ĐẠI HỌC HUẾ
ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
BÀI TIỂU LUẬN
LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYẾT KINH TÊ
LỚP N03
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NHỮNG LÝ THUYẾT GIÁ TRỊ -
LAO ĐỘNG CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ SẢN CỔ
ĐIỂN ANH
Người thực hiện : Nguyễn Lê Thuỷ Tiên
K47H Kinh tế - 13K4011539
Huế, tháng 5.2014Mục lục
Lời mở đầu
Xã hội loài người đã và đang trải qua những hình thái kinh tế – xã hội khác nhau.
Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người đều có những hiểu biết và
cách giải thích các hiện tượng kinh tế – xã hội nhất định.
Việc giải thích các hiện tượng kinh tế – xã hội ngày càng trở nên hết sức cần thiết
đối với đời sống kinh tế của xã hội loài người. Lúc đầu nó chỉ xuất hiện dưới
những hình thức tư tưởng kinh tế, về sau mới trở thành những quan niệm,
quan điểm kinh tế có tính hệ thống của các giai cấp khác nhau, đáp ứng cho nhu
cầu lý luận và bảo vệ các lợi ích của các giai cấp đó. Mặt khác, các
trường phái lý luận qua các giai đoạn lịch sử khác nhau mang tính kế thừa, phát
triển, cũng như phê phán có tính lịch sử của các trường phái kinh tế học. Trường
phái kinh tế chính trị học tư sản đầu tiên là chủ nghĩa Trọng thương. Nó ra đời
trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản. Đối tượng nghiên cứu của kinh
tế chính trị học lúc này là lĩnh vực lưu thông và đánh giá cao vai trò tiền tệ trong
việc tích luỹ của cải. Con đường làm tăng của cải là thương nghiệp, là ngoại
thương. Họ đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế để tạo điều kiện
cho chủ nghĩa tư bản ra đơì. Theo đà thâm nhập của tư bản vào lĩnh vực
sản xuất, những vấn đề kinh tế của sản xuất nảy sinh vượt quá khả năng lý giải
của chủ nghĩa Trọng thương; Đòi hỏi phải có những lý thuyết mới – Kinh tế
chính trị học tư sản cổ điển xuất hiện. Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển
lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực
sản xuất. Các đại biểu xuất sẵc của trường phái cổ điển là W.Petty,
F.Quesnay, A.Smith, D.Ricacdo.
Trường phái này ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế, dưới sự chi phối của bàn tay vô
hình, Nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Song thực tế đã bác bỏ tư tưởng tự
do kinh tế của trường phái cổ điển. Đồng thời thể hiện sự bất lực của kinh tế
chính trị học tư sản cổ điển trước những hiện thực kinh tế mới. Trước bố cảnh đó,
nhiều trào lưu kinh tế chính trị học nổi lên mà cơ bản là 2 trào lưu: Một là những
nhà kinh tế tiếp tục thuyết tư sản cổ điển đã đổi mới và phát triển, Trường phái
Keynes, tù do mới, chính hiện đại. Hai là kinh tế chính trị học Marx – Lenin.
Trong hệ thống các các lý luận cơ bản của từng trường phái cũng như của cả quá
trình lịch sử phát triển, lý luận giá trị lao động đóng vai trò hạt nhân, là cơ sở của
các lý luận khác; Nó cũng bắt đầu sơ khai từ những tư tưởng kinh tế và được phát
triển thành những quan niệm, khái niệm và đến Marx đã khái quát hoá thành
những phạm trù, những hệ thống lý luận hoàn chỉnh mà nhờ đó giải thích được
các hiện tượng kinh tế trong xã hội. Với những kiến thức tiếp cận được qua
các bài giảng của Thầy giáo, qua một số tài liệu nghiên cứu hiện hành, trong
phạm vi bản tiểu luận này, trên lập trường tư tưởng của chủ nghĩa Marx – Lenin,
em xin chọn đề tài "Phân tích những lý thuyết giá trị - lao động của các nhà
kinh tế tư sản cổ điển Anh".
