Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận Ngân hàng quốc tế : CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (544.43 KB, 27 trang )

CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. NHỮNG NGHĨA VỤ VÀ CAM KẾT QUỐC TẾ VỀ TỰ DO HÓA DỊCH VỤ NGÂN
HÀNG
1.1 Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)
Hiệp định Thương mại song phương giữa Việt Nam và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (hay
còn gọi là BTA) có hiệu lực từ ngày 11/12/2001. Nội dung chính của BTA bao gồm các quy
định và nguyên tắc giám sát hoạt động thương mại giữa hai quốc gia. Chương 3 của Hiệp định
phác thảo những nguyên tắc và quy định áp dụng cho lĩnh vực thương mại dịch vụ. Trong số
08 ngành dịch vụ được đề cập tới trong danh sách, các dịch vụ tài chính, cụ thể hơn là “các
dịch vụ tài chính và ngân hàng”, được quy định khá cụ thể (gồm có điều kiện, hạn chế và thời
gian thực hiện) về việc mở cửa thị trường theo bốn hình thức cung cấp dịch vụ (gồm cung cấp
xuyên biên giới, tiêu thụ tại nước ngoài, hiện diện thương mại hay hiện diện thể nhân). Thực tế
này cho thấy những cam kết và quyết tâm của Chính phủ trong việc theo đuổi tiến trình tự do
hoá trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng và tài chính.
Cụ thể hơn, trong hiệp định BTA, Chính phủ Việt Nam đã thoả thuận việc tuân theo
những nguyên tắc và quy định áp dụng chung đã được đề cập trong Chương 3, đồng thời thực
hiện các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia, nghĩa là các ngân hàng và tổ chức
tín dụng của Mỹ sẽ được hưởng những cơ hội thị trường tốt hơn trong ngành tài chính Việt
Nam. Những điểm đáng lưu ý nhất trong các quy định và cam kết này được trình bày dưới
đây:
Một số cam kết cụ thể trong hiệp định BTA của Chính phủ Việt Nam đối với tổ chức
ngân hàng và tài chính của Hoa Kỳ được tóm tắt như sau:
- Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam
thông qua các hình thức pháp lý: (i) Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ; (ii) Ngân hàng liên doanh
Việt Nam-Hoa Kỳ; (iii) Công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa Kỳ và (iv) Công ty thuê
mua tài chính liên doanh Việt Nam- Hoa Kỳ;
- Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, hình thức pháp lý duy nhất thông
qua đó các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và công ty thuê-
mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là liên doanh với đối tác
Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ;
- Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập


ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam (từ tháng 12 năm 2010, các ngân hàng con
100% vốn của Mỹ được phép hoạt động ở Việt Nam);
- Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng của Mỹ được nắm vốn sở hữu trong các ngân
hàng Việt Nam được cổ phần hóa, tương đương với mức cho phép đối với các nhà đầu tư Việt
Nam14. Theo thời định, mỗi bên sẽ chấp nhận những dich vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên
khác, tôn trọng tất cá những biện pháp có ảnh hưởng đến việc cung ứng dịch vụ, với chế độ
đãi ngộ không kém ưu đãi hơn so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bên đó.
- Từ tháng 12 năm 2004, các chi nhánh ngân hàng của Mỹ được phép: i) nhận đảm bảo
cho khoản vay bằng giá trị quyền sử dụng đất do các DN có vốn đầu tư nước ngoài nắm giữ;
(ii) tiếp nhận và sử dụng giá trị quyền sử dụng đất đảm bảo cho khoản vay trong trường hợp
không thanh toán nợ; iii) được tiếp cận các dịch vụ tái chiết khấu, hoán đổi và hợp đồng kỳ
hạn của Ngân hàng Nhà nước; và quan trọng hơn là, iv) được hưởng đầy đủ quyền như ngân
hàng trong nước;
Xuất phát từ những cam kết trong khuôn khổ BTA, Việt Nam cũng phải tuân thủ các
điều khoản trong Phụ lục của Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ Tài chính (GATS), và
thực hiện các cam kết cụ thể sau:
1
- Thành lập một công ty con của một công ty cho thuê tài chính Mỹ hoặc một công ty
cho thuê tài chính liên doanh cần phải sau ba năm. Từ tháng 1 năm 2003, các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng hoạt động ở Việt Nam được phép đặt các chi nhánh và văn phòng đại diện ở bất
kỳ đâu tại Việt Nam với điều kiện các tổ chức đó đã hoạt động được từ hai năm trở lên và có
tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn 5%; và
- Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng Mỹ được cung cấp các dịch vụ như nhận tiền gửi
bằng đồng nội tệ, thẻ tín dụng, máy trả tiền tự động và các dịch vụ/sản phẩm khác.
1.2 Hiệp định Thương mại tự do các nước ASEAN (AFTA)
Hiệp định Thương mại tự do các nước ASEAN yêu cầu Việt Nam cam kết vào một lộ
trình cắt giảm thuế cho đến năm 2006. Việc cắt giảm thuế dự kiến sẽ tăng cường các hoạt
động thương mại quốc tế, các dòng đầu tư nước ngoài bên trong khu vực, và các dịch vụ hỗ trợ
tài chính như trao đổi ngoại hối và thanh toán quốc tế.
Trong khi tác động của AFTA tới ngành ngân hàng là gián tiếp, các nước ASEAN đã

thông qua một hiệp định khung về thương mại (AFAS) vào tháng 12 năm 1995. AFAS đưa ra
những qui định cho các quốc gia thành viên ASEAN nhằm cải thiện liên tục Tiếp cận thị
trường và đảm bảo chế độ Đối xử Quốc gia công bằng đối với các nhà cung cấp dịch vụ trong
cộng đồng ASEAN ở cả bốn hình thức cung cấp dịch vụ. Tất cả các nguyên tắc của AFAS đều
nhất quán với các quy định quốc tế về thương mại dịch vụ như trong Hiệp định chung về
thương mại dich vụ (GATS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trên thực tế, việc tự
do hoá thương mại dịch vụ trong khuôn khổ AFAS là trực tiếp hướng tới những cam kết cao
hơn cả những cam kết mà các nước thành viên đã cam kết theo GATS, hay còn được biết đến
như nguyên tắc GATS +. Theo hiệp định này, các nước ASEAN sẽ thương lượng về tự do hoá
dịch vụ liên vùng trong một số ngành, bao gồm viễn thông, du lịch, dịch vụ tài chính, xây
dựng và vận tải biển. Thêm vào đó, tất cả các nước đều thống nhất về:
- Xoá bỏ đáng kể các biện pháp phân biệt đối xử hiện tại và các hạn chế về gia nhập thị
trường trong số các nước thành viên; và
- Cấm ban hành thêm hoặc ban hành mới các biện pháp phân biệt đối xử và các hạn chế
về gia nhập thị trường trong một khung thời gian hợp lý (Điều III: Tự do hoá)
Các nước ASEAN đã đi đến kết luận về bốn nhóm cam kết thực hiện trong hiệp định
khung. Liên quan đến dịch vụ tài chính, các cam kết của Việt Nam nằm trong nhóm thứ hai,
được ký vào tháng 4 năm 2002. Những cam kết cụ thể từ phía Chính phủ Việt Nam trong khu
vực tài chính được trình bày trong Phụ lục 2.
1.3 Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) đàm phán lần đầu tiên tại Vòng đàm
phán thương mại đa phương Urugoay và trở thanh một bộ phận không thể tách rời trong hệ
thống pháp lý của WTO. Mô tả về Hiệp định này có thể tóm tắt như sau:
GATS có 4 mục tiêu chính: mở rộng thương mại dịch vụ; thúc đẩy tự do hoá thông qua
các vòng đàm phán liên tục nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế; minh bạch hoá
các quy tắc và quy định; và tăng cường sự tham gia của các quốc gia đang phát triển. Hiệp
định này được cơ cấu thành 2 phần: hiệp định khung tóm tắt, ở nhiều phương diện tương tự
như GATT, và lộ trình thực hiện những cam kết cụ thể của mỗi quốc gia, trong đó các thành
viên chủ động thực hiện theo như danh sách các trường hợp ngoại lệ “đối xử tối huệ quốc.”
Một trong những đặc điểm của GATS (đã được trình bày trong phần BTA) là các chính

phủ được tự do lựa chọn ngành dịch vụ để đưa vào trong lộ trình cam kết, và cả những ngành
đã cam kết, để duy trì những biện pháp hạn chế đối với mức độ tiếp cận thị trường và đối xử
quốc gia. Chính phủ cũng được chuẩn bị để đảm bảo thực hiện được những cam kết này; và
cũng có thể không thực hiện chế độ tối huệ quốc (khi tất cả quốc gia nước ngoài được đối xử
như nhau) nếu đưa ra được một trường hợp ngoại lệ như phần giải thích dưới đây.
2
Những nghĩa vụ vô điều kiện
Khung này bao gồm 5 nghĩa vụ chung áp dụng rộng rãi cho tất cả dịch vụ không kể đến
trên thực tế đã cam kết hay chưa (“những nghĩa vụ vô điều kiện”): chế độ tối huệ quốc, sự
minh bạch, rà soát hành chính, chế tài đối với các nhà cung cấp độc quyền và tham vấn liên
Chính phủ về thông lệ kinh doanh bị ràng buộc.
- Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc(MFN): Theo điều II của GATS, các thành viên buộc phải
thực hiện ngay lập tức và vô điều kiện “đối xử không kém ưu đãi hơn dịch vụ và các nhà cung
cấp dịch vụ của những quốc gia khác.” cho các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của các thành
viên khác. Điều này, theo nguyên tắc, tương ứng với việc hạn chế những ưu đãi mang tính sắp
đặt giữa các nhóm thành viên hay việc hai quốc gia dành cho nhau những đặc quyền, hay hạn
chế về các điều khoản có đi có lại giới hạn các lợi ích từ việc dành cho những đối tác thương
mại những đối xử tương tự nhau. Bất kỳ sự vi phạm nào cũng có thể được điều tiết theo Điều
II – Các trường hợp bãi miễn. Các thành viên được phép tìm kiếm sự bãi miễn trước khi Hiệp
định có hiệu lực. Những trường hợp miễn trừ mới cũng có thể được xem xét đối với những
thành viên mới tại thời điểm gia nhập hay, trong trường hợp thành viên hiện tại, bằng cách
khước từ bãi miễn theo Điều IX:3 của Thoả thuận WTO. Tất cả các trường hợp miễn trừ đều
phải được rà soát lại, theo nguyên tắc, không kéo dài quá 10 năm. Ngoài ra, GATS cho phép
các nhóm thành viên tham gia vào các hiệp định hội nhập kinh tế hoặc ghi nhận những chuẩn
mực, chứng nhận hoặc những biện pháp tương tự khi đáp ứng được những điều kiện cụ thể;
- Tính minh bạch: Các thành viên GATS được yêu cầu công khai tất cả những bằng
chứng về việc áp dụng chung và thiết lập những điểm giải trình quốc gia nhằm đáp ứng những
yêu cầu thông tin của các thành viên khác; và
- Những nghĩa vụ áp dung chung khác: Bao gồm việc thiết lập quy trình rà soát hành
chính, nghĩa vụ đối với các thành viên nhằm đảm bảo rằng các nhà cung cấp độc quyền có

