Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VÀ Y TẾ TẠI VIỆT NAM VÀ PHÂN TÍCH VIỆC ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.62 KB, 48 trang )

Nguyễn Việt Hùng
LỜI MỞ ĐẦU

Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy con người là vốn quý nhất.
Bên cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực kinh tế thì chất lượng
nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền
vững của toàn cầu cũng như của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, công tác dân số luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
coi đó là bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là một trong
những vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu của quốc gia, là một yếu tố cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã
hội. Mục tiêu nâng cao chất lượng dân số vì vậy được coi là “chính sách cơ
bản của Nhà nước trong sự nghiệp phát triển đất nước”
1
.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc những giá trị lớn lao và ý
nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi
nguồn của cải vật chất, văn hóa và mọi nền văn minh của các quốc gia và đã
khẳng định: “con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con
người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”
1
. Đảng đã chỉ rõ: “Chỉ có
thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại hóa các ngành
1
1
Nguyễn Việt Hùng
giáo dục, văn hóa văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số - kế hoạch hóa gia đình
gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc
dân tộc”
2
.


Là 1 một của công tác dân số - công tác giáo dục và y tế của cả nước
còn có nhiều vấn đề cần phải chú ý. Khi xã hội phát triển, đồng nghĩa với
nhu cầu của người dân của nước đó cũng sẽ cao hơn. Họ có nhu cầu học tập
và nhu cầu được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cao hơn, chính vì thế đã làm
tăng sự quá tải trong hệ thống giáo dục – y tế công lập. Khi mà hệ thống này
của nước ta ngày càng thiếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ phục vụ. Điều
này nếu không được giải quyết một cách thỏa đáng sẽ gây ra nhiều vấn đề
bất cập trong xã hội, từ đó sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển chung
cho cả nước theo định hướng của XHCN. Nhận thấy được điều đó, Nhà
nước XHCN Việt Nam đã không ngừng khuyến khích việc mở rộng các cơ
sơ ngoài công lập cho các ngành nghề nói chung, cũng như cho lĩnh vực
giáo dục và y tế nói riêng, nhằm thỏa mãn nhu cầu bức thiết của xã hội.
2
2
Nguyễn Việt Hùng
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. LỢI ÍCH KINH TẾ XÃ HỘI
1. Lợi ích kinh tế xã hội:
− Lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường là một phạm trù kinh tế tương
đối.Một mặt nó phản ánh lợi ích trên phạm vi toàn xã hội,toàn bộ nền kinh tế
quốc dân,mặc khác nó phản ánh lợi ích từng mặt kinh tế,xã hội và môi
trường,đồng thời có mối quan hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa ba mặt đó
trong từng thời gian nhất định
− Chủ đầu tư bỏ vốn để thực hiện dự án đầu tư,mục tiêu chủ yếu là thu
được nhiều lợi nhuận.Khả năng sinh lời của dự án là thước đo chủ yếu để
thu hút các nhà đầu tư,mức sinh lợi càng cao thì độ hấp dẫn càng lớn.Tuy
nhiên không phải lúc nào dự án đầu tư cũng có khả năng sinh lời lớn và mức
an toàn tài chính cao đều có lợi ích kinh,xã hội và môi trường cao.Phân tích
kinh tế xã hội và môi trường của dự án đầu tư là phải xem xét những lợi ích
xã hội được thụ hưởng là gì?Đó chính là sự đáp ứng của đối với mục tiêu