Nội dung
1. Hoàn cảnh ra đời
Sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bước vào thời kỳ đòi hỏi chấm
dứt vai trò thống trị của tư bản thương nghiệp để mở đường cho tư bản công
nghiệp và tư bản nông nghiệp phát triển. Chủ nghĩa trọng thương đã trở thành lỗi
thời và bắt đầu tan rã ngay từ thế kỷ XVII, trước hết là Anh, một nước phát triển
nhất về mặt kinh tế. Tiền đề của việc đó được tạo ra chủ yếu là do sự phát triển
các công trường thủ công ở Anh, đặc biệt là trong nghành dệt, sau đó là công
nghiệp khai thác. Giai cấp tư sản đã nhận thức được rằng, muốn làm giàu
phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc
làm giàu vô tận của những người giàu.
Quá trình tích lũy tiền theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương khi sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản đến một giai đoạn nhất định thì nguồn tích lũy tiền hay
tích lũy tư bản dần cạn kiệt. Do đó, chủ nghĩa trọng thương bị nhiều nhà kinh tế
thời kỳ này lên án. Ở Pháp, do hậu quả của chủ nghĩa trọng thương trong chính
sách Konbe nên nền nông nghiệp Pháp đình đốn, nông dân Pháp khổ cực. Do đó,
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa trọng thương ở Pháp gắn liền với phê phán chế
độ phong kiến nhằm giải thoát những ràng buộc của chế độ phong kiến để phát
triển nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa làm xuất hiện chủ nghĩa trọng nông.
Những đại biểu điển hình của chủ nghĩa trọng nông đã tìm ra nguồn gốc của giá
trị thặng dư là ở trong quá trình sản xuất. Vì vậy, đã trực tiếp đặt cơ sở cho việc
phân tích nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1 Đối tượng:
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu
thông sang lĩnh vực lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong quá
trình tái sản xuất, trình bày một cách có hệ thống các phạm trù kinh tế trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa như phạm trù hàng hóa, giá trị, tiền tệ, giá cả, tiền lương,
lợi nhuận, lợi tức, địa tô, tư bản Từ đó, rót ra được quy luật vận động của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mục tiêu nghiên cứu của kinh tế chính trị tư sản cổ
điển: đó là luận chứng cương lĩnh kinh tế và các chính sách kinh tế của giai cấp
tư sản, cơ chế thực hiện lợi Ých kinh tế trong xã hội tư bản nhằm phục vụ cho lợi
ích của giai cấp tư sản trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất (Trong đó lực
lượng sản xuất gồm các yếu tố lao động và tư liệu sản xuất).
2.2 Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu thể hiện trên hai mặt:
Sử dụng phương pháp trừu tượng hóa để tìm hiểu các mối liên hệ bên
trong của các hiện tượng và các quá trình kinh tế nên đã rót ra những kết luận có
tính khoa học. Do hạn chế về thế giới quan và phương pháp luận, về điều kiện
lịch sử nên khi gặp phải những vấn đề khó khăn phức tạp, họ chỉ mô tả một cách
hời hợt và rót ra kết luận sai lầm. Những sai lầm này là điều kiện, cơ sở để những
nhà tư tưởng tầm thường lợi dụng và phát triển thành hệ thống lý luận
tầm thường.
Học thuyết kinh tế cổ điển là xu hướng của kinh tế tư sản phát sinh trong thời kỳ
hình thành phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa. Các nhà kinh tế học của
trường phái này lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông
sang lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu các vấn đề kinh tế của nền sản xuất Tư bản
chủ nghĩa đặt ra. Lần đầu tiên họ xây dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật
của nền kinh tế thị trường, như phạm trù giá trị, giá cả, tiền lương Lần đầu tiên
họ áp dụng phương pháp trừu tượng hoá nghiên cứu các mối liên hệ nhân quả để
vạch ra bản chất và các quy luật vận động của quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa
của nhà nước vào kinh tế. Tuy vậy những kết luận của họ còn mang tính phi lịch
sử, lẫn lộn giữa yếu tố khoa học và yếu tố tầm thường.
