Tải bản đầy đủ (.pdf) (209 trang)

Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.35 MB, 209 trang )


1
B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM TP. H CH MINH
----------------------------------




PHAN VN KIN



DIEN MAẽO KINH TE AN GIANG
TRONG CAC THE KY XVII - XX


Chuyờn ngnh : Lch s Vit Nam
Mó s : 60 22 54


LUN VN THC S LCH S






NGI HNG DN KHOA HC :
TS. TRN TH THANH THANH




Thnh ph H Chớ Minh - 2007



2
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
An Giang là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ thuộc Đồng bằng sông Cửu Long.
Cách đây hơn 300 năm, khi người Việt đặt chân đến vùng này, về cơ bản, đây là một
vùng đất hoang vu chưa được khai phá, sình lầy, sông rạch chằng chịt, cây rừng rậm
rạp, với hàng nghìn trâu rừng tụ họp. Nhưng không đầy ba thế kỷ sau, An Giang trở
thành một vùng đất trù phú, một vựa lúa lớn của cả nước. Việc dựng lại diện mạo kinh
tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm hiểu sự
phát triển kinh tế An Giang ngày nay.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, dưới sự lãnh đaọ của Đảng Cộng sản Việt
Nam, kinh tế An Giang đạt được rất nhiều thành tựu quan trọng, nhất là sản lượng
lương thực trong những năm gần đây luôn luôn đứng đầu cả nước. Tìm hiểu kinh tế An
Giang trong các thế kỷ XVII - XX có ý nghĩa quan trọng, giúp cho địa phương vạch ra
những chính sách, định hướng, giải pháp phát triển kinh tế An Giang trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
Trong những năm qua, có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về tình hình
kinh tế vùng Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần không nhỏ trong việc nhận thức lại
quá khứ, cung cấp những cơ sở khoa học cho việc quy hoạch phát triển kinh tế của
vùng. Một hệ thống đề tài về kinh tế của mỗi tỉnh trong các thế kỷ XVII - XX vẫn là
mối quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Mặt khác, đề tài này còn góp phần giáo dục thế hệ trẻ lòng yêu quê hương,
con người An Giang cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất, anh dũng, kiên cường

trong chống giặc ngoại xâm; từ đó có thái độ và trách nhiệm trong việc góp phần xây
dựng quê hương An Giang giàu đẹp.



3
Mục đích của luận văn là dựng lại bức tranh lịch sử về kinh tế An Giang trong
các thế kỷ XVII - XX, tập trung nghiên cứu tất cả các mặt hoạt động kinh tế nông
nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận
tải. Qua đó, thấy được những biến đổi của kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII -
XX. Trên cơ sở nghiên cứu các mặt hoạt động của kinh tế An Giang, tác giả rút ra được
một số đặc điểm cơ bản về kinh tế An Giang. Tìm ra thế mạnh của kinh tế An Giang,
góp phần vào việc hoạch định chính sách kinh tế của tỉnh. Đồng thời nêu được những
tác nhân kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng của chúng đến đời sống nhân dân
An Giang trong các thế kỷ XVII - XX, từ đó có những kiến nghị cho việc phát triển
kinh tế An Giang trong giai đoạn hiện nay.
Tôi sinh ra, lớn lên và công tác tại An Giang, việc nghiên cứu kinh tế An
Giang trong các thế kỷ XVII - XX sẽ giúp tôi giảng dạy tốt lịch sử địa phương, cũng
như việc biên soạn tài liệu dạy học lịch sử địa phương An Giang cho các trường phổ
thông hiện nay. Việc nghiên cứu này còn góp phần bổ sung nguồn tư liệu tham khảo
cho giáo viên giảng dạy lịch sử địa phương An Giang.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chủ đề của luận văn là Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII -
XX. Tác giả đi sâu tìm hiểu các hoạt động kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, thủ công
nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận tải, cũng như những tác động của
những hoạt động đó tới đời sống nhân dân An Giang trong bốn thế kỷ qua.
Về không gian, vùng đất An Giang từ thời chúa Nguyễn cho đến khi thực dân
Pháp chiếm Nam Kỳ có địa giới rất rộng, bao gồm An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang,
Sóc Trăng, một phần Đồng Tháp và Bạc Liêu ngày nay. Luận văn chỉ nghiên cứu

những vấn đề lịch sử thuộc phạm vi không gian địa giới tỉnh An Giang ngày nay. Khi



4
giới hạn phạm vi nghiên cứu, tác giả có tính đến sự thay đổi về địa giới hành chính qua
các thời kỳ lịch sử.
Về thời gian, luận văn giới hạn trong các thế kỷ XVII - XX. Cụ thể là từ năm
1620, là năm vua Chân Lạp Chey Chetta II xin cưới công nương Ngọc Vạn, con của
chúa Nguyễn Phúc Nguyên, từ đây, vua Chân Lạp tạo điều kiện thuận lợi cho người
Việt đến khai phá đất đai và định cư sinh sống ở vùng đất Nam Bộ, trong đó có An
Giang; và đến năm 2000, là năm kết thúc thế kỷ XX, bước sang kỷ nguyên mới, cũng
là năm An Giang đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội sau hơn 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới.

3. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khi thực hiện đề tài “Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII -
XX”, tác giả kế thừa nghiêm túc và có chọn lọc các kết quả nghiên cứu trước đây liên
quan đến đề tài, bao gồm các nội dung về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, yếu tố
con người và các nhân tố khác có tác động đến kinh tế An Giang. Trước hết là những
công trình được ghi chép của nhà Nguyễn.
Quyển Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1783) được viết vào khoảng
năm 1776, thời điểm đang diễn ra cuộc khẩn hoang, mở rộng lãnh thổ về phía Nam. Do
vậy, tác phẩm có những tư liệu quý về cảnh quan, môi trường thiên nhiên, những biến
động kinh tế và chính trị vùng sông Tiền, sông Hậu nói riêng, vùng đất Nam Bộ nói
chung.
Tác phẩm Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825) được
viết vào thời vua Gia Long (1802 - 1820). Đây là quyển địa phương chí đầu tiên đề cập
một cách khái quát về địa giới, khí hậu, vùng đất, con người, sản vật, núi sông, phong
tục và tình hình kinh tế vùng đất Nam Bộ nói chung, trong đó có vùng đất An Giang

nói riêng ở các thế kỷ XVIII - XIX.



