [26] đã cung cấp cho chúng tôi những kiến
thức cơ bản về từ - ở bình diện chức năng, bình diện ngữ nghĩa, ở phương thức cấu tạo từ, ở đặc điểm
ngữ pháp của từ, ở các kiểu từ tiếng Việt và ranh giới từ trong tiếng Việt Giá trị tham khảo lớn nhất mà
chúng tôi tiếp nhận được từ cuốn sách là phần nội dung về các kiểu từ tiếng Việt, trong đó, ông đưa ra
các tiêu chí phân biệt từ ghép và cụm từ, từ ghép và ngữ cố định, từ phức lâm thời và dạng lời nói của từ
tiếng Việt.
Cũng về từ vựng, nhưng tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện
đại [25] lại chuyên sâu về từ loại danh từ - một từ loại quan trọng nhất của tiếng Việt hiện đại. Cuốn sách
giúp chúng tôi mở rộng tầm hiểu biết về các vấn đề: đặc điểm của từ loại danh từ, sự khác nhau giữa
danh từ với các từ loại khác, khả năng kết hợp giữa danh từ với những từ loại khác, mối quan hệ
giữa danh từ làm trung tâm và các từ phụ với nó, danh ngữ và đặc điểm cấu tạo của danh ngữ, các
loại danh từ và cách sử dụng chúng, cách sử dụng những từ có ý nghĩa ngữ pháp để làm từ phụ
cho danh từ và hiệu quả diễn đạt khi sử dụng chúng
Cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học của các tác giả Nguyễn Thiện Giáp (Chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn
Minh Thuyết [64] bàn sâu về các lớp từ vựng. Tác giả khẳng định: từ vựng của ngôn ngữ nào đó bao
gồm nhiều lớp hạng khác nhau. Theo tiêu chí phạm vi sử dụng, có lớp từ vựng toàn dân và từ vựng
hạn chế về mặt xã hội và lãnh thổ; theo tiêu chí về vai trò của các từ trong quá trình giao tiếp, có từ
vựng tích cực và từ vựng tiêu cực; theo tiêu chí về nguồn gốc của các từ, có từ bản ngữ và từ ngoại
lai. Tác giả cũng đã trình bày một cách khái quát về đặc điểm của các lớp từ nói trên.
Cũng có liên quan ít nhiều đến các vấn đề thuộc về các lớp từ vựng, trong cuốn Phong cách học và đặc
điểm tu từ tiếng Việt [141], khi trình bày về Phong cách KN tự nhiên tiếng Việt, tác giả Cù Đình Tú cũng
đã chỉ ra: đặc điểm nổi bật trong sử dụng từ ngữ của phong cách KN tự nhiên là thiên về dùng
những từ ngữ mang tính cụ thể giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm, là những thán từ, trợ từ, quán

ngữ, những từ chứa đựng những sắc thái nghĩa mới hoặc từ địa phương, từ thô tục, từ nói tắt… Ngoài ra,
khi trình bày về Phong cách ngôn ngữ gọt giũa tiếng Việt, tác giả cho rằng, đặc điểm sử dụng các
phương tiện từ ngữ của phong cách gọt giũa là sử dụng lớp từ thuật ngữ khoa học, từ ngữ hành chính, từ
ngữ chính trị, từ ngữ gọt giũa nói chung. Đặc biệt, trong khi trình bày về Phong cách ngôn ngữ văn
chương, tác giả cho rằng, trong phong cách này, dung nạp toàn bộ các lớp từ vựng có trong phong cách
KN và phong cách gọt giũa.Ngoài ra, còn có lớp từ khác, đó là lớp từ được tạo ra từ “chệch chuẩn
mực”, tạo nên phong cách tác giả.
Cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt [29], các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng
Phiến dành 25 trang để nói về Các lớp từ trong từ vựng. Theo đó, đứng ở tiêu chí về nguồn gốc, có lớp
từ gốc Hán, từ ngữ gốc Ấn Âu; nếu phân lớp từ theo phạm vi sử dụng, có từ ngữ theo giới hạn phạm
vi lãnh thổ, theo tầng lớp xã hội người; nếu theo tiêu chí giá trị tích cực và tiêu cực của từ ngữ, có lớp
từ tích cực và lớp từ tiêu cực; nếu phân lớp từ ngữ theo phong cách chức năng, có lớp từ KN, lớp từ
thuộc PCV và lớp từ ngữ THVPC. Các tác giả cũng đã đưa ra một số đặc điểm cơ bản của từng lớp từ.
Tuy nhiên, vì các tác giả trình bày về nhiều lớp từ, nên mỗi lớp từ chỉ được đề cập ở cấp độ rất khái quát.
Như vậy, từ ba cuốn Dẫn luận ngôn ngữ học, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt, chúng tôi đã có cơ sở để phân chia các lớp từ vựng phát thanh cũng như
nhận diện được chính xác các đặc điểm của mỗi lớp từ vựng phát thanh.
Ở bình diện ngữ pháp, tác giả Nguyễn Tài Cẩn trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [25] đã trình bày có hệ
thống hàng loạt vấn đề then chốt của ngữ pháp tiếng Việt, trong đó có việc trình bày cụ thể những vấn đề
như: các loại tiếng, đặc trưng cơ bản của tiếng; từ ghép, từ đơn, tổ hợp từ, các dạng lâm thời của từ
ghép; từ ghép nghĩa, từ láy âm, từ ngẫu hợp; các kiểu đoản ngữ, thành tố của đoản ngữ, danh ngữ,
động ngữ… Những kiến thức này cũng là cơ sở giúp chúng tôi có thể phân định rõ ràng và đánh giá
chính xác về các yếu tố ngữ pháp của lời nói phát thanh.
Về vấn đề ngữ âm của ngôn ngữ học, cuốn Ngữ âm tiếng Việt của Đoàn Thiện Thuật [136] đã đưa ra khái
niệm về Âm tiết và Các đặc trưng ngữ âm. Theo đó, âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất, là một khúc
đoạn của lời nói có khả năng mang thanh điệu trọng âm và ngữ điệu. Liên quan đến vấn đề ngữ âm,
ông trình bày về cấu tạo âm thanh trong hoạt động nói năng của con người, các đặc trưng thanh tính và
âm sắc, đặc trưng cấu âm của các nguyên âm và phụ âm, trường độ của ngữ âm. Ở Chương 3, ông phân
tích những nét khu biệt của thanh điệu, đồng thời khẳng định, 6 thanh điệu tiếng Việt có liên quan chặt
chẽ đến âm vực cao, thấp của lời nói, chẳng hạn: âm vực cao là những thanh không dấu, hỏi, sắc; âm vực

thấp là thanh huyền, ngã, nặng. Khi bàn về âm sắc trong tiếng Việt, ông đi đến kết luận: Hệ thống nguyên
âm tiếng Việt có ba loại âm sắc: loại bổng, loại trầm vừa, loại trầm, và có bốn bậc âm lượng của các
nguyên âm là: bậc cực lớn, bậc lớn vừa, bậc nhỏ vừa, bậc nhỏ.
Cũng về vấn đề ngữ âm học, trong Phong cách học Tiếng Việt [88], tác giả Đinh Trọng Lạc đưa ra quan
niệm về ngữ điệu: ngữ điệu là tập hợp của các yếu tố âm thanh: cao độ, trường độ, nhịp điệu, trọng
âm, âm lượng, âm sắc Ông cũng khẳng định, ngữ điệu có vai trò quan trọng trong việc biểu đạt tình
cảm, ý nghĩ và tâm trạng của lời nói. Muốn nói tốt, không chỉ phải biết suy nghĩ tốt, phát âm rõ mà còn
phải kết hợp với ngữ điệu để người nghe có thể hiểu ngay, hiểu hết ý tác giả.
Cuốn Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt [29], tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến
cũng nêu khái niệm về ngữ điệu và 3 chức năng cơ bản của ngữ điệu, như: chức năng nối liền các bộ
phận của lời nói lại với nhau, làm cho lời nói trở nên liền mạch; chức năng biểu hiện tính chất của
các loại câu; chức năng biểu hiện những sắc thái cảm xúc đa dạng của lời nói.
Tập trung bàn về các yếu tố ngữ điệu tiếng Việt, tác giả Đỗ Tiến Thắng trong cuốn Ngữ điệu tiếng Việt sơ
khảo [130] cho rằng, ngữ điệu tiếng Việt bao gồm 4 yếu tố: cao độ, cường độ, trường độ, nhịp độ. Ông
miêu tả, phân tích cụ thể từng loại ngữ điệu khác nhau: ngữ điệu cấu tạo, ngữ điệu mục đích, ngữ điệu
tình thái, ngữ điệu hàm ý, ngữ điệu hành vi và ngữ điệu hội thoại. Trong mỗi kiểu ngữ điệu này, tác giả lại
đi sâu vào phân tích ngữ điệu cho từng kiểu câu, chẳng hạn, câu trần thuật, câu hỏi và câu cầu khiến.
Ngoài ra, trong sách, tác giả còn khảo sát vai trò của ngữ điệu trong các chức năng quan trọng nhất
như: chức năng tạo câu, chức năng biểu cảm, chức năng lô gích và chức năng dụng học. Đây có thể
xem là công trình nghiên cứu hoàn chỉnh đầu tiên ở Việt Nam về phương diện ngữ điệu tiếng Việt. Công
trình nghiên cứu này cũng chính là “điểm tựa” quan trọng để chúng tôi mạnh dạn khảo sát các yếu tố ngữ
điệu của lời nói phát thanh.
Cuốn Phương pháp đọc diễn cảm do Hoàng Tuấn, Kim Lân dịch [142] đã dành 1 trang cho Ngữ điệu của
lời nói. Theo đó, ngữ điệu là hệ thống âm thanh của câu nói chung, bao gồm: độ vang to, âm sắc, độ
dài, chỗ nghỉ hơi, chỗ ngắt câu
Ngoài những tài liệu nêu trên, chúng tôi còn tiếp cận với các tài liệu: Lỗi từ vựng và cách khắc phục của
PGS. Hồ Lê, TS. Trần Thị Ngọc Lang, Tô Đình Nghĩa [90]; Phân tích diễn ngôn của các tác giả An Brown -
George Yule [19], Tiếng Việt thực hành của tác giả Hoàng Anh (chủ biên), Phạm Văn Thấu [5]; Tiếng Việt
thực hành của tác giả Bùi Minh Toàn, Lê A, Đỗ Việt Hùng [138];Tiếng Việt hiện đại của tác giả Nguyễn
Văn Thành [129]; Ngữ pháp tiếng Việt của tác giả Diệp Quang Ban [12]; Những vấn đề ngôn ngữ

