Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

khủng hoảng nợ công của hy lạp, liên hệ và bài học cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.56 KB, 27 trang )

Kinh tế vĩ mô II Trang 1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Vào năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu bắt nguồn từ Hy Lạp đã
lan mạnh sang các quốc gia Châu Âu khác, ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu và
trở thành một vấn nạn nhức nhối trong thời gian kéo dài. Ảnh hưởng của nó tới nền
kinh tế thế giới trong thời gian qua đã cho thấy, nợ công là một vấn đề mang tính
toàn cầu mà bất cứ một quốc gia nào dù mạnh hay yếu cũng đều có nguy cơ gặp
phải.
Việt Nam là một nước có quy mô nền kinh tế nhỏ và đang phát triển. Vì thế,
việc chính phủ đi vay nợ để đầu tư phát triển nền kinh tế và cho chi tiêu chính phủ
là điều khó tránh khỏi. Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu
chững lại, do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và việc không sử
dụng dòng vốn đầu tư một cách hiệu quả nhằm thúc đấy tăng trưởng. Những số
liệu thống kê cả của Việt Nam và quốc tế đều cho thấy Việt Nam thường xuyên có
thâm hụt ngân sách. Tình trạng nợ công của Việt Nam cũng đang có xu hướng tăng
lên trong khi hiệu quả đầu tư của Việt Nam lại đang có xu hướng giảm xuống.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò của việc nghiên cứu nợ công để đưa ra các
chính sách phù hợp phát triển kinh tế đất nước, trong tiểu luận này, nhóm chúng
em xin trình bày về vấn đề “Khủng hoảng nợ công của Hy Lạp, liên hệ và bài
học cho Việt nam”. Những bài học từ khủng hoảng nợ công của Hy Lạp là kinh
nghiệm quý giá cho Việt Nam trong quá trình phát triển về quản lý nợ công và
thâm hụt ngân sách. Do hạn chế về thời gian và trình độ, bài viết sẽ khó tránh khỏi
Kinh tế vĩ mô II Trang 2
những sai sót trong quá trình nghiên cứu. Vì thế, chúng em rất mong nhận được sự
đánh giá, hướng dẫn của thầy. Chúng em xin chân thành cảm ơn.
PHẦN 1: Nợ công và khủng hoảng nợ công
I. Khái niệm nợ công
Năm 2009, Quốc hội đã ban hành Luật quản lý nợ công, được xem là một
bước tiến bộ lớn trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Theo
Bộ Luật này thì nợ công bao gồm nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ


của chính quyền địa phương.
• Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát
hành theo quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm các khoản
nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách
tiền tệ trong từng thời kỳ.
• Nợ được chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh.
• Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Theo WB (2002) thì nợ công là toàn bộ những khoản nợ của Chính phủ và
những khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh.
Còn theo IMF (2010), thì nợ công được hiểu là nghĩa vụ trả nợ của khu vực
công. Đi kèm với đó là định nghĩa cụ thể về khu vực công, bao gồm khu vực Chính
phủ và khu vực các tổ chức công.
II. Bản chất kinh tế của nợ công
− Nợ công xuất phát từ thâm hụt ngân sách
Kinh tế vĩ mô II Trang 3
Xét về bản chất kinh tế, nợ công xuất phát từ thâm hụt ngân sách, hay tổng
chi tiêu của chính phủ nhiều hơn tổng các nguồn thu của mình. Để làm giảm mức
thâm hụt ngày, chính phủ phải tăng nguồn thu ngân sách, hoặc cắt giảm chi tiêu. Cắt
giảm chi tiêu không phải là một việc dễ dàng trong ngắn hạn, khi những kế hoạch
chi tiêu của chính phủ đã được hoạch định cụ thể. Chính vì thế, chính phủ chỉ có thể
tìm cách gia tăng nguồn thu của mình.
Có hai cách để gia tăng nguồn thu chính phủ. Thứ nhất, chính phủ có thể tăng
thuế, vốn là nguồn thu trực tiếp và lớn nhất của mình. Tuy nhiên, tăng thuế có thể có
ảnh hưởng tiêu cực, đó là làm giảm tiêu dùng, giảm động lực lao động và sản xuất
dẫn đến suy thoái kinh tế. Thứ hai, chính phủ có thể tăng nguồn thu thông qua vay
nợ, cả vay trong nước và vay quốc tế. Để làm được việc này, chính phủ sẽ yêu cầu

Ngân hàng trung ương bán cổ phiếu cho giới đầu tư tư nhân trong nước và quốc tế.
Các khoản vay này sẽ làm gia tăng nợ công. Như vậy có thể thấy nợ công là hệ quả
trực tiếp của thâm hụt ngân sách.
− Tác động của thâm hụt ngân sách và nợ công
Thâm hụt ngân sách hàm ý rằng thu ngân sách của chính phủ suy giảm hoặc
có sự gia tăng trong chi tiêu. Điều này đồng nghĩa với sự gia tăng tổng cầu trong nền
kinh tế. Cùng với đó, giá cả và lạm phát cũng sẽ tăng lên. Về dài hạn, khi lạm phát
gia tăng, người lao động sẽ yêu cầu mức lương cao hơn, và các doanh nghiệp sẽ
buộc phải có chính sách cắt giảm sản xuất trước mức tiền lương mới này, tổng cung
trong nền kinh tế sẽ suy giảm. Nguồn cung vốn vay hay tổng tiết kiệm của nền kinh
tế suy giảm do thâm hụt ngân sách sẽ đẩy lãi suất tăng lên. Lãi suất gia tăng sẽ gây
khó khăn cho khu vực tư nhân trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư. Chính vì thế,
khu vực tư nhân sẽ bị thu hẹp, chính bởi sự chi tiêu không hiệu quả của chính phủ.
Lãi suất gia tăng không chỉ thu hút giới đầu tư trong nước mà còn hoàn toàn có
thể thu hút giới đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài sẽ có nhu cầu nắm
Kinh tế vĩ mô II Trang 4
giữ tài sản nội địa, do hiệu suất sinh lời cao hơn, điều này đồng nghĩa với việc dòng
vốn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế, làm cho nguồn cung ngoại tệ tăng lên. Khi cung
ngoại tệ tăng lên, giá trị của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ sẽ giảm đi, hay nói
cách khác, đồng nội tệ có thể tăng giá trị. Việc đồng nội tệ tăng giá sẽ khuyến khích
nhập khẩu thay vì xuất khẩu, và điều này sẽ dẫn đến thâm hụt thương mại và thâm
hụt cán cân vãng lai.
− Vay nợ nước ngoài tại các quốc gia đang phát triển - Original Sin
Tại các quốc gia đang phát triển, có hai nguồn tiền có thể hỗ trợ cho sự thâm
hụt thương mại này, đó là lượng kiều hối từ nước ngoài gửi về, hoặc nhận viện trợ
FDI từ nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đang phát triển còn phải vay thêm từ
nước ngoài. Việc các quốc gia đang phát triển phải đi vay nợ bằng các đồng tiền nước
ngoài được các nhà kinh tế học gọi là orginial sin. Thuật ngữ này được giải thích là
việc các quốc gia đang phát triển không có cơ hội được vay và trả nợ bằng đồng tiền
nội tệ của mình. Họ buộc phải vay bằng các đồng tiền mạnh hơn, đồng nghĩa với