5
Bộ Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, được vua Minh Mạng
cho biên soạn vào năm 1821, gồm hai phần : Đại Nam thực lục tiền biên ghi chép giai
đoạn lịch sử từ khi Nguyễn Hoàng vào Nam (1558) đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần
(1777); Đại Nam thực lục chính biên ghi chép Nguyễn Ánh bôn ba tìm cách khôi phục
lại quyền lực (1777) đến năm vua Đồng Khánh mất (1889). Đây là bộ tư liệu ghi chép
khá đầy đủ về vùng đất An Giang trong các thế kỷ XVII - XIX trên các phương diện
kinh tế, chính trị, xã hội. Ngoài ra, Đại Nam thực lục còn khắc hoạ đậm nét về xã hội
Việt Nam từ 1858 đến năm 1867, trong đó có vùng đất An Giang.
Trong Quốc triều chánh biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, có
đoạn miêu tả công việc đào kênh làm thuỷ lợi, công cuộc khẩn hoang lập đồn điền và
sơ lược về sở hữu đất đai của một số làng thuộc vùng đất An Giang trước khi thực dân
Pháp chiếm An Giang vào năm 1867.
Địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh được lập năm 1836 dưới thời vua Minh Mạng, gồm
484 tập. Trong đó, Địa bạ An Giang có 43 tập bao gồm An Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng
và một phần tỉnh Đồng Tháp. Đây là tài liệu miêu tả sinh động, chính xác về các đơn vị
hành chính, các loại đất đai, tình hình phân bố ruộng đất, thuế, cơ cấu cây trồng và các
vấn đề xã hội khác ở tỉnh An Giang trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XIX.
Bộ sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, được biên
soạn vào năm Tự Đức thứ 29 (1875) và hoàn thành vào khoảng năm 1881. Trong tập
Thượng của bộ sách có nhiều ghi chép về tình hình môi trường tự nhiên, kinh tế An
Giang thế kỷ XIX. Đây là tư liệu quý khái quát phần nào bức tranh về tự nhiên, kinh tế
An Giang dưới triều Nguyễn.
Như vậy, thư tịch cổ viết về kinh tế An Giang khá phong phú, nhưng còn rời rạc
và đan xen với nhiều sự kiện khác. Cho đến nay, việc nghiên cứu vùng đất An Giang
trong các thế kỷ XVII - XIX nói chung, kinh tế An Giang nói riêng vẫn còn thiếu, rất

cần tài liệu nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách hoàn chỉnh, có hệ thống về kinh



6
tế An Giang. Do đó, các tư liệu trên vẫn là nguồn chính cho việc tham khảo và đối
chiếu trong quá trình nghiên cứu.
Trong thời thực dân Pháp cai trị và trở lại xâm lược (1867 - 1954) có một số
sách địa phương chí về tỉnh Long Xuyên, tỉnh Châu Đốc do người Pháp biên soạn như:
Đặc khảo về tỉnh Châu Đốc (năm 1902), Đặc khảo về tỉnh Long Xuyên (năm 1905),
Các tỉnh Nam Kỳ - Long Xuyên (năm 1907), Địa phương chí tỉnh Long Xuyên năm
1953, Địa phương chí tỉnh Châu Đốc năm 1953,... đề cập các mặt hành chính, kinh tế,
văn hoá, xã hội. Đồng thời, năm 1941, công trình khai hoang ở An Giang đã được nhắc
đến trong bài viết Mảnh sử liệu việc khai hoang ở Nam Kỳ dưới triều Nguyễn của tác
giả Tiên Đàm (Báo Tri Tân, số 21).
Thời kỳ 1954 - 1975 có nhiều công trình nghiên cứu về Nam Bộ, vùng đất An
Giang hoặc có đề cập đến kinh tế An Giang được công bố.
Dưới chính quyền Sài Gòn, Ban nghiên cứu Toà hành chính An Giang còn cho
biên soạn các quyển địa phương chí như : Địa phương chỉ tỉnh Long Xuyên 1956, Địa
phương chí tỉnh Châu Đốc 1956, Địa phương chí An Giang 1959, Địa phương chí An
Giang 1961, Địa phương chí An Giang 1963, Địa phương chí tỉnh An Giang 1967, Địa
phương chí tỉnh Châu Đốc 1968, Địa phương chí tỉnh An Giang 1973,… đã đề cập một
cách tổng quát về lịch sử, danh lam thắng cảnh, điều kiện tự nhiên, hành chính, kinh tế,
văn hoá, xã hội của tỉnh.
Quyển Tân Châu xưa của Nguyễn Văn Kiềm và Huỳnh Minh được biên soạn
vào năm 1964 đã đề cập đến một phần đất An Giang. Đây là loại sách chuyên khảo viết
về nơi định cư sinh sống sớm nhất của người Việt ở An Giang, sự quản lý của chúa
Nguyễn ở vùng đất mới tiếp quản này. Ngoài ra, tác giả còn trình bày diện mạo vùng
đất Tân Châu từ 1757 - 1965 qua các mặt kinh tế, địa phận, văn hoá, tín ngưỡng,....
Tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong của Phan Khoang được viết vào những năm

1970. Tác phẩm này viết về quá trình Nam tiến của dân tộc Việt Nam dưới thời các



7
chúa Nguyễn, quá trình xác lập chủ quyền ở vùng đất Nam Bộ, trong đó có đề cập đến
tình hình các mặt ở vùng đất An Giang.
Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khẩn hoang vùng Hậu Giang của Nguyễn Văn
Hầu được xuất bản năm 1973. Tác giả viết về công trình đào kênh, mở đường, khẩn
hoang lập làng ở An Giang của Thoại Ngọc Hầu vào giai đoạn cuối thời vua Gia Long
đầu thời vua Minh Mạng.
Quyển Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam xuất bản năm 1973, cũng
đã cung cấp những tư liệu về cuộc khẩn hoang lập làng ở vùng đất Nam Bộ nói chung,
An Giang nói riêng vào thế kỷ XVIII - XIX.
Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam phần Việt Nam của Nguyễn Văn Luận
xuất bản năm 1973. Tác giả đề cập đến quá trình lịch sử, sinh hoạt kinh tế và đời sống
văn hoá - xã hội của người Chăm ở An Giang trước năm 1975.
Quyển Người Việt gốc Miên của Lê Hương xuất bản 1969, đã miêu tả sinh
động về sinh hoạt xã hội, tôn giáo, văn hoá, giáo dục và kinh tế của người Khmer ở
đồng bằng sông Cửu Long nói chung, trong đó có sinh hoạt kinh tế của người Khmer
An Giang.
Ngoài ra, trong tác phẩm Gia Định xưa, nhà văn Sơn Nam đã đề cập đến vấn
đề đất đai, thiên nhiên, phong thổ, phong tục, tập quán của vùng đất Nam Bộ và công
cuộc khẩn hoang vùng biên giới Tây Nam.
Từ sau năm 1975, có nhiều công trình nghiên cứu về đồng bằng sông Cửu Long
và An Giang, với những vấn đề sâu hơn.
Tác phẩm Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ do Huỳnh Lứa chủ biên, đã góp
phần tìm hiểu sâu hơn về quá trình khai phá vùng đất Nam Bộ, trong đó có An Giang.
Các tác giả đã khái quát quá trình di chuyển dân cư, khai hoang lập đồn điền, tổ chức
sản xuất nông nghiệp, những biến đổi về mặt xã hội, .…