học của nhiều tác giả, trong Kỉ yếu Hội nghị Khoa học 2005 của Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội [106]; Giữ gìn
sự trong sáng của Tiếng Việt của nhiều tác giả [101]… hay một số bài viết về các vấn đề của ngôn ngữ
và lời nói đăng trên tạp chí Ngôn ngữ (Viện ngôn ngữ học) từ 1995 đến nay (các tài liệu có trong Tài liệu
tham khảo).
2. Tài liệu về ngôn ngữ báo chí
Cho đến nay, những tài liệu chuyên về ngôn ngữ báo chí chưa nhiều, vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề này,
chúng tôi còn tiếp cận với những cuốn sách viết về tác phẩm báo chí hoặc vềnhững vấn đề chung của
báo chí. Đó chẳng hạn là các cuốn:
Nghệ thuật thông tin của Line Ross [117]; Cẩm nang MediaNet của Thomson Foundation, Bristish
council [155]; Hướng dẫn cách viết báo của Jean Luc, Martin Lagardette [92]; Tường thuật và viết tin,
sổ tay những điều cơ bản của Peter Eng, Jeff Hodson [61]; Bước vào nghề báocủa Leonard Ray Teel,
Ron Taylor [128]; Cách viết một bài báo của Arnold Hoffmann, Karel Storkan [78]; Nghệ thuật phỏng
vấn các nhà lãnh đạo của Samy Cohen [30]; Kỹ năng phỏng vấn dành cho các nhà báo của Sally
Adams, Wynford Hicks [1]; Hướng dẫn cách biên tập của Michel Voriol [146] v.v.
Trong mỗi cuốn sách, các tác giả dành từ vài trang đến hơn chục trang để nêu cách thức sử dụng từ ngữ.
Chẳng hạn: dùng từ phải ngắn gọn, một ý duy nhất trong một câu, chính xác, đơn giản, rõ ràng, dễ
hiểu, phong phú, hấp dẫn; về cú pháp, dùng những câu ngắn, một thông tin một câu, dùng cấu trúc
đơn giản, dùng thì hiện tại, dùng cách nói thông dụng hàng ngày…
Ở một bình diện khác, bình diện nghệ thuật diễn ngôn, Dale Carnegie trong cuốn Nghệ thuật nói trước
công chúng [23] dù không bàn trực tiếp đến cách nói cho phát thanh hay truyền hình, nhưng tác giả cũng
nhấn mạnh, muốn thu hút được người nghe, người nói cần thường xuyên thay đổi âm lượng của
giọng, tốc độ, cường độ lời nói, và không quên dừng lại một chút trước và sau những ý quan trọng.
Cũng bàn về nghệ thuật diễn thuyết, trong cuốn 10 bí quyết thành công của những diễn giả, MC tài
năng nhất thế giới [63], Carmine Gallo nhấn mạnh: vấn đề không phải là giọng nói, mà là cách nói. Vì
vậy, người nói cần chú ý đến kỹ thuật trình bày. Chẳng hạn, cần tạo giọng điệu riêng, điều chỉnh tốc độ;
dừng để tạo ấn tượng; nhấn mạnh những từ khóa, phát âm rõ ràng.
Ở Việt Nam, đề tài về ngôn ngữ báo chí nói chung, hoặc ngôn ngữ báo in, ngôn ngữ báo truyền hình, ngôn
ngữ trong các thể loại cụ thể đã được các nhà nghiên cứu báo chí ít nhiều đề cập. Chẳng hạn:
Cuốn Ngôn ngữ báo chí của tác giả Vũ Quang Hào [68], chúng tôi quan tâm đến những quan điểm
về chuẩn mực ngôn ngữ báo chí và chệch chuẩn trong ngôn ngữ báo chí. Khi bàn về chức năng của

phong cách chính luận, phong cách ngôn ngữ khoa học, phong cách ngôn ngữ hành chính, tác giả cũng
trình bày đặc điểm sử dụng từ ngữ, ngữ pháp và cách diễn đạt cho từng phong cách cụ thể. Chẳng hạn,
trong phong cách chính luận, tác giả cho rằng, đặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ ngữ
chính trị; trong một số văn bản chính luận, người ta có thể sử dụng những đơn vị từ vựng khẩu ngữ
mang sắc thái biểu cảm, sử dụng thành ngữ, tục ngữ, ngạn ngữ. Bằng việc trình bày ngôn ngữ tên
riêng trên báo chí; ngôn ngữ của thuật ngữ khoa học, danh pháp khoa học, ký hiệu khoa học, chữ
tắt và số liệu trên báo chí; ngôn ngữ thông tin phi văn tự và ngôn ngữ ma- két của báo chí…, tác giả
đã phân tích mặt hạn chế của nhà báo trong sử dụng các loại ngôn ngữ nêu trên, đồng thời, đưa ra
khuyến nghị về cách sử dụng chúng. Đây cũng là những gợi ý bổ ích cho chúng tôi khi tìm hiểu về cách
sử dụng ngôn từ trong lời nói phát thanh.
Trong bài báo Một thảo luận về song giọng hay đa giọng trong phát thanh hiện đại [67], tác giả Vũ
Quang Hào đã bước đầu thảo luận về ưu và nhược điểm của việc sử dụng song giọng hay đa giọng trong
phát thanh hiện đại.
Tác giả Nguyễn Tri Niên trong cuốn Ngôn ngữ báo chí [107] cho rằng, ngôn ngữ báo chí có đặc
điểm: ngôn ngữ sự kiện, ngôn ngữ định lượng, ngôn ngữ của độ không xác định. Đồng thời, ông
cũng phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa ngôn ngữ báo viết, ngôn ngữ báo phát thanh và ngôn ngữ báo
truyền hình.
Cuốn Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí [4] của TS. Hoàng Anh tập trung bàn về:đặc điểm
của ngôn ngữ báo chí; sự kết hợp khuôn mẫu và biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí; cách thức tạo
giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí; sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí;
ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả…Về giải pháp để tăng tính biểu cảm trong ngôn ngữ báo chí,
tác giả đã đề xuất sử dụng ngôn ngữ hội thoại; dùng từ vay mượn từ tiếng nước ngoài; dùng thuật
ngữ; dùng từ địa phương; sử dụng chất liệu văn học; sử dụng thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn; chơi
chữ; dùng ẩn dụ, lỗi nói dựa, trích dẫn…
Cũng tác giả Hoàng Anh, trong cuốn Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại
chúng [8], cũng nêu những vấn đề đáng quan tâm về ngôn ngữ của người dẫn chương trình trò chơi trên
truyền hình, cách sử dụng từ viết tắt, sử dụng số liệu trong ngôn ngữ báo chí.
Tác giả Nguyễn Đức Dân trong Ngôn ngữ báo chí, những vấn đề cơ bản [35] xác định đặc điểm ngôn
ngữ báo chí là tính chính xác, tính ngắn gọn, tính hấp dẫn. Đáng chú ý, ông khẳng định, phong cách
ngôn ngữ báo chí thuộc một thể loại phong cách riêng: phong cách ngôn ngữ truyền thông đại