hành động nhất quán với chế độ tối huệ quốc và những quy trình tham vấn liên chính phủ về
những tập quán kinh doanh bị hạn chế của những nhà cung cấp dịch vụ tổ chức.
Những nghĩa vụ có điều kiện
Như trong trường hợp BTA, Hiệp định khung GATS bao gồm một lớp thứ hai những
nghĩa vụ nhằm vào những khu vực đã có cam kết, ví dụ như những khu vực trong lộ trình cam
kết quốc gia16, bao gồm tiếp cận thị trường, đãi ngộ quốc gia, tự do thanh toán và chuyển tiền
quốc tế cũng như những quy định phụ về tính minh bạch (gửi thông báo một lần trong một
năm tới WTO về bất kỳ sự thay đổi nào so với những quy định hiện hành mà ảnh hưởng lớn
tới hoạt động thương mại ở những khu vực đã có cam kết) và về hành vi độc quyền và các nhà
cung cấp dịch vụ độc quyền (không được hành động thiếu nhất quán với những cam kết hay
khi cạnh tranh trên khu vực ngoài phạm vi độc quyền và những cam kết lạm dụng vị trí độc
quyền của họ).
- Tiếp cận thị trường – Trong lộ trình thực hiện những cam kết cụ thể, mỗi thành viên
đều xác định những hạn chế mà một thành viên mong muốn duy trì theo nguyên tắc tiếp cận
thị trường. Bằng cách thực hiện cam kết tiếp cận thị trường, một thành viên của WTO được
hưởng “đãi ngộ không kém ưu đãi hơn so với quy định trong các điều khoản, hạn chế hay
những điều kiện đã thoả thuận trong lộ trình của nước đó” đối với dịch vụ và các nhà cung cấp
dịch vụ của bất kỳ thành viên WTO nào khác. Các điều kiện và hạn chế trên có thể phân biệt
(ví dụ như chỉ áp dụng đối với đối tượng nước ngoài) hay không phân biệt (ví dụ như chỉ áp
dụng cho đối tượng trong nước nhưng có ảnh hưởng đến mức quy định “trần”đối với dịch vụ).
Sáu loại điều kiện và hạn chế đó là:
+ Hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ: ví dụ như một số lượng giới hạn các
giấy phép được cấp cho các ngân hàng bao gồm cả ngân hàng trong nước và ngân hàng nước
ngoài, thể hiện dưới dạng số tuyệt đối, dưới dạng phần trăm hay thông qua “kiểm tra nhu cầu
3
kinh tế” - có nghĩa là những trường hợp được cấp phép và phê duyệt theo một số các tiêu
chuẩn cụ thể;
+ Hạn chế về tổng giá trị tài sản hay giao dich dịch vụ: ví dụ như thị phần về giá trị
hay số lượng giới hạn các ngân hàng;
+ Hạn chế về tổng số giao dịch hay tổng sản lượng dịch vụ đầu ra: ví dụ như thị phần

quy đổi ra số vốn ký quỹ;
+ Hạn chế về tổng số thể nhân được thuê: ví dụ như số lượng nhân viên làm việc tại
các ngân hàng nước ngoài;
+ Hạn chế về loại hình thực thể pháp lý: ví dụ như việc cấm hay áp đặt những loại
hình pháp lý như công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện hay công ty liên doanh;
+ Hạn chế về phần vốn góp nước ngoài: ví dụ như sự tham gia của nước ngoài vào các
ngân hàng giới hạn tối đa là 49%.
- Đối xử quốc gia – Trong khuôn khổ GATS, chế độ đãi ngộ quốc gia nghĩa là đối với
bất kỳ ngành nào trong lộ trình thực hiện cam kết quốc gia, mỗi thành viên buộc phải đối xử
với các dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài không kém ưu đãi hơn so với các dịch vụ
và nhà cung cấp dịch vụ trong nước. Yêu cầu chính là bỏ qua những biện pháp đang được điều
chỉnh, theo luật pháp hay trên thực tế, những điều kiện cạnh tranh ưu đãi ngành dịch vụ riêng
của một nước thành viên. Các thành viên bắt buộc phải mở rộng chế độ đối xử quốc gia ở bất
kỳ ngành dịch vụ cụ thể thoả mãn những điều kiện và tiêu chuẩn trên. Khác với Tiếp cận thị
trường, “đối xử quốc gia” không có một danh sách rút gọn những biện pháp hạn chế. Mỗi biện
pháp đều phải trải qua thử nghiệm để xem xét ảnh hưởng đến điều kiện cạnh tranh ưu đãi đối
với doanh nghiệp trong nước. Nếu một biện pháp đáp ứng được thử nghiệm, trở thành là biện
pháp ràng buộc “đối xử quốc gia”, sẽ được đưa vào lộ trình nếu thành viên muốn tiếp tục duy
trì nó. Thực tế cho phép xác định những biện pháp ràng buộc đối xử quốc gia mang tính điển
hình, những yêu cầu về quốc gia, yêu cầu thường trú có hiệu lực, những biện pháp ràng buộc
về quyền sở hữu đất đai hay những ưu đãi với người bản địa.
Trong khuôn khổ GATS (cũng tương tự như BTA va AFAS), đối với cả biện pháp Tiếp
cận thị trường và chế độ Đối xử quốc gia, những cam kết và biện pháp hạn chế trong mỗi
trường hợp đều được cân nhắc tới 4 hình thức cung cấp, như sau:
- Cung cấp xuyên biên giới (hình thức 1): khả năng của các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới tại các địa phận các nước thành viên;
- Tiêu thụ ở nước ngoài (hình thức 2): các cư dân các nước thành viên được quyền tự do
mua dịch vụ trong địa phận các nước thành viên khác;
- Hiện diện thương mại (hình thức 3): cơ hội cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài
thiết lập, hoạt động hay mở rộng một hiện diện thương mại trên địa phận nước thành viên,

dưới hình thức chi nhánh, đại lý, hay công ty con sở hữu toàn phần; và
- Hiện diện thể nhân (hình thức 4): khả năng gia nhập hay tạm thời cư trú trên địa phận
nước thành viên của một thể nhân nước ngoài để cung cấp một dịch vụ.
Ở cả hai hình thức Tiếp cận thị trường hay Đối xử quốc gia, có năm lựa chọn cam kết
cho mỗi hình thức cung cấp là:
1. Không cam kết: nghĩa là tự do hoá hoàn toàn hay Tiếp cận thị trường ở mức đầy đủ
nhất;
2. Không hạn chế: nghĩa là không có cam kết. Thành viên duy trì tự do hoàn toàn về
quy định;
3. Liệt kê ràng buộc hiện tại như 49% giới hạn mức sở hữu vốn nước ngoài;
4. Tận dụng cơ hội đàm phán GATS để tự do hoá từng phần đồng thời duy trì ràng
buộc (ví dụ như 51% giới hạn mức sở hữu nước ngoài sẽ đẩy mức sở hữu của nước ngoài
thêm 2%, về mặt pháp lý sẽ là cổ đông đa số); và
4
5. Duy trì một biên độ nhất định theo kế hoạch hành động và đàm phán trong tương lai
(ví dụ như để giới hạn 30% trong khi thực tế đề ra mức 49% sẽ dẫn đến khả năng quốc gia
phải thắt chặt qui định pháp lý lên tới mức trần 30% và tạo một biên độ 20% cũng thông qua
qui định pháp lý cho các vòng đàm phán GATS trước khi phải tự do hoá thực sự. Nhờ đó,
quốc gia đó có thêm thời gian).
Các trường hợp bãi miễn tối huệ quốc
Chế độ tối huệ quốc là nghĩa vụ chung áp dụng cho tất cả các biện pháp ảnh hưởng tới
thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, có sự thống nhất rằng các biện pháp cụ thể theo những nghĩa
vụ tối huệ quốc có thể tiếp tục duy trì – về mặt nguyên tắc không quá 10 năm và phải rà soát
lại trong vòng 5 năm. Những biện pháp này được cụ thể hóa trong danh sách các trường hợp
bãi miễn tối huệ quốc.
1.4 Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng và
các dịch vụ tài chính
Theo cam kết, Việt Nam cho phép các ngân hàng nước ngoài không có hiện diện
thương mại tại Việt Nam (công ty con, chi nhánh, văn phòng đại diện, hợp đồng hợp tác kinh
doanh) cung cấp cho khách hàng tại Việt Nam nhưng chỉ giới hạn ở các dịch vụ sau:

- Cung cấp thông tin tài chính;
- Xử lý dữ liệu tài chính;
- Cung cấp phần mềm tài chính;
- Tư vấn, môi giới, phân tích tín dụng;
- Nghiên cứu và tư vấn về đầu tư, danh mục đầu tư, mua lại, tái cơ cấu và chiến lược
doanh nghiệp.
* Về việc thành lập liên doanh
Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng liên doanh tại Việt Nam ngay từ thời
điểm gia nhập WTO (11/1/2007) với điều kiện:
- Phía nước ngoài tham gia liên doanh phải là ngân hàng thương mại có tổng tài sản có
trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm nộp đơn xin thành lập liên doanh tại
Việt Nam; và
- Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 50% vốn điều lệ.
* Về việc thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài
Việt Nam cam kết cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài kể từ ngày
1/4/2007 với điều kiện ngân hàng nước ngoài là chủ đầu tư phải là ngân hàng thương mại có
tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm nộp đơn xin thành lập
ngân hàng tại Việt Nam.
Ngoài điều kiện theo cam kết, việc thành lập ngân hàng tại Việt Nam phải tuân thủ các
điều kiện kỹ thuật áp dụng chung theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Đối với Chi nhánh Ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam
Việt Nam cam kết cho phép các ngân hàng thương mại nước ngoài được thành lập chi
nhánh của họ tại Việt Nam với điều kiện:
1. Ngân hàng mẹ có tổng tài sản trên 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm liền trước thời điểm
nộp đơn xin lập chi nhánh ở Việt Nam;
2. Chi nhánh được thành lập phải chịu các hạn chế trong hoạt động của mình.
Ngoài các điều kiện nêu trong cam kết nói trên, các ngân hàng nước ngoài muốn thành
lập chi nhánh tại Việt Nam phải tuân thủ các điều kiện khác về mặt kỹ thuật theo quy định của
pháp luật Việt Nam (áp dụng chung cho cả ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài).
Những hạn chế trong hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam

1. Không được phép mở các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở giao dịch chính của mình.
Ví dụ Ngân hàng A mở chi nhánh X1 tại Việt Nam thì chi nhánh X1 này không được tự mình
5
mở các điểm giao dịch, chi nhánh khác. Nếu muốn mở rộng mạng lưới hoạt động, Ngân hàng
A phải tự mình xin phép mở các chi nhánh X2, X3, v.v hoặc thông qua các hình thức đầu tư
khác.
Việt Nam cam kết không hạn chế số chi nhánh trực tiếp của các ngân hàng nước ngoài;
2. Bị hạn chế trong việc nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam
mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng (chưa cung cấp các khoản vay, cho vay, chưa nhận
tiền gửi, v.v) theo % mức vốn mà ngân hàng mẹ cấp cho chi nhánh như sau:
o Từ 1/1/2007: 650% vốn pháp định được cấp;
o Từ 1/1/2008: 800% vốn pháp định được cấp
o Từ 1/1/2009: 900% vốn pháp định được cấp;
o Từ 1/1/2010: 1000% vốn pháp định được cấp;
o Từ 1/1/2011: được nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam ở mức tương tự các ngân
hàng Việt Nam.
* Điều kiện thành lập văn phòng đại diện của ngân hàng thương mại, công ty tài
chính, công ty cho thuê tài chính nước ngoài tại Việt Nam:
Việt Nam cam kết cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài (ngân hàng thương mại
nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính) được mở Văn phòng đại diện tại Việt
Nam với điều kiện Văn phòng đại diện không được phép tiến hành các hoạt động thương mại
sinh lời trực tiếp.
Thời hạn hoạt động tối đa của các loại hình tổ chức tín dụng FDI ở Việt Nam:
Trong WTO, Việt Nam không cam kết về thời hạn hoạt động của các loại hình tổ chức
tín dụng này. Như vậy, Việt Nam có quyền tự do quy định về thời hạn này.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành thì thời hạn hoạt động tối đa của các tổ chức tín
dụng này được quy định như sau:
- Đối với ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài: không quá 99 năm;
- Đối với chi nhánh của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá thời hạn hoạt động của
ngân hàng mẹ và không quá 99 năm;

- Đối với văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài: không vượt quá thời hạn hoạt
động của ngân hàng mẹ;
- Công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty cho
thuê tài chính liên doanh và công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài: 50 năm
Thời hạn hoạt động cụ thể được quy định trong giấy phép được cấp và có thể được gia
hạn theo yêu cầu (thời hạn gia hạn không vượt quá thời hạn hoạt động trước đó được quy định
trong giấy phép).
* Ngân hàng nước ngoài được thiết lập các máy rút tiền tự động, phát hành thẻ tín
dụng.
Theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài được hưởng đối
xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia đầy đủ, tức là các ngân hàng này có quyền thiết lập và vận
hành các máy rút tiền tự động (ATM) như các ngân hàng Việt Nam. Hiện nay đối với các ngân
hàng Việt Nam, không có hạn chế số lượng các máy rút tiền tự động mà các ngân hàng này
được phép lắp đặt.
Các tổ chức tín dụng nước ngoài cũng được phép phát hành thẻ tín dụng tại Việt Nam
như các ngân hàng Việt Nam.
* Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp khác ngoài cam kết đối với việc thành lập,
tham gia, hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ
tài chính.
6
Do tính đặc thù và tầm quan trọng của dịch vụ tài chính (đối với toàn bộ nền kinh tế
quốc dân, đối với các nhà đầu tư, những người gửi tiền…), WTO cho phép các nước thành
viên được áp dụng các biện pháp khác vì lý do thận trọng, đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài
chính.
Do đó, ngoài các hạn chế về hình thức pháp nhân, yêu cầu về vốn, các hạn chế về hoạt
động đối với chi nhánh… đối với nhà đầu tư nước ngoài được phép áp dụng theo cam kết
(xem Biểu cam kết về dịch vụ ngân hàng), Việt Nam có thể xem xét áp dụng bổ sung các biện
pháp mang tính hạn chế, kiểm soát chặt chẽ nhằm mục tiêu thận trọng.
Ví dụ về các yêu cầu bổ sung có thể có đối với tổ chức tài chính nước ngoài (ngoài
cam kết)

1. Yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc;
2. Yêu cầu về vốn đối với việc thành lập chi nhánh, ngân hàng liên doanh;
3. Yêu cầu về điều kiện vật chất, kỹ thuật, nhân lực, v.v đối với các tổ chức tín dụng.
Các yêu cầu này, nếu có, phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa các
nhà đầu tư nước ngoài (các ngân hàng thương mại nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính).
* Việt Nam cam kết về việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần của các nhà đầu tư
nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam như sau:
- Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh được cổ phần hóa (ví dụ VCB,
BIDV…): Tỷ lệ cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong các ngân hàng cổ phần hóa
này có thể bị hạn chế như mức tỷ lệ cổ phần của các ngân hàng dân doanh Việt Nam trong các
ngân hàng cổ phần hóa này;
- Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc khu vực dân doanh: tổng số cổ phần
do các cá nhân, tổ chức nước ngoài nắm giữ tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt
Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có
qui định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
7
II. TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG TRONG NƯỚC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
2.1 Tích cực
Các ngân hàng Việt Nam được tham gia vào một thị trường bình đẳng và mang tính
chuyên nghiệp cao. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là
sau năm 2010. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ
ngày càng giảm và sự bảo hộ sẽ không còn nữa. Chính bối cảnh đó sẽ tạo ra cho các ngân hàng
Việt Nam sự năng động trong hoạt động kinh doanh và có thể nói bắt buộc phải năng động để
kinh doanh hiệu quả. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các ngân hàng thể hiện năng lực và trình
độ của mình.
Bên cạnh đó, nhờ có tiến trình hội nhập mạnh mẽ, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội
để học hỏi kinh nghiệm, phương pháp đào tạo nhân lực, trình độ công nghệ, quản lý từ các
ngân hàng nước ngoài thường được đánh giá là mạnh về tài chính, công nghệ và quản trị điều

hành. Các tổ chức này một mặt là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đối với các ngân hàng
trong nước nhưng lại là kênh truyền dẫn vào Việt Nam những công nghệ ngân hàng hiện đại,
những thông lệ tốt nhất và là nguồn tài chính bổ sung cho thị trường tiềm năng của Việt Nam
và là cầu nối cho các nhà đầu tư nước ngoài đến với thị trường và các doanh nghiệp Việt Nam.
Sự cọ xát trong hoạt động kinh doanh cũng là cơ hội để các ngân hàng Việt Nam nâng mình
lên một tầm cao mới.
Hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn hoá các nghiệp vụ
ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất
cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu
hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản
trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân
hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp
dụng ở Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy hoạt động của những ngân hàng trong nước có sự tham gia của các
ngân hàng nước ngoài đang ngày càng phát triển, minh bạch và rõ ràng hơn. Với những ưu thế
về kinh nghiệm và tập quán kinh doanh hiện đại, các nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào
công tác quản trị những ưu thế kinh doanh nổi trội. Nhờ đó, các ngân hàng trong nước tự hoàn
thiện mình trong công tác chăm sóc khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ trong mỗi sản
phẩm tài chính đưa ra công chúng.
Sự có mặt của những ngân hàng lớn của nước ngoài đã góp phần thay đổi diện mạo của
các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, từ đó củng cố niềm tin của người dân vào hệ
thống ngân hàng, thể hiện qua giá cổ phiếu của những ngân hàng thương mại cổ phần tăng với
tốc độ chóng mặt trong suốt thời gian qua.
Không chỉ là thị trường trong nước, sự hội nhập còn tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam
cơ hội mở rộng thị trường ra nước ngoài theo quy định của các cam kết quốc tế. Sự hội nhập
tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước mở rộng hoạt động ra thị trường
nước ngoài thông qua các hình thức cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là hiện
diện thương mại và cung cấp qua biên giới
2.2 Thách thức
Khi ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam, ngân hàng