việc ngay từ thời điểm ban đầu đã có sự không đồng nhất về tiền tệ trong quá trình
phát triển.
III. Rủi ro nợ công
1. Rủi ro thanh toán
Khi một quốc gia có thâm hụt ngân sách và buộc phải đi vay nợ để bù đắp sự
bội chi này, rủi ro đầu tiên đến từ việc liệu quốc gia đó có thể trả được các khoản nợ
công này trong tương lai hay không. Điều này phụ thuộc vào khối lượng nợ, có thể
được so sánh trên GDP, xuất khẩu (thường đối với nợ nước ngoài), hoặc thu ngân
sách chính phủ. Chính phủ được xem là có khả năng thanh toán nợ công nước
ngoài nếu như giá trị chiết khấu của cán cân thương mại trong tương lai lớn hơn
hoặc bằng giá trị hiện tại của khối lượng nợ công nước ngoài.
Kinh tế vĩ mô II Trang 5
2. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro từ nợ công còn được đo lường thông qua khả năng thanh khoản, hay khả
năng trả nợ nhanh của chính phủ. Chỉ mình khả năng thanh toán không đủ đảm bảo
cho sự an toàn của một quốc gia khi vay nợ, mà còn cần phải có khả năng thanh
khoản. Một quốc gia có thể có khả năng thanh toán về lý thuyết bởi quốc gia đó có
thể gia tăng nguồn thu của mình trong tương lai để chi trả cho các khoản nợ của
mình cũng như để bù đắp cho thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên, cũng quốc gia đó
hoàn toàn có khả năng vỡ nợ ngay trong ngắn hạn do đánh mất khả năng thanh khoản
của mình. Điều này xảy ra khi các thị trường đánh mất niềm tin vào quốc gia này,
khiến nó không thể tiếp cận được các nguồn tài chính cần thiết để trả nợ trong ngắn
hạn, hoặc có thể tiếp cận được với lãi suất rất cao. Chính vì vậy, một cuộc khủng
hoảng thanh khoản hoàn toàn có thể chuyển thành một cuộc khủng hoảng thanh
toán, và đây là điều mà Hy Lạp đã gặp phải trong năm 2010.
3. Rủi ro bất ổn vĩ mô
Ngoài những rủi ro trong khả năng thanh toán nợ và khả năng thanh khoản, nền
kinh tế còn gặp nhiều rủi ro do những bất ổn từ các biến số vĩ mô có thể ảnh hưởng
trực tiếp lên nợ công.
Tăng trưởng kinh tế có thể ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của nền kinh tế, bởi

nó thể hiện rằng liệu quốc gia đó có đang phát triển bền vững và ổn định hay không.
Nguồn thu ngân sách cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng trả nợ. Việc tăng
nguồn thu ngân sách sẽ làm giảm thâm hụt tài khóa, giúp giảm gánh nặng nợ công
cho chính phủ. Nợ công thường tăng khoảng hai phần ba trong khoảng thời gian
ngay sau khi diễn ra khủng hoảng tài chính. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng 84%
cuộc khủng hoảng nợ đến ngay sau cuộc một cuộc khủng hoảng tiền tệ. Do vậy, các
biến số tạo rủi ro cho một cuộc khủng hoảng tiền tệ cũng có thể là tác nhân gây nên
một cuộc khủng hoảng nợ. Trong đó, lạm phát cao cùng cú sốc tỉ giá có thể làm
Kinh tế vĩ mô II Trang 6
giảm giá trị của đồng tiền nội địa, đồng nghĩa với việc dư nợ nước ngoài sẽ tăng lên,
đi kèm với rủi ro vỡ nợ.
Kinh tế vĩ mô II Trang 7
PHẦN 2: Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp
I. Tổng quan
1. Hy Lạp trước khủng hoảng
Năm 1981, Hy Lạp vội vàng ra nhập EU. Trong thập kỉ đầu tiên là thành viên
của EU, Hy Lạp dường như ẵm được món lời lớn khi được hưởng các khoản tài trợ
hào phóng của EU. Nhờ đó các khó khăn về kinh tế chính trị được tháo gỡ.
Từ lúc bắt đầu tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Euro) vào giữa
năm 2001 cho đến năm 2008 - khi khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra, ngân sách
quốc gia Hy Lạp luôn nằm trong tình trạng thâm hụt. Theo Tạp chí Ngân hàng số
13, năm 2013, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thâm hụt ngân sách trung bình giai
đoạn này của Hy Lạp là trên 5% GDP/năm trong khi tính trung bình cho toàn khu
vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone), con số này chỉ dừng lại ở mức
2%/năm; cán cân vãng lai của quốc gia này cũng liên tục bị thâm hụt, trung bình
vào khoảng 9% GDP hàng năm so với mức trung bình của toàn khu vực Eurozone
là 1% . Bắt đầu từ cuối năm 2009, niềm tin của các nhà đầu tư vào chính phủ Hy
Lạp bắt đầu bị lung lay khi vào tháng 10, Chính phủ mới do Thủ tướng George
Papandreou lãnh đạo đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới cho năm 2009
là 12,7% GDP, gần gấp đôi con số ước tính hiện tại lúc đó là 6,7%.