chúng. Từ quan điểm ấy, ông đã đi sâu phân tích cách sử dụng từ vựng, cách đặt câu, cách đặt tít, cách
sử dụng con số, sử dụng dấu câu, từ tiếng nước ngoài… dưới góc độ của ngôn ngữ truyền thông một
cách chi tiết, xác đáng.
Trong cuốn Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí [14], tác giả Nguyễn Trọng Báu đã dành hẳn 5 chương
trong phần 2 của cuốn sách để trình bày phương pháp biên tập báo chí ở cấp độ từ; cấp độ cụm từ và
câu; cấp độ chỉnh thể liên câu và đoạn văn; cấp độ toàn bản thảo.
Ở một bình diện khác - đi sâu về dạng thức nói trên truyền hình, tác giả Nguyễn Thế Kỷ trong luận án
Tiến sĩ Dạng thức nói trên truyền hình [86] đã trình bày hệ thống khái niệm về dạng thức nói trên
truyền hình; các nhân tố của hoạt động giao tiếp dưới dạng thức nói trên truyền hình (người giao
tiếp; bối cảnh giao tiếp); các hành vi lời nói trên truyền hình (chào, mời, cảm ơn, xin lỗi, hô
gọi ). Tác giả cũng đã có khảo sát chung về việc sử dụng các phương tiện từ vựng trong lời nói truyền
hình. Chẳng hạn, về cách sử dụng các từ mang tính toàn dân, THVPC; các từ được ĐDVPC (từ mang
nét nghĩa mới, từ ghép mới, từ mượn, thành ngữ). Đồng thời, tác giả còn chỉ ra một số lỗi của người
nói khi dùng từ trên truyền hình, như lỗi khi dùng từ Hán-Việt, lỗi khi xưng gọi, lỗi dùng từ sai…
Đặc biệt, tác giả đã nêu và phân tích về phương thức thể hiện lời trên truyền hình, là phương thức đọc
kết hợp với nói và phương thức nói (khẩu ngữ). Trong khi trình bày phương thức nói,Nguyễn Thế Kỷ
đồng thời nêu và phân tích việc sử dụng các phương tiện ngữ âm (cao độ, độ vang, trường độ, thanh
điệu, trọng âm, nhịp điệu, chỗ ngừng nghỉ, tốc độ…), các phương tiện từ vựng, ngữ pháp…
Ngoài những tài liệu trên, còn phải kể đến hàng chục cuốn sách nghiên cứu về thể loại báo chícủa các
tác giả khác, dù không đề cập trực tiếp đến những vấn đề của ngôn ngữ báo chí, nhưng trong khi nêu
phương pháp sáng tạo thể loại, thấp thoáng trong đó, các tác giả cũng đưa ra một số lời khuyên về cách
dùng từ, đặt câu… Chẳng hạn các cuốn:
Viết báo như thế nào? [37] và Sáng tạo tác phẩm báo chí [38] của tác giả Đức Dũng; Tác phẩm báo
chí tập 2 do PGS,TS Nguyễn Văn Dững chủ biên [42]; Thể loại báo chí của nhiều tác giả ở ĐH Khoa học
xã hội và Nhân văn [104]; Phóng sự báo chí của các tác giả ở Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa
Phát thanh – Truyền hình [109]…
Như vậy, những tài liệu tham khảo về ngôn ngữ báo chí tuy chưa nhiều, nhưng đều là những tư liệu quý.
Trong một chừng mực, có thể khẳng định, tuy sử dụng thuật ngữ ngôn ngữ báo chí, nhưng những vấn
đề mà các tác giả đề cập, bàn bạc đều là những vấn đề của lời nói báo chí. Và như vậy, đây là những tư
liệu cho chúng tôi “tựa” vào để triển khai các luận điểm phù hợp trong luận án.

3. Tài liệu về ngôn ngữ báo phát thanh
Bên cạnh đề tài về ngôn ngữ báo chí, trên thế giới và ở Việt Nam, đề tài về ngôn ngữ phát thanh cũng đã
bước đầu được nghiên cứu. Chúng tôi chú ý đến những khía cạnh nội dung trong các cuốn sách như sau:
Cuốn Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh [103] là tập hợp rất nhiều nội dung về báo phát
thanh, từ khái niệm, đặc trưng báo phát thanh, nguyên tắc viết cho phát thanh, tốc độ và thời lượng
cho một văn bản phát thanh, đến những vấn đề kỹ thuật phát thanh và một vài thể loại cơ bản của
báo phát thanh. Trong phần viết về Truyền thông, tác giả Phil Charley dành gần 3 trang bàn về truyền
thông bằng lời nói, cách dùng từ và cụm từ. Tác giả nhấn mạnh, phong cách phát thanh được ưa
chuộng hiện nay là “giao tiếp trên sóng”, người nói phải thật tự nhiên, thoải mái, tự tin về những
điều đang nói, giọng ấm áp, chân thành như đang nói chuyện với người bạn thân, đặc biệt, giọng
không bao giờ được buồn chán; và, khi viết cho phát thanh, bạn thích nghe thế nào thì hãy viết thế,
viết cho tai nghe, bất kể viết gì, hãy thử lại bằng cách đọc to lên Tuy nhiên, những vấn đề về giao
tiếp bằng lời nói, cách sử dụng từ ngữ, cách đọc, nói cho phát thanh cũng mới dừng lại ở cấp độ chung
nhất, khái quát nhất.
Michel Keye và Andrew Popperwel trong cuốn Nghề phát thanh (Making Radio) [46] cũng đề cập sơ
lược cách diễn đạt lời nói phát thanh trong mục Tài ăn nói- viết cho phát thanh hay Âm nhạc của
miệng- nghệ thuật trình bày. Chẳng hạn: hãy nói trước khi viết; tiếng lóng, những từ phù du chóng
tàn, những lời rập khuôn sáo rỗng đều có trong văn nói, nhưng cũng có những quy định mà người
làm báo phải kiêng kỵ tuyệt đối. Người nói cho phát thanh phải biết cách sử dụng nghệ thuật trình
bày: sự ấm áp, tính quyền uy, tính nhạc điệu, chú ý tốc độ, cách phát âm… Tuy vậy, cũng như
cuốn Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh, sách đề cập đến nhiều vấn đề của phát thanh nên
những vấn đề về sử dụng từ ngữ, cách đọc nói chưa chuyên sâu hoặc chưa có hệ thống.
Trong cuốn Cẩm nang báo chí phát thanh “Sau đây là bản tin chi tiết” (Now the news in detail)
[97], bên cạnh việc trình bày các vấn đề chung của phát thanh, tác giả cũng dành 29/310 trang cho vấn đề
sử dụng từ ngữ cho phát thanh Tác giả đã đưa ra khuyến nghị: hãy viết như khi bạn nói; hãy viết cô
đọng nhưng đừng ngắn quá; hãy viết bằng giọng văn của mình; sử dụng ngôn ngữ rõ ràng và câu
đơn giản; đừng đưa quá nhiều sự kiện vào một câu; hãy viết câu mở đầu cho hấp dẫn; hãy viết như
văn nói; đừng quá trau chuốt; sử dụng thì hiện tại và thể chủ động; hãy viết rõ tất cả các từ, các con
số, các chữ cái viết tắt để thuận cho người đọc
Cuốn The BBC News Styleguides (Hướng dẫn cách viết tin cho đài BBC) [150] đã nêu một số gợi ý về

cách viết cho phát thanh về mặt sử dụng từ ngữ, diễn đạt câu, cách đọc, nói. Chẳng hạn, các tác giả
nêu cách sử dụng từ tuyệt đối, sử dụng thành ngữ, thuật ngữ, từ thịnh hành, con số và các công cụ
đo trên phát thanh Ngoài ra, các tác giả còn nêu nguyên tắc viết cho phát thanh: phải biết mình định
nói gì; hãy đọc to lên những điều được viết; chìa khoá để viết tốt là nghĩ đơn giản, diễn đạt đơn
giản; cấu trúc ngữ pháp được sử dụng mọi lúc là: Chủ ngữ - động từ- tân ngữ; luôn luôn nói “ai”
trước khi thông báo họ “đã nói gì, đã làm gì”…
Các tác giả cuốn Handbook for the URN Advanced Radio Journalism Course in Political reporting
(Cẩm nang viết tin dành cho các nhà báo phát thanh của URN) [153] cũng dành 5 trang của chương 4
để nói về cách viết cho phát thanh, cách luyện giọng và cách sử dụng giọng cho phát thanh. Về cách
viết, các tác giả nêu nguyên tắc: Viết như khi bạn nói, sử dụng câu đơn giản; câu không cần phải theo
đúng ngữ pháp; sử dụng từ ngắn như khi chúng ta nói; sử dụng thì hiện tại ở bất cứ chỗ nào có
thể; hạn chế sử dụng đại từ, phó từ, tính từ… Về phương thức đọc, nói, các tác giả cho rằng, cần đọc
nhiệt tình; biết sử dụng các yếu tố nhịp điệu, điểm nhấn, cảm xúc, phát âm, sự lên xuống giọng, sự
im lặng…
Chủ yếu tập trung bàn về kỹ năng sáng tạo cơ bản trong một số thể loại báo chí phát thanh, nhưng trong
các cuốn Manual for Radio Journalist (Tài liệu cho nhà báo phát thanh) [154], Writing for Radio (Viết
cho phát thanh) [156], các tác giả cũng ít nhiều nêu nguyên tắc viết cho phát thanh. Những nguyên tắc
này tương đối giống nhau. Chẳng hạn, họ yêu cầu viết cho phát thanh phải viết câu ngắn, viết đơn giản,
dễ hiểu, chú ý nhắc lại những chi tiết quan trọng, cấu trúc bài viết đơn giản, mở đầu hấp dẫn, chú ý
sử dụng tiếng động và âm nhạc hỗ trợ cho tác phẩm
Là một trong số rất ít sách viết về cách thức đọc, nói, cuốn 261 phương pháp đào tạo phát thanh viên
và người dẫn chương trình [53] được coi là tài liệu quý về cách thể hiện lời nói trên sóng phát thanh.
Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày ngắn gọn về cách lấy hơi, giữ hơi, luyện âm, biện pháp ổn
định tâm lý trước khi dẫn chương trình, cách vận dụng các yếu tố ngữ điệu. Riêng về cách sử dụng
các yếu tố thuộc ngữ điệu lời nói, mặc dù không có những nghiên cứu trực tiếp, cụ thể, nhưng tác giả
cũng đã nêu một số yêu cầu về cách diễn đạt trọng âm, cách ngừng ngắt, cách tạo tiết tấu Tác giả
cho rằng, trọng âm là chỗ đỉnh cao của ngữ điệu, nhà báo có thể thể hiện trọng âm bằng cách lên giọng,
dùng âm lượng mạnh hơn, kéo dài âm chữ. Cách ngừng ngắt cũng rất quan trọng vì ngừng ngắt khác
nhau sẽ dẫn đến ý nghĩa thông tin khác nhau, do đó, cần tạo thời gian ngừng ngắt phù hợp. Còn tiết tấu
chính là sự thay đổi cao thấp, nặng nhẹ, nhanh chậm của giọng đọc, nói. Tuy nhiên, những luận điểm