3. Tư tưởng về học thuyết giá trị lao động của một số nhà kinh tế tiêu
biểu của trường phái cổ điển Anh:
Kinh tế chính trị học tư sản cổ điển lần đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu từ
lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Các đại biểu xuất sắc của
trường phái cổ điển là W.Petty, A.Smith, D.Ricacdo. Các ông nghiên cứu những
vấn đề cơ bản của lý luận kinh tế chính trị học nh- thuyết giá trị lao động, tiền
lương, lợi nhuận, lợi túc, tư bản, tích luỹ, tái sản xuất. Từ đó xây dựng nên hệ
thống các phạm trù, quy luật kinh tế. Trường phái này ủng hộ tư tưởng tự do
kinh tế, dưới sự chi phối của bàn tay vô hình, Nhà nước không can thiệp vào kinh
tế. Trong đó lý luận về giá trị lao động là đỉnh cao lý luận kinh tế chính trị tư sản
cổ điển.
3.1 William Petty - Người đầu tiên đưa ra nguyên lý lao động quyết định
giá trị trong kinh tế chính trị học tư sản:
William Petty (1623-1687) là một trong những người sáng lập ra học
thuyết kinh tế cổ điển ở Anh. Ông sinh ra trong mét gia đình thợ thủ công, có
trình độ tiến sĩ vật lý, là nhạc trưởng, là người phát minh ra máy chữ. Ông là
người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học, được gọi là
phương pháp khoa học tự nhiên. W.Petty đã viết nhiều tác phẩm như "Điều ước
về thu thuế" (1662), "Số học chính trị" (1676) và "Bàn về tiền tệ" (1682). Ông là
người áp dụng phương pháp mới trong nghiên cứu khoa học được gọi là phương
pháp khoa học tự nhiên. Bản chất đó là phương pháp thừa nhận và tôn trọng các
quy luật khách quan, vạch ra mối liên hệ phụ thuộc, nhân quả giữa các sự vật
hiện tượng. Ông viết "Trong chính sách và trong kinh tế phải tính đến những quá
trình tự nhiên, không nên dùng hành động cưỡng bức để chống lại quá trình đó".
Đó là mầm mèng của tư tưởng tự do cạnh tranh mà các đại biểu sau này
của trường phái cổ điển và những người kế tục họ đã phát triển. W.Petty đã
nghiên cứu và đưa ra học thuyết giá trị lao đông, trong đó ông đã đưa ra ba phạm
trù về giá cả hàng hoá trong tác phẩm "Bàn về thuế khoá và lệ phí". Đó là giá cả
tự nhiên, giá cả nhân tạo và giả cả chính trị. Theo ông, giá cả tự nhiên là giá trị
hàng hoá, nó do lao động của người sản xuất tạo ra, lượng của giá cả tự nhiên tỷ
lệ nghịch với năng suất lao động. Nếu giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá
cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá. Ông viết "tỷ lệ giữa lúa mú và bạc
chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên". Giá cả nhân tạo thay đổi
phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường.
Còn giá cả chính trị, ông cho rằng nó là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên, giá
cả chính trị là chi phí lao động để sản xuất hàng hoá, nhưng trong điều kiện chính
trị không thuận lợi. Vì vậy chi phí lao động trong giá cả chính trị thường
cao hơn so với chi phí lao động trong giá cả tự nhiên bình thường. Như vậy,
Petty là người đầu tiên đã tìm thấy cơ sở giá cả tự nhiên là lao động, thấy được
quan hệ giữa lượng giá trị và năng suất lao động. Ông kết luận rằng, số lượng lao
động bằng nhau bỏ vào sản xuất là cơ sở để so sánh giá trị hàng hoá. Giá cả tự
nhiên (giá trị) tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác vàng và bạc. Ông có
ý định đặt vấn đề lao động phức tạp và lao động giản đơn nhưng không thành.