chung của xã hội và nền kinh tế quốc dân.
− Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư,xã hội cũng phải đóng góp
hoặc bỏ ra chi phí.Như vậy lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường là phần
chênh lệch giữa lợi ích được dự án đầu tư tạo ra so với cái giá mà xã hội
3
Nguyễn Việt Hùng
phải trả.Phần chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả kinh tế - xã hội ngày càng
cao.Các lợi ích - xã hội và môi trường có thể là lợi ích định lượng được như
mức gia tăng sản phẩm,mức tăng thu nhập quốc dân,sử dụng lao động,tăng
thu ngân sách…cũng có thể không định lượng được như sự phù hơp của dự
án đầu tư với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,những lĩnh vực ưu tiên…
Chính vì vậy việc tính toán và đo lường các chỉ tiêu kinh tế-xã hội và môi
trường phải có phương pháp luận đúng đắn với những thông số được lựa
chọn hợp lý,đảm bảo độ tin cậy cao,tránh sai sót có thể xảy ra.
2. Mục tiêu và tác dụng của nghiên cứu kinh tế - xã hội và môi trường :
* Mục tiêu:
− Thông qua xác định những lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường do
dự án đầu tư mang lại mà xác định cụ thể vị trí của dự án đầu tư trong kế
hoạch kinh tế quốc dân,tính phù hợp của dự án với mục tiêu.
− Đảm bảo độ tin cậy của dự án đầu tư thông qua việc sử dụng đúng đắn
cơ sở lý thuyết và sự đóng góp thiết thực của dự án vào lợi ích chung của
toàn xã hội.
− Góp phần đảm bảo công bằng xã hội,bảo vệ môi trường khi thực hiện
dự án đầu tư.
* Tác dụng :
4
Nguyễn Việt Hùng
− Đối với nhà đầu tư:Phần phân tích kinh tế - xã hội là căn cứ chủ yếu
để nhà đầu tư thuyết phục các cơ quan có thẩm quyền chấp thuận dự án và
thuyết phục các ngân hang cho vay.

− Đối với Nhà nước:Là căn cứ chủ yếu để quyết định có cấp giấy phép
đầu tư hay không.
− Đối với các Ngân hàng,các cơ quan viện trợ song phương,đa
phương:Là căn cứ chủ yếu để họ quyết định có tài trợ vốn hay không.Các
ngân hang quốc tế rất nghiêm ngặt trong vấn đề này.Nếu không chứng minh
được các lợi ích kinh tế - xã hội thì họ không tài trợ.
II. SỰ KHÁC NHAU GIỮA NGHIÊN CỨU TÀI CHÍNH VÀ NGHIÊN
CỨU KINH TẾ XÃ HỘI
1. Về mặt quan điểm :
− Nghiên cứu tài chính chỉ mới xét trên tầng vi mô,còn nghiên cứu kinh
tế xã hội xét trên tầng vĩ mô.
− Nghiên cứu tái chính mới xét trên góc độ của nhà đầu tư,còn nghiên
cứu kinh tế xã hội phải xuất phát từ quyền lợi của toàn xã hội.
− Mục đích của nhà đầu tư là tối đa lợi nhuận,thể hiện trong nghiên cứu
tài chính,còn mục tiêu chủ yếu của xã hội là tối đa phúc lợi sẽ phải được thể
hiện trong nghiên cứu kinh tế - xã hội.
5
Nguyễn Việt Hùng
2. Về mặt tính toán:
a) Thuế: Các loại thuế mà dự án có nghĩa vụ phải nộp cho nhà nước là một
khoản chi phí đối với nhà đầu tư thì nó lại là một khoản thu nhập đối với
ngân sách quốc gia,đối với nền kinh tế quốc dân.Việc miễn giảm thuế ưu
đãi,khuyến khích nhà đầu tư lại là một sự hy sinh của xã hội,một khoản chi
phí mà xã hội phải gánh chịu.Mặt khác thuế chiếm một phần trong
giá.Người tiêu thụ phải trả các khoản thuế chứa đựng trong giá của hàng
hóa.Chính phủ là người thu các khoản thuế này để tái đầu tư hoặc chi dung
vào các việc chung.Vì vậy,xét trên phạm vi toàn thể cộng đồng thì hai khoản
này triệt tiêu nhau,nó không tạo ra hoặc mất đi một giá trị nào cả.
− Tuy nhiên khi tính toán thu nhập thuần trong nghiên cứu tài chính đã
trừ đi các khoản thuế,như là các khoản chi bây giờ trong nghiên cứu kinh tế -