trong nước sẽ vấp phải sự cạnh tranh gay gắt vì ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính
lớn, cũng như kinh nghiệm kinh doanh, sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước
ngoài khiến hệ thống ngân hàng trong nước phải đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch
vụ ngân hàng bán lẻ (hiện chiếm 90% thị phần) và những rủi ro thị trường về giá, tỷ giá, lãi
8
suất có thể bắt nguồn từ sự lan truyền các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và thế
giới.
Không chỉ có vậy, công nghệ của các ngân hàng Việt Nam cũng lạc hậu so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù đã và đang dần được cải tiến, nhưng công nghệ
ngân hàng Việt Nam vẫn còn kém.
Các ngân hàng nước ngoài thường mạnh về vốn, công nghệ tiến tiến, sản phẩm dịch vụ
đa dạng trong khi đó ngân hàng chúng ta trình độ quản trị còn nhiều bất cập, tiềm lực vốn nhỏ
bé, sản phẩm dịch vụ đơn điệu, các ngân hàng thương mại quốc tế đang thực hiện khoảng
6.000 nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng ngân hàng, trong khi các ngân hàng thương mại
Việt Nam mới chỉ thực hiện tối đa khoảng 300 nghiệp vụ và mới cung cấp các dịch vụ mang
tính chất truyền thống, còn các dịch vụ hiện đại như ngân hàng điện tử, môi giới kinh doanh,
nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, tư vấn thì mức độ sử dụng vẫn còn mới hoặc hạn chế.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng Việt Nam bắt buộc phải nâng cao tính cạnh tranh để
chiếm lĩnh thị phần. Để thực hiện được điều đó, các ngân hàng Việt Nam phải tăng lãi suất
huy động, giảm lãi suất cho vay, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng dụng công nghệ cao Tất
cả các vấn đề đó làm cho mức độ rủi ro tăng cao. Các rủi ro không chỉ nảy sinh từ các nguyên
nhân truyền thống mà còn từ sự cạnh tranh, như rủi ro do việc ứng dụng công nghệ hiện đại từ
chính các ngân hàng. Qua đó cũng đặt ra thách thức đối với ngành ngân hàng là làm cách nào
để giám sát được các rủi ro đó. Bởi vì hoạt động ngân hàng là hoạt động nhạy cảm. Sự đổ vỡ
của bất kỳ một tổ chức tín dụng nào, dù lớn hay nhỏ, đều ảnh hưởng đến nền kinh tế, thậm chí
ảnh hưởng cả đến tình hình chính trị - xã hội.
Bên cạnh đó, cạnh tranh trong việc sử dụng lao động ngày càng gay gắt. Mọi sự thành
công của một doanh nghiệp đều xuất phát từ yếu tố con người. Hiện nay, chế độ đãi ngộ cho
lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao ở các NHTM Việt Nam chưa đủ sức thuyết phục
để lôi kéo những lao động có trình độ chuyên môn cao. Hiện tượng chảy máu chất xám là căn

bệnh nan y không chỉ đối với ngành tài chính – ngân hàng mà đối với tất cả các ngành kinh tế
ở Việt Nam.
Hội nhập ngân hàng đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải nhanh chóng tăng quy mô, đầu
tư công nghệ, cải tiến trình độ quản lý. Công nghệ hiện đại và trình độ quản lý cũng như tiềm
lực tài chính dồi dào của những ngân hàng nước ngoài sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra sức ép
cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải tăng thêm vốn, và
đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị, hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao
hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
Một yếu tố quan trọng tác động đến sự cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trong
bối cảnh gia nhập WTO là việc hoàn thiện cơ chế chính sách về lĩnh vực ngân hàng. Có thể
nói rằng, xây dựng cơ chế chính sách trong bối cảnh hội nhập đối với ngành ngân hàng cũng là
một thách thức không nhỏ. Môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, cơ chế chính sách về
hoạt động ngân hàng cần phải được xây dụng trên hai tiêu chí là phù hợp với thông lệ quốc tế
và tình hình cụ thể của Việt Nam. Theo đánh giá của một số tổ chức quốc tế, hệ thống pháp lý
liên quan đến hoạt động ngân hàng cần được thay đổi và phát triển hơn nữa. Nhu cầu này nảy
sinh từ việc thực trạng của hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam còn nhiều vấn đề chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội hiện nay cũng như trong tương lai.
9
III. BỐI CẢNH THÀNH LẬP CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Bảng 1: Số lượng ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn 1991 - 2012
1991 1993 1995 1997 1999 2001 05 06 07 08 09 10
NHTMNN 4 4 4 5 5 5 5 5 5 5 5 5
NHTMCP 4 41 48 51 48 39 37 37 37 39 39 39
CN NHNng 0 8 18 24 26 26 29 31 39 43 47 49
NHLD 1 3 4 4 4 4 4 5 5 5 5 5
Tổng số 9 56 74 84 83 74 75 78 80 89 94 98
Nguồn: Slide bài giảng môn QTNH, PGS. TS. Trương Quang Thông
Kể từ khi Việt Nam mở cửa trong lĩnh vực ngân hàng đến nay, các ngân hàng nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam luôn là một bộ phận quan trọng trong hệ thống Ngân hàng Việt
Nam.

Năm 1991, khi Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước số 38-LCT/HĐNN8 ngày 23/5/1990
về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực thi hành các chi nhánh, văn
phòng đại diện của các ngân hàng nước ngoài bắt đầu được phép thành lập tại Việt Nam. Các
ngân hàng nước ngoài có mặt tại thị trường Việt Nam ngay từ đầu những năm 1991, sau khi hệ
thống ngân hàng Việt Nam được phân thành hai cấp, với 02 loại hình: chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và ngân hàng liên doanh.
Ngân hàng Năm thành lập Đối tác trong nước Đối tác nước ngoài
Indovina Bank 1990 CTG (50%) Cathay United Bank, Đài Loan (50%)
VID Public Bank 1991 BIDV (50%) Public Bank Berhad, Malaysia (50%)
Shinhanvina Bank 1994 VCB (50%) Shinhan Bank, Hàn Quốc (50%)
Vinasiam Bank 1995 Agribank(34%)
Siam Commercial Bank, Thái Lan (33%) &
Charoen Pokphand Group, Thái Lan (33%)
Vietnam Russia Bank 2006 BIDV (50%) VTB, Nga (50%)
Ghi chú:Ngân hàng Shinhanvina trở thành ngân hàng 100% vốn nước ngoài năm 2011
Nguồn: VPBS tổng hợp
Tuy nhiên, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004 đã cho phép thêm một hình
thức hiện diện thương mại mới, đó là ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Với sự xuất hiện thêm
loại hình ngân hàng mới này đã làm tăng tính hấp dẫn và phong phú cho thị trường tài chính
Việt Nam, nhưng cũng thêm một thách thức đối với các ngân hàng thương mại trong nước.
Số lượng các chi ngân hàng nước ngoài tăng liên tục từ năm 1990 đến 1997 và từ 1998
có khuynh hướng chững lại về số lượng ngân hàng và từ khi Việt Nam có triển vọng trở thành
thành viên chính thức của WTO thì số lượng lại có khuynh hướng tăng lên.
Năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức cấp những giấy phép lập ngân hàng con
100% vốn ngoại đầu tiên cho HSBC, ANZ và Standard Chartered, mở đầu một thời kỳ mới
cho hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam: được đối xử bình đẳng hơn, cạnh
tranh toàn diện hơn.
10
Bảng 2: Hệ thống các TCTD của Việt Nam (đến 31/12/2012)
STT Loại hình 2011 2012

1 Ngân hàng thương mại Nhà nước
(NHTM Nhà nước đã cổ phần)
5
3
5
4
2 Ngân hàng Chính sách xã hội 1 1
3 Ngân hàng phát triển 1 1
4 Ngân hàng thương mại cổ phần 37 34
5 Ngân hàng liên doanh 5 4
6 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài 53 49
7 Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 5 5
8 TCTD phi ngân hàng 30 30
9 Công ty tài chính 18 18
10 Công ty cho thuê tài chính 12 12
11 Quỹ tín dụng nhân dân TW 1 1
12 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 1.095 1.032
13 Tổ chức tài chính vi mô 1 2
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Tính đến 31/12/2012, có 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài (NHNNg) được cấp Giấy
phép hoạt động tại Việt Nam, 4 ngân hàng liên doanh. Ngoài ra, thực hiện các cam kết với
WTO, Ngân hàng Nhà nước đã cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho 5 ngân hàng 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam đó là Ngân hàng HSBC, Standard Chartered, ANZ, Shinhan và
Hong Leong. Hầu hết, các ngân hàng nước ngoài đều mở chi nhánh tại hai thành phố lớn là Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Về phạm vi hoạt động của các NHNNg chủ yếu tập trung tại
trụ sở của chi nhánh. Bên cạnh đó, còn có trên 50 văn phòng đại diện của các TCTD.
Nhìn chung, các ngân hàng nước ngoài và văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài
đang hoạt động tại Việt Nam đóng vai trò là cầu nối thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Các tổ chức này là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của các ngân hàng thương mại trong
nước, nhưng cũng là kênh truyền dẫn vào Việt Nam những công nghệ ngân hàng hiện đại,

những thông lệ quốc tế về quản trị tốt nhất và là nguồn tài chính không nhỏ bổ sung cho thị
trường tài chính của Việt Nam.
11
IV. KHUNG PHÁP LÝ
4.1 Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngân hàng nước ngoài:
- Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.
- Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/02/2006 Về tổ chức và hoạt động của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại
diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam (hiệu lực 15 ngày kể từ ngày ra Công báo).
- Thông tư số 03/2007/TT-NHNN ngày 05/06/2007 Hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2006 của Chính phủ Về tổ chức và hoạt
động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam.
- Thông tư số 34/2011/TT-NHNN ngày 28/10/2011 Hướng dẫn về trình tự, thủ tục, thu
hồi Giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; trình
tự, thủ tục, thu hồi Giấy phép văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức
nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng (có hiệu lực kể từ 11/12/2011).
- Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 Quy định về việc cấp giấy phép và tổ
chức, hoạt động của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VPĐD của TCTD nước ngoài,
tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam (có hiệu lực kể từ 01/02/2012).
- Một số quy định khác có liên quan.
4.2 Giải thích từ ngữ:
Luật các TCTD năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2011).
- Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập ở nước ngoài theo
quy định của pháp luật nước ngoài.
Tổ chức tín dụng nước ngoài được hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới hình thức
văn phòng đại diện, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công
ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài.
Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài là loại hình ngân hàng thương