Như vậy, W.Petty chính là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý
thuyết giá trị lao động. Tuy lý thuyết giá trị - lao động của ông còn có những
hạn chế chưa phân biệt được các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi với giá cả. Ông
tập trung nghiên cứu về giá cả một bên là hàng hoá, một bên là tiền, tức là ông
mới chú ý nghiên cứu về mặt lượng. Ông nhận thức được rằng giá trị của tiền tệ
cũng là do lượng lao động quyết định, từ đó khắc phục được các kiến
giải không những không thể trừu tượng hoá được giá trị từ giá trị trao đổi, mà
còn không trừu tượng hoá được giá trị trao đổi từ giá cả là biểu hiện bằng tiền
của giá trị, mà ông đã lẫn lộn hai cái đó. Ông cũng chia lao động ra làm hai loại:
một loại lao động sản xuất ra vàng và bạc, một loại khác là lao động sản xuất ra
những hàng hoá bình thường. Ông cho rằng chỉ có lao động khai thác vàng và
bạc mới có giá trị trao đổi, còn các lao động khác thì chỉ khi trao đổi hàng và tiền
mới nảy sinh giá trị trao đổi. Theo ông, giá trị hàng hoá chính là sự phản ánh giá
trị tiền tệ còng nh- ánh sáng của mặt trăng là sự phản chiếu ánh sáng mặt trời vậy.
Đó là ảnh hưởng tư tưởng chủ nghĩa Trọng thương rất nặng ở ông. Ông đã lẫn lộn
lao động với tư cách là nguồn gốc của giá trị với lao động với tư cách là nguồn
gốc của giá trị sử dụng, nghĩa là ông đã đồng nhất lao động trừu tượng với lao
động cụ thể. Từ đó Petty có ý định đo giá trị bằng hai đơn vị lao động và đất đai.
Ông nêu ra câu nói nổi tiếng: “Lao động là cha, còn đất là mẹ của của cải”. Về
phương diện của cải nói nh- vậy là đúng, chỉ rõ nguồn gốc giá trị sử dụng. Nhưng
ông lại xa rời tư tưởng giá trị - lao động khi kết luận "lao động và đất đai là
nguồn gốc của giá trị" Điều này là mầm mèng của học thuyết các nhân tố sản
xuất tạo ra giá trị sau này.
3.2 Adam Smith - Người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá
trị lao động:
Adam Smith (1723-1790) đã mở ra giai đoạn phát triển mới của sự phát
triển các học thuyết kinh tế thị trường ông sinh năm 1723, là con một viên chức
ngành thuế. Sau khi tốt nghiệp đại học, 13 năm ông giảng dạy Văn học, logic triết
học và đạo đức. Năm 1763, ông ngừng giảng dạy đi du lịch các nước Châu Âu. Ở
Pháp, ông gặp nhiều nhà trọng nông, sau đó ông về nước và viết tác phẩm nổi
tiếng là "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các dân téc"
(1776) . Ông là nhà tư tưởng tiên tiến của giai cấp tư sản, ông muốn thủ tiêu tàn
tích phong kiến, mở đường cho Chủ nghĩa tư bản phát triển, kêu gọi tích luỹ và
phát triển lực lượng sản xuất theo ý nghĩa tư bản, xem chế độ tư bản chủ nghĩa là
hợp lý duy nhất. C. Mác coi A.Smith là người thầy, nhà kinh tế học tổng hợp của
công trường thủ công.