xã hội phải cộng lại các khoản thuế này để xác định giá trị gia tăng cho xã
hội mà dự án mang lại.
b) Lương: Lương và tiền công trả cho người lao động là một khoản chi của
nhà đầu tư nhưng lại là một lợi ích mà dự án mang lại cho xã hội.Trong
nghiên cứu tài chính coi lương và tiền công là chi phí thi nay trong nghiên
cứu kinh tế- xã hội coi lương là thu nhập.
6
Nguyễn Việt Hùng
− Trên thực tế tiền lương,tiền công trả cho người lao động chưa phải là
thước đo chính xác giá trị sức lao động mà người lao động bỏ ra.Nói cách
khác tiền lương,tiền công tính trong nghiên cứu tài chính là đồng tiền chi
thực,nhưng trên bình diện xã hội thì nó không phản ánh được giá trị lao
động đóng góp cho dự án.Vì vậy ở nhiều nước trong nghiên cứu kinh tế- xã
hội thường sử dụng khái niệm”lương mờ”.Tại một số nước tiên tiến,sử dụng
lý thuyết cận biên để xác định tiền lương.Có những nước dung phương pháp
điều chỉnh đơn giản như sau:
+ Đối với người có lao động chuyên môn:Để nguyên như trong phân tích tài
chính.
+ Đối với lao động không có chuyên môn:Chỉ tính 50%
− Ở nước ta hiện nay chưa có quy định về vấn đề này,tạm thời để tham
khảo cách tính của các nước.Trong nghiên cứu tài chính đã xem tiền
lương,tiền công là một khoản chi,thì trong nghiên cứu kinh tế - xã hội phải là
khoản thu.
c) Các khoản nợ: Việc trả nợ vay(nợ gốc) là các hoạt động thuộc nghiệp vụ
tín dụng,là sư chuyển giao quyền sử dụng vốn từ người này sang người khác
mà không làm tăng hoặc giảm thu nhập quốc dân.Trong nghiên cứu tài chính
đã trừ đi các khoản trả nợ thì nay trong nghiên cứu kinh tế-xã hội phải cộng
vào,khi tính các giá trị gia tăng.
7
Nguyễn Việt Hùng

d) Trợ giá,bù giá: Là hoạt động bảo trợ của nhà nước đối với một số loại
sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.Đây là một loại chi phí kinh tế
mà cả xã hội phải gánh chịu đối với việc thực hiện dự án.Như vậy trong tính
toán kinh tế xã hội phải trừ đi các khoản nợ,bù giá nếu có.
e) Giá cả:- Trong nghiên cứu tài chính giá cả được lấy theo giá thị
trường,ảnh hưởng đến các khoản thực thu,thực chi của xí nghiệp và nhà đầu
tư.Tại những nước có chính sách bảo hộ mậu dịch,thuế ưu đãi,lãi suất trợ
cấp…thì giá thị trường ngày càng bóp méo,khác biệt với giá trị đích thực
của hàng hóa.Vì vậy lợi nhuận tính trong nghiên cứu tài chính không phản
ánh đúng đắn mức lời,lỗ của cả đất nước.Khi nghiên cứu kinh tế xã hội cần
phải loại bỏ những méo mó nói trên của giá cả,phải sử dụng giá phản ánh
được giá trị thực của hàng hóa.Giá này không tồn tại được trong thế giới
thực nên được goi là”giá mờ”.
− Việc nghiên cứu tiền lương nói trên cũng thuộc phạm vi “giá mờ”,vì
tiền kương cũng chính là giá cả của sức lao động.Việc xác định “giá
mờ”hiện nay rất khó khăn.Nhà nước ta chưa có quy định gì về mặt này,cần
phải có công trình nghiên cứu chuyên đề kết hợp với kinh nghiệm thực tiễn
mới giải quyết được.Vì vậy hiện nay về phương diện giá cả nhất là giá cả
các tài nguyên được sử dụng trong dự án trong tính toán có thể tham khảo
các tính toán của các nước.
8
Nguyễn Việt Hùng
III. CÁC CHỈ TIÊU XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA DỰ ÁN ĐẦU TƯ
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Vấn đề tạo công ăn việc làm của dự án:
Để đánh giá hiệu quả về tạo công ăn việc làm của dự án, chúng ta cần sử
dụng hai nhóm chỉ tiêu hiệu quả sau đây:
 Nhóm 1: Nhóm hiệu quả tuyệt đối bao gồm các chỉ tiêu:
- Tổng số lao động lành nghề cần thiết cho dự án.
- Tổng số lao động không lành nghề cần thiết cho dự án