Kinh tế vĩ mô II Trang 8
Biểu đồ Tổng nợ Chính phủ một số nước Châu Âu giai đoạn 1991 - 2012 (Nguồn: Morgan Stanley)
2. Diễn biến khủng hoảng Hy Lạp
Vấn đề nợ Hy Lạp bắt nguồn chính từ việc Chính phủ Hy Lạp, sau khi gia
nhập vào Khu vực đồng Euro, thay vì phải thực hiện cắt giảm chi tiêu và kiềm chế
thâm hụt ngân sách theo những tiêu chuẩn ngặt nghèo của khu vực này, lại tiếp tục
chi tiêu quá mức cho phép, đồng thời che dấu việc này bằng cách đưa ra các báo
cáo kinh tế sai lệch.
Như đã nói ở phần trước, năm 2009 chính phủ Hy Lạp thông báo thâm hụt
ngân sách sẽ có thể ở mức 12.7% GDP, gấp đôi con số công bố trước đó và cam
kết sẽ cố gắng cứu Hy Lạp khỏi khả năng vỡ nợ. Trên thực tế tổng nợ công năm
2009 của Hy Lạp là 300 tỷ euro, chiếm 12,4% GDP và thâm hụt ngân sách là
15,7% GDP vào cuối năm 2009, mức cao chưa từng có trong khu vực đồng tiền
chung châu Âu. (Số liệu theo Cơ quan Thống kê châu Âu Eurostat – 1/2014)
(Nguồn Economist Intelligence Unit)
Đến đầu năm 2010 chính phủ Hy Lạp trước sức ép từ nhiều phía đã tuyên bố
muốn giảm thâm hụt ngân sách. Ngay sau đó kế hoạch thắt lưng buộc bụng trị giá
4.8 tỷ euro được đề ra để giúp Hy Lạp thoát khỏi thâm hụt quá lớn. Trước tình hình
Hy Lạp và những nguy cơ của nó đối với các nền kinh tế thuộc EU, Bộ trưởng Tài
Kinh tế vĩ mô II Trang 9
chính các nước thuộc khu vực đồng tiền chung chân Âu chấp thuận kế hoạch 30 tỷ
euro dành cho Hy Lạp, tuy nhiên Hy Lạp tuyên bố không cần. Nhưng chỉ gần hai
tuần sau Hy Lạp lại cầu cứu EU và IMF, đổi lại nước này phải giảm chi tiêu 30 tỷ
euro trong 3 năm tới. Theo trang thông tin của IMF, tháng 5/2010, các nhà lãnh đạo
Eurozone và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố gói cứu trợ kỳ hạn 3 năm trị giá
110 tỷ euro dành cho Hy Lạp. Sau đó, vào tháng 10/2010 IMF tiếp tục cho Hy Lạp
vay thêm 2.5 tỷ euro.
Mặc dù đã nhận được các gói cứu trợ lớn, nhưng tình hình kinh tế Hy Lạp
không những không cải thiện mà còn có xu hướng trầm trọng hơn và đứng trước
nguy cơ vỡ nợ lần thứ hai. Tới năm 2011, mọi việc vẫn chưa có thay đổi đáng kể,

Hy Lạp vẫn phải đối mặt với hai vấn đề một lúc là thâm hụt ngân sách và thâm hụt
cán cân thanh toán vãng lai. Tháng 7 /2011, Hy Lạp nhận gói cứu trợ thứ hai từ các
nước thành viên Eurozone và IMF và do khu vực tư nhân đóng góp. Sau đó chính
phủ đã thực hiện hàng loạt các biện pháp tiết kiệm chi tiêu chính phủ. Các ngân
hàng ở châu Âu cũng đồng ý xóa nửa số nợ trong gói cứu trợ thứ hai cho Hy Lạp.
Tháng 2/2012 Quốc hội thông qua chính sách thắt lưng buộc bụng mới trong bối
cảnh biểu tình nổ ra khắp nơi. Uy tín của chính phủ đã giảm sút qua tỷ lệ số phiếu
bầu cử thấp. Bất chấp nhiều sự phản đối từ người dân, chính phủ vẫn tiếp tục đưa
ra hàng loạt chính sách thắt lưng buộc bụng, cắt giảm nhân viên, công chức cũng
như lương, trợ cấp…
Đến năm 2013 số người bị cắt giảm việc làm và giảm lương ngày càng tăng
cao. Điều này đã gây nên những tranh cãi lớn từ dư luận. Ngày 24/06/2013 Trái
dân chủ rút khỏi liên minh Chính phủ Hy Lạp. Chính phủ giữ đa số trong Quốc
hội. Một số luật về thuế về tài sản đã thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh.
Kinh tế vĩ mô II Trang 10
II. Nguyên nhân khủng hoảng nợ công Hy Lạp
1. Khủng hoảng kinh tế thế giới 2008
Tác nhân bên ngoài và rõ nét nhất cũng được đề cập đến là cuộc khủng hoảng
kinh tế tài chính năm 2008. Sự suy thoái kinh tế diễn ra ở quy mô lớn và trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, đặc biệt ở một số ngành như thương mại và dịch vụ. Nguồn
thu chính phủ trong giai đoạn này cũng sụt giảm đáng kể. Trong khi đó Hy Lạp lại
tung các gói cứu trợ và kích cầu để cứu nền kinh tế. Chính vì vậy, chính phủ đã
phải đi vay của các ngân hàng, tổ chức tài chính cũng như các nước khác để bù đắp
sự thiếu hụt ngân sách. Điều này cũng đã ít nhiều tác động đến cuộc khủng hoảng
diễn ra không lâu sau đó của Hy Lạp. Tuy nhiên, nhìn chung, thực trạng kích cầu
và cứu trợ khiến ngân sách bị sụt giảm cũng diễn ra ở nhiều nước ở EU và trên
thế giới nên đây cũng chỉ là một yếu tố thêm vào những vấn đề nội tại của Hy Lạp.
2. Tiết kiệm trong nước thấp dẫn tới phải vay nợ nước ngoài
Theo một nghiên cứu của PGS.Ts Phạm Thị Thanh Bình - Viện kinh tế chính
trị thế giới của Việt Nam công bố năm 2013, tỷ lệ tiết kiệm trong nước bình quân

của Hy Lạp thập niên 90 thấp chỉ ở mức 11% GDP, thấp hơn nhiều so với mức
20% của các nước như Bồ Đào Nha, Ý, Tây Ban Nha và đang có xu hướng sụt
giảm nhanh chóng. Đầu tư trong nước phụ thuộc nhiều vào các dòng vốn đến từ
bên ngoài. Lợi tức trái phiếu liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập liên minh châu
Âu EU (năm 1981) và làn sóng bán tháo trái phiếu từ dân chúng cho thấy Hy Lạp
đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có buộc chính phủ Hy Lạp tăng
cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công.
3. Chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt ngân sách.
Từ năm 2001 đến năm 2007, mặc dù tăng trưởng trung bình GDP hằng năm
của Hy Lạp cao song chi tiêu chính phủ tăng nhanh đã khiến cho ngân sách thâm
hụt năm 2007 là 6,5% GDP, vượt quá mức cho phép 3% GDP của EU (Số liệu theo
Kinh tế vĩ mô II Trang 11
Eurostat - 2014). Nhiều nhà nghiên cứu nhận định bộ máy công quyền cồng kềnh
và thiếu hiệu quả ở Hy Lạp chính là nhân tố chính đằng sau sự thâm hụt của quốc
gia này.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), vào năm 2004, chi tiêu
cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công ở Hy Lạp đã cao hơn nhiều so với các
nước thành viên OECD khác, mà không có bằng chứng nào cho thấy chất lượng
hay số lượng dịch vụ ở nước này cao hơn hẳn.
Sự già hóa dân số và hệ thống lương hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực
châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là một trong những gánh nặng cho chi tiêu
công. Ước tính tổng số tiền chi trả cho lương hưu khu vực công của Hy Lạp sẽ tăng
từ 11,5% GDP (2005) lên 24% (2050) (Theo Pension at a Glance 2013 - OECD).
4. Nguồn thu giảm sút
Đây cũng là một nhân tố dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp,
mà theo nhiều nhà kinh tế, thì việc trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở quốc gia
này là nhân tố chính đứng đằng sau. Theo một nghiên cứu của Institute of
Economy Affair ở London năm 2013, nền kinh tế không chính thức ở Hy Lạp
chiếm khoảng 24% GDP của quốc gia này. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, hệ
thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư

thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn
thuế và kinh tế ngầm phát triển ở Hy Lạp. Để tăng nguồn thu và cải thiện tình trạng
ngân sách, quốc gia này phải tích cực giải quyết những trở ngại trên.
Theo Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), Hy Lạp là một trong những nước có tỷ
lệ tham nhũng cao nhất trong EU. Năm 2008, hơn 13% người Hy Lạp đã chi tới
750 triệu euro tiền phong bì cho các lãnh đạo khu vực công và khu vực tư. Thiệt
hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Tham nhũng
không chỉ gây ra trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ, nhắm tới duy trì
Kinh tế vĩ mô II Trang 12
mức lương cao cho công chức và thực hiện các dự án có vốn đầu tư lớn thay vì
nhắm vào các dự án tạo ra nhiều việc làm và nâng cao năng suất lao động. Mức
lương cao không chỉ tạo ra gánh nặng ngân sách mà còn làm cho tính cạnh tranh
của nền kinh tế Hy Lạp yếu đi. Lương cao, đồng euro tăng giá trong suốt giai đoạn
từ 2000-2008 khiến sức cạnh tranh của hàng hóa Hy Lạp yếu và hệ quả tất yếu là
một cán cân thương mại thâm hụt triền miên.
5. Sử dụng nguồn vốn không hiệu quả.
Việc gia nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với
thị trường vốn quốc tế. Dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất
thấp, trong gần một thập kỷ qua, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về
hàng trăm tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính
phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Nhưng điều này không xảy ra, các đời chính phủ
Hy Lạp đã chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan
tâm đến các kế hoạch trả nợ, trong đó có thể kể đến như thế vận hội Olympics
2004 - kỳ thế vận hội hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử nhưng
chính phủ lại không cho phép sự xuất hiện của bất kỳ một biển hiệu quảng cáo nào
trên đường phố.
6. Tính minh bạch và niềm tin của các nhà đầu tư
Hy Lạp đã cố công làm đẹp các chỉ số kinh tế của mình để gia nhập Eurozone,
và kể cả khi đã vào Eurozone để có thể tiếp tục tiếp cận các nguồn tín dụng lãi suất
thấp. Có nhiều lý giải cho vấn đề này có thể kể ra như: Hy Lạp đã không ghi khoản

tiền phải chi trả cho lương hưu, giấu không ghi chi phí về việc mua vũ khí quốc
phòng, không ghi vào nợ công khi nhà nước phải gánh những khoản nợ tư vì nhận
bảo lãnh, ghi khoản tiền nhà nước chuyển cho doanh nghiệp quốc doanh để bù lỗ là
tăng đầu tư mua cổ phần, thay vì là chi bù lỗ, nhằm làm giảm thiếu hụt ngân sách,
ghi thuế thu không theo thực thu và theo dự báo. Tuy nhiên, sẽ là thiếu sót nếu
Kinh tế vĩ mô II Trang 13
không khẳng định một phần lỗi trong việc gian lận thống kê này là từ việc thiếu
thực thi chặt chẽ các quy định trong Hiệp ước Bình ổn và Tăng trưởng của EU xuất
phát từ những mục tiêu chính trị của khối. Ðể vào Eurozone, các quốc gia thành
viên phải tuân theo những quy định khắt khe như thâm hụt ngân sách không được
vượt quá 3% GDP và nợ không được vượt quá 60% GDP. Nếu vi phạm mà không
thực hiện các biện pháp khắc phục do Ủy ban Châu Âu (EC) và Hội đồng Liên
minh Châu Âu đưa ra thì các quốc gia vi phạm sẽ chịu một khoản phạt tương
đương với 0,5% GDP.
Vào thời điểm Hy Lạp gia nhập Eurozone, đã có những bằng chứng cho thấy
quốc gia này đưa ra những số liệu không trung thực, ECB cũng tỏ ra quan ngại về
tình hình nợ của Hy Lạp đã vượt xa trần quy định của Eurozone, nhưng các nhà
lãnh đạo châu Âu đã không phản đối. Vì lý do chính trị, họ đã cho Hy Lạp tham
gia đồng Euro. Đến năm 2004, bằng chứng về việc Hy Lạp công bố số liệu kinh tế
giả mạo đã được Eurostat thu thập đủ, nhưng các quan chức của châu Âu vẫn tuyên
bố rằng, việc trục xuất Hy Lạp khỏi Eurozone không phải là lựa chọn của họ và
cho Hy Lạp thời gian để sửa chữa. Đến năm 2009, thì một lần nữa câu hỏi về sự
gian lận số liệu của quốc gia này lại được lật lại và khủng hoảng nợ đã bùng nổ.
Các nhà đầu tư bắt đầu lo ngại khi vào tháng 10/2009, chính phủ Hy Lạp mới
lên cầm quyền đưa ra con số ước tính thâm hụt ngân sách mới tăng lên gần gấp đôi
so với con số ban đầu là. Công bố này lập tức đã khiến cho trái phiếu chính phủ Hy
Lạp bị ba tổ chức định mức tín dụng lớn của thế giới đánh tụt hạng. Tới cuối tháng
11, thì những lo ngại về tình trạng vỡ nợ của Dubai World lại dấy lên những quan
ngại về khả năng xảy ra tình trạng vỡ nợ quốc gia hàng loạt của các chính phủ dưới
sức ép của khủng hoảng tài chính, trong đó Hy Lạp với những khoản nợ nước