mại; công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài là loại hình công ty
tài chính; công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước
ngoài là loại hình công ty cho thuê tài chính theo quy định của Luật này.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài,
không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi
nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 Quy định về việc cấp giấy phép
và tổ chức, hoạt động của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, VPĐD của TCTD
nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam (có hiệu lực
kể từ 01/02/2012).
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là ngân hàng thương mại được thành lập tại Việt
Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng nước ngoài; là pháp nhân Việt
Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập, tổ chức
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ sở hữu là một ngân hàng
nước ngoài hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên trong đó phải có một ngân
hàng nước ngoài sở hữu 50% vốn điều lệ.
- Ngân hàng liên doanh là ngân hàng thương mại được thành lập tại Việt Nam, bằng
vốn góp của Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và Bên nước ngoài
(gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh; là pháp nhân
Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam. Ngân hàng liên doanh được thành lập, tổ chức dưới
12
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nhưng không quá 05 thành viên,
trong đó một thành viên và người có liên quan không được sở hữu vượt quá 50% vốn điều lệ.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài,
không có tư cách pháp nhân, được ngân hàng nước ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi
nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
- Văn phòng đại diện là đơn vị phụ thuộc của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước
ngoài khác có hoạt động ngân hàng. Văn phòng đại diện không được thực hiện các hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam.
- Tổ chức tín dụng nước ngoài là tổ chức tín dụng được thành lập ở nước ngoài theo

quy định của pháp luật nước ngoài.
4.3 Điều kiện cấp Giấy phép thành lập và hoạt động
* Đối với ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài
1. Các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng.
2. Điều kiện đối với thành viên sáng lập, chủ sở hữu là tổ chức tín dụng nước ngoài:
a) Không vi phạm nghiêm trọng các quy định về hoạt động ngân hàng và các quy định
pháp luật khác của nước nguyên xứ trong vòng 05 năm liên tiếp liền kề trước năm nộp hồ sơ
đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép;
b) Có kinh nghiệm hoạt động quốc tế, được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp
hạng từ mức ổn định trở lên, mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động
bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận
lợi;
c) Có lãi trong 05 năm liên tiếp liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và
đến thời điểm cấp Giấy phép;
d) Có tổng tài sản có ít nhất tương đương 10 tỷ đôla Mỹ vào cuối năm liền kề năm nộp
hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép;
đ) Được cơ quan có thẩm quyền của nước nguyên xứ đánh giá đảm bảo tỷ lệ an toàn
vốn, các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác, tuân thủ đầy đủ các quy định về quản trị rủi ro và trích
lập dự phòng đầy đủ theo quy định của nước nguyên xứ vào năm liền kề năm nộp hồ sơ đề
nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép;
e) Không phải là chủ sở hữu, thành viên sáng lập, cổ đông chiến lược của tổ chức tín
dụng Việt Nam khác.
3. Thành viên sáng lập của ngân hàng liên doanh là ngân hàng thương mại Việt Nam
phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp;
b) Cam kết hỗ trợ ngân hàng thương mại cổ phần về tài chính để giải quyết khó khăn
trong trường hợp ngân hàng thương mại cổ phần khó khăn về vốn hoặc khả năng thanh khoản;
c) Không phải là cổ đông sáng lập, chủ sở hữu, thành viên sáng lập, cổ đông chiến lược
của tổ chức tín dụng khác;
d) Cổ đông sáng lập là tổ chức phải đáp ứng các điều kiện sau:

(i) Được thành lập theo pháp luật Việt Nam;
(ii) Có khả năng về tài chính để góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần và
cam kết không được dùng vốn ủy thác, vốn huy động, vốn vay, của các tổ chức, cá nhân khác
để góp vốn;
(iii) Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế và bảo hiểm xã hội theo quy định đến thời
điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép;
(iv) Có vốn chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng trong 05 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề
nghị cấp Giấy phép;
(v) Kinh doanh có lãi trong 05 năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép.
13
(vi) Trường hợp là doanh nghiệp hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có yêu cầu
vốn pháp định, phải đảm bảo vốn chủ sở hữu trừ đi vốn pháp định tối thiểu bằng số vốn góp
cam kết theo số liệu từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm liền kề thời điểm gửi hồ
sơ đề nghị cấp Giấy phép;
(vii) Trường hợp là doanh nghiệp Nhà nước, phải được cấp có thẩm quyền chấp thuận
bằng văn bản cho phép tham gia góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần theo quy
định của pháp luật;
(viii) Trường hợp là tổ chức được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm phải tuân thủ việc góp vốn theo các quy định liên quan của
pháp luật;
(ix) Trường hợp là ngân hàng thương mại:
- Có tổng tài sản tối thiểu là 100.000 tỷ đồng, tuân thủ đầy đủ các quy định về quản trị
rủi ro và trích lập dự phòng đầy đủ theo quy định tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy
phép và đến thời điểm cấp Giấy phép;
- Không vi phạm các tỷ lệ về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước trong năm liền kề năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời
điểm cấp Giấy phép;
- Tuân thủ điều kiện, giới hạn mua, nắm giữ cổ phiếu của tổ chức tín dụng theo quy
định tại khoản 6 Điều 103 Luật các tổ chức tín dụng;
- Đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sau khi góp vốn thành lập ngân hàng thương mại

cổ phần.
4. Trong thời hạn 05 năm kể từ ngày được cấp Giấy phép, các thành viên sáng lập phải
cùng nhau sở hữu 100% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước
ngoài.
* Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài
1. Các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng.
2. Điều kiện đối với ngân hàng mẹ:
a) Đáp ứng các điều kiện sau:
- Không vi phạm nghiêm trọng các quy định về hoạt động ngân hàng và các quy định
pháp luật khác của nước nguyên xứ trong vòng 05 năm liên tiếp liền kề trước năm nộp hồ sơ
đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép;
- Có kinh nghiệm hoạt động quốc tế, được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp
hạng từ mức ổn định trở lên, mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động
bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận
lợi;
- Có lãi trong 05 năm liên tiếp liền kề trước năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và
đến thời điểm cấp Giấy phép;
- Được cơ quan có thẩm quyền của nước nguyên xứ đánh giá đảm bảo tỷ lệ an toàn
vốn, các tỷ lệ bảo đảm an toàn khác, tuân thủ đầy đủ các quy định về quản trị rủi ro và trích
lập dự phòng đầy đủ theo quy định của nước nguyên xứ vào năm liền kề năm nộp hồ sơ đề
nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép;
b) Ngân hàng mẹ có tổng tài sản có ít nhất tương đương 20 tỷ đôla Mỹ vào năm liền kề
năm nộp hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép và đến thời điểm cấp Giấy phép.
* Đối với Văn phòng đại diện
a) Tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng là
pháp nhân được phép hoạt động ngân hàng ở nước ngoài;
b) Quy định của pháp luật của nước nơi tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước
ngoài khác có hoạt động ngân hàng đặt trụ sở chính cho phép tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ
14
chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng được phép thành lập văn phòng đại diện tại

Việt Nam.
c) Trưởng văn phòng đại diện có đủ năng lực trách nhiệm dân sự theo quy định của
pháp luật Việt Nam, không thuộc đối tượng bị cấm quản lý doanh nghiệp theo quy định của
Luật Doanh nghiệp, không đồng thời là Tổng Giám đốc (Giám đốc) của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam.
4.4 Nội dung hoạt động
1. Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiến hành bất
kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi
trong Giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho từng ngân hàng thương mại, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
2. Các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài quy định tại Luật các tổ chức tín dụng thực hiện theo hướng dẫn
của Ngân hàng Nhà nước.
3. Nội dung hoạt động của ngân hàng 100% vốn nước ngoài phải là hoạt động mà chủ
sở hữu, ngân hàng nước ngoài sở hữu 50% vốn điều lệ của ngân hàng 100% vốn nước ngoài
đang được phép thực hiện tại nước nơi chủ sở hữu, ngân hàng nước ngoài đặt trụ sở chính.
4. Nội dung hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải là hoạt động mà ngân
hàng mẹ đang được phép thực hiện tại nước nơi ngân hàng mẹ đặt trụ sở chính.
5. Văn phòng đại diện được thực hiện các hoạt động theo quy định tại Điều 125 Luật
các tổ chức tín dụng. Trưởng Văn phòng đại diện không được ký các hợp đồng kinh doanh,
đầu tư của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng với
các cá nhân, tổ chức Việt Nam.
* Đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài:
1. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thực hiện các hoạt động ngân hàng thương
mại, trừ các hoạt động sau đây:
a) Hoạt động góp vốn, mua cổ phần;
b) Hoạt động mà ngân hàng nước ngoài không được phép thực hiện tại nước nơi ngân
hàng nước ngoài đặt trụ sở chính.
2. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được cung ứng một số dịch vụ ngoại hối trên
thị trường quốc tế cho khách hàng tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về ngoại hối.

3. Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể nội dung hoạt động trong Giấy phép cấp cho
chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Luật này, phù hợp với quy mô, loại hình,
lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nước ngoài.
* Đối với văn phòng đại diện:
Văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt
động ngân hàng được thực hiện các hoạt động sau đây theo nội dung ghi trong Giấy phép do
Ngân hàng Nhà nước cấp:
1. Làm chức năng văn phòng liên lạc;
2. Nghiên cứu thị trường;
3. Xúc tiến các dự án đầu tư của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác
có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam;
4. Thúc đẩy và theo dõi việc thực hiện các hợp đồng, thỏa thuận ký giữa tổ chức tín
dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng với tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp Việt Nam, dự án do tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có
hoạt động ngân hàng tài trợ tại Việt Nam;
5. Hoạt động khác phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
15
V. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KHỐI NGÂN HÀNG NƯỚC
NGOÀI
5.1 Thị phần:
Nhóm các ngân hàng nước ngoài chiếm một thị phần khiêm tốn, chưa đến 10%, trong
cả lĩnh vực tín dụng và cho vay. Nguyên nhân lý giải hiện trạng này chính là những hạn chế về
đối tượng khách hàng các ngân hàng này phục vụ cũng như số lượng và loại hình tiền tệ được
phép huy động và mạng lưới hoạt động. Mức độ của những hạn chế sẽ khác nhau theo từng
loại hình chi nhánh ngân hàng nước ngoài (những ngân hàng Mỹ và châu Âu ít bị hạn chế
hơn), ngân hàng liên doanh và công ty (cho thuê) tài chính. Tuy vậy, các tổ chức tín dụng
nước ngoài có một số lợi thế nhất định để vượt qua tình hình này.
Mức quy định trần với các khoản cho vay, 15% vốn điều lệ, áp dụng cho một khách
hàng trên thực tế không phải là một hạn chế đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài vì tỷ
lệ này sẽ áp dụng cho vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ tại nước ngoài. Các chi nhánh nước

ngoài tại Việt Nam có thể nhờ vào năng lực tài chính dồi dào của ngân hàng mẹ mà không bị
giới hạn như các ngân hàng Việt Nam. Ngoài ra, họ có kinh nghiệm phong phú về đánh giá dự
án, xếp hạng rủi ro và quản lý nợ, từ đó tỷ lệ nợ quá hạn sẽ thấp. Một điều quan trọng khác là
nhóm ngân hàng nước ngoài không phải tuân thủ các chính sách cho vay chặt chẽ theo quy
định Chính phủ Việt Nam như các ngân hàng Việt Nam.
Nếu loại trừ các khoản vay ưu đãi từ các ngân hàng TMQD cho các dự án Chính phủ,
thị phần của các ngân hàng nước ngoài trong thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn sẽ tăng lên
tới 15-17%. Ngân hàng nước ngoài vốn được xem là có những ưu thế kế thừa như ngân hàng
của một quốc gia sẽ được lựa chọn là ngân hàng giao dịch của các công ty có nguồn gốc từ
quốc gia đó. Việc áp dụng nghiêm khắc các chuẩn mực quốc tế trong quản lý tài chính như
CAMEL(s) đã giúp đảm bảo tính giải trình và sự lành mạnh về tình hình tài chính của những
ngân hàng trong nhóm này.
Công nghệ và quản trị doanh nghiệp chính là những lợi thế cạnh tranh của các tổ chức
tín dụng nước ngoài. Nhóm ngân hàng này thường đi trước các ngân hàng Việt Nam trong
việc giới thiệu những dịch vụ ngân hàng hiện đại như ngân hàng điện tử, và các công cụ phái
sinh. Hiện tại, nhu cầu thị trường cho các dịch vụ này còn thấp dù sẽ gia tăng trong tương lai
và chiếm một phần lớn trong doanh thu của ngân hàng.
Ngân hàng nước ngoài lợi thế hơn ngân hàng nội trong phát triển các lĩnh vực tài chính
doanh nghiệp, kinh doanh vốn và thị trường ngoại hối, thanh toán quốc tê và tài trợ chuỗi cung
ứng. Năm qua họ thu xếp các khoản tín dụng lớn, phát hành trái phiếu quốc tế cho các tập
đoàn, với tham vọng tăng thị phần tín dụng doanh nghiệp trong nước. Do có ưu thế khác của
ngân hàng nước ngoài là lượng vốn dồi dào nên giải ngân nhanh, bên cạnh đó ngân hàng nước
ngoài còn có cách bán chéo sản phẩm, tạo ra một gói dịch vụ tổng thể thuận tiện cho khách
hàng.
Tuy nhiên vẫn tồn tại những yếu tố khiến ngân hàng nước ngoài khó tiếp cận khách
hàng đó là họ chưa hiểu được văn hóa khách hành như các ngân hàng trong nước.
Hiện tại thị phần của các ngân hàng nước ngoài chỉ chiếm khoảng 11%, quy mô quá
nhỏ là bất lợi của ngân hàng ngoại. Nhiều ngân hàng nhỏ chưa có chiến lược cạnh tranh vì cho
rằng ngân hàng ngoại chưa thâm nhập, đe dọa thị phần của họ. Tuy nhiên ngân hàng thành thị
lớn đã nghĩ đến việc này và chuẩn bị cho chiến lược cạnh tranh. Chính các ngân hàng quốc

doanh và ngân hàng thương mại cổ phần lớn như STB, VCB,… đang bị các ngân hàng nước
ngoài quan tâm đến. Họ có những chiến lược lôi kéo khách hàng từ các ngân hàng lớn này.
Theo lộ trình hội nhập từ ngày 01/01/2011 các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam sẽ
được huy động tiền gửi bằng VND không hạn chế bởi vốn pháp định của chi nhánh tại Việt
Nam. Điều này sẽ làm có lợi cho ngân hàng nước ngoài và toàn ngành ngân hàng.
16
Ngân hàng trong nước có ưu thế hoạt động lâu đời ở thị trường Việt Nam, mạng lưới
phủ rộng, trong khi đó Ngân hàng nước ngoài sử dụng các hình thức giao dịch như SMS,
mobile, internet để đưa dịch vụ đến khách hàng nhiều hơn là mở rộng mạng lưới.
Trong khi ngân hàng trong nước dùng chiêu khuyến mãi lãi suất, quà tặng…để lôi kéo
khách hàng. Tuy nhiên ngân hàng nước ngoài không dùng các chiêu thức này mà dùng chính
chất lượng sản phẩm và uy tín thương hiệu để khẳng định chỗ đứng. Ngân hàng nước ngoài
chú ý đến vấn đề mà ngân hàng trong nước chưa chú tâm tới đó là bảo hiểm tiền gửi. Không
chỉ mua bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm trong nước mà còn mua bảo hiên tiền gửi ở các công
ty bảo hiểm uy tín của nước ngoài. Trên phương diện của người đi gửi tiền thì chọn lụa giữa
lãi suất cao hơn 0,5% đến 1% hay an toàn tiền gửi thì họ có xu hướng gửi tiền ở các ngân hàng
lớn uy tín, an toàn thay vì lãi suất cao.
Khách hàng mục tiêu của các ngân hàng nước ngoài là các đối tượng có thu nhập cao
và doanh nghiệp lớn, liên quan đến xuất nhập khẩu. Trong khi NHTM trong nước cạnh tranh
khốc liệt để phát triển tín dụng, chạy đua lãi suất, thì các ngân hàng nước ngoài lại đi sau phát
triển lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, kinh doanh vốn và thị trường ngoại hối, nghiệp vụ ngân
hàng toàn cầu, thanh toán quốc tế và tài trợ chuỗi cung ứng, dịch vụ lưu ký chứng khoán.
Standard Chartered dẫn đầu thị trường trong hoạt động huy động vốn cho các doanh nghiệp tại
Việt Nam.
Do chủ trương phát triển tín dụng một cách thận trọng nên chất lượng tín dụng của các
ngân hàng khối ngoại rất tốt. Tỷ lệ nợ xấu ngân hàng vốn 100% nước ngoài chỉ chiếm 0,4%
tổng dư nợ cho vay.
Các ngân hàng nước ngoài rất quan tâm đến mảng bán lẻ thông qua việc thường xuyên
tung ra các sản phẩm, dịch vụ với nhiều tiện ích.
Thị trường đang chứng kiến nỗ lực lấn sân của khối ngân hàng thương mại cổ phần, tuy

nhiên cái bóng của khối quốc doanh vẫn còn rất lớn và có những đặc thù khó bị chia sẻ.
Những năm gần đây khối các ngân hàng quốc doanh có lý do để lo ngại khi thị phần bắt đầu bị
chia sẻ. Chỉ riêng sự gia tăng về số lượng thành viên và bùng nổ về mạng lưới của khối cổ
phần cũng đã tạo áp lực lớn. Đối với khối nước ngoài, tỷ trọng của các khối ngân hàng nước
ngoài, công ty tài chính, ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng nhân dân hiện vẫn rất nhỏ trong
tổng cơ cấu huy động và tín dụng của toàn hệ thống (chỉ quanh 12% thị phần tín dụng và trên
dưới 8% tổng huy động).
Bảng 3: Thị phần tài sản, tín dụng, và huy động của các khối NHTM
Nguồn: UBGSTCQG
17
Biểu đồ 1: Thị phần của NHLD & ngân hàng nước ngoài
Nguồn: UBGSTCQG
5.2 Quy mô vốn chủ sở hữu/Tổng tài sản:
5.2.1 Vốn chủ sở hữu:
Năm 2012 là một năm đầy khó khăn, thách thức đối với hệ thống ngân hàng, các ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng con 100% vốn ngoại tại Việt
Nam cũng không phải là ngoại lệ.
Tính đến 31/12/2012, tổng tài sản của khối ngân hàng có vốn ngoại tại Việt Nam đạt
trên 550.000 tỷ đồng (tăng 1,6% so với năm 2011), tổng vốn điều lệ đạt trên 76.000 tỷ đồng
(tăng 2,8% so với năm 2011). Các chỉ tiêu ROA, ROE, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cao hơn khối
NHTM Nhà nước và khối NHTM. Có thể nói, với sự hậu thuẫn của ngân hàng mẹ có tiềm lực
tài chính mạnh và kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt, các ngân hàng ngoại đang được coi là đối
thủ nặng ký đối với các NHTM nội địa.
Bảng 4: Tài sản và vốn của TCTD (đến 31/12/2012)
Tổng Tài sản Vốn tự có Vốn điều lệ
Tỷ
đồng
Tăng/giảm
so với
2011

Tỷ
đồng
Tăng/giảm
so với
2011
Tỷ
đồng
Tăng/giảm
so với
2011
NHTM Nhà nước 2.201.660 11,80% 137.268 18,70% 111.550 28,10%
NHTM Cổ phần 2.159.363 -4,50% 183.139 6,30% 177.624 8,10%
NHLD, CN NHNNg 555.414 1,60% 92.554 6,80% 76.138 2,80%
Công ty TC, CTTC 154.857 -8,40% 10.767 -24,10% 24.815 -1,10%
TCTD hợp tác 14.485 18,70% 2.254 3,70% 2.025 0,00%
Toàn hệ thống 5.085.779 2,50% 425.982 8,90% 392.152 11,20%
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Bảng 5: Một số chỉ tiêu hoạt động của TCTD (đến 31/12/2012)
ROA ROE
Tỷ lệ an
toàn vốn
tối thiểu
Tỷ lệ vốn ngắn
hạn cho vay
trung, dài hạn
Tỷ lệ cấp tín dụng
so với nguồn vốn
huy động (TT1)
NHTM Nhà nước 0,79% 10,34% 10,28% 21,45% 96,77%
NHTM Cổ phần 0,49% 5,10% 14,01% 17,60% 79,01%

