Thực hành phân tích
một số đề thi văn dành cho
học sinh giỏi
Trước một vấn đề văn hay, phân tích, tìm hiểu cho kĩ càng, sâu sắc đã khó, xây dựng cho được một dàn ý tương đối hoàn chỉnh và
đúng yêu cầu của đề lại càng khó hơn. Bởi trước một vấn đề của văn chương không ít cách tiếp cận, cách tìm hiểu. Và do vậy trước
một câu hỏi văn chương ít khi có một lời đáp duy nhất, đặc biệt là loại đề phân tích, bình giảng một tác phẩm văn học. Tuy nhiên, nói
như thế không có nghĩa là trước một vấn đề văn, ai cũng thích nói gì thì nói, ngay cả với việc phân tích, bình giảng một tác phẩm văn
học cũng thế. Chúng ta tôn trọng và khuyến khích tất cả những cách cảm thụ và kết quả tiếp nhận của cá nhân mỗi người. Cách hiểu,
cách trình bày và diễn đạt của ai đó có thể rất khác người, khác đời, nhưng tất cả đều phải có lí do, phải có sức thuyết phục. Sáng tạo
nghệ thuật có những nguyên tắc thì tiếp nhận nghệ thuật cũng phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Vì thế, trước một vấn đề văn
dù muốn hay không người ra đề cũng như người viết bài cũng phải nêu lên được cách hiểu (nhận thức đề) và những ý cơ bản cần phải
đạt, được viết trong bài viết. Với tinh thần đó, chúng tôi xin nêu lên một số yêu cầu về nhận thức đề và dàn ý cơ bản cần đạt ở một số
đề văn, để HS tham khảo và rút kinh nghiệm trong việc học và làm bài văn của mình. Những đề văn này đều lấy từ hệ thống đề văn đã
nêu ở trên.
Đề 1
Trong tác phẩm “ Tôi đã học tập như thế nào, nhà văn M.Gorki (1868 – 1936) viết:” Mỗi cuốn sách đều là một bậc thanh nhỏ
mà khi bước lên tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con người … “
Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng kinh nghiệm của bản thân mình, hãy phân tích một số tác phẩm văn học đã học
và đã đọc để làm sáng tỏ ý kiến ấy .
1 Nhận thức đề
HS cần hiểu được vấn đề mà đề yêu cầu cần tập trung làm sáng tỏ là : “vai trò và tác dụng to lớn của sách trong đời
sống tinh thần của con người” . (Sách mà M.Gorki nói với tôi ở đây là các tác phẩm văn học). Cụ thể: Nếu bạn đã có chút
thay đổi suy nghĩ về sách, tôi khuyên bạn hãy chọn lấy nhữg áng văn hay, những dòng chữ đẹp, đừng để những quyển sách bẩn
làm bạn hiểu lệch lạc về sách, hãy trân trọng, vì XH phát triển, cs xô bồ tạo nên thói xấu, và những thói xấu ấy cũng đc tích tụ lại
thành sách. Những thứ đó ko đc gọi là văn chương, mà chúng là những hạt sạn Văn học. Nó làm giới trẻ lệch lạc trog suy nghĩ, lối
sống. Tốt nhất là bạn đừng để trag bìa đẹp hấp dẫn bạn, hãy đọc thử phần tóm tắt, bạn sẽ tìm đc quyển sách mà mình thik. Và bạn
cũng hãy nâng niu quyển sách mà bạn đã chọn nhé, đừng quăng quật lug tug, hãy để chúng ở nơi trag trọng nhất, vì sách cũng có
tâm hồn, và tâm hồn ấy chính là tâm hồn bạn sau này, khi đọc sách đã thành thói quen, sách sẽ là sự phản ánh của chính bạn. Bạn
là người như thế nào, thì người bạn đường của bạn - những cuốn sách sẽ nói cho mọi người biết tất cả. Vậy bạn muốn là 1 người
như thế nào?
2 Cấu trúc và nội dung cơ bản cần đạt
Bài viết bao gồm hai phần: Phần lí luận và phần chứng minh. Có thể nêu 1 luận xong rồi chứng minh, nhưng cũng có thể vừa nêu
lí luận, vừa phân tích tác phẩm, chứng minh luôn, miễn là hiểu đúng và nói được các ý.