8
Quyển Những trang về An Giang của Trần Thanh Phương xuất bản 1984. Đây
là quyển sách địa chí, đã đề cập đến thiên nhiên, con người, kinh tế, văn hoá, giáo dục,
y tế An Giang trong các thế kỷ XVIII - XX.
Trong Lịch sử An Giang của Sơn Nam được xuất bản vào năm 1988, tác giả
đã đề cập đến những biến đổi về mọi mặt của vùng đất An Giang từ khi hoà hợp vào
lãnh thổ nước ta đến thời Pháp thuộc.
Quyển Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Công Bình,
Lê Xuân Diệm, Mạc Đường xuất bản năm 1990 đã nghiên cứu về các tộc người đang
sinh sống trên mảnh đất Đồng bằng sông Cửu Long. Các tác giả đã đề cập đến mọi mặt
trong sinh hoạt về mặt kinh tế - xã hội của cư dân đã từng sinh sống ở vùng đất này.
Tác phẩm Về dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long xuất bản năm 1991 đã đề
cập khá chi tiết về sinh hoạt kinh tế của các dân tộc Khmer, Chăm, Hoa đang sinh sống
ở Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, vùng đất An Giang nói riêng.
Chế độ công điền công thổ trong lịch sử khẩn hoang lập ấp ở Nam Kỳ lục tỉnh
của Nguyễn Đình Đầu được xuất bản năm 1992. Tác phẩm cung cấp những tư liệu quý
về quá trình khai hoang lập ấp, chế độ công điền công thổ ở An Giang từ khi lưu dân
người Việt có mặt cho đến khi Pháp xâm chiếm vùng này vào năm 1867.
Quyển Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ các thế kỷ XVII, XVIII, XIX của
Huỳnh Lứa xuất bản năm 2000. Tác giả có đề cập đến quá trình xác lập chủ quyền lãnh
thổ, khai hoang lập ấp, công cuộc đào kênh, các hoạt động kinh tế ở An Giang trong
hai thế kỷ XVIII - XIX.
Bên cạnh đó còn có các tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long nghiên cứu và
phát triển do Nguyễn Công Bình chủ biên, Nghề nông Nam Bộ của Trần Xuân Kiêm
biên soạn năm 1992, Lược sử vùng đất Nam Bộ Việt Nam của Vũ Minh Giang chủ
biên.




9
Ngoài ra, các bài viết trong các Kỷ yếu hội thảo khoa học như Nam Bộ và
Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XIX do Trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, Lịch sử phát triển kinh Vĩnh Tế, Lịch sử hình thành
vùng đất An Giang do Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ An
Giang và Sở Khoa học Công nghệ Môi trường tỉnh An Giang đã phối hợp với Viện
Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh tổ chức,... ; các bài viết trên các báo
chuyên ngành được công bố thường xuyên có liên quan đến kinh tế An Giang.
Những nội dung vừa được đề cập ở trên chưa có tính hệ thống, chưa có tính
liên tục, chưa được đi sâu, trong đó có kinh tế. Nhìn chung, cho đến nay chưa có công
trình nghiên cứu chuyên sâu về đề tài Kinh tế An Giang từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX.
Như vậy, chủ đề này vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cho giới nghiên cứu.

4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tài liệu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi nghiêm túc kế thừa không chỉ tư
liệu mà cả về lý luận của các công trình đi trước có liên quan đến đề tài. Nguồn tư liệu
bao gồm : sách, báo, tạp chí có ở Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Khoa học Tổng
hợp, Thư viện Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện An Giang, Thư
viện Cần Thơ. Bên cạnh đó còn có các bản báo cáo, tập địa chí được lưu trữ tại Ban
Tuyên giáo Tỉnh uỷ An Giang, Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, Cục Thống kê tỉnh An
Giang, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II; các luận văn cao học và phó tiến sĩ lưu lại tại
Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Khoa học Tổng hợp.
Ngoài ra, chúng tôi còn thu thập tài liệu điền dã để có thêm cơ sở nhận định về
kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX.






10
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tác giả vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp
logic : Đây là những phương pháp cơ bản sử dụng trong luận văn. Trong đó, phương
pháp lịch sử đóng vai trò chủ đạo.
Phương pháp hệ thống hoá : Hệ thống lại những vấn đề được viết tản mạn, rải
rác trong các tư liệu và nhiều nguồn tư liệu khác nhau có liên quan đến kinh tế An
Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Phương pháp hệ thống hoá là cơ sở để trình bày
những nội dung trong luận văn.
Phương pháp so sánh : Dùng phương pháp này để đối chiếu kinh tế An Giang
ở các vùng địa phương trong tỉnh hoặc với các tỉnh khác trong vùng.
Phương pháp liên ngành : Trong quá trình thực hiện đề tài, kết hợp chủ yếu
các loại tài liệu và kế thừa thành tựu nghiên cứu của các ngành khác nhau như địa lý,
kinh tế, thống kê,…
Phương pháp khảo sát điền dã : Tác giả luận văn đã tiếp xúc với những người
trồng lúa ở Long Kiến, nghề mộc ở Long Điền A (huyện Chợ Mới), nghề dệt ở huyện
Tân Châu, nghề gốm ở huyện Tri Tôn, nghề đá ở Núi Sập, nghề sản xuất gạch ngói ở
huyện Châu Thành, làm mắm ở thị xã Châu Đốc,… Đồng thời còn thu thập tài liệu
điền dã để có thêm cơ sở nhận định về kinh tế An Giang trong bốn thế kỷ đã qua.

5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm phong phú khối lượng tư liệu liên
quan đến tiến trình phát triển kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Nguồn tư
liệu này được bổ sung vào tư liệu nghiên cứu kinh tế Nam Bộ nói chung.
Luận văn còn đóng góp một số kết luận cụ thể về những thuận lợi và khó khăn
của kinh tế An Giang trong bốn thế kỷ đã qua, rút ra những đặc điểm cơ bản kinh tế An




11
Giang trong các thế kỷ XVII - XX. Từ đó có những đề xuất và giải pháp nhằm phát
triển kinh tế An Giang trong giai đoạn hiện nay.

6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn gồm 207 trang, trong đó phần mở đầu 10 trang, nội dung chính 168
trang, kết luận 10 trang, tài liệu tham khảo 7 trang, phụ lục 12 trang. Luận văn được
chia làm 3 chương.
Chương 1 : Môi trường tự nhiên - điều kiện cơ bản của diện mạo kinh tế An Giang.
Chương 2 : Diện mạo kinh tế An Giang trong các thế kỷ XVII - XX.
Chương 3 : Cư dân An Giang - chủ thể làm nên diện mạo kinh tế An Giang.

















12


Chương 1
:
MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN - ĐIỀU KIỆN
CƠ BẢN CỦA DIỆN MẠO KINH TẾ AN GIANG


1.1. Vị trí, địa hình
1.1.1. Vị trí
An Giang là một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ thuộc Đồng bằng sông Cửu Long,
nằm giữa sông Tiền, sông Hậu và có một phần diện tích nằm trong vùng Tứ giác Long
Xuyên. Mặt khác, An Giang còn là một tỉnh biên giới vừa có đồng bằng, vừa có đồi
núi, có nhiều tôn giáo và thành phần dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Chăm sinh sống.
Tỉnh An Giang có diện tích tự nhiên là 3.406,23 km
2
, dân số năm 2006 là
2.218.403 người [10, tr.19], đứng đầu các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long và đứng
thứ 6 trên tổng số 64 tỉnh, thành phố. Tỉnh An Giang có 11 huyện, thị, thành phố trực
thuộc gồm thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc và các huyện Châu Thành, Châu
Phú, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên, An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; với 154
xã, phường, thị trấn.
Phía bắc và tây bắc giáp Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 104
km, phía đông giáp với tỉnh Đồng Tháp 107,628 km, phía nam và đông nam giáp với
thành phố Cần Thơ 44,734 km, phía tây nam giáp với tỉnh Kiên Giang 69,789 km.
Chiều dài nhất của tỉnh An Giang theo hướng Bắc - Nam là 86 km và hướng Đông -
Tây là 87,2 km, nơi hẹp nhất ở phía bắc là 20 km.
Là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, nằm liền kề với thành phố Cần Thơ, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 190 km. An Giang có hệ thống giao thông thuỷ bộ rất thuận
lợi. Quốc lộ 91 nối liền với quốc lộ 2 của Vương quốc Campuchia qua cửa khẩu quốc
tế Tịnh Biên (huyện Tịnh Biên); Tỉnh lộ 956 với Campuchia qua cửa khẩu quốc tế