trong cuốn sách được tác giả trình bày khá chung chung, có những chỗ mang tính học thuật cao, người
đọc khó tiếp thu. Mặt khác, lý thuyết đó xuất phát từ thực tiễn báo chí ở Trung Quốc, nơi mà cách phân
loại thể loại, quan điểm sáng tạo có những điểm khác Việt Nam, nên khi áp dụng vào hoạt động phát thanh
Việt Nam, cũng cần phải xem xét, chọn lọc lại một cách kỹ lưỡng.
Trong cuốn Nghệ thuật ngôn ngữ của người dẫn chương trình [144], tác giả Ngô Úc nhấn mạnh đến
khía cạnh thể hiện ngôn ngữ của người dẫn chương trình, cả cho phát thanh và cho truyền hình. Tác
giả khẳng định, ngôn ngữ của người dẫn chương trình rất quan trọng. Người dẫn chương trình không chỉ
phải sử dụng hệ thống ngữ âm- từ vựng- ngữ pháp của đại chúng, mà còn phải sử dụng phong cách
“khẩu ngữ hoá”, “thể hiện rõ ràng mạch lạc, sinh động về ngôn từ”, âm thanh phải đẹp, phương
pháp nói luôn đổi mới được đại chúng yêu thích, tiếp thu. Tuy nhiên, cũng như cuốn 261 phương
pháp đào tạo phát thanh viên và người dẫn chương trình, nội dung cuốn sách nặng tính học thuật nên
người đọc khó tiếp thu.
Tác giả V.V. Xmirnôp trong cuốn Các thể loại báo chí phát thanh [148] cũng nhấn mạnh tầm quan trọng
của lời nói phát thanh. Ông khẳng định, trong phát thanh, điều có ý nghĩa quan trọng không chỉ là nói gì,
mà còn là nói như thế nào, do vậy, ngữ điệu là phương tiện chính yếu tạo ra tính đặc thù của lời nói;
hơn nữa, ngữ điệu không chỉ chuyển tải trạng thái cảm xúc của người nói, mà còn chứa đựng một
lượng đáng kể về nội dung, ý nghĩa. Tuy nhiên, do cuốn sách tập trung vào việc trình bày các thể loại
phát thanh, nên tác giả không có những phân tích, bàn luận sâu về lời nói ở các khía cạnh sử dụng ngôn
từ, khía cạnh đọc, nói.
Cuốn Cẩm nang hướng dẫn phát thanh trực tiếp [51] cũng đã nêu một vài lời khuyên về sử dụng ngôn
ngữ phát thanh nói chung và ngôn ngữ cho người dẫn chương trình trực tiếp nói riêng. Chẳng hạn, các
tác giả nêu yêu cầu: viết ngắn gọn, dễ hiểu, từ rõ nghĩa, dùng câu ngắn, không diễn đạt vòng vo,
dùng từ giàu hình ảnh, làm tròn số, dùng từ phù hợp với từng đối tượng thính giả. Các tác giả cũng
đưa ra một số lời khuyên đối với phát thanh viên như: nhấn âm chính xác, ngắt hơi chuẩn xác, chuẩn
bị trước văn bản bằng các ký hiệu hỗ trợ việc đọc; ngữ điệu phải tự nhiên, cách phát âm phải rành
mạch, tốc độ nói phải phù hợp với từng thể loại, từng nội dung thông tin. Các tác giả cũng đề cao vai
trò của việc nhấn âm, ngừng nghỉ, sự khác biệt về độ cao thấp của giọng, tốc độ, âm lượng trong thể hiện
lời nói trên sóng.
Trong cuốn Phát thanh - Truyền thanh địa phương nông thôn [47], ngoài những nội dung hướng dẫn
sản xuất chương trình phát thanh cho đối tượng nông thôn, cũng có 2 trang viết về yêu cầu đối với hoạt

động dẫn chuyện trên sóng phát thanh- truyền thanh. Chẳng hạn, các tác giả đưa ra yêu cầu: nói một
cách vững tâm; nói tự nhiên; bình tĩnh và nghiêm túc; diễn đạt đơn giản; dùng từ đúng nghĩa, đúng
chỗ; tránh những khoảng lặng không cần thiết…
Ngoài ra, trong một vài tài liệu khác, khi đề hướng dẫn phương thức sáng tạo các thể loại báo phát thanh,
các tác giả cũng có đề cập chung nhất về ngôn từ của các thể loại đó. Tác giả Bernard Chenuaud, Guy
Riboreau trong cuốn Kỹ thuật phỏng vấn và Bàn tròn phát thanh [27] nêu yêu cầu về cách viết và thể
hiện lời nói trong các cuộc phỏng vấn và bàn tròn phát thanh.
Tại Việt Nam, có thể nói, công trình đầu tiên nghiên cứu về ngôn ngữ phát thanh là Ngôn ngữ đài phát
thanh của PGS. Nguyễn Đức Tồn (dẫn theo tác giả Vũ Quang Hào trong cuốn Ngôn ngữ báo chí). Tuy
nhiên, do tài liệu này được lưu hành từ hàng chục năm trước, nên đến nay, chúng tôi không có cơ hội
được tiếp cận. Tài liệu của Nguyễn Đức Tồn mà chúng tôi được tiếp cận là bài viết: “Hoạt động ngôn
ngữ phát thanh và truyền hình từ cách nhìn của tâm lý ngôn ngữ học”[139].
Trong bài viết, tác giả Nguyễn Đức Tồn nghiên cứu hoạt động ngôn ngữ phát thanh, truyền hình, tức là
nghiên cứu về giao tiếp lời nói. Ông khẳng định: Giao tiếp đại chúng như phát thanh, truyền hình là sự
giao tiếp gián cách, người phát không nhìn thấy người nhận, các phương tiện giao tiếp kèm ngôn
ngữ hầu như bị tước bỏ. Về mặt sử dụng lời nói, ông khẳng định: ngôn ngữ phát thanh, truyền hình là
dạng ngôn ngữ viết, với lớp phương tiện ngôn ngữ được sử dụng là thứ ngôn ngữ văn học. Ông dẫn
ý của A.Jedlicka cho rằng, phương tiện từ ngữ cho ngôn ngữ văn học là các từ THVPC, các từ được
ĐDVPC, trong đó bao gồm cả những từ ngữ thuộc KN văn học và các từ ngữ mang tính chất sách
vở - ngôn ngữ viết.
Cuốn Nghề báo nói của Nguyễn Đình Lương [94] trong chừng mực nào đó đã đề cập đến ngôn ngữ phát
thanh. Chẳng hạn: ngôn ngữ phát thanh gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc; viết cho phát thanh là viết
cho tai nghe chứ không phải cho mắt đọc. Từ quan điểm đó, tác giả đã định hướng cách viết cho phát
thanh: ngắn gọn, cụ thể, chính xác, giàu hình ảnh, làm tròn con số…
Trong cuốn Ngôn ngữ báo chí của Vũ Quang Hào [68], tác giả dành một chương viết về Ngôn ngữ phát
thanh. Trong đó, tác giả cũng đề cập đến nhiều nội dung của ngôn ngữ phát thanh, như: đặc tính của
ngôn ngữ phát thanh, chuẩn mực của ngôn ngữ phát thanh, những yếu tố chi phối tính hiệu quả của
ngôn ngữ phát thanh. Đáng chú ý, tác giả khẳng định: ngôn ngữ phát thanh là một thứ ngôn ngữ kết
hợp phức tạp các chuẩn của cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, và, để tăng tính hiệu quả của ngôn
ngữ phát thanh, không thể không tính đến các yếu tố nghệ thuật đọc hoặc nói; sự điều chỉnh cao độ,

cường độ và tốc độ của giọng đọc. Tác giả cũng lược khảo và nhận xét về ngôn ngữ của văn bản phát
thanh ở các khía cạnh: độ dài câu, cấu trúc câu, vấn đề âm hưởng trong văn bản phát thanh, vấn đề
dùng chữ tắt, danh pháp, số liệu, ký hiệu trong văn bản phát thanh
Trong đề tài Khoa học: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trên Đài Tiếng nói Việt Nam do TS. Hoàng
Anh làm chủ nhiệm [7], thực trạng sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt trên Đài TNVN được khảo sát cụ thể ở các
khía cạnh sử dụng từ ngữ, đặt câu, cấu trúc chương trình và tác phẩm, các nghi thức giao tiếp trên
Đài, lời dẫn trong chương trình, ngôn ngữ đối thoại… Tác giả nêu thành công trong việc dùng từ ngữ ở
Đài, như dùng từ dễ hiểu, phù hợp với đối tượng giao tiếp, đặt câu ngắn gọn, có cấu trúc đơn
giản; đồng thời, nêu những hạn chế về dùng từ ngữ, như:dùng từ sai, dùng thừa từ, thiếu từ, dùng từ
sai phong cách, dùng từ sai về quan hệ kết hợp, dùng câu thiếu chủ ngữ, vị ngữ, câu vi phạm quan
hệ kết hợp ngữ nghĩa giữa các thành tố nằm trong nội tại câu, câu quá dài, câu sai về phong cách…
Tác giả cũng đưa ra những nhận xét ban đầu về phương diện sử dụng ngữ âm của lời nói và những
khuyến nghị mang tính khả thi nhằm giúp giữ gìn sự trong sáng của lời nói tiếng Việt trên Đài TNVN.
Trong cuốn Báo phát thanh [108], ở chương 6, tác giả Hoàng Anh dành 12 trang đề cập đếnngôn ngữ
báo phát thanh. Trong đó, cùng với việc đưa ra những đặc điểm của ngôn ngữ báo phát thanh, tác giả
còn nêu một số gợi ý về việc sử dụng ngôn từ trong báo phát thanh như:tránh lạm dụng tiếng địa
phương; tránh lạm dụng việc vay mượn từ ngữ tiếng nước ngoài; cố gắng đọc hoặc nói trước Micro
thật diễn cảm; tránh dùng những câu văn có thể tạo nên nhiều cách hiểu; cần phải hết sức kiệm lời;
nên chú ý khai thác các biện pháp tu từ ngữ âm để ngôn ngữ phát thanh sinh động, hấp dẫn và có ý
nghĩa sâu sắc hơn.
Tác giả Đức Dũng trong cuốn Lý luận báo phát thanh [39] đã dành chương 3 để trình bày ngắn gọn
về nguyên tắc viết cho phát thanh. Theo tác giả, viết cho phát thanh nên tránh những từ dài, phức tạp,
sáo rỗng hay ít tính hội thoại; tốt nhất là viết theo cách thường nói, tốt hơn nữa là viết với ý thức
chính mình là người nghe; viết đơn giản, ngắn gọn; nóng hổi, thân mật; diễn đạt rõ ràng; hấp dẫn
ngay từ đầu… Tác giả cũng trình bày về nghệ thuật giao tiếp qua Radio của nhà báo là: nói với một
người; thân ái, nhiệt tình, hứng khởi. Ngoài ra là một vài chỉ dẫn về cách sử dụng giọng nói, sự chuẩn bị
của nhà báo trước khi lên sóng.
Trong cuốn Phát thanh trực tiếp [72], khi viết về những đặc điểm của phát thanh trực tiếp, các tác giả
cũng đã nêu yêu cầu đối với phóng viên – người dẫn chương trình trực tiếp là ưu tiên sử dụng đối
thoại và văn nói, khẩu ngữ. Đồng thời, các tác giả cũng có nêu qua về yêu cầu dùng từ, cách sử dụng