Về học thuyết giá trị lao động của A.Smith so với W.Petty có bước tiến
đáng kể. Trước hết, ông chỉ ra rằng tất cả các loại lao động sản xuất đều tạo ra giá
trị lao động là thước đo cuối cùng của giá trị. Ông đã phân biệt rõ ràng giá trị sử
dụng với giá trị trao đổi. Ông cho rằng giá trị có hai nghĩa khác nhau, có lúc nó
biểu thị hiệu quả sử dụng như là một vật phẩm đặc biệt, có lúc biểu thị sức mua
do chỗ chiếm hữu một vật nào đó mà có được đối với vật khác. Cái trước gọi là
giá trị sử dụng, và cái sau gọi là giá trị trao đổi. Ông còn chứng minh rõ quan hệ
giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Những thứ có giá trị sử dụng rất lớn
thường có giá trị trao đổi cực nhỏ, thậm chí còn không có. Việc phân biệt rõ ràng
hai khái niệm giá trị sử dụng và giá trị trao đổi này đồng thời giải thích rõ là giá
trị trao đổi lớn hay nhỏ không liên quan gì đến giá trị sử dụng, đó là công lao của
A.Smith. Nhưng ông cho rằng những thứ không có giá trị sử dụng có thể có giá
trị trao đổi thì lại sai lầm. Theo A.Smith giá trị trao đổi là do lao động quyết định,
giá trị trao đổi là do hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá quyết định. Đó là
khái niệm đúng đắn về giá trị. Lao động là thước đo thật sự để xác định giá trị
trao đổi của mọi thứ hàng hoá. Việc xác nhận lao động quyết định giá trị hàng
hoá là công lao và thành tích khoa học của ông. Nhưng ông không hiểu được tính
chất xã hội của loại lao động này. Vì thế, khi đi sâu tìm hiểu thêm xem lao động
gì quyết định giá trị của hàng hoá , lao động xác định giá trị hàng hoá như thế nào
thì ông rơi vào hỗn loạn. Một mặt ông cho rằng lao động quyết định giá trị hàng
hoá là lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá. Lượng giá trị của hàng hoá tỷ lệ
thuận với lượng thời gian lao động hao phí trong sản xuất. Đồng thời ông còn
nghiên cứu sự phân biệt giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp, ông
cho rằng trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra giá trị nhiều hơn là
lao động đơn giản. Nhưng đồng thời ông lại cho rằng giá trị một hàng hóa bằng
số lượng lao động mà người ta có thể mua được nhờ hàng hoá đó. Đây là điều
luẩn quẩn và sai lầm của A.Smith, dùng giá trị quyết định giá trị. Ông đã lẫn lộn
vấn đề giá trị đã được quyết định như thế nào trong sản xuất và giá trị đã biểu
hiện nh- thế nào trong trao đổi. A.Smith nghiên cứu quy luật giá trị và tác dụng
của nó. Ông đã phân biệt giá cả tự nhiên với giá cả thị trường. Về bản chất, giá cả
tự nhiên là biểu hiện bằng tiền tệ của giá trị. Ông viết "nếu giá cả của một loại
hàng hoá nào đó phù hợp với những gì cần thiết cho thanh toán về tiền tô, trả
lương cho công nhân và lợi nhuận tư bản được chi phí cho khai thác, chế biến và
đưa ra thị trường, thì có thể nói hàng hoá đó được bán theo giá cả tự nhiên. Còn
giá cả thực tế mà qua đó hàng hoá được bán gọi là giá cả. Nó có thể cao hơn, thấp
hơn hay trùng hợp với giá cả tự nhiên. Theo ông, giá cả tự nhiên có tính chất
khách quan, còn giá cả thị trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Ngoài giá cả
tự nhiên, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào quan hệ cung - cần và các loại độc
quyền khác. Công lao chủ yếu của A.Smith về lý luận giá trị lao động là đã phân
biệt được giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, hơn nữa, ông đã cho rằng lao động là
thước đo thực tế của mọi giá trị. Với định nghĩa này, Ông là người đứng vững
trên cơ sở học thuyết giá trị lao động. Ông còn cho rằng, giá trị là do lao động mà
người ta có thể mua được bằng hàng hoá, từ đó ông suy ra giá trị do lao động tạo
ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong nền kinh tế Tư bản
chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó bằng tiền lương cộng với
lợi nhuận và địa tô.
3.3 Lý luận về giá trị lao động của David Ricardo đã đạt tới đỉnh cao của
kinh tế chính trị của trường phái cổ điển Anh:
David Ricacdo (1772-1823) sinh trong mét gia đình thương gia đông con. Năm
12 tuổi ông vào học ở trường trung học thương nghiệp hai năm, sau đó làm việc
trong lĩnh vực buôn bán chứng khoán. Nhờ có kinh nghiệm trong việc này, ông
giàu có nhanh chóng.