NHLD, CN NHNNg 0,92% 4,50% 27,63% -2,03% 90,07%
Công ty TC, CTTC -0,76% -13,88% 9,25% 17,59% 126,28%
TCTD hợp tác 1,53% 8,00% 38,83% -1,01% 94,58%
Toàn hệ thống 0,62% 6,31% 13,75% 17,16% 89,35%
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2012 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
18
Vốn chủ sở hữu của NHTMNN và NHTMCP tăng nhanh từ năm 2008 đến 2011 là nhờ
có nguồn vốn thặng dư từ cổ phiếu, lợi nhuận tăng trưởng cao trong giai đoạn này đãkéo theo
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ và lợi nhuận giữlại tăng lên. Các ngân hàng liên doanh và ngân
hàng 100% vốn nước ngoài có mức tăng trưởng vốn chủ sở hữu chậm hơn là do không có
phần thặng dư vốn cổ phần. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của 2 nhóm NHTMCP và ngân hàng
nước ngoài giảm nhẹ năm 2012 so với năm 2011; trong khi vốn chủ sở hữu của các NHTMNN
vẫn tăng. Sự sụt giảm vốn chủ sở hữu của 2 nhóm ngân hàng trên trong năm 2012 là do nợ xấu
phát sinh tăng, nguồn lợi nhuận chưa phân phối của năm 2011 sẽ được kết chuyển cho mục
đích trích lập dự phòng rủi ro để giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an toàn và làm trong sạch bảng
tổng kết tài sản hơn.
Biểu đồ 2: Vốn chủ sở hữu của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012
5.2.2 Tổng tài sản:
Diễn biến tổng tài sản của 3 khối ngân hàng trong giai đoạn 2008-2012 cho thấy xu
hướng cũng tương đồng với xu hướng dịch chuyển của vốn chủ sở hữu. Tổng tài sản của khối
NHTMNN tăng trưởng ổn định trong cả giai đoạn, trong khi khối NHTMCP sụt giảm tổng tài
sản đến cuối năm 2012. Tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài cũng theo xu hướng của
NHTMCP, giảm nhẹ đến cuối năm 2012.
Biểu đồ 3: Tổng tài sản của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012
19
Năm 2012, tổng tài sản của khu vực NHTMNN vẫn tăng trưởng cao hơn so với năm
2011, trong khi hai khu vực NHTMCP và ngân hàng nước ngoài giảm sút. Nguyên nhân tổng
tài sản của khu vực NHTMNN tăng một phần có sự đóng góp không nhỏ của việc
Vietcombank bán 15% vốn cổ phần cho ngân hàng Mizuho của Nhật Bản, tương đương
11.800 tỷ đồng với thặng dư vốn cổ phần lên tới hơn 8.300 tỷ đồng.

Độ sâu tài chính của Việt Nam cũng được cải thiện đáng kể dưới tác động của các dòng
vốn ĐTNN cũng như sự tham gia sâu rộng hơn của các NHTM nước ngoài. Các ngân hàng
nước ngoài cũng chuẩn bị từ sớm và tăng cường sự hiện diện tại Việt Nam thông qua hàng loạt
thương vụ đầu tư vào các ngân hàng trong nước. Giá trị từng thương vụ khá đa dạng, đầu tư
thường kèm theo những hỗ trợ kỹ thuật từ ngân hàng nước ngoài để tăng cường năng lực quản
trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro. Tính đến tháng 12/2012, theo thống kê sơ bộ, đã có 23
thương vụ được hoàn tất với tổng giá trị lên tới 2,2 tỉ USD từ ngân hàng nước ngoài đến từ các
khu vực châu Âu, Châu Á, Canada. Tuy nhiên, các thương vụ lớn nhất thường từ các ngân
hàng Nhật Bản.
Bảng 6: Các thương vụ đầu tư cổ phiếu của các ngân hàng nước ngoài
vào các ngân hàng trong nước
STT Bên bán Bên mua Thời gian mua bán
Giá trị
(Triệu USD)
% vốn mua
1 Vietinbank Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ 12/2012 743.0 19.7%
2 Vietcombank Mizuho 07/2011 760.0 20.0%
3 Vietinbank IFC 01/2011 159.3 10.0%
4 NH Phát triển Mekong Fullerton Financial Holding 12/2010 45.0 15.0%
5 VIB Bank Commonwealth bank 09/2010 120.0 15.0%
6 An Binh Bank May bank 12/2009 21.0 5.0%
7 OCB BNP Paribas 12/2009 5.3 5.0%
8 Tien Phong Bank SBI Ven Holding Pte.Ltd 08/2009 4.8 4.9%
9 Tien Phong Bank Vietnam Japan Fund 08/2009 14.0 15.1%
10 Anbinhbank May bank 12/2008 94.0 15.0%
11 Techcombank HSBC 10/2008 61.6 5.0%
12 Seabank France's Societe Generale 08/2008
Societe Generale mua 15% CP
của Seabank. Hiện đang nắm
giữ 106,7 triệu CP của Seabank

13 ACB Standard Charter 07/2009
Standard chartered mua thêm
16 triệu cổ phiếu ACB từ IFC,
nâng tỷ lệ sở hữu tại ACB từ
8,84% lên 15%. Giá 140,000/cp
14 Eximbank Sumitomo M.bank 05/2008 225.0 15.0%
15 Vpbank OCBC 11/2007 25.5 5.0%
16 Habubank Deutsche Bank 10/2007
Deutsche Bank AG mua 10%
cổ phần HBB (khoảng 40 triệu
CP). Hiện tại, được chuyển
thành 30,375 triệu cổ phiếu
SHB, chiếm 3,426% vốn điều lệ
mới của SHB
17 Techcombank HSBC 01/2007 33.7 5.0%
18 NH phương nam United Oversea Bank 01/2007 28.2 15.0%
19 OCB BNP Paribas 11/2006 7.5 10.0%
20 VP Bank OCBC 03/2006 15.7 10.0%
21 Techcombank HSBC 12/2005 17.0 10.0%
22 ACB Standard Charter 06/2005 22.1 8.6%
20
23 Sacombank ANZ 03/2005 23.2 9.8%
(Nguồn: Stoxplus và UBGSTCQG)
5.3 Hoạt động kinh doanh:
5.3.1 Huy động:
Huy động vốn từ nền kinh tế của 3 khối ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ ràng, đặc
biệt là 2 khối NHTMNN và NHTMCP. Tốc độ tăng trưởng huy động vốn bình quân của khu
vực NHTMCP tăng 33%/năm trong giai đoạn 2008-2012, trong khi NHTMNN chỉ tăng trung
bình 18% và ngân hàng nước ngoài tăng 20%. Nhờ tốc độ tăng trưởng huy động vốn cao nên
khoảng cách số dư huy động giữa hai khu vực NHTMNN và ngân hàng nước ngoài giảm rất

nhiều, tiệm cận ngay từ năm 2010.
Biểu đồ 4: Diễn biến huy động vốn của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012
Huy động vốn của khu vực NHTMNN tăng nhanh hơn trong năm 2012 so với hai khu
vực kia là do sự cố tại một số NHTMCP. Thông tin về sự dịch chuyển nhân sự tại các
NHTMCP hàng đầu tại Việt Nam đã tạo ra những tin đồn về mất khả năng thanh khoản tại các
ngân hàng này. Hậu quả là một lượng tiền lớn được rút ra trong một một thời gian ngắn tại các
ngân hàng này và được chuyển tới các NHTMNN. Các ngân hàng nước ngoài có tốc độ tăng
trưởng huy động vốn cũng theo xu hướng chung của nền kinh tế. Khi chính sách tiền tệ được
thắt chặt để kiểm soát lạm phát từ cuối năm 2011, tốc độc tăng trưởng huy động vốn của khối
ngân hàng nhà nước đã chững lại trong năm 2012.
Tuy nhiên, quy mô huy động vốn giữa ba khu vực ngân hàng đã có sự thay đổi lớn từ
năm 2008 đến 2011. Nếu số dư huy động vốn năm 2008 giữa NHTMCP và ngân hàng nước
ngoài chỉ chênh lệch khoảng hơn 300 nghìn tỷ đồng thì sự chênh lệch giữa hai nhóm đến cuối
năm 2012 đã kéo rộng tới hơn 3,5 lần, tương đương với mức chênh lệch hơn 1,1 nghìn tỷ
đồng. Như vậy, sự chênh lệch này cho thấy các NHTMCP đã rất nỗ lực trong việc thực hiện
chính sách giá, chăm sóc khách hàng và mở rộng quy mô hoạt động. Điều này đồng nghĩa với
việc các NHTMCP có đủ năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài cólợi thế hơn về
kinh nghiệm quản lý, công nghệ và sự phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ. Ngược lại, khoảng
cách huy động vốn giữa nhóm NHTMNN và NHTMCP đã thu hẹp đáng kể từ năm 2008 đến
2012. Nếu khoảng cách giữa hai nhóm ngân hàng này là trên 300 nghìn tỷ năm 2008 thì
khoảng cách đó đã thu hẹp xuống dưới 60 nghìn tỷ năm 2012.
5.3.2 Tín dụng:
Nếu khoảng cách về số dư huy động vốn có sự thay đổi mạnh mẽ trong vòng bốn năm
qua thì dư nợ của các nhóm ngân hàng này cũng có sự dịch chuyển nhưng chưa nhiều. Biểu đồ
21
5 mô tả tín dụng của ba khu vực này với tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhất trong 2 năm
2009-2010 thuộc về nhóm NHTMCP.
Biểu đồ 5: Diễn biến dư nợ tín dụng của các nhóm ngân hàng giai đoạn 2008-2012
Mặc dù tự do hóa tài chính của Việt Nam đã cho phép ngân hàng nước ngoài được hoạt
động như NHTM trong nước từ năm 2007 nhưng dư nợ tín dụng đã không theo kịp các