- Tổng số lao động (lành nghề và không lành nghề) cần thiết cho dự án.
- Tổng số lao động lành nghề cần thiết của dự án liên quan tăng lên
(hoặc giảm đi) do dự án mới ra đời.
- Tổng số lao động không lành nghề cần thiết của dự án liên quan tăng
lên (hoặc giảm đi) do dự án mới ra đời.
- Tổng số lao động (lành nghề và không lành nghề) cần thiết cho các dự
án liên quan tăng lên (hoặc giảm đi) do dự án mới ra đời.
- Tổng số lao động lành nghề tăng lên nói chung.
- Tổng số lao động (lành nghề và không lành nghề) tăng lên nói chung.
 Nhóm 2: Nhóm hiệu quả tương đối bao gồm các chỉ tiêu phản ánh số
việc làm được tạo ra trên một đơn vị vốn đầu tư bao gồm:
9
Nguyễn Việt Hùng
- Suất việc làm trực tiếp cho lao động lành nghề trên một đơn vị vốn
đầu tư.
- Suất việc làm trực tiếp cho lao động không lành nghề trên một đơn vị
vốn đầu tư.
- Suất việc làm trực tiếp cho lao động lành nghề hoặc không lành nghề
trên một đơn vị vốn đầu tư.
- Suất việc làm gián tiếp cho lao động lành nghề hoặc không lành nghề
trên một đơn vị vốn đầu tư.
- Suất việc làm cho toàn bộ lao động lành nghề và không lành nghề trên
một đơn vị vốn đầu tư.
2. Tác động điều thiết thu nhập:
− Một dự án đầu tư ra đời đóng góp cho nền kinh tế quốc dân bằng giá
trị gia tăng của mình và giá trị gia tăng của các dự án có liên quan. Phần giá
trị gia tăng đó sẽ được phân bố cho các nhóm đối tượng khác nhau như
những người làm công ăn lương, những người hưởng lợi nhuận, Nhà nước,
các quỹ dự trữ và phát triển của doanh nghiệp hoặc sẽ được phân phối theo
các vùng khác nhau. Chính việc phân phối này sẽ tạo nên những ảnh hưởng

của dự án đối với các mối quan hệ về thu nhập trong xã hội và từ đó sẽ có
những tác động đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Hai dự án tạo ra
10
Nguyễn Việt Hùng
hàng năm cùng một lượng giá trị gia tăng như nhau nhưng sẽ tạo ra những
ảnh hưởng khác nhau nếu như việc phân phối giá trị gia tăng đó có khác
nhau. Như vậy, cơ cấu phân phối giá trị gia tăng của dự án là yếu tố quyết
định đến sự tác động điều tiết thu nhập. Cơ cấu này được thể hiện qua 2 loại
chỉ tiêu:
 Chỉ tiêu tuyệt đối: Được xác định phần giá trị giá trị gia tăng phân
phối hàng năm cho các nhóm đối tượng khác nhau.
 Chỉ tiêu tương đối: Được xác định bằng tỷ trọng giá trị gia tăng phân
phối hàng năm cho từng nhóm đối tượng trên tổng giá trị gia tăng thực
hàng năm.
3. Khả năng cạnh tranh quốc tế
− Để đánh giá khả năng cạnh tranh quốc tế cần đề cập đến khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế của sản phẩm, lợi ích ngoại tệ thu được
của dự án, chi phí ngoại tệ của dự án và chi phí để sản xuất cho xuất khẩu.
− Chỉ tiêu xác định khả năng cạnh trạnh quốc tế của dự án là tỷ lệ cạnh
tranh quốc tế IC. Nó bằng giá trị hiện tại lãi ngoại tệ (PVFE) chia cho giá trị
hiện tại của chi phí cho việc xuất khẩu (PWC).
IV. ẢNH HƯỞNG CỦA DỰ ÁN ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG SINH THÁI
1. Ảnh hưởng tích cực có thể kế đến:
11
Nguyễn Việt Hùng
− Tạo thêm nguồn nước sạch cho người và sinh vật.
− Tạo thêm cây xanh làm trong sạch không khí và dịu mát.
− Cải thiện điều kiện vệ sinh, y tế.
− Làm đẹp thêm cảnh quan, tôn tạo vẻ đẹp của thiên nhiên.
2. Ảnh hưởng tiêu cực:

− Làm thay đổi điều kiện sinh thái, mất cân bằng sinh thái, làm khô cạn
các nguồn nước tiêu diệt các sinh vật…
− Gây ô nhiễm môi trường. Đây là trường hợp hay gặp nhất, đặc biệt đối
với các dự án công nghiệp: làm bẩn, nhiễm độc không khí, các nguồn nước,
nhất là mặt đất, đất đai, gây ồn ào cho các khu dân cư.
− Mức độ ô nhiễm môi trường được đánh giá bằng các thiết bị do riêng
cho từng loại. Các chỉ tiêu quy định cho phép về độ ô nhiễm đã được Nhà
nước ban hành. Những dự án nào vi phạm các quy định này sẽ bị loại bỏ.
Trong khi lập dự án cần phải xem xét đến mức độ ảnh hưởng xấu đến môi
trường; nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục và chi phí cần thiết
cho việc bảo vệ môi trường.
V. CƠ SỞ NGOÀI CÔNG LẬP – CÁC HÌNH THỨC CƠ SỞ NGOÀI
CÔNG LẬP
12
Nguyễn Việt Hùng
− Nhằm từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục, y tế, văn hoá,
thể thao trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân dân, cùng với
việc củng cố các tổ chức công lập, Nhà nước khuyến khích phát triển rộng
rãi các cơ sở ngoài công lập phù hợp với quy hoạch của Nhà nước trong các
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, hoạt động không theo mục đích
thương mại hoá (dưới đây gọi là cơ sở ngoài công lập). Nhà nước và xã hội
coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở
ngoài công lập như các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở công lập. Các cơ sở
ngoài công lập cũng có một phần trách nhiệm thu nhận và cung cấp dịch vụ
cho các đối tượng chính sách xã hội như các cơ sở công lập.
− Nhà nước khuyến khích các tổ chức và cá nhân huy động các nguồn
lực trong nhân dân và trong các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế để
phát triển các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao theo đúng quy định
của pháp luật.
− Theo nghị định Về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung

ứng dịch vụ ngoài công lập- Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng
12 năm 2001; Căn cứ Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18 tháng 04 năm
2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế,
văn hoá và thể dục thể thao; Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
13
Nguyễn Việt Hùng
• Cơ sở ngoài công lập là cơ sở do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, nhóm cá nhân hoặc cộng đồng dân cư
thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tự bảo đảm kinh phí hoạt động
bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước và hoạt động theo quy định của pháp
luật.
• Cơ sở ngoài công lập được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của
Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể
dục thể thao, khoa học - công nghệ, môi trường, xã hội, dân số, gia đình, bảo
vệ chăm sóc trẻ em.
• Cơ sở ngoài công lập được thành lập theo quy định của pháp luật có
tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng. Cùng
với việc củng cố các cơ sở công lập, Nhà nước khuyến khích phát triển các
cơ sở ngoài công lập, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân đầu tư
vốn và huy động các nguồn lực trong nhân dân, của các tổ chức thuộc mọi
thành phần kinh tế để thành lập, xây dựng và phát triển các cơ sở ngoài công
lập phù hợp với định hướng phát triển của nhà nước.
 Các hình thức ngoài công lập:
• Bán công: Là cơ sở được thành lập trên cơ sở liên kết giữa tổ chức
Nhà nước với các tổ chức không phải tổ chức Nhà nước, thuộc mọi thành
14
Nguyễn Việt Hùng
phần kinh tế hoặc các cá nhân theo các phương thức: thành lập mới, chuyển
toàn bộ hoặc một phần từ đơn vị công lập để cùng đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất, quản lý, điều hành mọi hoạt động theo quy định cuả pháp luật.

• Dân lập: Là cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn
ngoài ngân sách nhà nước (vốn của tổ chức, tập thể, cá nhân) và quản lý điều
hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật. Không lấy vốn, tài sản, kinh
phí của Nhà nước để đầu tư cho các cơ sở dân lập.
• Tư nhân: Là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình thành lập và quản lý điều
hành mọi hoạt động theo quy định của pháp luật.
15
Nguyễn Việt Hùng
Chương II: KHẢO SÁT TÌNH HÌNH GIÁO DỤC VÀ Y TẾ TẠI VIỆT
NAM
1. Tổng quan về nền kinh tế VN qua các chỉ số phát triển
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của VN
giai đoạn 1990-2008
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN
liên tục giữ ở mức cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là
7,56%/năm. Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm
16
Nguyễn Việt Hùng
hãm, đã dẫn đến mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một
tăng. Nếu năm 1990, GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD,
thì đến năm 2007, GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008,
GDP trên đầu người ước tính đạt khoảng 1.047 USD/người. Với mức thu
nhập này, VN lần đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có
thu nhập thấp nhất). Theo cách phân loại của Ngân hàng Thế giới, phân
nhóm các nước theo mức thu nhập gồm:
Nhóm 1: Nhóm những nước có thu nhập thấp nhất, với thu nhập quốc
nội (GDP) bình quân đầu người dưới 935 USD;
Nhóm 2: Nhóm các nước có thu nhập trung bình dưới, với GDP bình
quân đầu người trong khoảng từ 936 đến 3.705 USD;