13
Khánh Bình (huyện An Phú); sông Hậu, sông Tiền và mạng lưới kênh rạch là những
tuyến giao thông thủy quốc tế quan trọng nối tỉnh An Giang với các tỉnh ở Đồng bằng
sông Cửu Long và Campuchia qua cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương (huyện Tân Châu).
Đây là điều kiện thuận lợi để An Giang phát triển và hội nhập kinh tế với các tỉnh trong
khu vực, với nước ngoài, nhất là khu vực Đông Nam Á.
1.1.2. Địa hình
An Giang có địa hình thấp dần từ biên giới Việt Nam - Campuchia xuống đến
lộ Cái Sắn và từ bờ sông Tiền qua đến giáp ranh tỉnh Kiên Giang. An Giang có 2 dạng
địa hình chính là đồng bằng và đồi núi.
Địa hình đồng bằng chiếm 87% diện tích tự nhiên của tỉnh, có 2 loại chính
đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi.
Đồng bằng phù sa là do phù sa sông Tiền và sông Hậu bồi đắp hàng năm, rất
bằng phẳng và có nhiều dạng. Dạng cồn bãi (còn gọi là cù lao), ở giữa cao và thấp dần
sang hai bên như “cù lao Mỹ Hoà Hưng, cù lao Tiên, cồn Phó Ba (thành phố Long
Xuyên), Bà Hoà (huyện Châu Thành), Bình Thuỷ, Khánh Hoà (huyện Châu Phú), Vĩnh
Trường (huyện An Phú) trên sông Hậu; và cù lao Giêng (huyện Chợ Mới), cù lao Tây,
cù lao Ma, Cái Vừng (huyện Tân Châu) trên sông Tiền” [79, tr.104]. Dạng lòng chảo,
địa hình ở hai bên bờ sông cao hơn, thấp dần vào trong đồng ruộng, đó là khu vực giữa
sông Tiền và sông Hậu, rõ nét nhất là huyện Phú Tân, vì nơi đây có ba mặt sông bao
bọc. Dạng hơi nghiêng, ở phía hữu ngạn sông Hậu thuộc vùng trũng Tứ giác Long
Xuyên, địa hình cao ở gần bờ sông Hậu rồi thấp dần vào trong đồng ruộng cho đến tận
ranh giới tỉnh Kiên Giang. Dạng gợn sóng là một dạng phụ nằm trong khu vực dạng
lòng chảo, được hình thành do sự kết nối đan xen các bãi bồi ven các sông nhánh và
các rạch tự nhiên đã bị phù sa sông bồi lấp, tập trung chủ yếu ở cù lao Vĩnh Trường
(huyện An Phú), các xã Vĩnh Hòa và Vĩnh Xương của huyện Tân Châu.




14
Đồng bằng phù sa ở An Giang ngày nay có nhiều thay đổi so với cách đây
hơn 200 năm, những cánh đồng tràm mênh mông với vô số đàn ong xây tổ làm mật,
những cánh đồng um tùm, đầy lau sậy hoang vu xưa kia, nay đã được khai thác hết để
trồng lúa và cây hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày, từ một vụ đến hai,
ba vụ mỗi năm. Đồng bằng còn bị chia cắt bởi hệ thống kênh đào, các tuyến giao thông
đường bộ và các khu dân cư tập trung đông đúc.
Đồng bằng ven núi tập trung chủ yếu quanh các chân núi ở 2 huyện Tri Tôn,
Tịnh Biên. Dạng đồng bằng này có nhiều bậc thang ở những độ cao khác nhau, nhưng
ở mỗi bậc thang thì khá bằng phẳng, không có độ nghiêng; chênh lệch độ cao giữa các
bậc thang không lớn. Cách đây hơn 200 năm, trên những cánh đồng này là những thảm
thực vật phủ xanh với nhiều chủng loài. Nhưng ngày nay được khai phá hết để trồng
lúa, hoa màu và cây ăn quả, dẫn đến nguy cơ bị xói mòn dần và sa mạc hóa, đòi hỏi
việc đa dạng hóa cây trồng, nhất là cây ăn quả.
Địa hình đồi núi thấp chiếm 13% diện tích tự nhiên, tập trung chủ yếu ở 3
huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và Thoại Sơn; có hàng chục ngọn núi khá lớn, nhỏ, cao, thấp
khác nhau. Đồi núi An Giang chia làm 2 dạng chính : dạng núi cao và dốc, dạng núi
thấp và thoải. Dạng núi cao và dốc như núi Cấm, núi Cô Tô, núi Dài,… Dạng núi thấp
và thoải, phần lớn các núi thấp nằm liền hoặc nằm kề các núi lớn như núi Nam Qui, Sà
Lon, núi Đất,…
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết trước năm 1820 ghi
chép về đồi núi ở An Giang gồm 19 núi, đó là : núi Thụy Sơn, núi Bảo Sơn (thuộc cụm
núi Sập huyện Thoại sơn ngày nay), núi Ba Thê, núi Tà Chiếu, núi Trà Nghinh (thuộc
cụm núi Ba Thê huyện Thoại Sơn ngày nay), núi Tượng Sơn, núi Cà Âm, núi Nam Sư,
núi Khê Lạp, núi Toái Sơn, núi Tà Biệt, núi Ba Xui, núi Ngật Sum, núi Nam Vi, núi
Đài Tốn, núi Chân Sum, núi Sâm Đăng, núi Đại Bà Đê và núi Tiểu Bà Đê (phần lớn
các núi này nằm trên địa bàn 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên ngày nay [17, tr.49-52].
Tuy nhiên, sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn hoàn thành vào năm 1882 đã đề cập




15
đến danh từ Thất Sơn, Bảy Núi và ghi bổ sung thêm 4 núi là Tô Sơn, Ốc Nhẫm, Tà
Biệt và Nhân Hòa.
Ngoài núi Sập, núi Ba Thê (huyện Thoại Sơn), núi Sam (thị xã Châu Đốc),
An Giang còn có một dãy núi nằm nối đuôi nhau chạy dài giáp vùng biên giới Việt
Nam - Campuchia, gọi là Bảy Núi hoặc Thất Sơn, với 7 núi chính : núi Nước (Thủy
Đài Sơn), núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn), núi Két (Anh Vũ Sơn), núi Dài (Ngọa Long
Sơn), núi Cấm (Thiên Cấm Sơn), núi Tượng (Liên Hoa Sơn), núi Năm Giếng (Ngũ Hồ
Sơn). Trong đó, một số núi khá lớn như núi Dài, núi Cô Tô có độ cao trên 500 mét và
núi có đỉnh cao nhất là núi Cấm (Thiên Cấm Sơn) 705 mét. Theo Gia định thành thông
chí, đồi núi An Giang được mô tả : “Vách dốc ngậm mây, suối cong tắm ngọc, có
những thứ giáng hương, tốc hương; cây cối um tùm, chim muông béo tốt” [17, tr.50].
Còn Đại Nam nhất thống chí ghi lại núi Sập : “Cách sông Thụy Hà 18 dặm rưỡi về
phía tây, cao 30 trượng, chu vi 3 dặm, ba ngọn núi chồng chất, cây cối xanh um, cấm
chặt cây” [60, tr.195]; hay núi Nam Vi “ ở cách huyện Hà Dương 8 dặm về phía tây
nam, cao 30 trượng, chu vi hơn 8 dặm, cây cối um tùm, cấm chặt cây, khe sâu cỏ rậm,
rất nhiều hươu nai hổ báo” [60, tr.196].
Theo Địa chí An Giang (năm 2000), tỉnh An Giang có 37 núi :
TT
Tên núi Độ cao
(mét)
Chu vi
(mét)
Vị trí núi
(xã, huyện)
1 Núi Sập 85 3800 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn
2 Núi Nhỏ 76 2200 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn

3 Núi Bà 55 280 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn
4 Núi Cậu 34 240 Thị trấn Núi Sập, Thoại Sơn
5 Núi Ba Thê 221 4220 Thị trấn Óc Eo, Thoại Sơn
6 Núi Nhỏ 63 700 Thị trấn Óc Eo, Thoại Sơn
7 Núi Tượng 60 970 Xã Vọng Đông, Thoại Sơn
8 Núi Trọi 21 400 Xã Vọng Đông, Thoại Sơn



16
9 Núi Chóc 19 550 Xã Vọng Đông, Thoại Sơn
10 Núi Nổi 10 320 Xã Phú Hữu, huyện An Phú
11 Núi Sam (Học Lãnh Sơn) 228 5200 Núi Sam, thị xã Châu Đốc
12 Phú Cường (Bạch Hổ Sơn) 282 9500 An Nông, huyện Tịnh Biên
13 Núi Dài (Ngũ Hồ Sơn) 265 8751 An Phú, huyện Tịnh Biên
14 Núi Két (Anh Vũ Sơn) 266 5250 Thới Sơn, huyện Tịnh Biên
15 Núi Rô 149 2250 An Cư, huyện Tịnh Biên
16 Núi Trà Sư (Kỳ Lân Sơn) 146 1750 Nhà Bàng, huyện Tịnh Biên
17 Núi Bà Vải 146 1400 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên
18 Núi Đất Lớn 120 2120 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên
19 Núi Bà Đắt 103 1075 Văn Giáo, huyện Tịnh Biên
20 Núi Cậu 100 1900 Thị trấn Tịnh Biên, Tịnh Biên
21 Núi Đất Nhỏ 80 450 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên
22 Núi Mo Tấu 80 270 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên
23 Núi Chùa 60 380 Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên
24 Núi Tà Nung 59 1450 Thị trấn Tịnh Biên, Tịnh Biên
25 Núi Cấm (Thiên Cấm Sơn) 705 28600 An Hảo, huyện Tịnh Biên
26 Núi Bà Đội 261 6075 Tân Lợi, huyện Tịnh Biên
27 Núi Nam Qui 213 8875 Châu Lăng, huyện Tri Tôn
28 Núi Bà Khẹt 129 1380 Chi Lăng, huyện Tịnh Biên

29 Núi Tà Lọt 69 870 Châu Lăng, huyện Tri Tôn
30 Núi Ba Xoài 58 550 An Cư, huyện Tịnh Biên
31 Núi Cà Lanh 41 1225 An Hảo, huyện Tịnh Biên
32 Núi Dài (Ngọa Long Sơn) 554 21625 Lê Trì, huyện Tri Tôn
33 Núi Tượng
(Liên Hoa Sơn)
145 3825 Ba Chúc, huyện Tri Tôn
34 Núi Sà Lon 102 2325 Lương Phi, huyện Tri Tôn
35 Núi Nước (Thủy Đài Sơn) 54 1070 Ba Chúc, huyện Tri Tôn
36 Núi Cô Tô
(Phụng Hoàng Sơn)
614 14375 Cô Tô, huyện Tri Tôn



17
37 Núi Tà Pạ 102 10225 An Tức, huyện Tri Tôn
Nguồn : [79, tr.107]
Tóm lại, do môi trường sinh thái có n
hiều biến đổi hơn 200 năm qua, từ chỗ
rừng rậm rạp, khe suối có nhiều nước đến chỗ rừng cạn kiệt và các khe suối khô như
hiện nay, địa hình đồi núi ở An Giang có nhiều thay đổi. Các hoạt động khai thác đá
xây dựng trong suốt nhiều năm qua ở núi Sam, núi Sập, núi Cô Tô,…. đã khoét sâu vào
chân núi, sườn núi, làm cho hình dạng của các núi này thay đổi, mất vẻ đẹp tự nhiên và
tác động xấu đến môi trường xung quanh.
Những năm gần đây, An Giang có nhiều
biện pháp tích cực để khắc phục thực trạng trên bằng cách đình chỉ mọi hoạt động khai
thác đá, cát tại núi Sam, núi Sập; trồng cây gây rừng trên các đồi núi, xây dựng các hồ
chứa nước,… trên vùng đồi núi Tri Tôn và Tịnh Biên.
Khác với các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, An Giang là tỉnh không chỉ có

địa hình đồng bằng mà còn có đồi núi. Địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng, do
phù sa bồi đắp hàng năm. Đất ở đây rất thích hợp cho việc trồng lúa và hoa màu. Còn
đất ở địa hình đồi núi thì thích hợp với việc trồng cây ăn quả và trồng rừng. Ngoài ra,
đồi núi An Giang không chỉ là thắng cảnh đẹp mà còn là nguồn tài nguyên lớn về
khoáng sản, cây công nghiệp, là nơi có nhiều loại cây thuốc quí. Đá núi Sập, núi Sam,
núi Cô Tô,… được dùng trong xây dựng và dụng cụ gia đình trong và ngoài tỉnh. Địa
hình đồi núi An Giang còn là bức tường thành chống giặc ngoại xâm, bảo vệ biên giới
Tây Nam của Tổ quốc.

1.2. Sông, rạch, kênh và hồ
1.2.1. Sông
An Giang là một trong hai tỉnh đầu nguồn sông Mê Kông. Sông Mê Kông bắt
nguồn từ Tây Tạng (Trung Quốc), chảy theo hướng nam qua các nước Trung Quốc,
Myanma, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Khi vào địa phận nước ta, sông Mê