giọng điệu của người dẫn chương trình phát thanh trực tiếp.
Tác giả Đình Cao trong một vài bài viết về Ngôn ngữ dạng nói trên phát thanh truyền hình [20]; Ứng xử
lịch sự trong phỏng vấn và dẫn chương trình [21] ; Đôi điều góp bàn về ngôn ngữ báo phát
thanh [22]; tác giả Phạm Văn Tình trong bài viết Những vấn đề ngôn ngữ trên sóng phát thanh của Đài
TNVN [137]; tác giả Hoàng Trọng Đan, Vĩnh Trà, Hà Phương, Bích Đào, Hồng Nhung… trong các bài biết
trên tạp chí Nghiệp vụ phát thanh (Đài Tiếng nói Việt Nam) cũng đã có những ý kiến riêng về việc sử
dụng ngôn từ và cách dẫn dụ trên phát thanh. Dù những bài viết này mới dừng ở việc nêu ý kiến, kinh
nghiệm cá nhân, nhưng cũng là những tư liệu đáng kể cho việc nghiên cứu về lời nói trên báo phát thanh
Việt Nam hiện đại. Một số bài viết vềPhát thanh trực tiếp [56], Nghiệp vụ dẫn chương trình [57] của các
nhà báo Đài TNVN trong các Hội thảo Khoa học của Đài cũng đã nêu một vài kinh nghiệm về việc sử dụng
từ ngữ, sử dụng lối nói, lối dẫn trong các chương trình phát thanh trực tiếp.
Như vậy, có thể thấy, hầu hết sách đề cập đến các vấn đề của ngôn ngữ báo chí, ngôn ngữ báo phát
thanh (trừ một vài đề tài mang tính khảo cứu thực tiễn) thường dừng ở cấp độ lý luận, và là lý luận ở mức
chung nhất, khái quát nhất. Quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về nguyên tắc viết, nguyên tắc
dùng từ, đặt câu cho phát thanh, nguyên tắc đọc, nói trên sóng phát thanh là khá đồng nhất, có tính kế
thừa lẫn nhau. Tuy nhiên, chỉ có một vài tài liệu ít nhiều bước đầu đề cập đến việc sử dụng lời nói của
nhà báo phát thanh. Với các tài liệu nước ngoài, do được tổng kết từ thực tế của các nền báo chí khác
nhau, nên khi vào Việt Nam cũng chỉ có giá trị tham khảo ở một chừng mực nhất định.
Mặc dù vậy, những cuốn sách kể trên đã cung cấp cho chúng tôi những tri thức vô cùng quý giá, mở
đường, định hướng cho chúng tôi tiếp tục có hướng tìm tòi sâu hơn về lời nói trong báo phát thanh Việt
Nam hiện nay.
Trước khi thực hiện luận án, chúng tôi cũng đã có một số bài viết về vấn đề sử dụng ngôn từ của nhà báo
đăng tải trên các tạp chí: Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông (Học viện Báo chí và Tuyên truyền),
Tạp chí Phát thanh (Đài TNVN), Tạp chí Nghề báo TP Hồ Chí Minh. Chúng tôi cũng đã tham gia viết
phần nội dung về “Thực trạng chất lượng đọc, nói trên sóng phát thanh VOV1” trong đề tài Khoa học
cấp Nhà nước “Một số giải pháp nâng cao chất lượng chương trình Hệ VOV1 thông qua việc khảo
sát nhu cầu thính giả” do Th.s Lan Hương, Trưởng Ban Thư ký Biên tập và Thính giả, Đài TNVN làm chủ
nhiệm, nghiệm thu tháng 10/2009. Trong bài soạn giảng về Nhập môn báo phát thanh, Phỏng vấn phát
thanh, Đàm luận phát thanh của mình, chúng tôi cũng bước đầu tìm hiểu về cách sử dụng ngôn từ, cách
đọc, nói của nhà báo phát thanh. Những kiến thức tham khảo từ các nhà nghiên cứu, những tìm tòi của

bản thân sẽ là cơ sở cần thiết để chúng tôi đề xuất hệ thống lý thuyết về lời nói báo phát thanh, từ đó,
đánh giá được thực trạng sử dụng lời nói, đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực sử dụng lời nói
của nhà báo phát thanh Việt Nam hiện đại.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LỜI NÓI TRONG BÁO PHÁT THANH VIỆT NAM HIỆN NAY
Nghiên cứu về lời nói trong báo phát thanh là một vấn đề còn khá mới mẻ và phức tạp. Bởi vì, nó không
chỉ liên quan đến kiến thức báo phát thanh, mà còn liên quan chặt chẽ tới những vấn đề thuộc địa hạt
ngôn ngữ học. Vì vậy, để khảo sát, phân tích được thực trạng sử dụng lời nói trong báo phát thanh Việt
Nam hiện nay, đòi hỏi phải xác lập được hệ thống lý thuyết đúng đắn về lời nói báo phát thanh. Do đó,
chương 1 cần làm sáng tỏ các vấn đề:
- Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói
- Mối quan hệ giữa lời nói trong báo phát thanh và ngôn ngữ báo phát thanh
- Các thành tố của lời nói báo phát thanh và mối quan hệ giữa các thành tố đó
- Những yếu tố ảnh hưởng đến phương thức sáng tạo lời nói của nhà báo phát thanh hiện nay
- Yêu cầu đối với lời nói báo phát thanh hiện nay
1.1. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ, LỜI NÓI VÀ CÁC THÀNH TỐ CỦA LỜI NÓI
1.1.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói
Như chúng tôi đã trình bày trong phần Tổng quan nghiên cứu, các vấn đề về ngôn ngữ học đã được bàn
đến rất nhiều ở các tài liệu trong và ngoài nước. Khi thực hiện luận án, chúng tôi cũng đã có tham khảo
quan điểm của nhiều nhà ngôn ngữ học về ngôn ngữ, về lời nói, về các thành tố của lời nói cũng như mối
quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên, trong luận án, chúng tôi xin đi theo quan điểm của Ferdinand de Saussure
– nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ, người mà giới ngôn ngữ học châu Âu thường gọi là cha đẻ của ngôn ngữ
học hiện đại (dẫn theo lời của dịch giả Cao Xuân Hạo trong Giáo trình ngôn ngữ học đại
cương [118]). Ngoài ra, để đảm bảo độ sáng rõ hơn trong khi lĩnh hội các quan điểm của F.de Saussure,
chúng tôi cũng có mở rộng tham khảo quan điểm của một vài nhà ngôn ngữ học Việt Nam.
- Để hiểu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, trước hết, phải bắt đầu từ quan niệm về ngôn ngữ.
Trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, F.de Saussure chỉ ra:
Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu biểu hiện những ý niệm. Nó vừa là một sản phẩm xã hội của năng lực
ngôn ngữ, vừa là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu được tập thể xã hội chấp nhận, để cho phép