2.1 Phần giải thích
Luận điểm 1: Sách là sản phẩm tinh thần kì diệu của con người
+ Sách là sp thuộc lĩnh vực trí tuệ của con người: sách là sự đúc rút kinh nghiệm, hiểu biết và suy ngẫm của con người sau khi đã trải
qua những gì đã xảy ra trog cuốc sống.
+ Sách phản ánh lịch sử phát triển cả về nhận thức, sự hiểu biết và sự đa dạng Văn hoá của loài người. Sách lưu giữ những chuyến đi
từ những vùng đất mới, những khu di tích cổ, những bản sắc VH đã phôi phai trog LS.
+ Sách là sự phản ánh của dòng chảy thời gian vsf sự đổi thay của ko gian nên nó chịu ảnh hưởng của cả ko gian và tgian
Luận điểm 2: Sách mở rộng những chân trời mới.
+ Sách giúp ta giải thích được những hiện tượng tự nhiên xra trong cs và cách thích nghi với chúng, sách còn đưa chúng ta đến thế
giới kì diệu của TN hoang dã,giúp chúng ta khám phá vũ trụ bao la, Sách còn dạy ta cách đối nhân xử thế, chỉ cho ta sự vận động
đổi thay của xã hội và giúp ta biêt những gì đã thuộc về quá khứ.
+Những cuốn sách về những trải nghiệm, những cảm xúc xảy ra trong cuộc đời, kể lại những câu chuyện đẹp, sự trải nghiệm nỗi
buồn, Do đó, đọc sách giúp ta biết cách đối xử vs cảm xúc của chính mình, giúp ta biết được khuyết điểm đã trai qua để rút kinh
nghiệm cho lần sau.
Luận điểm 3: Cần có thái độ đúng vs sách và việc đọc sách.
+ Thái độ của anh (chị) đối vs các loại sách: Thích loại sách nào? ghet loại sách nào? có giữ gìn những quyển sách cẩn thận hay ko?
có trân trọng, nâng niu, giữ gìn chúng hay ko? (tự trả lời)
+ Nên đọc mỗi ngày vài trang sách, đọc nghiền ngẫm, cảm nhận từng nét chữ trong đó, thấu hiểu từng câu nói, vừa đọc vừa hoá thân
thành nhân vật chính, đọc kĩ và nắm bắt được nội dung trong đó viết gì rồi tự cái cụ thể cảm nhận cái chiều sâu, Coi cuốn sách
như người bạn đường trên con đường khám phá cuộc đời là cách tốt nhất để biến việc đọc sách thành niềm vui.
2.2 Phần chứng minh
Phân tích một số tác phẩm văn học để làm sáng tỏ. Đề không nêu cụ thể, nhưng HS cần chú ý lựa chọn được các tác phẩm tiêu biểu,
toàn diện(văn học Việt Nam, văn học nước ngoài, văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại,…). Chú ý liên hệ từ chính
kinh nghiệm của bản thân mình; tập trung trả lời câu hỏi: Các tác phẩm văn học đã giúp mình sống tốt, sống đẹp hơn lên như thế nào?
Trình bày và phân tích cần chân thực, có sức thuyết phục và truyền cảm, tránh gượng ép sống sượng, thô thiển,…
3 Biểu điểm
8,0 – 10,0 điểm : Ý đúng và đủ, kiến thức tác phẩm toàn diện, phong phú, văn viết hay, có cảm xúc, diễn đạt mạch lạc,
lập luận chặt chẽ, không sai chính tả và ngữ pháp, trình bày sáng sủa. Bài viết đạt điểm 8 và 9 có thể còn vài lỗi nhỏ.
5,0 – 7,0 điềm : Hiểu đúng vấn đề, nhưng ý có thể chưa đầy đủ, văn chưa được hay, nhưng không phảm phải những lỗi
cơ bản về kiến thức và diễn đạt
3,0 – 4,0 điểm : Có tỏ ra hiểu nhưng thiếu ý hoặc ý lộn xộn, diễn đạt lúng túng, sai sót nhiều.
0 – 2,0 điểm : Lạc đề, văn kém.
Đề 2
Trong bài “Ngoại cảnh trong văn chương”, in trên báo Tràng An, số 82, ngày 10 – 12 – 1935, Hoài Thanh viết:” Nhà văn
không có phép thần thông để vượt ra ngoài thế giới này, nhưng thế giới này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc
riêng. “
(Hoài Thanh, trích từ cuốn Bình luận văn chương,
NXB Giáo Dục, 1998, trang 54)
Anh (chị) hãy bình luận và làm sáng tỏ ý kiến trên.