18
Kông chia làm hai nhánh : nhánh ở phía đông gọi là sông Tiền và nhánh ở phía tây gọi
là sông Hậu.
Sông Tiền chảy qua Tân Châu, Sa Đéc, Vĩnh Long và đổ ra Biển Đông bằng 6
cửa : Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu. Đoạn chảy qua
địa phận tỉnh An Giang dài khoảng 80 km, chiều rộng phía trên Vàm Nao lớn hơn
1.000 mét và phía dưới Vàm Nao từ 800 - 1.100 mét [74, tr.15]; độ sâu trung bình
khoảng 20 mét và có nơi sâu khoảng 45 mét như tại khu vực thị trấn Tân Châu. Trịnh
Hoài Đức đã ghi lại lợi ích của sông này : “…nước ngọt rưới nhuần bừa ruộng mạ,
được thóc kể cả trăm lần…; ngòi rạch thì đầy rẫy cá tôm cua lươn, nhà tự đi bắt lấy để
ăn” [17, tr.52]. Ngày nay, sông Tiền còn là ranh giới của 2 tỉnh An Giang, Đồng Tháp.
Sông Tiền là trục giao thông thuỷ quan trọng, tàu thuỷ có thể chạy từ thành phố Hồ Chí
Minh trên tuyến sông này lên đến Phnôm Pênh và ngược lại; là nguồn cung cấp nước

tưới và phù sa cho các cánh đồng ở huyện Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới. Bên cạnh đó,
sông Tiên còn có nhiệm vụ tải lũ và cung cấp nguồn thuỷ sản lớn cho tỉnh An Giang.
Sông Hậu chảy song song với sông Tiền qua Châu Đốc, Long Xuyên, Cần
Thơ và đổ ra Biển Đông bằng 3 cửa là Định An, Bát Xắc, Tranh Đề. Đoạn chảy qua
tỉnh An Giang dài gần 101 km, trong đó chảy qua hai trung tâm đô thị lớn của tỉnh :
thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc; chiều rộng phía trên sông Vàm Nao từ 500 -
900 mét, còn phía dưới Vàm Nao từ 800 - 1.200 mét; độ sâu trung bình khoảng 13 mét
và có nơi sâu khoảng 45 mét như tại khu vực cửa đổ vào sông Vàm Nao. Sông Hậu là
trục giao thông thuỷ xuyên suốt trung tâm của tỉnh từ thượng nguồn về hạ lưu; là
nguồn cung cấp nước tưới, phù sa hầu hết đất đai sản xuất ở vùng trũng bờ tây sông
Hậu (vùng Tứ giác Long Xuyên) bằng hệ thống kênh mương. Bên cạnh đó, sông Hậu
còn cung cấp nguồn thuỷ sản chủ yếu của tỉnh An Giang.
Sông Vàm Nao là con sông nối liền giữa sông Tiền và sông Hậu, chảy ven
giữa thị trấn Phú Mỹ, xã Tân Hòa (huyện Phú Tân) và xã Kiến An, Mỹ Hội Đông
(huyện Chợ Mới). Trước kia, người Việt gọi là kênh Vàm Nao bởi “còn hẹp, cạn, bãi



19
bùn. Hai bên bờ cây cối um tùm, cảnh vật sầm uất tối tăm, không ngớt vang lên những
âm thanh rừng rú… Bây giờ những ngọn cây tre rừng hay những cành cây lớn hai bên
bờ sông giao tiếp nhau, người có thể leo lên đu qua được. Lòng sông không sâu, rong,
cỏ, nhất là lục bình từ thượng nguồn đổ xuống tấp vào, cá tôm theo đó dựa vào đây
sinh sống. Do đó các loài cá lớn như cá sấu, cá mập, cá đao, rắn,… nom theo bắt mồi”
[27, tr.18]. Vào đầu thế kỷ XIX, sách
Gia Định thành thông chí ghi về con sông này :
“Cửa trên ở phía nam sông Tiền Giang rộng 8 tầm, sâu 2 tầm
, chảy về phía nam 75
dặm rưỡi, đến cửa dưới hợp với sông Hậu, bờ tây có sở thủ ngự, ven sông dân Kinh
khai khẩn ruộng vườn, rừng rậm ở phía sau là sóc, sách của dân Cao Mên” [17, tr.57].

Trải qua thời gian, bờ dưới, phía Chợ Mới bị nước từ thượng lưu chảy xuống mạnh
(nhất là mùa lũ) làm cho đất đứt chân, lở sụp từng mảng lớn. Mặt khác, nước tràn ồ
sang hữu ngạn thành những con sóng khổng lồ, nước chảy xiết và xoáy cuộn tròn đã
làm đánh đắm nhiều thuyền bè qua lại nơi đây. Cứ lâu ngày, đất càng bị sụp lở nhiều
hơn, sông rộng lớn ra, từ đó “kinh Vàm Nao” được người ta gọi là “sông Vàm Nao”.
Ngày nay, sông Vàm Nao rộng lớn rất nhiều so với thế kỷ XVIII, chiều dài
của sông trên 6 km, rộng khoảng 700 mét, sâu khoảng 17 mét, có tác dụng làm cân
bằng dòng chảy giữa sông Tiền và sông Hậu đoạn dưới Vàm Nao. Nhờ vậy, sông Vàm
Nao hiền hoà hơn xưa, tàu bè tấp nập qua lại suốt ngày đêm, dưới sông không còn cá
sấu; dọc hai bên bờ sông dân cư đông đúc, các cánh đồng lúa và vườn cây ăn quả
quanh năm tươi tốt.
Sông Bình Di và sông Châu Đốc, tại thị trấn Long Bình (huyện An Phú), sông
Hậu chia hai nhánh, nhánh hữu hẹp hơn gọi là sông Bình Di dài 10 km. Sông Bình Di
chảy đến Vĩnh Hội Đông rồi gặp sông Tà Keo và sông Châu Đốc. Từ ngã ba này, sông
Châu Đốc chảy dài cho đến thị xã Châu Đốc thì hội tụ với sông Hậu, dài 18 km, rộng
bình quân 150 mét, sâu trung bình 7 mét (có chỗ sâu 25 mét).
Những con sông trên đóng vai trò rất quan trọng đối với đời sống kinh tế của
nhân dân An Giang trong các thế kỷ qua, nhất là cung cấp nước ngọt cho sản xuất nông



20
nghiệp, thức ăn cá, tôm, cua, ốc,… và điều hoà khí hậu. Đồng thời, nó có một vị trí
quan trọng trong hệ thống giao thông đường thuỷ, tạo mối giao lưu văn hoá giữa các
vùng trong và ngoài vùng đất An Giang. Mặt khác, chế độ thủy văn ở An Giang phụ
thuộc chặt chẽ vào chế độ nước sông Mê Kông, hằng năm đều phải ngập lụt 1 - 2,5
mét. Đây là trở ngại lớn, ảnh hưởng rất lớn quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
vùng đất An Giang.
1.2.2. Rạch
Bên cạnh các con sông lớn, trên địa bàn An Giang còn có một hệ thống rạch tự

nhiên. Theo Địa chí An Giang ghi : “Trải qua thời gian dài, một số rạch bị phù sa sông
Tiền và sông Hậu chảy vào bồi đắp lâu ngày thành ruộng, một số được con người đào
cải tạo thành các con kênh thẳng, nên số còn lại hiện nay không nhiều. Những rạch lớn
ở An Giang hiện có là Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc (huyện Phú Tân), Ông Chưởng,
Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới), rạch Long Xuyên (thành phố Long Xuyên), Chắc
Cà Đao, Mặc Cần Dưng (Châu Thành) và rạch Cần Thảo (Châu Phú)” [79, tr.115].
Rạch Ông Chưởng có hình uốn khúc như một con rồng, là con rạch góp phần
điều tiết nước từ sông Tiền chảy qua sông Hậu. Năm 1700, khi quan quân đóng tại Chợ
Mới ngày nay, Nguyễn Hữu Cảnh quyết định: “Cho quân sĩ vét sâu, khơi rộng thêm
nhánh sông Tiền rẽ ngang xuống sông Hậu, từ vàm Thủ Ngự Hùng Sai đến vàm Cái
Hố” (tức rạch Ông Chưởng ngày nay) [25, tr.106]. Sông sâu, lòng rộng thuyền bè đi lại
dễ dàng, nhất là dòng nước ngọt quý giá cho con người và trồng trọt. Theo Gia Định
thành thông chí, sở dĩ rạch có tên Ông Chưởng là do “…phía tây bờ sông ở cửa trên có
miếu thờ Khâm sai Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Công (tức Nguyễn Hữu Cảnh),
đó là để dân cư nhớ ơn ông là người đầu dẹp nước Cao Mên để mở mang đất ấy mà
làm miếu để thờ,…; lấy tên ông để đặt tên sông, là muốn cho người đời nghĩ đến công
ơn ông mà không quên được” [17, tr.57].