các cá nhân vận dụng năng lực này [118, tr.44].
Ông xác định rõ, ngôn ngữ không đồng nhất với hoạt động ngôn ngữ, nó chỉ là một bộ phận nhất định
của hoạt động ngôn ngữ, tuy là bộ phận cốt yếu. Ông nêu các đặc tính của ngôn ngữ như:
1) Nó là bộ phận xã hội của hoạt động ngôn ngữ, một cá nhân tự mình không thể sáng tạo ra ngôn ngữ
hay thay đổi nó đi. 2) Ngôn ngữ phân biệt được với lời nói. 3) Ngôn ngữ là một hệ thống dấu hiệu trong
đó, điều cốt yếu duy nhất là sự kết hợp giữa ý nghĩa với hình tượng âm. 4) Ngôn ngữ cũng là một đối
tượng có tính chất cụ thể không kém gì lời nói [118, tr.52-53].
Cùng với những quan điểm khác được trình bày trong Giáo trình của F.de Saussure, theo chúng tôi, có
thể hiểu một cách đơn giản về ngôn ngữ theo quan niệm của F.de Saussure rằng, ngôn ngữ là một hệ
thống dấu hiệu (hay quy ước) được tất cả mọi người trong xã hội chấp nhận, dùng làm phương tiện
để biểu đạt tư duy. Nó được tạo nên bởi sự kết hợp giữa tư duy và âm thanh. Ngôn ngữ tồn tại bên
ngoài cá nhân. Các cá nhân chỉ có thể vận dụng ngôn ngữ để biểu hiện ý niệm chứ không thể sáng
tạo ra ngôn ngữ hay thay đổi ngôn ngữ.
Dựa trên quan điểm của F.de Saussure, những nhà ngôn ngữ học Việt Nam đưa ra quan điểm về ngôn
ngữ một cách dễ hiểu hơn, chẳng hạn:
Ngôn ngữ là một trong những hệ thống kí hiệu độc đáo, là phương tiện cơ bản và quan trọng nhất của
việc giao tiếp giữa các thành viên trong cộng đồng người và cũng là phương tiện phát triển của tư duy,
truyền đạt các truyền thống văn hóa- lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác [149, tr. 153].
Hay: Ngôn ngữ là một hệ thống những đơn vị vật chất và những quy tắc hoạt động của chúng, dùng làm
công cụ giao tiếp của con người, được phản ánh trong ý thức của cộng đồng và trừu tượng hóa khỏi bất
kì một tư tưởng, cảm xúc và ước muốn cụ thể nào [29, tr.17].
Như vậy, theo các định nghĩa nêu trên, có thể hiểu một cách chung nhất, ngôn ngữ là một hệ
thống những âm, những từ được kết hợp với nhau theo những quy tắc nhất định, được cộng đồng
xã hội thừa nhận, dùng làm phương tiện thể hiện tư duy và giao tiếp giữa các thành viên trong cộng
đồng người đó. Ngoài ra, nó còn là phương tiện để truyền đạt các giá trị văn hoá - lịch sử từ thế hệ
này sang thế hệ khác.
- Trong Giáo trình, F.de Saussure không đưa ra định nghĩa hay khái niệm về lời nói, nhưng ông cho rằng:
Lời nói là một hành động cá nhân do ý chí và trí tuệ chi phối. Lời nói là cái tổng thể của những điều mà
người ta nói, và gồm có: a) những cách kết hợp của cá nhân, tùy theo ý của những người nói, b) những
hành động phát âm cũng tùy ý như vậy, cần thiết cho việc thực hiện những cách kết hợp này [118, tr.51,

60].
Theo ông, lời nói chính là hoạt động ngôn ngữ của từng cá nhân, là cách mà cá nhân vận dụng ngôn
ngữ để phục vụ cho mục đích thể hiện tư duy, giao tiếp. Luận điểm này sau đó đã được các nhà ngôn ngữ
học tiếp tục phát triển. Ở Việt Nam, có một vài cách định nghĩa rõ hơn về lời nói. Chẳng hạn:
Lời nói là chuỗi liên tục các tín hiệu ngôn ngữ được xây dựng nên theo các quy luật và chất liệu của ngôn
ngữ, ứng với nhu cầu biểu hiện những nội dung (tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, ý chí ) cụ thể [29, tr.17].
Như vậy, có thể quan niệm lời nói là sản phẩm của hoạt động nói năng của con người, nhằm mục
đích biểu hiện tư duy, giao tiếp, định hướng hành động. Chất liệu để tạo nên lời nói là ngôn ngữ.
Về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói, F.de Saussure cũng chỉ ra rằng:
Giữa ngôn ngữ và lời nói có sự gắn bó khăng khít với nhau và giả định lẫn nhau: ngôn ngữ là cần thiết
cho lời nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho
ngôn ngữ được xác lập. Chính lời nói làm cho ngôn ngữ biến hoá. Như vậy, có sự lệ thuộc lẫn nhau giữa
ngôn ngữ và lời nói; ngôn ngữ vừa là công cụ, vừa là sản phẩm của lời nói. Nhưng, ngôn ngữ và lời nói
vẫn là hai sự vật hoàn toàn tách biệt đối với nhau. Ngôn ngữ ( ) như một pho từ điển mà tất cả các bản in,
vốn giống hệt nhau, được phân phối cho từng cá nhân. Còn lời nói là cái tổng thể của những điều mà
người ta nói [118, tr.59].
Cũng phát triển theo quan điểm của F.De. Saussure, ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho rằng:
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp ở dạng khả năng tiềm tàng, còn lời nói là phương tiện giao tiếp ở dạng
hiện thực hoá, tức là ở dạng hoạt động, gắn liền với những nội dung cụ thể… Trong giao tiếp, người ta
chỉ tiếp xúc trực tiếp với các lời nói. Ngôn ngữ chính là hệ thống những yếu tố và nguyên tắc có giá trị
chung, làm cơ sở để cấu tạo lời nói. Ngôn ngữ được hiện thực hoá trong lời nói. Ngôn ngữ và lời nói
thống nhất nhưng không đồng nhất [64, tr 311-314].
Như vậy, có thể hiểu, lời nói chính là ngôn ngữ đang hành chức, ngôn ngữ ở dạng hoạt động.Lời nói
lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Không có ngôn ngữ thì không có lời nói, nhưng ngược lại, lời nói lại cần thiết
cho ngôn ngữ được xác lập và phát triển. Không có lời nói, ngôn ngữ sẽ bị diệt vong.
1.1.2. Các thành tố của lời nói
Các nhà ngôn ngữ học đã chứng minh, ba bộ phận cấu thành của một ngôn ngữ là từ vựng, ngữ âm
và ngữ pháp [64; tr.60]. Do lời nói là ngôn ngữ đang hành chức, lời nói là hoạt động ngôn ngữ, nên nó
cũng gồm 3 thành tố là ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Để hiểu rõ hơn về các thành tố này, chúng tôi xin
lược dẫn ý kiến của một số nhà ngôn ngữ học như sau:

1.1.2.1. Ngữ âm:
Theo các nhà ngôn ngữ học, ngữ âm là hệ thống các tín hiệu âm thanh được phát ra khi con người thực
hiện quá trình giao tiếp, vừa nhằm biểu đạt nội dung thông tin, vừa nhằm tạo sự biểu cảm của lời nói. Các
phương tiện ngữ âm gồm âm vị (các âm a, b, c); thanh điệu (thanh không dấu, thanh huyền, hỏi, sắc, ngã,
nặng), ngữ điệu (tập hợp của các yếu tố âm thanh: cao độ, trường độ, tốc độ, nhịp độ, cường độ) và các
yếu tố khác như âm sắc, cách phát âm
Trong giao tiếp bằng lời nói, ngữ điệu là một hiện tượng ngôn điệu ở bậc câu, được nhà báo vận dụng
một cách khéo léo nhằm biểu hiện chính xác, hấp dẫn nội dung thông tin và các sắc thái tình cảm khác
nhau. Ngữ điệu là phương tiện phân đoạn lời nói, đồng thời, nối liền các bộ phận của lời nói lại với nhau,
làm cho lời nói trở nên liền mạch. Nó giúp biểu đạt các sắc thái cảm xúc đa dạng, tinh tế của lời nói. Nhờ
ngữ điệu, một câu nói có thể có một vài ý nghĩa khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Chẳng hạn, tác giả
Đinh Trọng Lạc đưa dẫn chứng lời nói của một người mẹ nịnh con: “Con tôi dễ ghét quá!” thì chính nhờ
ngữ điệu mà có nghĩa là: “Con tôi dễ thương quá!” [88, tr.43].
Có thể hiểu đơn giản nhất về các thành tố của ngữ điệu như sau:
- Cao độ: Cao độ là độ cao, thấp của giọng nói, hay là sự lên giọng, xuống giọng, là âm vực của giọng
nói, giọng đọc. Đơn vị của cao độ là Héc (Hertz –viết tắt là Hz). Các nhà ngôn ngữ học chỉ ra, cao độ tiếng
Việt phần nào chịu ảnh hưởng bởi thanh điệu. Các thanh ngang, ngã, sắc làcao; huyền, hỏi,
nặng là thấp. Vì thế, thông thường, khi đọc những tiếng có dấu thanh này, tùy từng dấu mà lời nói có cao
độ cao, trung bình, hay thấp. Tuy nhiên, trong nhiều tình huống, cao độ lời nói lại chịu sự chi phối của
ý nghĩa lời nói hơn là dấu thanh điệu. Chẳng hạn:
Ở trạng thái tĩnh, thanh ngã cao hơn thanh sắc, nhưng ở câu “Sinh viên mới (không cũ) học ngôn ngữ
học”, thì đồ thị thực nghiệm cho thấy, tiếng “mới” có âm vực cao gấp rưỡi tiếng“ngữ” [130, tr.46].
- Cường độ: Cường độ được hiểu là độ mạnh, yếu hay to, nhỏ của các tiếng được phát ra trong lời nói.
Trong phát thanh, có thể dùng thuật ngữ âm lượng để biểu thị độ to, nhỏ của giọng nói. Đơn vị đo cường
độ là đê-xi-ben (decibel- viết tắt là dB). Cường độ là yếu tố tồn tại tất yếu trong các câu (phát ngôn). Ở
những từ là trọng âm trong câu, thường người đọc phải dùng thủ pháp nhấn mạnh âm lượng, hoặc dùng
biện pháp kéo dài tiếng, hạ tiếng Tất nhiên, không ít người khi phát âm, các tiếng được phát ra với âm
lượng to hay nhỏ đều như nhau. Trong trường hợp đó, ý nghĩa lời nói chắc chắn không được biểu đạt
trọn vẹn.
- Trường độ: Trường độ là độ dài, ngắn nằm trong các tiếng của lời nói. Đơn vị đo trường độ các tiếng