NHTMCP. Các ngân hàng nước ngoài đã được phép huy động tiền gửi tiết kiệm của dân cư
nhưng tốc độ tăng trưởng huy động vốn tương đối thấp hơn so với hai nhóm ngân hàng nên đã
hạn chế cho vay của các ngân hàng này. Một lý do khác giải thích cho sự chênh lệch giữa hai
nhóm NHTMCP và ngân hàng nước ngoài là các NHTMCP có thể đẩy mạnh cho vay các khu
vực tăng trưởng kinh tế nóng như lĩnh vực bất động sản trong giai đoạn 2007-2010. Khoảng
cách này đã nới rộng đến 4 lần từ năm 2008 đến 2009. Tuy nhiên, lý do cũng cóthể là sự đầu
tư an toàn của các ngân hàng nước ngoài nhằm hạn chế rủi ro tín dụng (vì kinh nghiệm và bài
học của họ trải qua ở các nền kinh tế phát triển như ở Mỹ năm 2007-2008 hay ở Nhật Bản
trong những năm đầu 1990).
Theo VNEconomy, dữ liệu cập nhật đến 31/03/2012 cho thấy, khối NHTM nhà nước
chiếm quá nửa tổng nợ xấu, tới 50,5%; nhóm thứ hai là khối NHTM cổ phần với 27,8%; nhóm
ngân hàng nước ngoài chiếm khá nhỏ (do sự hạn chế về quy mô) với 4,2%; nhóm các tổ chức
tín dụng khác chiếm 17,5%.
Biểu đồ 6: Nợ xấu của các TCTD tính đến 31/03/2012.
22
Nguồn: VNEconomy
Sự hiện diện của các NHTM nước ngoài không chỉ làm tăng cạnh tranh và năng lực
quản trị của hệ thống ngân hàng, mà còn giúp đa dạng hóa các loại hình dịch vụ tài chính. Tuy
nhiên, trái với lo ngại của các ngân hàng trong nước, hoạt động của khối ngân hàng nước
ngoài và NHLD không có nhiều đột biến. Tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động của nhóm
NHLD, ngân hàng nước ngoài không cao nhưng chắc chắn, ổn định hơn. Thậm chí, trái ngược
với các NHTM trong nước, nhóm NHLD, ngân hàng nước ngoài duy trì mức tăng trưởng thấp
hơn các NHTM trong nước, dẫn tới thị phần tương đối của nhóm này bị giảm trong giai đoạn
2007 – 2010.
Gần đây, với tốc độ tín dụng và huy động được duy trì, các NHLD, ngân hàng nước
ngoài gia tăng đáng kể thị phần về vốn chủ sở hữu để chuẩn bị cho việc mở rộng hoạt động
trong thời gian tới. Đặc biệt, tỷ lệ nợ xấu của khối này lại rất thấp, cho thấy năng lực quản trị
rủi ro, cũng như khả năng lựa chọn các dự án hiệu quả để tài trợ tín dụng. Hơn nữa, hoạt động
của khu vực ngân hàng nước ngoài gắn rất nhiều với hoạt động của khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài - khu vực phát triển năng động hàng đầu và là động lực cho xuất khẩu

và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua. Sâu xa hơn, thị phần tín dụng khá
ổn định của khối ngân hàng nước ngoài một phần còn do sự kém mặn mà của khối này đối với
lợi nhuận từ tín dụng trong nước.
23
VI. SẢN PHẨM DỊCH VỤ
Các sản phẩm tiêu biểu hiện nay của các ngân hàng nước ngoài
Đối với khách hàng cá nhân: tiền gửi, sản phẩm thẻ, vay tiêu dùng, vay mua nhà, bảo
hiểm, dịch vụ thanh toán hóa đơn tự động, dịch vụ ngân hàng trực tuyến…
Đối với khách hàng doanh nghiệp: tiền gửi, dịch vụ quản lý ngoại hối, tài trợ thương
mại và vốn lưu động…
Gói dịch vụ HSBC Premium là gói dịch vụ cao cấp với nhiều tiện ích và hỗ trợ từ phía
Ngân hàng, giải quyết các yêu cầu về giao dịch tài chính dành cho khách hàng cá nhân.
ANZ tiên phong trong các sản phẩm thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng không cần thế chấp….
Ngân hàng này có chương trình Tận hưởng cuộc sống với ANZ SPOT trong nước và quốc tế,
với nhiều ưu đãi. Khách hàng có thể thanh toán sau tại 30 triệu điểm chấp nhận thẻ tại Việt
Nam và thế giới qua máy ATM và Internet.
Việc mở cửa theo cam kết WTO là điều kiện mới để khối ngân hàng ngoại có thể tranh
giành thị phần với các ngân hàng trong nước. HSBC là một trong 5 ngân hàng 100% vốn nước
ngoài đầu tiên được cấp phép tại Việt Nam (cùng với Standard Chartered, ANZ, Shinhan và
Hong Leong). Cạnh tranh về lãi suất là một trong nhiều chiến lược mà các ngân hàng nước
ngoài đang theo đuổi.
Theo lộ trình thực hiện cam kết WTO, các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam được cung cấp hầu hết các loại dịch vụ ngân hàng như cho vay, nhận tiền gửi, cho
thuê tài chính, kinh doanh ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ phái sinh, môi
giới tiền tệ, quản lý tài sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính. Đặc
biệt, riêng về hoạt động tiền gửi, năm 2011 bắt đầu có thay đổi lớn. Các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài được nhận tiền gửi VND không giới hạn từ các pháp nhân, lộ trình huy động từ cá
nhân Việt Nam sẽ được nới lỏng trong vòng 5 năm kể từ ngày 1/1/2007 ở mức tối đa 650%
vốn pháp định của ngân hàng, tiến tới không phân biệt đối sử giữa ngân hàng Việt Nam với
ngân hàng nước ngoài.

Mặc dù có sự chuyển biến mạnh về mặt chính sách cho các ngân hàng nước ngoài
nhưng việc các ngân hàng nước ngoài có thể chiếm thị phần ở mảng huy động tiền gửi VND
vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là quy mô ngân hàng khối ngoại ở Việt Nam còn ít, các điểm giao
dịch ngân hàng khối ngoại không được phép mở ở các điểm nằm ngoài trụ sở.
Những động thái quyết liệt hơn khối ngân hàng trong nước trong phát triển tín dụng
tiêu dùng.
Ngay từ những ngày đầu tiên của năm mới, các ngân hàng ngoại đua nhau mời chào
khách vay tiêu dùng, trong khi ngân hàng trong nước siết chặt khoản tín dụng này.
Theo các chuyên gia của Công ty Smart Finance, các ngân hàng nước ngoài đang chiếm
ưu thế trong cho vay tiêu dùng, do điều kiện vay dễ dàng và thủ tục nhanh chóng. Tại một số
ngân hàng như ANZ, HSBC, Standard Chartered…, khách hàng không cần tài sản thế chấp
hoặc giấy bảo lãnh, mà vẫn có thể dễ dàng được vay lên tới 500 triệu đồng chỉ trong vòng 1 - 2
ngày.
Đặc biệt, trong khi các ngân hàng trong nước co hẹp mục đích vay vốn (vay mua hoặc
sửa nhà, mua ô tô…), thì các ngân hàng ngoại lại đưa ra điều kiện rất mở. Điều kiện vay dễ,
thủ tục nhanh gọn, mục đích vay đa dạng…, khiến các ngân hàng nước ngoài ngày càng hút
khách vay tại thị trường Việt Nam, dù lãi suất cho vay cao hơn so với khối ngân hàng trong
nước.
Hiện lãi suất cho vay tín dụng tiêu dùng tín chấp của ANZ là 20 - 24%/năm tính theo
dư nợ giảm dần, tùy thuộc kỳ hạn vay và số tiền vay. Lãi suất cho vay tại một số ngân hàng
nước ngoài khác, như HSBC, Standard Chartered, CitiBank… cũng ở mức tương tự.
24
Trong khi khối ngân hàng nước ngoài đang dồn dập tấn công khách hàng ngay từ đầu
năm, thì nhiều ngân hàng trong nước lại tỏ ra e dè với sản phẩm này. Tại một số ngân hàng
khác như BIDV, Eximbank…, ngân hàng chủ trương thận trọng giải ngân tín dụng tiêu dùng,
đặc biệt là cho vay tín chấp.
Lần đầu tiên ngân hàng nước ngoài cho vay vốn trồng lúa
Công ty CP Bảo vệ thực vật An Giang (AGPPS) vừa được Standard Chractered - ngân
hàng lớn nhất của Anh ký hợp đồng tín dụng hỗ trợ 70 triệu USD (tương đương 1.500 tỷ đồng)
để đầu tư cho “cánh đồng lớn” (CĐL). Nguồn vốn này không chỉ hỗ trợ cho AGPPS trong sản

xuất lúa gạo, mà sẽ còn là liều thuốc “tăng lực” cho người trồng lúa.
Gói Hợp đồng tín dụng hỗ trợ 70 triệu USD được chia làm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn
35 triệu USD. Giai đoạn 1 đã được AGPPS đầu tư trọn vẹn vào các hạng mục phục vụ cho mô
hình CĐL (nhà kho, hệ thống sấy lúa, xây dựng các chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho nông
dân…
Dự kiến, giai đoạn 2 (35 triệu USD) cũng sẽ tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho các hoạt động
cũng như cơ sở vật chất, xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ mô hình.
Theo nhận định của Ngân hàng Nhà nước, sau năm 2015, bán lẻ sẽ là thị trường chủ
đạo mà các ngân hàng nước ngoài tập trung khai thác, dù khối này hiện mới chiếm khoảng
10% thị phần bán lẻ. Hầu hết ngân hàng nước ngoài như ANZ, HSBC, Standard Chartered,
HSBC, Shinhan Vina đều đánh giá rất cao triển vọng thị trường bán lẻ của Việt Nam và
không giấu tham vọng tăng thị phần trong lĩnh vực này. Hiện nay, có tới gần 90% khách hàng
bán lẻ của nhiều ngân hàng nước ngoài là người Việt Nam.
25

×