ngoài lớn đã trở thành mối quan tâm đặc biệt của các nhà đầu tư.
Sự nghi ngờ của giới đầu tư lên đến đỉnh điểm lần nữa vào tháng 4/2010 khi
Cơ quan Thống kê của Liên minh châu Âu (Eurostat) công bố ước tính về thâm hụt
Kinh tế vĩ mô II Trang 14
ngân sách của Hy Lạp. Với con số 13,6% GDP, ước tính của Eurostat cao hơn hẳn
so với con số ước tính được chính phủ Hy Lạp đưa ra trước đó vào tháng 10/2009.
Điều này lặp lại một câu hỏi về khả năng trả nợ của Hy Lạp.
Sự thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp đã làm mất niềm tin
của các nhà đầu tư mà quốc gia này đã tạo dựng được với tư cách là một thành viên
của Eurozone và nhanh chóng xuất hiện các làn sóng rút vốn ồ ạt khỏi các ngân
hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng khó khăn trong việc huy động
vốn trên thị trường vốn quốc tế. Trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, thì minh
bạch luôn là một đòi hỏi lớn của các nhà đầu tư và Hy Lạp là một minh chứng cho
thấy niềm tin của thế giới với một quốc gia sẽ giảm sút nhanh chóng như thế nào
khi sự minh bạch trong số liệu kinh tế của quốc gia đó liên tục bị đặt dấu hỏi.
III. Giải pháp của Hy Lạp
Tại Hy Lạp, bắt đầu từ năm 2010 đến nay, quốc gia này đã thực hiện liên tục
năm đợt chính sách nhằm tăng nguồn thu cũng như giảm chi tiêu chính phủ. Cụ
thể, đợt đầu tiên vào tháng hai năm 2010, Chính phủ Hy Lạp thông báo không tăng
lương công chức, cắt giảm phụ cấp, cắt lương làm thêm giờ… Đợt thứ hai diễn ra chỉ
một tháng sau đó, tiền phụ cấp tiếp tục giảm kèm theo là lương công chức, trong khi thuế
giá trị gia tăng tăng lên cùng hàng loạt các loại thuế mới được đặt thêm. Hai tháng
sau đó, lại một đợt chính sách khác được ban hành. Lần này chính phủ giảm cả
lương hưu, tăng tuổi về hưu và tăng thuế giá trị gia tăng. Sang đến giữa năm 2011,
lương hưu tiếp tục bị cắt giảm, các đối tượng có thu nhập cao bị đánh thuế mạnh
hơn, cùng với việc gia tăng thuế bất động sản cùng các tài sản có giá trị khác. Cuối
cùng đầu năm 2012, chính phủ lại tiếp tục cắt giảm tiền lương tối thiểu, sửa đổi
luật tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh nhiều hơn và sa thải được nhiều
nhân công hơn, các chi tiêu cơ bản cho y tế và quốc phòng cũng bị cắt giảm. Tờ báo
Kinh tế vĩ mô II Trang 15

NewYork Times dẫn lời Quốc hội Hy Lạp đã thông qua luật cắt giảm 15000 công
việc chính thức cho tới cuối năm 2013. Ngày17/7/2013, Hội đồng Hy Lạp chấp
nhận chính sách thắt lưng buộc bụng mới bao gồm kế hoạch khiến hàng nghìn
người lao động dịch vụ dân sự mất việc và giảm lương gây tranh cãi dư luận.Với
việc liên tục đưa ra những chính sách thắt chặt, chính phủ Hy Lạp đã gây ra những
làn sóng phản đối của người lao động khiến cho nhiều nghành sản xuất đình trệ, cơ
sở kinh tế tê liệt. Đặc biệt khi chú trọng vào chính sách này, chính phủ đã cắt giảm
tiền lương trợ cấp, an sinh xã hội… khiến cho tiêu dùng bị hạn chế. Khi tiêu dùng
giảm, nó ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế của Hy Lạp. Nói một cách
khác chính phủ đã hy sinh tăng trưởng để giảm thâm hụt ngân sách. Nhược điểm
lớn này không có lợi đến sự phát triển kinh tế về lâu dài.
Một chính sách khác cũng đã được nói đến khá nhiều trong giai đoạn này là
áp dụng chiến lược tu bổ nền kinh tế, trong đó vừa chú trọng đến tăng trưởng kinh
tế. Một nguyên tắc căn bản nhất là xem xét tỷ lệ nợ công trong mối tương quan của
thành tựu phát triển kinh tế. Một nhà nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao có thể
tiếp tục vay thêm tiền mà không sợ tỷ lệ nợ công trên tổng sản phẩm quốc nội tăng
vọt. Tuy nhiên biện pháp này cũng đặt ra nhiều vấn đề. Nếu như quản lý lượng tiền
vay không tốt và sử dụng không hiệu quả có thể dẫn đến tỷ lệ nợ công càng tăng
cao hơn, làm tình hình tồi tệ hơn trước đó. Đầu tư một cách vô tội vạ và thiếu hiệu
quả vào cơ sở hạ tầng, hệ thống giáo dục, y tế hoặc các ngành tăng trưởng chậm,
lợi nhuận thấp, thu hồi vốn lâu, tuy có tạo nên cú kích cầu ban đầu nhưng không có
hiệu quả lan tỏa, vừa không mang lại tăng trưởng bền vững, vừa có thể khiến cho
lạm phát tăng cao, gây khó khăn cho tăng trưởng. Khi đó tình hình nợ công sẽ ngày
càng trầm trọng. Đặc biệt trong tình cảnh của Hy Lạp đang ở trong cuộc khủng
hoảng nợ công với nguy cơ vỡ nợ lớn, điều này sẽ gây tác hại càng khủng khiếp.
Kinh tế vĩ mô II Trang 16
PHẦN 3: Liên hệ thực tiễn và bài học cho Việt Nam
I. Thực trạng nợ công ở Việt Nam
Theo số liệu công bố của Kiểm toán nhà nước - 8/2013, trong giai đoạn từ
2006 - 2012, xu hướng vốn vay nợ công Việt Nam tăng: năm 2006 là 91.757 tỷ

đồng (22,7%) đến năm 2012 là 989.300 tỷ đồng (41,1%); riêng năm 2008, do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế nên nợ công xuống thấp (23,7%). Đa phần vốn vay
nợ công chiếm một tỷ lệ rất quan trọng trong vốn vay đầu tư phát triển. Nếu tính
chỉ số nợ công/GDP thì giai đoạn 2006 - 2012 nợ công đã tăng đáng kể, từ 42,9%
(404.556 tỷ đồng) năm 2006 lên 55,6% (1.641.296 tỷ đồng) năm 2012. Về cơ cấu
dư nợ công: tính đến 31/12/2012 thì nợ Chính phủ chiếm 77,6%, nợ Chính phủ bảo
lãnh chiếm 20,9% và nợ chính quyền địa phương chiếm 1,5%.
Kinh tế vĩ mô II Trang 17
II. Liên hệ nợ công Hy Lạp đến nợ công Việt Nam
Tình trạng nợ công của Hy Lạp có một số điểm tương đồng với tình trạng nợ
công Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, cách tính nợ công của Hy Lạp và của Việt Nam còn khác với cách
tính nợ công của nhiều quốc phát triển khác như Mỹ, Canada, Úc, Nhật… Trước
khi sự thật được phanh phui, để làm đẹp con số thống kê trên sổ sách của mình, Hy
Lạp đã không ghi khoản tiền phải chi trả cho lương hưu, giấu không ghi các khoản
phí chi cho mua vũ khí quốc phòng, không ghi vào nợ công những khoản nợ tư mà
Chính phủ phải trả vì nhận bảo lãnh, ghi khoản tiền nhà nước chuyển cho doanh
nghiệp quốc doanh để bù lỗ là tăng đầu tư mua cổ phần thay vì là chi bù lỗ. Việt
Nam cũng tương tự. Nợ công theo cách tính của Liên Hợp Quốc còn có phần lương
hưu - mỗi khi một công chức nhận lương, họ phải đóng một phần vào quỹ hưu, còn
một phần khác do chính phủ đóng, nhưng một số nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam thì phần lương hưu - chính là nợ của nhà nước đối với công chức, đã
không được tính vào nợ công. Trong các nước châu Á thì Singapore đã ghi theo
đúng chuẩn mực và nợ phải trả trong tương lai khi công chức về hưu của quốc gia
này rất lớn. Vì thế tỷ lệ nợ của họ rất cao, xếp hàng thứ 8 thế giới (Theo tạp chí
Economist xếp hạng năm 2012). Ngoài ra, khoản nợ “tự vay, tự trả” của các doanh
nghiệp nhà nước cũng là nợ của chính phủ nhưng không được tính trong nợ công
Việt Nam. Hiện tại, theo con số công bố chính thức thì nợ công Việt Nam chiếm
41,9% GDP (Theo Bộ Tài Chính, tháng 9 - 2013). Theo số liệu của World Bank thì
nợ công Việt Nam phải ở mức 47,5% và theo CIA (Cơ quan Tình báo Trung ương