là ms, là đơn vị đo độ dài trong hệ mét, tính trên khoảng thời gian là giây (milli-seconds).
- Tốc độ: Tốc độ là độ nhanh, chậm của dòng lời nói được phát ra trong cùng một đơn vị thời gian. Giữa
trường độ và tốc độ có quan hệ phụ thuộc. Nếu trường độ các tiếng trong câu càng ngắn, thì tốc độ lời
nói càng nhanh; ngược lại, nếu trường độ các tiếng trong câu càng dài, thì tốc độ lời nói càng chậm.
- Nhịp độ:
Nhịp độ được hiểu là diễn biến của các âm đoạn trên trục thời gian theo cách chúng bị ngắt quãng (cách
quãng, đứt đoạn, gián đoạn ) hay liền mạch (liên tục, không đổi, không nghỉ) [130, tr.56].
Thông thường, trên văn bản viết, điểm ngắt quãng được biểu hiện bằng dấu chấm, dấu phẩy, dấu hai
chấm, dấu chấm than, dấu chấm hỏi , thì trong giọng đọc, nói, điểm ngắt quãng được thể hiện bằng tín
hiệu ngừng ngắn, ngừng dài. Nếu trên văn bản, việc đặt sai hoặc dùng thiếu dấu chấm, dấu phẩy có thể
làm câu văn bị biến đổi nghĩa thì trong việc đọc, nói, tình hình cũng tương tự như vậy.
Chẳng hạn, với câu: Học sinh học với cô giáo Trang, nếu ngắt là: Học/ sinh học với cô giáo Trangthì ý
nghĩa là: học môn sinh học với cô giáo Trang, nhưng nếu ngắt là Học sinh/ học với cô giáo Trang thì
không phải là học môn sinh học nữa, mà mục đích thông báo được chuyển đổi, nhấn mạnh hoạt
động học, hoặc chủ thể dạy học: cô giáo Trang.
Trong phát thanh, ngữ điệu đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sáng tạo lời nói của nhà báo. Ngoài
những vai trò đã nêu trên, theo chúng tôi, trong phát thanh, ngữ điệu còn có tác dụng giúp phân biệt các
khúc đoạn nội dung trong tác phẩm; giúp thính giả nhận biết sự kết thúc hoặc chưa kết thúc câu,
đoạn, bài
- Âm sắc:
Đó là đặc trưng riêng của mỗi âm tạo nên sự khác biệt giữa âm này với âm khác. Bản chất của đặc trưng
riêng đó là, mỗi tiếng thanh có một tần số cơ bản và tần số hài. Các tần số này kết hợp với nhau theo một
quy luật tạo nên phức sóng. Các phức sóng này đã tạo nên sắc thái riêng của mỗi sóng thanh [30, tr.70].
Như vậy, âm sắc là chất giọng riêng của mỗi người. Trên phát thanh, nghe chất giọng (giọng nói) đôi ba
lần, thính giả có thể nhận ra ngay ai đang nói mặc dù không nhìn thấy mặt người nói.
1.1.2.2. Từ vựng
Từ vựng là toàn bộ các từ, cụm từ cố định của một ngôn ngữ, là vật liệu xây dựng nên ngôn ngữ và lời
nói. Trong luận án, khi tìm hiểu về phương diện sử dụng từ vựng của lời nói, chúng tôi tiếp cận tìm hiểu
về các lớp từ.
Có thể thấy, hệ thống từ vựng tiếng Việt được tạo thành từ nhiều lớp từ khác nhau. Theo các tác giả

Nguyễn Thiện Giáp, Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết [64] và Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng
Trọng Phiến [29], nếu căn cứ vào phạm vi sử dụng của các từ, có thể chia ra lớp từ vựng toàn dân (lớp
từ vựng chung) và lớp từ vựng hạn chế về mặt xã hội và lãnh thổ(gồm từ địa phương, tiếng lóng, từ
nghề nghiệp, thuật ngữ khoa học). Căn cứ vào vai trò của các từ trong quá trình giao tiếp, người ta chia
ra từ vựng tích cực và từ vựng tiêu cực. Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, người ta chia từ vựng
thành hai lớp: từ bản ngữ và từ ngoại lai.
Ngoài ra, các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến còn dựa trên tiêu chívề phong
cách chức năng của lời nói để phân ra lớp từ KN, lớp từ ngữ thuộc PCV, lớp từ ngữ THVPC [29, tr. 232].
Đây cũng là cách phân loại và cách phân chia các lớp từ mà luận án tiếp cận nghiên cứu, khảo sát.
- Lớp từ thuộc phong cách viết: Là những từ ngữ chỉ chủ yếu dùng trong các sách vở, báo chí. Đó là
những từ được chọn lọc, được trau dồi, được “văn hóa hóa” và gắn bó với chuẩn tắc nghiêm ngặt. Lớp
từ này chủ yếu gồm các thuật ngữ khoa học, các từ ngữ chuyên môn hoá của các lĩnh vực: văn hoá, văn
học nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, chính trị, quân sự, hành chính, pháp luật, triết học, kinh tế Phần
nhiều, đó là các từ gốc Hán và gốc Ấn -Âu được du nhập, đem lại sắc thái trang trọng và tính bác học.
Trong nhiều trường hợp, đó còn là những từ mang tính khái quát, trừu tượng hoặc gợi cảm, hình tượng
- Lớp từ khẩu ngữ:
là những từ đặc biệt thích hợp và hay được dùng trong lời nói hội thoại trong giao tiếp sinh hoạt hàng
ngày. Chúng thường có cách cấu tạo đặc biệt, có nội dung ngữ nghĩa cụ thể và giá trị biểu cảm cao, mang
đậm dấu vết chủ quan của người nói [99, tr.66].
Như vậy, lớp từ KN bao gồm những từ ngữ mà người dân nói năng hàng ngày. Ví dụ, đó là các thành ngữ,
quán ngữ, tục ngữ, các cụm từ mang tính dân giã, các từ ngữ cảm thán, từ ngữ có sắc thái nghĩa mới,
nghĩa ngữ cảnh…
- Lớp từ trung hòa về phong cách: Trừ lớp từ KN và lớp từ vựng thuộc PCV, số còn lại (chiếm phần cơ
bản trong từ vựng nói chung) được gọi là lớp từ vựng THVPC. Các từ ngữ ở lớp từ trung hòa không có
những dấu hiệu riêng như dấu hiệu của hai lớp từ KN và lớp từ thuộc PCV. Lớp từ THVPC có thể được
dùng trong tất cả các phong cách chức năng khác nhau: trong phong cách hành chính, phong cách khoa
học, phong cách báo chí, phong cách chính luận, phong cách sinh hoạt hàng ngày.
Như vậy, từ THVPC được người dân quen biết, cùng sử dụng, nên lớp từ này cũng mang tính toàn dân.
Chính từ đặc điểm này, trong lĩnh vực báo chí, Nguyễn Thế Kỷ còn sử dụng thuật ngữ: Các từ mang tính
toàn dân THVPC [86, tr.143].

- Trong phát thanh, xét từ chức năng, nhiệm vụ của báo chí và phong cách sử dụng từ vựng của nhà
báo, cũng có thể gọi tên 3 lớp từ như trong ngôn ngữ học: lớp từ KN , lớp từ thuộc PCV vàlớp
từ THVPC. Ngoài ra, chúng tôi sẽ khảo sát thêm lớp từ được ĐDVPC (theo cách dùng từ của Nguyễn Thế
Kỷ [86, tr.143]).
Khảo sát cho thấy, lớp từ được ĐDVPC nằm hòa lẫn trong lớp từ KN, lớp từ thuộc PCV, lớp từ THVPC.
Đây là lớp từ ghi dấu ấn sáng tạo về mặt ngôn từ của nhà báo phát thanh: mới lạ, độc đáo, giàu hình ảnh,
gây ấn tượng. Những từ này xuất hiện là nhờ “nghệ thuật ngôn từ” của nhà báo. Nếu những từ ngữ này
được nhà báo sử dụng thường xuyên, hợp lý trong tác phẩm, có thể tạo nên phong cách tác giả.
1.1.2.3. Ngữ pháp
Ngữ pháp là toàn bộ các quy tắc biến đổi và kết hợp từ thành cụm từ, câu. Khi nghiên cứu về phương
diện sử dụng ngữ pháp của ngôn ngữ, của lời nói, các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu ở nhiều bình diện: ý
nghĩa ngữ pháp; phương thức ngữ pháp; phạm trù từ vựng, ngữ pháp; quan hệ ngữ pháp; đơn vị ngữ
pháp. Tuy nhiên, những người không chuyên về ngôn ngữ có thể hiểu đơn giản, khi nói đến phương diện
ngữ pháp của ngôn ngữ là nói đến năng lực tổ chức, kết hợp các từ thành cụm từ, thành câu có
nghĩa, “có thông tin”, nhằm biểu đạt một sự việc, một ý kiến, một tình cảm hoặc một cảm xúc.
Khi tìm hiểu về câu, người ta thường chú ý đến việc phân loại câu dựa vào 3 tiêu chí. Nếu theotiêu chí
mục đích nói, có 4 kiểu câu là câu tường thuật (câu kể), câu nghi vấn (câu hỏi), câu mệnh lệnh (câu cầu
khiến), câu cảm thán (câu cảm). Nếu căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực, có 2 kiểu câu là câu khẳng
định và câu phủ định. Nếu căn cứ vào cấu tạo câu, có câu đơn, câu ghép.
Trong giao tiếp bằng lời nói, câu còn được gọi bằng thuật ngữ khác là phát ngôn.
Có lẽ có lý khi cho rằng những đặc điểm của ngôn ngữ nói nên được xem là đặc điểm của phát ngôn, và
những điểm đặc thù của ngôn ngữ viết là đặc thù của câu. Trong sự phân biệt tiện lợi và tương đối thiếu
khoa học này, chúng ta có thể nói rằng phát ngôn thì được nói lên còn câu thì được viết ra [19, tr.41].
Tất nhiên, phát ngôn khác với câu ở chỗ, nhờ ngữ điệu, âm sắc giọng nói, hoàn cảnh phát ngôn, mà:
một câu cấu tạo theo kiểu nghi vấn có thể được sử dụng như một mệnh lệnh (ví dụ, chị dọa em: Mày có
nín không?), một lời cảm thán (ví dụ: Có chồng con nhà ai như thế này không? Trời ơi là trời!)… Một
câu tường thuật cũng có thể trở thành một phát ngôn mệnh lệnh, nghi vấn hay cảm thán Nhiều khi hình
thức phủ định lại diễn đạt ý khẳng định, và ngược lại, hình thức khẳng định cũng có thể diễn đạt ý phủ
định [64, tr.275].
Chính thế, trong phát thanh, khi xem xét trên văn bản, chúng ta gọi là câu. Khi nghe câu đó trên sóng, phải