Nhóm 3: Nhóm những nước có thu nhập trung bình trên, với GDP
bình quân đầu người trong khoảng từ 3.705 đến 11.455 USD; và
Nhóm 4: Nhóm những nước thu nhập cao, có GDP bình quân đầu
người trên 11.455 USD.
Như vậy, năm 2008 đánh dấu mốc phát triển của nền kinh tế VN
chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp nhất sang nhóm nước có thu nhập
trung bình dưới.
2. Thực trạng giáo dục Việt Nam
17
Nguyễn Việt Hùng
 Tình hình chung:
Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới đã và đang góp phần quan
trọng vào việc nâng cao chất lượng dân số nước ta về trí tuệ và chất lượng
nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho đất nước tham gia vào quá trình hội nhập
quốc tế.
Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng
1,03% so với năm học 2000-2001; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14
lần; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao
đẳng, đại học tăng 1,83 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao đẳng, đại học trên một
vạn dân tăng 1,6 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,48 lần.
Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ
bản đã xóa được "xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất
cả các xã, trường trung học cơ sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học
phổ thông có ở tất cả các huyện. Các cơ sở đào tạo nghề, cao đẳng và đại
học được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các vùng, các địa
phương, đặc biệt ở vùng chậm phát triển như Tây Bắc, Tây Nguyên, đồng
bằng sông Cửu Long. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi đã có trường nội trú
và bán trú cho con em các dân tộc thiểu số.
Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700
trung tâm giáo dục thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học,

18
Nguyễn Việt Hùng
nhiều trường đại học triển khai các chương trình đào tạo từ xa. Ngoài ra, có
nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có tiến bộ
đáng kể. Nội dung dạy học và kiến thức của học sinh phổ thông đã toàn diện
hơn. Trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận tri thức mới của một bộ phận học
sinh, sinh viên được nâng cao. Số đông sinh viên tốt nghiệp đại học, cao
đẳng có hoài bão lập thân, lập nghiệp, có tinh thần tự lập và đại bộ phận đã
có việc làm. Chất lượng đào tạo của một số ngành đào tạo khoa học và công
nghệ đã được nâng cao một bước.
Các trường phổ thông chất lượng cao được hình thành ở nhiều địa
phương. Nhiều trường đại học đã tổ chức dạy học theo các chương trình tiên
tiến quốc tế. Đến tháng 12/2008 đã có 23 chương trình đào tạo tiên tiến quốc
tế được thực hiện ở 17 trường đại học giảng dạy trực tiếp bằng tiếng Anh.
Đã tăng cường sự gắn kết giữa hoạt động khoa học công nghệ với hoạt động
đào tạo sau đại học, tập trung vào các lĩnh vực: công nghệ sinh học, công
nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, khoa học nông-lâm-ngư và khoa học giáo
dục. Để đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nhân lực cho các lĩnh vực kinh tế-
xã hội, nâng cao hiệu quả đào tạo, trong 2 năm gần đây ngành giáo dục đào
tạo đã tích cực đẩy mạnh việc thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu xã hội.
19
Nguyễn Việt Hùng
Đồng thời với sự đổi mới chương trình, sách giáo khoa và tài liệu dạy học
theo Nghị quyết 40/2000/QH của Quốc hội, phương pháp giáo dục ở các nhà
trường đã bước đầu được đổi mới theo tinh thần phát huy tính năng động,
chủ động và tích cực của người học, đồng thời tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin vào quá trình dạy và học. Chuẩn nghề nghiệp của đội ngũ giáo
viên ở các cấp học và trình độ đào tạo đã và đang được xây dựng làm cơ sở