1 Nhận thức đề
HS cần hiểu đúng vấn đề cơ bản mà đề yêu cầu cần tập trung làm sáng tỏ là:
- Một là : Hiểu đúng bản chất câu nói của Hoài Thanh.
- Hai là : Làm sáng tỏ câu nói ấy bằng việc phân tích một số tác phẩm văn học tiêu biểu
1.1 Bản chất câu nói của Hoài Thanh là nhằm khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn, khẳng định cái nhìn riêng, sự thể
hiện độc đáo của nhà văn, khẳng định cái nhìn riêng, sự thể hiện độc đáo của tác giả đối với cuộc sống bằng tác phẩm
văn học. Câu nói ấy nêu lên hai ý: Một là, nhà văn không phải thần thánh, họ cũng sống giữa cuộc đời thường nhặt như
mọi người, nên họ không thể không bám sát hiện thực cuộc sống để mô tả và phản ánh; Hai là, tuy cùng mô tả phản ánh
hiện thực, nhưng hiện thực khi qua con mắt của nhà văn phải có một hình sắc riêng, tức là mỗi tác phẩm văn học phải in
đậm dấu ấn chủ quan của người nghệ sĩ
1.2 Để làm sáng tỏ ý kiến trên, thí sinh phải phân tích và chỉ ra sự độc đáo, mang đậm dấu ấn chủ quan, thể hiện cách nhìn,
cách cảm nhận cuộc sống riêng biệt của mỗi nhà văn qua một số tác phẩm văn học.
Cách tốt nhất là so sánh một số tác phẩm viết về cùng một đề tài, cùng một chủ đề của các tác giả khác nhau để từ đó chỉ
ra nét riêng, hình sắc riêng của mỗi tác phẩm, tác giả. Vì để không có giới hạn tác phẩm cụ thể nên thí sinh cần phải nêu
được các tác phẩm thực sự tiêu biểu. Qua việc dẫn ra các tác phẩm, giám khảo có thể đánh giá được năng lực văn học
của thí sinh .
2 Cấu trúc và nội dung cần đạt
HS có thể làm bài theo 2 cách: Vừa bình luận vừa chứng minh hoặc là bình luận trước, chứng minh sau. Dù cách nào cũng
phải nêu được các ý cơ bản sau :
1 Phần giải thích
- Ý 1 : Giải thích qua câu nói của Hoài Thanh bằng cách trả lời câu hỏi sau đây : Câu nói ấy nghĩa là như thế nào?
Câu trả lời nêu lên 2 ý như đã nói ở phần nhận thức.
- Ỳ 2 : Khẳng định tính đúng đắn của nhận định và giải thích tại sao cùng sống trong một thế giới, một hiện thực cuộc
sống nhưng “thế giới này trong con mắt nhà văn phải có một hình sắc riêng”, tức là trả lời câu hỏi tại sao lại như
thế ? Để trả lời được, người viết phải vận dụng được các kiến thức lí luận văn học như : Văn học phản ánh hiện
thực; quy luật và yêu cầu nghiệt ngã của sáng tạo nghệ thuật… Từ những kiến thức này để đi đến khẳng định: Nhà
văn không thể thoát li hiện thực, phải bám sát mô tả và phản ánh hiện thực, nhưng do yêu cầu của sáng tạo nghệ
thuật, mỗi tác phẩm là một thế giới riêng biệt, không lập lại nên tác phẩm của họ phải “có một hình sắc riêng “ .
- Ý 3 : Nâng cao vấn đề và rút ra bải học. Thực chất là trả lời câu hỏi : “Câu nói trên có ý nghĩa như thế nào?” Câu
nói trên có ý nghĩa với cả nhà văn, người đọc và lịch sử văn học. Đối với nhà văn, khi sáng tác không thể lặp lại
mình và càng không được lặp lại người, phải có cái nhìn, cách miêu tả, cách cảm nhận và thể hiện của riêng mình.
Tức là nhà văn phải có phong cách riêng. Đối với người đọc, để thẩm định, đánh giá một tác phẩm văn học không
chỉ chú ý xem tác giả ấy viết về gì? Mà quan trọng là nhà văn đó viết như thế nào?