Lý luận Học thuyết Giá trị lao động của trường phái cổ điển Anh và những đóng
góp to lớn mang tính cách mạng của C. Mác vào học thuyết này. p-4 Ông
nghiên cứu nhiều lĩnh vực nh- toán học, lý học, hoá học, là một trong những
người sáng lập ra ngành địa chất. Tuy nhiên, sở trường của ông là kinh tế chính
trị học, ông cho xuất bản nhiều tác phẩm, nổi tiếng nhất là "Những nguyên lý cơ
bản của chính sách kinh tế và thuế khoá" hay tác phẩm "Những nguyên lý của
kinh tế chính trị học" (1817). Ông hoạt động trong thời kỳ cuộc cách mạng công
nghiệp đã hoàn thành; Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xác lập địa vị
thống trị hoàn toàn và phát triển trên cơ sở chính nó, với hai giai cấp cơ bản: giai
cấp tư sản và giai cấp vô sản đối lập nhau, mâu thuẫn giữa hai giai cấp bọc lé rõ
ràng hơn. Ông cũng nhìn nhận được mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Tư bản chủ
nghĩa, ông đã vạch ra được những cơ sở kinh tế của các mâu thuẫn đó. Ông công
khai bảo vệ lợi Ých cho giai cấp tư sản công nghiệp với ý thức để thúc đẩy sự
phát triển của nước Anh. Lý luận giá trị lao động chiếm vị trí quan trọng trong
hệ thống quan điểm của D.Ricardo. Còng nh- A.Smith, Ricardo đã phân biệt rõ
hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Chỉ rõ giá trị sử
dụng là điều kiện cần thiết cho giá trị trao đổi, nhưng không phải là thước đo của
nó. Trừ một số Ýt hàng hoá khan hiếm thì giá trị sử dụng quyết định giá trị trao
đổi, còn đại đa số hàng hoá khác, giá trị do lao động quyết định. Vì giá trị
trao đổi là giá trị tương đối được biểu hiện ở một số lượng nhất định của hàng
hoá khác (thay tiền tệ) nên D. Ricardo đặt vấn đề là bên cạnh giá trị tương đối
còn tồn tại giá trị tuyệt đối. Đó là thực thể của giá trị, là số lượng lao động kết
tinh, giá trị trao đổi là hình thức cần thiết và có khả năng duy nhất để biểu hiện
giá trị tuyệt đối. Ông bác bỏ lý luận giá trị sử dụng quyết định giá trị
hàng hoá, ông đã chứng minh rằng các nhân tố tự nhiên giúp con người tạo nên
giá trị sử dụng, nhưng không thêm một phân tử gì vào giá trị hàng hoá cả. Ông có
ý kiến kiệt xuất rằng: “Tính hữu Ých không phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc
dù hàng hoá rất cần thiết giá trị này”. “Giá trị khác xa với của cải, giá trị
không phụ thuộc vào việc có nhiều hay ít của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện
sản xuất khó khăn hay thuận lợi”. Theo ông sở dĩ có nhiều lầm lẫn trong
khoa học kinh tế chính trị là do người ta coi “sự tăng của cải và tăng giá trị là
một”, là do người ta quên rằng thước đo giá trị chưa phải là thước đo của cải vì
của cải không phụ thuộc vào giá trị. Theo ông giá trị trao đổi hàng hoá được quy
định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá, lượng lao động đó tỷ lệ thuận
với lao động tạo ra hàng hoá. Tính hữu ích không tăng cùng nhịp độ với tăng
giá trị, tính hữu ích là cần thiết vì vật không có Ých, nó không có được giá trị
trao đổi. D. Ricardo phân biệt giá cả tự nhiên và giá cả thị trường. Ông
cho rằng, không một hàng hoá nào mà giá cả không bị ảnh hưởng của
biến động ngẫn nhiên hay tạm thời. Nhưng nguyện vọng của các nhà tư bản
luôn có xu hướng muốn rút số vốn của mình ra khỏi một công việc kinh doanh Ýt