cho việc đánh giá và bồi dưỡng giáo viên theo chuẩn.
Thành tựu đáng nổi bật là: Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã
được công nhận chuẩn quốc gia về xoá mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và
đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Đến 12/2008 đã có 42/63 tỉnh, thành
phố (67%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; 47/63 tỉnh
(74,6%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi
trở lên biết chữ của cả nước là 94%; số năm học trung bình của dân số từ 15
tuổi trở lên là 9,6 năm. Sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ ngày
càng được thu hẹp. Về cơ bản nước ta đã đạt được sự bình đẳng nam nữ trong
giáo dục cơ bản.
Công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được đẩy mạnh. Các lực lượng
xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc huy động trẻ đến trường, giám
sát, đánh giá và hiến kế cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất trường học,
đầu tư mở trường, đóng góp kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức
20
Nguyễn Việt Hùng
khác nhau. Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục tăng liên tục từ 15,5%
năm 2001 lên 20% năm 2007. Trong năm 2007, khoảng 25% tổng chi phí
của xã hội cho học tập là đóng góp của người dân. Bên cạnh đó, cũng đã huy
động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức chính trị-xã hội
và đầu tư nước ngoài.
Giáo dục ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có
tiến bộ rõ rệt. Đến năm học 2007-2008 có 278 trường dân tộc nội trú của
trung ương, tỉnh, huyện và cụm xã, với khoảng 86.000 học sinh. Các trường,
lớp chuyên biệt đã thu hút hơn 250.000 trẻ khuyết tật đi học.
Những thành tựu của giáo dục và đào tạo đã khẳng định đóng góp quan
trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho
đất nước. Đồng thời cũng thể hiện được việc quan tâm của nhà nước cũng
như nói lên được nhu cầu học tập của người dân này càng cao. Đòi hỏi nhà
nước phải có một sự quan tâm mực thiết.

 Thực trạng giáo dục ngoài công lập tại Việt Nam:
Hiện nay nhu cầu học tập trong xã hội đã được nhân rộng và thể hiện ở
nhiều góc độ khác nhau như :
− Thứ nhất là nhu cầu của từng người học: sau những năm đổi mới,
nền kinh tế nước ta thực sự đang chuyển nhanh sang nền kinh tế mới. Nền
21
Nguyễn Việt Hùng
kinh tế mới này với những cơ chế thị trường đã có ảnh hưởng và tác dụng to
lớn tới người học. Người học trong xã hội hôm nay ở nước ta có nhu cầu học
không chỉ để thành người, để làm việc, mà còn để tăng thu nhập, để làm
giầu, để biết theo sở thích, để chung sống với nhau, để làm rạng rỡ cho gia
đình, thôn xóm, họ tộc, làng nước Trong xã hội đang xuất hiện ngày một
đa dạng các ngành nghề, việc làm với tiền công và thu nhập rất khác nhau.
Phần lớn những công việc, ngành nghề có thu nhập cao đều đòi hỏi cao về
phẩm chất, đạo đức, tác phong công nghiệp và trình độ học vấn của người
lao động. Trên thực tế, người lao động qua đào tạo có nhiều cơ may hơn
trong tìm kiếm việc làm, trong nâng cao chất lượng, tăng năng suất và hiệu
quả lao động, nhờ vậy thu nhập từ đó cũng tăng theo. Do vậy nhu cầu của
người học là đa dạng, nhiều tầng bậc, mầu sắc và muôn hình muôn vẻ đang
đòi hỏi giáo dục cung ứng diễn ra trong một xã hội học tập mà từng thành
viên trong xã hội được học tập suốt đời. Mặt khác với chính sách dân số ở
nước ta hiện nay, mỗi gia đình chỉ có từ một đến hai con; Với truyền thống
của dân tộc ta chăm lo cho con cái được học hành, do vậy mọi gia đình Việt
Nam đều có xu hướng đầu tư vào học tập cho con cháu và coi sự thành đạt
của con cháu với những thang bậc cao trong học tập là tài sản vô giá mà
mình có thể để lại được. Nhiều gia đình ở nước ta hôm nay quan niệm đầu tư
cho con cái học tập là đầu tư tốt nhất cho sự phát triển cá nhân và là đầu tư
22
Nguyễn Việt Hùng
hiệu quả nhất.