2.2 Phần chứng minh :
Khẳng định quan niệm sâu sắc của Hoài Thanh về đặc trưng văn chương nghệ thuật, không có nghĩa là xoá bỏ những hạn chế, thậm
chí sai lầm trong quan niệm văn học của ông. Định nghĩa của ông về nghệ thuật là “Đi tìm cái đẹp trong tự nhiên” cũng rất hạn hẹp.
Quả đúng “Văn chương là văn chương”, nó có tính độc lập, nhưng “thuần tuý” thì không, bởi nó phải hướng về xã hội, đem những tư
tưởng xã hội, lịch sử, chính trị, luân lí, đạo đức, triết học biến thành máu thịt hữu cơ của mình. Nếu nghệ thuật chỉ hướng tới cái đẹp
thuần tuý mà toàn bộ cuộc sống nhiều mặt của con người bị mờ nhạt thì còn đâu sức hấp dẫn? Có thể nói quan niệm văn học của Hoài
Thanh ở đây đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của chủ nghĩa duy mĩ. Vào thời ấy Hoài Thanh không đơn độc trong quan niệm của mình.
Nguyễn Tuân, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… đếu có quan niệm ấy. Quan niệm phân biệt văn học với báo chí của Hoài Thanh căn bản
là đúng. Sau này, khi đã trải qua thời gian dài thể nghiệm loại thơ phản ánh hiện thực “chân chân chân, thật thật thật”, nhà thơ Xuân
Diệu đã giác ngộ ra và đã nêu lại sự phân biệt thơ ca và thông tấn trong bài tiểu luận nổi tiếng Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn
ấy. Tuy nhiên Hoài Thanh đã đối lập văn học và báo chí một cách quá ư tuyệt đối, hầu như không thể dung hoà giữa cái nhất thời và
cái vĩnh viễn, xem nội dung xã hội của văn học chỉ có tính cách phụ, và nhà văn nếu hướng tới hiện thực chỉ là sự tình cờ. Ở đây
không thể nói là không có ảnh hưởng của quan niệm ảo tưởng về “văn học thuần tuý”. Thật khó tán thành với Hoài Thanh khi ông cho
rằng, khi nhà văn “bênh vực kẻ yếu, chống lại với sức mạnh của tiền tài của súng đạn” thì lúc đó nhà văn không làm văn nữa mà “chỉ
làm cái phận sự một người cầm bút mà thôi”. Vậy biết bao thơ của Đỗ Phủ, của Nguyễn Du chỉ là thơ của người cầm bút hay sao?
Thơ văn đâu chỉ “khiến cho khách giang hồ quên những nỗi nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa” mà còn hun đúc
chí khí, tâm hồn con người, giúp họ cảm được những nỗi đau thương thành thực của loài người như chính Hoài Thanh đã không ít lần
nhắc đến. Cái quan niệm xem mối quan hệ chính trị, đạo đức, tôn giáo với nghệ thuật chỉ là quan hệ “tình cờ” cũng không phù hợp với
thực tế văn học xưa nay. Mặc dù đây đó còn phiến diện, ảo tưởng và mâu thuẫn, song Hoài Thanh vẫn là nhà lí luận Việt Nam đầu tiên
nêu ra một cách sâu sắc vấn đề đặc trưng, bản chất thẩm mĩ của văn học, một vấn đề cốt tử của lí luận văn nghệ mà đời sau vẫn phải
còn tốn nhiều công sức và tâm huyết mới mong giải quyết. Cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật với nghệ thuật vị nhân sinh” tất
nhiên vẫn còn trong lịch sử văn học như một cuộc biểu dương quan niệm Mác xít trong văn nghệ, chuẩn bị cho những bước phát triển
về sau của quan niệm văn nghệ cách mạng, và Hoài Thanh vẫn có những điểm để người ta liên hệ ông với chủ trương nghệ thuật vị
nghệ thuật, song xét về thực chất, sự mâu thuẫn của Hoài Thanh với Hải Triều qua những bài tranh luận đương thời chủ yếu chỉ là
mâu thuẫn của hai cách tiếp cận đối với văn học.
3 Biểu điểm
- Phần bình luận : Nêu được các ý như trên. Ý 3 của phần này dùng để phân hóa các bài viết. Tức là để chọn HS giỏi
- Phần chứng minh: Dẫn ra được một số tác phẩm tiêu biểu, phân tích và chỉ ra được nét riêng của các tác phẩm ấy.