Hoa Kỳ), thì con số này lên tới 52% GDP. Dù theo số liệu nào thì nợ công của Việt
Nam cũng đang tiệm cận ngưỡng an toàn cho phép, nhưng đối với cách tính nợ
công như thế này thì những con số đó tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Cũng như trường
hợp Hy Lạp vậy. Quốc gia này cố tạo con số đẹp bằng cách thay đổi dữ liệu, ẩn đi
các khoản chi nhằm để gia nhập Eurozone, và kể cả khi đã vào Eurozone để có thể
Kinh tế vĩ mô II Trang 18
tiếp tục tiếp cận các nguồn tín dụng lãi suất thấp. Cách tính nợ công chưa đúng
chuẩn của Liên Hợp Quốc hay làm đẹp các thông số đã làm tính minh bạch và
niềm tin của các nhà đầu tư giảm sút, ảnh hưởng tới các dòng đầu tư đổ vào, gây
ảnh hướng lớn tới uy tín của chính phủ hay tác động trực tiếp tới tăng trưởng kinh
tế quốc gia.
Thứ hai, vấn đề mà Hy Lạp và Việt Nam hiện nay đều gặp phải đó là tình
trạng tiết kiệm trong nước thấp. Với Hy Lạp, sau khi gia nhập Liên minh châu âu
EU (năm 1981), lợi tức trái phiếu giảm tạo điều kiện cho chính phủ Hy Lạp tăng
cường vay nợ tài trợ cho chi tiêu công. Phần lớn trái phiếu chính phủ do nước
ngoài nắm giữ cho thấy Hy Lạp đã để vuột khỏi tay một kênh huy động vốn sẵn có.
Thị trường trái phiếu trong nước chưa phát triển, gần như đây không được coi là
kênh huy động vốn quan trọng của chính phủ. Dự trữ ngoại hối của nước ta đang
giảm dần qua các năm gần đây (từ 21 tỷ USD năm 2007 xuống còn 13,5 tỷ USD
năm 2011- Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 12/2012, Bộ Kế hoạch và đầu tư
Việt Nam). Nguyên nhân dự trữ ngoại hối giảm chủ yếu là do tình trạng thâm hụt
cán cân thương mại duy trì ở mức độ cao trong nhiều năm liên tục, thâm hụt cán
cân vãng lai cao hơn thặng dư tài khoản vốn.
Thứ ba, cả Việt Nam và Hy Lạp đều chi tiêu công tăng cao dẫn đến thâm hụt
ngân sách. Theo nhiều nhà quan sát nhận định nhân tố chính đằng sau sự thâm hụt
của cả Việt Nam và Hy Lạp chính là bộ máy công quyền cồng kềnh và thiếu hiệu
quả. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), vào năm 2004, chi tiêu
cho quản lý công trong tổng số chi tiêu công ở Hy Lạp đã cao hơn nhiều so với các
nước thành viên OECD khác, mà không có bằng chứng nào cho thấy chất lượng
hay số lượng dịch vụ ở nước này cao hơn hẳn. Sự già hóa dân số và hệ thống lương

hưu vào loại hào phóng bậc nhất khu vực châu Âu của Hy Lạp cũng được coi là
một trong những gánh nặng cho chi tiêu công. Ở Việt Nam, áp lực thâm hụt ngân
sách đang ngày càng nặng hơn khi Việt Nam đã có hàng loạt dự án quy mô rất lớn
Kinh tế vĩ mô II Trang 19
như mở rộng thủ đô Hà Nội, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, dự án đường cao tốc
Bắc Nam,… Đây là những dự án tiêu tốn chi phí cao và phần lớn số tiền không
phải là tiền tiết kiệm trong nước, mà đến từ nguồn vốn vay từ nước ngoài.
Thứ tư, vấn đề tiếp theo Việt Nam và Hy Lạp gặp phải đó là tình trạng nguồn
thu giảm sút. Nguyên nhân chính là do trốn thuế và tham nhũng. Đối với Hy Lạp,
hệ thống thuế với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với điều tiết dư
thừa và thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý đã dẫn đến tình trạng trốn thuế và kinh
tế ngầm phát triển. Hơn nữa, theo tổ chức Minh bạch quốc tế (TI), Hy Lạp là một
trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao nhất EU. Tham nhũng không chỉ gây ra
trốn thuế, nó còn làm tăng chi tiêu chính phủ và rất nhiều hệ lụy khác. Đối với Việt
Nam thực trạng trốn thuế hay tham nhũng cũng là tác nhân chính gây ra tình trạng
nguồn thu giảm sút. Câu chuyện chuyển giá nhằm trốn thuế của các doanh nghiệp
nước ngoài tại Việt Nam đã không còn là một điều xa lạ. Gần đây, nhiều vụ án
tham nhũng trong lĩnh vực ngân hàng hay doanh nghiệp nhà nước đã bị phơi bày
như vụ án liên quan đến cựu phó chủ tịch Ngân hàng ACB Nguyễn Đức Kiên, Phó
phòng Quản lí rủi ro ngân hàng ViettinBank Huỳnh Thị Huyền Như hay ông cựu
Chủ tịch tập đoàn Vinalines Dương Chí Dũng đã tạo nên nhiều lo lắng, phẫn nộ
trong dư luận. Trong khi hệ thống pháp luật Việt Nam còn nhiều bất cập kẽ hở,
cộng với đó là các điều khoản cồng kềnh phức tạp là những nguyên nhân dẫn tới
các tình trạng này diễn ra với mục độ nghiêm trọng hơn
Cuối cùng, việc sử dụng nguồn vốn không hiểu quả. Với Hy Lạp, việc gia
nhập Eurozone năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường
vốn quốc tế, dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài với mức lãi suất thấp. Trong
gần một thập kỷ qua, chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm
tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế
hoạch chi tiêu hợp lý. Nhưng điều này không xảy ra, các đời chính phủ Hy Lạp đã

chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến các
Kinh tế vĩ mô II Trang 20
kế hoạch trả nợ. Một ví dụ điển hình có thể kể đến là thế vận hội Olympics 2004 -
kỳ thế vận hội hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử nhưng chính
phủ lại không cho phép sự xuất hiện của bất kỳ một biển hiệu quảng cáo nào trên
đường phố để đem lại nguồn thu. Đối Việt Nam, sau khi gia nhập WTO, một nguồn
vốn lớn đổ vào trong nước. Cũng giống như Hy Lạp, do có nguồn vốn lớn, chính
phủ đưa ra các chính sách chi tiêu nhưng rất nhiều trong số đó chưa mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Việc chính phủ đầu tư cơ sở hạ tầng, công trình lớn mà lại chưa
nghiên cứu sâu gây ra tình trạng các công trình bị bỏ ngỏ hay hoàn thành nhưng
không thể đưa vào hoạt động. Nguyên nhân do quản lý kém, đầu tư không hợp lý,
đầu tư nhiều vào các ngành tư nhân sẵn sàng đầu tư; thiếu đầu tư tương xứng cho
những ngành có khả năng lan tỏa, dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đầu tư thiếu
tập trung, không dứt điểm cho các công trình trọng điểm.
Ngoài các đặc điểm tương đồng trong tình trạng nợ công trên, Việt Nam còn
đối mặt với một vấn đề khác là đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với
tiền của những nước mà Việt Nam vay vốn như Nhật Bản, EU… Khác với Hy Lạp
sử dụng đồng tiền mạnh Euro, Việt Nam sử dụng đồng nội tệ và khi vay bằng
ngoại tệ luôn phải chú ý đến duy trì tỉ giá. Trong tổng số tiền vay nợ nước ngoài
của Việt Nam năm 2010 thì có đến hơn 39% vay nợ bằng đồng yên Nhật Bản
(JPY), 22% là vay nợ bằng đồng đôla Mỹ (USD), 9% là bằng đồng euro (EUR)
(Theo Bản tin nợ nước ngoài số 7, Bộ Tài Chính Việt Nam năm 2011). Vay nước
ngoài có những tác động nguy hại đến nền kinh tế. Thời gian đầu, dòng ngoại tệ
lớn chảy vào trong nước sẽ làm giảm sức ép cân đối ngoại tệ. Tuy nhiên, trong
trung và dài hạn, việc Việt Nam phải cân đối nguồn ngoại tệ trả nợ gốc và lãi sẽ
đẩy nhu cầu ngoại tệ tăng cao, tăng chi phí nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên
liệu, tăng chi phí đầu vào của nền kinh tế, dẫn tới các nguy cơ lạm phát. Tỷ giá
tăng cao sẽ làm chi phí thanh toán nợ trở nên đắt đỏ hơn, càng làm tăng nguy cơ vỡ
nợ, nếu quy mô nợ vượt quá sức chịu đựng của ngân sách nhà nước. Sự mất giá
Kinh tế vĩ mô II Trang 21

của tiền đồng Việt Nam đã tạo ra nhiều khó khăn hơn cho các doanh nghiệp trong
việc trả nợ, khiến nợ công ngày càng gia tăng.
III. Bài học rút ra cho Việt Nam
Bài học 1: Cần công khai minh bạch thông tin về ngân sách và nợ công
Việc Athens làm giả số liệu để có thể trở thành thành viên chính thức của khối
cộng đồng chung châu Âu là bài học đắt giá đối với Việt Nam. Hy Lạp đã công bố
thông tin không nhất quán, sai lệch để che giấu tình trạng thiếu kiểm soát của chính
phủ làm hậu quả nợ càng thêm nợ. Việc chính phủ mới sau đó thừa nhận con số
thâm hụt ngân sách thực tế trong bối cảnh kinh tế đầy bất ổn đã gây ra tâm lý nghi
ngờ và hoảng loạn cho các nhà đầu tư cũng như thị trường, dẫn tới cuộc khủng
hoảng ở nước này càng trở nên trầm trọng.
Từ cuộc khủng hoảng trên, có thể thấy rằng việc công bố chính sách và minh
bạch thông tin liên quan đến ngân sách và nợ công là hết sức cần thiết. Đây là xu
hướng tất yếu mà Chính phủ Việt Nam, và cụ thể là Bộ Tài chính phải thực hiện
nhằm quản lý tốt thâm hụt ngân sách cũng như nợ công.
Về quản lý nợ công, chính phủ cần phải đưa ra một khuôn khổ pháp luật quản
trị rõ ràng và giao trách nhiệm cho một cơ quan chuyên trách. Cơ quan này thường
là Bộ Tài chính, với vai trò lựa chọn các công cụ và hình thức vay nợ cần thiết, xây
dựng chiến lược và lộ trình vay nợ hợp lý, nghiên cứu về các chiến lược quản lý nợ
công bền vững thông qua các chỉ số về giới hạn nợ và các thông số về rủi ro mà nợ
công mang lại. Đồng thời với đó, cơ quan này cũng cần thiết lập một bộ phận làm
nhiệm vụ kiểm tra giám sát nhằm đưa ra được những con số thống kê cập nhật rõ
ràng và xác thực.
Mối quan hệ giữa khu vực chính phủ và khu vực công cũng cần được minh
bạch rõ ràng, đặc biệt về vấn đề tài chính công. Những báo cáo tài chính hàng năm
Kinh tế vĩ mô II Trang 22
của các tổ chức công cần phải công khai về lợi nhuận và phần sẽ đóng góp vào
ngân sách nhà nước, thông tin này cũng cần được ghi lại trong báo cáo hàng năm
về ngân sách nhà nước. Tương tự như thế, các nguồn chi của chính phủ nhằm phục
vụ lợi ích của các tổ chức công cần phải được công khai trong báo cáo về ngân sách