gọi là phát ngôn. Tuy nhiên, để có thể phân tích được cách sử dụng ngôn từ của lời nói phát thanh, chúng
tôi phải rải băng thành văn bản. Khi đó, một cách tương đối, các phát ngôn lại được gọi là câu.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LỜI NÓI BÁO PHÁT THANH VÀ NGÔN NGỮ BÁO PHÁT THANH
1.2.1. Báo phát thanh và đặc trưng loại hình
Báo phát thanh là loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh, truyền
đi âm thanh, trực tiếp tác động vào thính giác của đối tượng tiếp nhận [111, tr.75].
Trong bối cảnh hiện đại ngày nay, phát thanh không chỉ phát sóng bằng kỹ thuật sóng điện từ, mà còn
phát sóng qua vệ tinh, phát trên mạng internet. Nhưng cách phát bằng phủ sóng analog, phát qua radio
vẫn là phương thức chính của phát thanh Việt Nam nói chung, của Đài TNVN nói riêng. Và đó cũng chính
là dạng phát thanh mà luận án nghiên cứu.
Trong tương quan so sánh với cách thức thông tin của các loại hình báo chí khác như báo in, truyền hình,
báo mạng, phát thanh có những đặc thù nổi bật như:
Thông
điệp à
thể
hiện
thông
điệp
= âm
thanh
(lời
nói,
tiếng
động,
âm
nhạc)
à kên
h
sóng
à tai

người
.

1) Phương tiện chuyển tải thông tin duy nhất là âm thanh tổng hợp gồm lời nói, tiếng động, âm nhạc, tác động trực tiếp
vào thính giác đối tượng tiếp nhận. Có thể mô hình hóa phương thức tác động của báo phát thanh: 3



Tiếp nhận bằng thính giác có nhiều tiện lợi. Thính giả có thể vừa làm việc, vừa nghe đài. Thông tin phát
thanh không được hỗ trợ bởi cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ, bối cảnh sống động như trong truyền hình, cũng
không được hỗ trợ bởi tranh ảnh cụ thể như trong báo in, nhưng bằng phương thức sử dụng âm thanh
tổng hợp để đưa thông tin trực tiếp tới tai người nghe, phát thanh có khả năng kích thích trí tưởng
tượng vĩ đại của thính giả. Nhà báo phát thanh có thể sử dụng gần như cả một thế giới âm thanh vô tận
để tái hiện cuộc sống bằng âm thanh, vẽ nên những bức tranh hiện thực sinh động trong tâm trí
người nghe. Nhà báo phát thanh có thể đưa thính giả đến bất cứ nơi đâu, gặp gỡ bất kỳ ai, chứng kiến
bất kỳ cảnh tượng nào: một bãi biển xinh đẹp ở Vinper land - Nha Trang, hay một trận động đất kinh
hoàng làm rung chuyển Hati, một vụ đánh bom đẫm máu ở Ápganixtan hay một núi lửa phun trào dữ dội ở
Iceland… Chính sự liên tưởng, ký ức giàu có, phong phú vốn có ở mỗi con người đã làm cho thông tin
bằng lời nói - với sự hỗ trợ của tiếng động, âm nhạc, trở nên hoàn chỉnh, toàn vẹn, sống động hơn, sự
lĩnh hội của thính giả dễ dàng hơn.
Nhưng phương thức tiếp nhận lời nói bằng thính giác cũng vấp phải những hạn chế nhất định. Trước hết
là tính thoảng qua của thông tin. Trên phát thanh, lời nói xuất hiện chỉ một lần rồi biến mất theo dòng
thời gian, nên dù không hiểu hay nghe không rõ một chi tiết nào đó, một từ ngữ nào đó, thính giả cũng
không thể “tua” để nghe lại. Nếu không bắt kịp thông tin vào thời điểm lời nói được phát đi, mặc nhiên
những thông tin đó sẽ biến mất. Cũng vì tính thoảng qua, nên mật độ thông tin đọng lại trong tâm trí
người nghe không nhiều. Theo điều tra của Đài Phát thanh Mat-xcơ-va: Nếu nói 1-3 phút, người nghe
tiếp nhận 100% lượng thông tin; từ 4-5 phút: 80%, và từ 6-8 phút: chỉ còn 60% [20, tr.21].
Quả thật, trí não con người không cho phép lưu quá nhiều thông tin trong cùng thời điểm. Hơn nữa, nếu
thông tin phức tạp, rối rắm, lời nói lôi thôi, dài dòng, trí nhớ của họ sẽ đóng lại. Thông thường, người
nghe đài tiếp nhận cả chương trình với thời lượng dài. Vì vậy, sự ghi nhớ chắc chắn sẽ giảm rất nhiều so

với mức mà Đài Mat-xcơ-va đưa ra.
Thứ hai, dòng tin phát thanh dễ bị đứt đoạn, gãy khúc do người nghe dễ bị xao nhãng. Các nhà
nghiên cứu chỉ ra, nghe đài thường là hoạt động thứ hai của thính giả bên cạnh một hoạt động chính nào
đó, chẳng hạn, lái xe, làm bếp, làm nương rẫy, làm việc trên máy vi tính Vì vậy, việc tiếp nhận dễ trở nên
bập bõm, câu được câu mất, ý được ý mất.
Thứ ba, thính giả chỉ có thể tiếp nhận được thông tin với cách nói và tốc độ nói phù hợp. Nếu nhà
báo nói quá nhanh hay quá chậm, nếu cách nói không truyền cảm, lôi cuốn, nếu từ ngữ sử dụng không
đúng, không hay, thì tai thính giả sẽ “đóng” lại.
Những hạn chế đó buộc nhà báo phát thanh phải tìm ra những cách thức tạo lập lời nói và thể hiện lời
nói phù hợp trên sóng.
2) Phát thanh có diện phủ sóng rộng khắp, trở thành phương tiện truyền thông mang tính đại chúng
triệt để nhất. Sóng phát thanh có thể vượt mọi khoảng cách địa lý, không gian để tiếp cận với thính giả ở
cả các vùng xa xôi, hẻo lánh trên lãnh thổ Việt Nam. Hơn nữa, nhờ mạng internet và thiết bị vệ tinh, phát
thanh có thể đến với bạn bè năm châu. Cũng chính đặc điểm này đã quy định lời nói phát thanh phải đảm
bảo tính đại chúng, sao cho một người có trình độ học vấn cao nghe cũng không cảm thấy tầm thường,
một người nông dân ít học cũng cảm thấy dễ nhớ, dễ hiểu.
3) Phát thanh phụ thuộc vào quy luật thời gian tuyến tính. Tác phẩm, chương trình phát thanh xuất hiện
lần lượt theo trật tự thời gian. Chính đặc điểm này lại đặt thính giả vào tình thế bị động. Họ chỉ được
nghe những gì “nhà đài” sắp đặt, nghe một lần, nghe thoảng qua, không được lựa chọn nội dung, thời
gian tiếp nhận, không được nghe đi nghe lại để hiểu cặn kẽ một vấn đề còn chưa rõ, không được liên kết
thông tin thành chuỗi (liên kết nhiều tin cùng chủ đề lại với nhau) để hiểu thấu đáo hơn như trong báo in
hay báo mạng… Khi nghe như vậy, khả năng ghi nhớ thông tin cũng không cao. Đặc điểm này yêu cầu lời
nói phát thanh phải đảm bảo tính đơn giản, ngắn gọn, dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ.
4) Phát thanh truyền đạt thông tin cùng một lúc tới hàng triệu thính giả nhưng thực ra lại là nói với
từng cá nhân riêng biệt. Nếu độc giả báo in có quyền lựa chọn thời điểm để đọc tin bài, thì hàng triệu
thính giả phát thanh phải cùng lúc lắng nghe thông tin đang được phát trên radio. Nhưng cũng chính đặc
điểm này yêu cầu người trình bày phải có nghệ thuật nói với hàng triệu người như nói với một
người. Không nhất thiết phải có “chất giọng vàng” nữa, nhưng nhà báo nhất thiết phải có khả năng giao
tiếp thân mật, gần gũi. Tư thế của người trình bày trên sóng không giống tư thế của người lãnh đạo,
người giáo viên thuyết giảng, mà là bạn bè của thính giả; cách đưa tin của nhà báo không phải nghiêm túc

như đọc báo cáo, mà phải là cuộc trò chuyện của những bạn, người láng giềng quen thuộc. Ví dụ, BTV
dẫn hệ Hồng Nhung nói:

×