lãi và đầu tư vào một công việc kinh doanh có nhiều lãi hơn, nguyện vọng đó
không cho phép giá cả thị trường của các hàng hoá dừng lâu ở một mức nào đó
cao hơn nhiều hay thấp hơn nhiều so với giá cả tự nhiên của chúng. Ricardo
kiên định với quan điểm: lao động là nguồn gốc của giá trị, công lao to lớn của
ông là đã đứng trên quan điểm đó để xây dựng lý luận khoa học của mình. Đồng
thời ông cũng phê phán A.Smith cho rằng giá trị là do các nguồn gốc thu
nhập hợp thành. Theo ông giá trị hàng hoá không phải do các nguồn gốc
thu nhập hợp thành, mà ngược lại được phân thành các nguồn thu nhập. Về cơ
cấu giá trị hàng hoá, ông cũng có ý kiến khác với sai lầm giáo điều của A.Smith
bá C ra ngoài giá trị hàng hoá. Ricardo cho rằng: không chỉ trong nền sản xuất
hàng hoá giản đơn, mà ngay cả trong nền sản xuất lớn Tư bản chủ nghĩa, giá trị
vẫn do lao động quyết định. Ông chỉ ra rằng trong cơ cấu giá trị hàng hoá phải
bao gồm 3 bộ phận là C+V+m. Tuy nhiên ông chưa phân tích được sự
chuyển dịch C vào sản phẩm mới diễn ra như thế nào, ông có ý định phân tích
lao động giản đơn trung bình. Ông nói rằng, lao động xã hội cần thiết .
Lý luận Học thuyết Giá trị lao động của trường phái cổ điển Anh và những đóng
góp to lớn mang tính cách mạng của C. Mác vào học thuyết này. p-6 quyết định
lượng giá trị hàng hoá, song lại cho rằng, lao động xã hội cần thiết do điều kiện
sản xuất Êy quyết định.
Phương pháp nghiên cứu giá trị hàng hoá của ông còn mang tính siêu hình. Ông
coi giá trị là phạm trù vĩnh viễn, đó là thuộc tính của mọi vật, ông không thấy
được mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị, vì chưa có được học thuyết về tính
hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá, ông chịu ảnh hưởng của tính khan hiếm
quyết định giá trị, ông chưa phân biệt được giá trị hàng hoá với giá cả sản xuất,
mặc dù ông có nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận. Tóm lại, D.
Ricardo đã đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị lao động. C.Mác đánh giá
“Nếu A.Smith đã đưa khoa học kinh tế chính trị vào hệ thống, thì Ricardo đã kết
cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý thống nhất, nguyên lý
chủ yếu quyết định của ông là thời gian lao động quyết định giá trị”.
Kết luận
Tóm lại, các học thuyết gía trị lao động của các nhà kinh tế học trường phái kinh
tế cổ điển Anh đã có những đóng góp không nhỏ trong phân tích các khái niệm
và các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá. Trên cơ sở kế thừa có phê
phán của học thuyết này, C.Mác lần đầu tiên đã phát hiện ra tính hai mặt của sản
xuất hàng hoá, tạo thành một cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học. Bên
cạnh đó, với lý luận xuất phát là lý luận giá trị vân dụng vào trong điều kiện chủ
nghĩa tư bản Mác đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết về tích
luỹ tư bản, học thuyết về tái sản xuất từ đó làm sáng tỏ nhiều vấn đề kinh tế có
liên quan đến việc xác định bản chất của chủ nghĩa tư bản cũng như xác định
xu hướng vận động của nó. Cũng trên cơ sở các quan điểm mà Mác đã phát
triển và đưa ra hàng loạt các quan niệm chuẩn xác về các quy luật trong nền kinh
tế sản xuất hàng hoá, hình thành nên học thuyết Mác mà giá trị của nó vô cùng to
lớn trong kho tàng trị thức của nhân loại.