21
Vào những năm giữa thế kỷ XIX, rạch Ông Chưởng được sách Đại Nam
nhất thống chí ghi lại như sau : “Cửa trên của sông rộng 4 trượng, sâu 8 thước, phía
trước có bãi nhỏ cũng gọi theo tên sông, cách đạo Đông Khẩu cũ chừng 90 dặm về phía
tây, chảy về phía nam 60 dặm rưỡi đến cửa dưới của sông vào sông Hậu Giang” [60,
tr.201]. Ngày nay, rạch Ông Chưởng có độ rộng rất nhiều so với trước, rạch có chiều
dài 20 km, độ rộng khoảng 100 mét, sâu hơn 8 mét. Con rạch này là tuyến giao thông
đường thuỷ rất quan trọng nối sông Tiền với sông Hậu, tàu thuyền qua lại tấp nập suốt
ngày đêm; là trục nước tưới tiêu chính cho những cánh đồng lúa và hoa màu của huyện
Chợ Mới. Hai bên bờ con rạch dân cư ở rất đông đúc.

Rạch Long Xuyên là con rạch lớn nhất so với các con rạch khác ở An Giang.
Rạch bắt nguồn từ sông Hậu tại thành phố Long Xuyên, chảy theo hướng Đông Bắc -
Tây Nam, nối với kênh Thoại Hà tại xã Vĩnh Trạch (huyện Thoại Sơn), đi qua núi Sập
rồi nối với sông Kiên đổ ra cửa biển Rạch Giá.
Do lòng rạch cạn, tàu bè chỉ có thể qua lại được vào mùa nước lớn, năm 1902,
thực dân Pháp tiến hành cải tạo rạch Long Xuyên, “chiều rộng từ 30 mét lên 50 mét,
chiều sâu từ 3,5 mét lên 5 mét” [30, tr.32]. Con rạch được cải tạo đã đem lại thuận lợi
về mặt giao thông, tàu bè có thể qua lại quanh năm; mặt khác, việc cải tạo con rạch này
còn góp phần tăng lượng nước tưới dồi dào hơn trước cho các cánh đồng ruộng.
Ngày nay, con rạch này có độ rộng khoảng 100 mét, sâu 8 mét, trở thành
tuyến giao thông đường thủy quan trọng nối sông Hậu với biển Rạch Giá, và là một
trong những con rạch cung cấp nước tưới tiêu cho các cánh đồng ruộng của vùng Tứ
giác Long Xuyên.
Rạch Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới) có chiều dài 14 km, nối sông Tiền
(xã Hội An) với sông Hậu (Vàm Cống). Đại Nam nhất thống chí ghi lại con rạch này :
“Cách huyện Vĩnh An 55 dặm về phía tây bắc, lại có tên nữa là kênh Thương Thuyền,
thượng lưu rộng 1 dặm rưỡi, sâu 19 trượng, cửa sông đối diện với bãi Tùng Sơn và bãi



22
Doanh Châu, nước chảy về phía nam 55 dặm rưỡi đến chỗ ngã ba, lại chảy về phía nam
24 dặm rưỡi đến sông Cường Thành, đổ vào sông Hậu Giang” [60, tr.201-202]. Rạch
Cái Tàu Thượng không chỉ cung cấp nước tưới cho những cánh đồng lúa, hoa màu mà
còn là ranh giới giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp.
Rạch Cái Đầm thuộc huyện Phú Tân, dài 9 km, rộng 50 mét, ăn thông với
kênh Thần Nông từ xã Phú Vĩnh huyện Tân Châu.
Rạch Cái Tắc, vàm tại thị trấn Phú Mỹ có chiều dài 9 km, rộng 30 mét, ăn qua
xã Hiệp Xương (huyện Phú Tân).
Rạch Chắc Cà Đao (huyện Châu Thành) dài 20 km, rộng 30 mét nối từ sông

Hậu đến kênh Bốn Tổng và rạch Long Xuyên, nhận nước từ sông Hậu chảy vào các
cánh đồng vùng Tứ giác Long Xuyên, thông với các kênh rạch khác trong vùng.
Rạch Cần Thảo (huyện Châu Phú) dài 20 km, rộng 30 mét, nhận nước từ
sông Hậu chảy vào các cánh đồng thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, thông với các kênh
rạch khác trong vùng.
1.2.3. Kênh
An Giang có khoảng 21 kênh đào như kênh Vĩnh Tế, Thoại Hà, Vĩnh An, Trà
Sư, Thần Nông, Vàm Xáng, Tri Tôn, Ba Thê, Mặc Cần Dưng, Kênh Mới,…
Kênh Thoại Hà
Năm 1817, khi làm Trấn thủ Vĩnh Thanh, Nguyễn Văn Thoại chú ý đến việc
khai hoang vùng đất An Giang và thấy được việc giao thông thương mại ở vùng đất
này gặp nhiều khó khăn, “ngòi sông nhỏ bùn lầy, cây cỏ đầy lấp, thuyền bè không đi lại
đươc” [17, tr.59] nên mọi trao đổi hàng hoá giữa sông Hậu và vùng duyên hải Hà Tiên
đều phải đi vòng qua đường biển. Ông nghĩ đến việc đào kênh và kiến nghị lên vua.
Năm 1818, ông được vua Gia Long giáng chỉ cho đào kênh Đông Xuyên -
Rạch Giá. Kênh đào theo lạch nước cũ, nối rạch Long Xuyên tại Vĩnh Trạch dài theo
hướng tây nam ngang qua chân núi Sập, tiếp với sông Kiên, đổ ra biển Tây tại cửa



23
Rạch Giá. Số nhân công lên đến 1.500 người, đào hơn 1 tháng là xong. Kênh dài
12.410 tầm, rộng 20 tầm, “luôn luôn ghe thuyền qua lại tiện lợi” [23, tr.171]. Công việc
hoàn tất, Nguyễn Văn Thoại cho vẽ “hoạ đồ” và lên sớ tâu vua. Vua Gia Long khen, ra
lệnh lấy tên người mà đặt cho tên kênh là Thoại Hà và ban tên núi Sập là Thoại Sơn để
biểu dương công trạng của quan Trấn thủ.
Việc đào kênh Thoại Hà ngay từ đầu chỉ nhằm phục vụ giao thông, quốc
phòng. Nói đúng hơn là nhằm cho việc tiện liên lạc đồn binh giữa Long Xuyên và Rạch
Giá. Nhưng về sau, kênh Thoại Hà trở thành nơi thu hút dân chúng đến định cư, lập
nghiệp. Trải qua nhiều lần cải tạo, kênh Thoại Hà rộng lớn hơn. Ngày nay, kênh Thoại