nhà nước cũng như báo cáo tài chính hàng năm của các tổ chức này.
Bài học 2: Luôn chú trọng giảm thâm hụt ngân sách và chi tiêu công hợp lí.
Một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra cuộc khủng hoảng tại các quốc
gia châu Âu, mà điển hình là Hy Lạp là thâm hụt ngân sách lớn. Do vậy, bài học
dành cho Việt Nam là nên thực hành tiết kiệm, chi tiêu công hợp lí kèm theo đó là
một lộ trình tăng thu phù hợp.
Hiện nay, Việt Nam thường xuyên phải chịu thâm hụt, điều này là do mức chi
tiêu công quá cao mà phần lớn lại được chi cho các khoản chi thường xuyên mà
không phải là chi cho đầu tư phát triển. Chính vì vậy, nếu như có thể cắt giảm và phân
bổ lại các khoản chi thường xuyên của mình một cách hiệu quả, cụ thể là giảm thiểu
đi cơ chế hành chính cồng kềnh và nạn tham nhũng trong bộ máy chính quyền đang
là gánh nặng của nền kinh tế, Việt Nam hoàn toàn có thể khắc phục được tình trạng
bội chi ngân sách của mình.
Việc thực thi những chính sách làm giảm gánh nặng thâm hụt ngân sách và nợ
công kéo dài đã được rất nhiều các quốc gia áp dụng. Cụ thể là các chính sách thắt
lưng buộc bụng mà Hy Lạp đã sử dụng để đối phó với cơn bão nợ công tại nước
này. Các biện pháp nhằm tăng nguồn thu ngân sách có thể là tiến hành tăng thuế giá
trị gia tăng, đánh thuế mạnh tay vào các đối tượng có thu nhập cao, tăng thuế với bất
động sản hoặc các tài sản có giá trị cao. Tuy nhiên, bài học từ Hy Lạp – thắt lưng
buộc bụng làm dấy lên hàng loạt cuộc biểu tình trong nước, cho chúng ta thấy rằng
giảm thâm hụt ngân sách cần phải có lộ trình phù hợp, tránh sự phản đối quyết liệt từ
phía người dân làm cho tình hình chính trị, kinh tế ngày càng thêm khó khăn.
Kinh tế vĩ mô II Trang 23
Bài học 3: Đầu tư kinh tế phải có chọn lọc, đem lại hiệu quả cao
Hậu quả của việc sử dụng nguồn vốn đầu tư không hiệu quả của Hy Lạp là quá
rõ ràng. Việc tiếp nhận nguồn vốn dễ dàng đã khiến cho Chính phủ vung tay chi tiêu
quá trán, trong khi hiệu quả đầu tư thấp cùng với không có kế hoạch trả nợ phù hợp
đã khiến quốc gia và người dân Hy Lạp phải trả giá.
Nhìn lại Việt Nam, các khoản nợ công và đầu tư công không mang lại lợi ích
cần thiết, không hiệu quả đã dẫn đến thất thoát và ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền

kinh tế. Việc các tập đoàn lớn thay phiên nhau công bố vỡ nợ như Vinashin,
Vinalines hoặc phá sản lại càng gây nên tâm lý lo ngại cho giới đầu tư trong nước
cũng như quốc tế. Hàng loạt các khoản nợ xấu có thể khiến chính phủ phải sử dụng
ngân sách của mình để trả nợ, điều này có thể khiến cho ngân sách chính phủ thâm
hụt nặng hơn. Chính vì vậy, việc tái cấu trúc hệ thống DNNN cần được đặt lên
hàng đầu trong việc cải thiện tình hình nợ công của Việt Nam.
Ngoài việc cải cách khối DNNN, đầu tư công của Việt Nam cũng cần phải
được chú trọng, tránh để các khoản đầu tư này gây hiệu ứng lấn át khu vực tư nhân,
làm thu hẹp khu vực này. Quy hoạch yếu kém và cơ chế phân quyền đầu tư công
giữa trung ương và địa phương như hiện nay vô tình khuyến khích các địa phương
chạy đua nhiều dự án trong việc xin ngân sách chính phủ. Chính quyền trung ương
thiếu cơ chế giám sát nguồn vốn đầu tư từ trung ương đã dẫn đến việc hiệu quả và
chất lượng không đi đôi với số lượng.
Mặt khác, Việt Nam cần nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay. Đặc
biệt trong sử dụng vốn ODA, chúng ta phải biết gắn kết từ khâu huy động đến khâu
trả nợ, khắc phục những khâu bất hợp lí; xây dựng chương trình đầu tư công trên
cơ sở rà soát lại các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình dự án trọng điểm
để làm căn cứ cho việc huy động, phân bổ nguồn vốn phù hợp.
Bài học từ Hy Lạp dành cho Việt Nam là nhà nước nên có sự xác định rõ ràng
trong việc vay nợ, xác định rõ những mục tiêu mà mình theo đuổi, không nên đặt
Kinh tế vĩ mô II Trang 24
tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cần hạn chế
vay nợ nước ngoài nếu vẫn có thể huy động được nguồn từ trong nước. Trong hoạt
động sử dụng nợ cần tiến hành đầu tư theo chiều sâu, đầu tư vào những dự án có
khả năng sinh lời cao, tránh đầu tư dàn trải hiệu quả thấp, chống thất thoát trong
quá trình sử dụng nợ.
Bài học 4: Cần chú trọng đến phát triển thị trường nợ trong nước
Bài học cuối cùng cho Việt Nam là cần phát triển thị trường nợ trong nước. Việc
nền kinh tế Hy Lạp dựa chủ yếu vào nguồn thu và vốn vay từ nước ngoài đã khiến
cho sức khỏe nền kinh tế bị suy giảm, phụ thuộc nhiều vào kinh tế các nước khác và

chịu tác động mạnh bởi biến động nền kinh tế thế giới.
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, đều gặp phải tình trạng
original sin, vay mượn nước ngoài bằng những ngoại tệ mạnh. Tuy nhiên, hiện nay
Việt Nam khó có thể tiếp tục nhận được các khoản vốn vay ODA với lãi suất ưu đãi
do đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam sẽ phải vay các khoản vay
nước ngoài với lãi suất cao của thị trường. Các rủi ro khi vay nợ nước ngoài đã
được là rất lớn. Chính vì vậy, việc phát triển thị trường nợ trong nước là thực sự cần
thiết trước nhu cầu cần vốn đầu tư hiện nay của Việt Nam. Cùng với thời gian, Việt
Nam cần phải có những chiến lược tăng dần hợp lý tỉ trọng nợ trong nước trong danh
mục nợ chính phủ, xây dựng chính sách, quy trình và hệ thống cho cả thị trường sơ
cấp và thứ cấp thông qua các giao dịch mua lại, hoán đổi nợ để dần nâng cao tính
thanh khoản trên thị trường này. Khi tính thanh khoản đã được cải thiện, chính phủ
có thể vay mượn khi cần thiết với mức rủi ro thấp do phát hành bằng đồng nội tệ, có
kỳ hạn dài hơn và lãi suất cố định. Để làm được điều đó, Việt Nam cần có chiến
lược cụ thể phát triển thị trường nợ trong nước, cùng với phát triển thị trường tài
chính trong nước nói chung.
Kinh tế vĩ mô II Trang 25

×