Những bài không chỉ ra được nét riêng của mỗi tác phẩm thì điểm tối đa của phần này cũng chỉ cho cao nhất 4 điểm
- Chỉ được điểm tối đa của mỗi phần khi đủ ý và diễn đạt súc tích, mắc lỗi không đáng kể. Sau khi cho điểm toàn bài
sẽ trừ điểm đối với các bài phạm nhiều lỗi kiến thức cơ bản, dẫn chứng sai, diễn đạt lúng túng … ( tùy thuộc vào số
lỗi trừ 1,0 – 5,0 điểm ) đồng thời cộng điểm khuyến khích những bài văn có ý sáng tạo, văn hay.
Đề 3
Nhà phê bình Nga, Belinsky (1811-1848) đã định nghĩa điển hình nghệ thuật như là:” một người lạ mặt quen biết”. Anh (chị)
hiểu điều đó như thế nào ? Hãy phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ ý kiến của mình
1 Nhận thức đề
1.1 Đây là một đề làm văn nhằm kiểm tra kiến thức lí luận văn học và việc vận dụng kiến thức lí luận đó để phân tích và đánh giá
một số hình tượng văn học điển hình. Kiến thức lí luận văn học cụ thể ở đây là về điển hình nghệ thuật. Kiến thức tác phẩm
của văn học, cụ thể là các hình tượng điển hình tùy vào việc lựa chọn của HS. Tuy nhiên , qua việc lựa chọn các điển hình
văn học của HS cũng có thể đánh giá được năng lực và trình độ của người viết.
1.2 Như thế bài viết gồm hai nội dung lớn : Nội dung thứ nhất HS phải trình bày ý kiến của mình, giải thích câu nói của Belinsky
về điển hình nghệ thuật. Phần thứ hai người viết phải lựa chọn được một số điển hình văn học để phân tích và làm sáng tỏ ý
kiến của mình .
2 Cấu trúc và các ý cơ bản cần đạt
2.1 Giải thích câu nói :
Ý nghĩa câu nói :Định nghĩa của Biêlinxki thực chất nêu lên nét chung và nét riêng, tính phổ quát và tính cá biệt của điển hình
nói chung và điển hình văn học nói riêng.
+ “Người lạ mặt”: là nét riêng ,nét cá biệt, nét độc đáo mà nhìn vào đó ta có thể phân biệt đươc với nhân vật khác- đó là “con
người này”(Hêghen).
+”Người lạ mặt” nhưng “quen biết” là do những nét chung, nét phổ quát
của điển hình nghệ thuật. Điểm chung đó giúp ta nhận ra một loại người, một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc với những đặc
điểm, phẩm chất đặc
trưng.
Giải thích lí do:
- Điển hình nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan. Bước
vào tác phẩm, hiện thực ấy mang đậm dấu ấn sáng tạo, qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như vậy, do yêu cầu của tính
riêng về phong cách cá nhân, mỗi điển hình nghệ thuật phải thể hiện được nét độc đáo, mới mẻ,từ nội dung đến hình thức, để
phân biệt với hình tượng khác.
- Sự sáng tạo của người nghệ sĩ vô cùng quan trọng, song hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo không phải chỉ để cho riêng
mình, mà còn là để nói
hộ người khác. Do đó, điển hình nghệ thuật bao giờcũng phải mang tính khái quát cao, nó phải phản ánh được đặc điểm, tâm lí,
tính cách, tư tưởng và nguyện vọng của một tầng lớp xã hội, một giai cấp hay một loại người nào đó. Điển hình nghệ thuật là
người “quen biết”, khi mỗi người đều có thể thấy
hình bóng mình trong đó.
- Điển hình nghệ thuật phải hài hoà giữa tính chung và tính riêng, cụ thể và khái quát, cá biệt và phổ quát. Nếu chỉ chú ý tính
chung thì hình tượng mất đi tính sinh động, cụ thể, thủ tiêu cá tính sáng tạo của nhà văn, xoá nhoà phong cách riêng độc đáo của
nhà văn. Ngược lại, nếu chỉ chú ý tính riêng
thì hình tượng sẽ trở nên xa lạ, tính phổ quát sẽ mất, hình tượng sẽ thiếu sức truyền cảm, không tạo được sự đồng điệu, đồng cảm
với bạn đọc.