− Thứ hai là nhu cầu của doanh nghiệp: với nền kinh tế mở, nền kinh
tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp ngày hôm nay đang cần một nguồn
nhân lực lớn cả về đội ngũ cán bộ quản lý và những người lao động chuyên
môn trực tiếp. Đội ngũ này cần có cơ cấu đa dạng về ngành nghề, thang bậc
trình độ, lý thuyết, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo, nhanh nhạy, sáng tạo có thể
làm việc được ngay khi được nhận vào doanh nghiệp. Tuy nhiên hầu như tất
cả mọi doanh nghiệp hầu như không chịu bỏ vốn trực tiếp cho giáo dục đào
tạo dài hạn ( nếu có thì với lượng vốn rất nhỏ cho dăm ba người), vì thông
qua thị trường lao động họ cũng không khó lắm có thể tìm được người lao
động. Trong những trường hợp cụ thể, các doanh nghiệp thường chỉ chi vốn
cho các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn đang rất cần cho cán bộ,
nhân viên của họ để đảm bảo hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp.
− Thứ ba là nhu cầu của Nhà nước: để đảm bảo phát triển toàn diện và
bền vững cho đất nước, Nhà nước định ra chiến lược phát triển nguồn nhân
lực tổng thể cho toàn xã hội, trong đó tập trung vào những mục tiêu phát
triển kinh tế-xã hội lâu dài, những lĩnh vực kinh tế mũi nhọn và những trung
tâm kinh tế-xã hội trọng điểm và đặc biệt những khu vực kinh tế-xã hội mà
các doanh nghiệp khác ngoài Nhà nước ít làm, hoặc không chịu làm và
23
Nguyễn Việt Hùng
không được làm.
Giáo dục là động lực của phát triển con người, phát triển xã hội. Trong
đó tài và đức là hai yếu tố cơ bản của động lực, giáo dục là nhu cầu không
thể thiếu đối với mỗi người. Ngày nay con người đòi hỏi giáo dục ngày càng
cao thì giáo dục phải đáp ứng được mọi yêu cầu đó. Giáo dục là lợi ích
chung của xã hội, lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy giáo dục cũng được
coi là “hàng hoá công cộng” và mọi người bất cứ là ai đều có điều kiện tiếp
nhận nó một cách dễ dàng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, cung giáo dục là sự đáp ứng nhu cầu của xã hội và nhu cầu,
nguyện vọng muốn học của người học. Chính nhu cầu này là yếu tố quyết

định cho sự tồn vong và phát triển của các cơ sở giáo dục và người làm giáo
dục. Cung giáo dục chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau:
− Nguồn kiến thức: bao gồm đội ngũ giáo viên, nội dung chương trình,
tài liệu nghiên cứu, sách vở, thiết bị dạy và học
− Sự đa dạng của loại hình trường, lớp và phương thức đào tạo:
trường công lập, ngoài công lập, các tổ chức giáo dục khác với các phương
thức dạy và học linh hoạt, mềm dẻo chính quy, không chính quy, cận chính
quy và phi chính quy luôn phù hợp với yêu cầu của người học, phù hợp với
yêu cầu của xã hội.
24
Nguyễn Việt Hùng
− Quyền tự chủ và tính trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. Nhà nước
cần tăng quyền tự chủ và tính chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục để
các cơ sở này có thể năng động, sáng tạo trong hoạt động giáo dục trong
khuôn khổ luật pháp của Nhà nước, tạo khả năng đáp ứng cao được nhu
cầu đòi hỏi về giáo dục của xã hội, của thị trường lao động cũng như của
từng người học. Có thể nói ngoài cơ sở giáo dục thì không ai hiểu được hơn
quy luật cung-cầu giáo dục và đưa ra được những quyết định đúng về mở
trường, lớp, ngành, nghề Nhu cầu của người học càng nhiều, của cộng đồng
càng lớn, của xã hội càng cao thì càng có nhiều cơ sở giáo dục cung ứng.
− Trách nhiệm của Nhà nước. Chủ trương, đường lối và chính sách
đầu tư giáo dục của Nhà nước quyết định mức độ cung ứng giáo dục. Nhà
nước trong bất cứ hoàn cảnh nào, bao giờ và mãi mãi vẫn gĩư vai trò chủ đạo
trong cung ứng giáo dục. Nhà nước giám sát chặt chẽ và đưa ra những điều
kiện và chuẩn mực giáo dục nghiêm ngặt buộc những cơ sở tham gia cung
ứng giáo dục phải thực hiện. Với trách nhiệm và quyền lực của mình, Nhà
nước Việt Nam luôn hướng tới đảm bảo tốt cơ hội học tập cho tới từng
người, nâng cao chuẩn mực giáo dục và tăng đầu tư cho giáo dục theo hướng
đa dạng hoá nguồn lực.
− Cơ chế cạnh tranh trong giáo dục. Cơ chế cạnh tranh giữa các cơ sở

25

×