Hà không những cung cấp nước tưới, phù sa bồi đắp cho vùng Tứ giác Long Xuyên,
mà còn là con đường giao thông thủy vận chuyển hàng hóa rất quan trọng nối thành
phố Long Xuyên với Rạch Giá.
Kênh Vĩnh Tế
Năm 1816, khi thành Châu Đốc vừa đắp xong, Trấn thủ Vĩnh Thanh là Lưu
Phước Tường tâu lên, vua Gia Long xem địa đồ xứ Châu Đốc rồi truyền cho các thị
thần rằng : “Xứ nầy nếu mở đàng lũy thông với Hà Tiên, thời nông thương đều lợi cả;
ngày sau dân ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ trở thành một trấn to” [62, tr.129].
Nhưng vua chưa ra lệnh đào ngay, vì vùng đất mới khai mở, nhân dân còn nhiều cơ
cực, bắt dân làm xâu khổ sở sợ lòng dân không yên.
Song, vua Gia Long rất chú ý đến vùng đất biên giới An Giang từ Châu Đốc
đến Hà Tiên giáp với Chân Lạp (Campuchia), là vùng đất có vị trí chiến lược quan
trọng ở biên giới Tây Nam nước ta. Địa hình vừa có núi có sông, vừa có đồng bằng,
dân cư thưa thớt và đường liên lạc Hà Tiên - Châu Đốc gặp rất nhiều khó khăn. Nhằm
giải quyết nhu cầu quốc phòng lúc bấy giờ, theo đề nghị của Nguyễn Văn Thoại,
“tháng 9 năm Kỷ Mão, vua truyền cho Gia Định thành lo việc đào kênh và quan Trấn



24
thủ Nguyễn Văn Thoại được lệnh chỉ huy dân binh tiến đến Châu Đốc để khởi công
vào ngày rằm tháng chạp” [79, tr.117].
Trước khi đào kênh, vua Gia Long ra chỉ dụ cho Thống chế Thoại Ngọc Hầu
Nguyễn Văn Thoại, cùng với Chưởng cơ Tuyên Quan hầu Phan Văn Tuyên huy động
dân binh khắp Vĩnh Thanh, mỗi phiên 5.000 người, thêm 500 binh đồn Uy Viễn (Vĩnh
Long). Chiêu Thuỳ nước Cao Miên là Tôn La A Toàn Phù tức Nguyễn Văn Tồn huy
động dân quân người Khmer, mỗi phiên 5.000 người. Kênh Vĩnh Tế được khởi công
vào ngày 15 tháng 12 năm 1819.
Kênh được đào chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, “ trừ Náo Khẩu 4.075
tầm (khoảng 10 km) không phải đào thêm công, thực lực phải đào là 26.279 tầm (67

km), lường tính công đất, khó dễ, sức người nặng nhẹ, lấy từ cửa hào cho đến Náo
Khẩu, đất khô cứng có 7.575 tầm (19 km) thì chia cho dân Kinh làm, đất bùn ẩm
18.740 tầm (47 km) thì chia cho dân Cao Mên; bề ngang sông 15 tầm (38 mét), sâu 6
thước (2,798 mét), nhà nước cấp cho mỗi người tiền 6 quan, gạo 1 phương (tương
đương 1 giạ)” [17, tr.58]. Đến ngày 15 tháng 3 năm 1820, kênh đào xong giai đoạn 1.
Sau thời gian không tiến hành được, tháng 10 năm 1822, vua Minh Mạng ra
lệnh cho Tổng đốc Gia Định tiếp tục bắt dân đinh ở các đồn Uy Viễn, Vĩnh Thanh,
Định Tường. Số người lên đến 39.000 người Việt và 16.000 người Khmer, chia làm 3
phiên. Trong đợt này, ngoài sự chỉ huy của Nguyễn Văn Thoại và Phan Văn Tuyên,
còn có Trần Công Lại. Đến tháng 3 năm sau, do hạn hán công việc bị đình lại.
Tháng 2 năm 1824, triều đình Nguyễn huy động thêm Phó Tổng trấn Vĩnh
Thanh là Trần Văn Năng huy động số dân binh 25.000 người, trong đó có người
Khmer, làm việc suốt ngày đêm. Tháng 5 năm 1824, kênh đào xong, “dài 205 dặm rưỡi
(91 km), rộng 7 trượng 5 thước (25 mét), sâu 6 thước (3 mét)” [23, tr.181-187]. Tổng
số người huy động lên đến 80.000 người kể cả người Việt và người Khmer.



25
Sau khi đào xong, vua Minh Mạng ghi công, như bia Vĩnh Tế ghi lại : “Lại hạ
cố vợ thần là Châu Thị Tế, rằng có đức dầy trong vòng lễ giáo, bên trong biết giúp đỡ
chồng, một lòng chân thành bền chặt, có chút công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi
Sam là núi Vĩnh Tế … Đất đặt tên cho họ, núi đặt tên cho người” (Bia Vĩnh Tế).
Về lợi ích của kênh Vĩnh Tế, sách Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn
ghi : “Từ đấy đường sông mới thông, việc biên phòng và việc buôn bán được hưởng
mối lợi vô cùng” [60, tr.207]. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), triều đình cho lệnh đúc
Cửu Đỉnh (9 đỉnh đồng lớn ở sân Thái Miếu nhằm thể hiện uy vũ của nhà vua và để ghi
tác các công trình lớn ở nước ta lúc bấy giờ, trong đó trên Cao đỉnh có chạm hình kênh
Vĩnh Tế.
Kênh Vĩnh Tế là một công trình thuỷ lợi lớn nhất Nam Bộ lúc bấy giờ. Lúc

đầu, mục đích của việc đào kênh là phục vụ giao thông, quốc phòng. Triều Nguyễn
thấy cần thiết phải tìm một con đường thủy, tiện lợi cho việc di chuyển, đi lại, giao
dịch, thuận lợi cho việc lưu thông, vận chuyển lúa gạo hàng hóa. Bên cạnh đó, kênh
Vĩnh Tế còn có mục đích quân sự quốc phòng. Hà Tiên - Châu Đốc là vùng đất biên
cương Tây Nam của Tổ quốc mà kẻ thù xung quanh thường xuyên dòm ngó, để làm
bàn đạp thôn tính vùng đất phía Nam. Kênh Vĩnh Tế hình thành là đường chuyển quân
quan trọng khi hữu sự và trở thành tuyến phòng thủ quốc phòng chắc chắn canh giữ
vùng biên giới Tây Nam. Tuy nhiên, sự ra đời của kênh Vĩnh Tế đã phát sinh ra những
lợi ích mới nhưng lại rất to lớn và quan trọng có ảnh hưởng đặc biệt lâu dài tới ngày
nay. Đó là “sản xuất nông nghiệp thêm nhiều thuận lợi. Nó góp phần làm giảm áp lực
lũ lụt tàn phá đồng bằng, đưa được một phần lũ thoát ra biển phía Tây, tiêu đỡ úng lụt
cho vùng Tứ giác Long Xuyên” [63, tr.67]. Mặt khác, kênh Vĩnh Tế còn đưa nước ngọt
từ sông Hậu vào tháo chua rửa mặn, cải tạo đất đai, cung cấp phù sa cho đồng ruộng,
vừa là trục tưới tiêu có vai trò quyết định trong việc khẩn hoang ruộng đất của vùng Tứ
giác Long Xuyên và vùng đồi núi An Giang.
Kênh Vĩnh An


×