2.2 Phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ vấn đề:
Học sinh có thể chọn lựa phân tích một số điển hình văn học trong và ngoài nhà trường, cả VHVN và VHNN, miễn sao các hình
tượng thực sự là điển hình, có tính cá biệt nhưng cũng mang tầm khái quát cao. (Ví dụ: Chí Phèo,
Bá Kiến (“Chí Phèo”- Nam Cao), Xuân Tóc Đỏ (“Số đỏ”-Vũ Trọng Phụng),
Hoàng(“Đôi mắt”-Nam Cao), Mị (“Vợ chồng A Phủ”-Tô Hoài), ).
3.BIỂU ĐIỂM:
Điểm 20:Bài làm tỏ rõ nắm vững kiến thức LLVH, hiểu biết sâu rộng, phong phú. Có nhiều phát hiện tinh tế, độc đáo. Biết chọn
và phân tích được những điển hình văn học xuất sắc.Bố cục rõ ràng, chặt chẽ. Diễn đạt truyền cảm.
Điểm 18: Nội dung bài làm rõ ràng, phong phú. Hiểu và giải thích chính xác những ý cơ bản. Phân tích vấn đề một cách thuyết
phục bằng các điển hình tiêu biểu. Diễn đạt trôi chảy, có cảm xúc.
Điểm 16: Nội dung đầy đủ. Nắm vững vấn đề, phân tích sáng tỏ. Có nhiều ý phát hiện, sáng tạo. Diễn đạt tốt, bố cục rõ.
Điểm 14: Đảm bảo các ý chính, song phân lượng chưa hợp lí. Hiểu và giải thích được vấn đề. Phân tích đúng hướng. Diễn đạt trôi
chảy.
Điểm 10: Nắm được vấn
Đề 4
"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung
bậc của tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu
đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật". (Theo Nguyễn Khải, Các nhà văn nói về
văn, tập 1, NXB Tác phẩm mới, 1985, trang 61)
Anh, chị hiểu như thế nào về ý kiến nêu trên? Hãy liên hệ với sáng tác của Xuân Diệu hoặc Tố Hữu để làm sáng tỏ vấn đề.
(Đề thi học sinh giỏi quốc gia năm 1999, bảng A)
Nhận thứ đề
Điều gì tạo nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tư tưởng của nhà văn hay tình cảm nghệ sĩ? Câu hỏi đó đã làm hết thảy
mọi người, không chỉ có chúng ta mà còn cả giới nghệ sĩ. Đã có nhiều cách bàn bạc và lý giải xung quanh vấn đề này.
Ý kiến của nhà văn Nguyễn Khải dưới đây, theo tôi cũng là một ý kiến đánh giá đầy đủ, chính xác và đánh ghi nhận: "Giá trị
của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giái trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các cung bậc của
tình cảm, chứ không phải tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là
khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật".
Là một nhà văn đã lăn lộn nhiều với nghề viết, đã từng nếm trải và chịu đựng những quy luật nghiệt ngã của văn chương, hơn
ai hết Nguyễn Khải ý thức sâu sắc những yêu cầu khắt khe của nghệ thuật. Ông hiểu giá trị của một tác phẩm nghệ thuật
trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhà văn phải là người có tư tưởng. Nhưng bằng những sự trải nghiệm của một đời cầm
bút, ông cũng thấm thiết nghệ thuật không phải chỉ là tư tưởng đơn thuần mà phải là tư tưởng được rung lên ở các cung bậc
của tình cảm, nghĩa là tư tưởng ấy phải được thấm đẫm trong tình cảm của người viết, tư tưởng ấy phải được chuyển tải bằng
tình cảm, cảm xúc của người nghệ sĩ. Nói cách khác, ý kiến của Nguyễn Khải đã khẳng định mỗi quan hệ gắn bó, không thể
tách rời giữa tư tưởng và tình cảm của nhà văn.
"Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó". Câu nói hiển nhiên như một chân lý không thể
phủ nhận. Một tác phẩm nghệ thuật có giá trị, trước hết phải đề xuất được một tư tưởng mới mẻ. Một nhà văn có tầm cỡ hay
không, tôi nghĩ yêu cầu đầu tiên là nhà văn ấy phải là một nhà tư tưởng. Nghĩa là ông ta phải có phát hiện riêng của mình về
chân lý đời sống, có những triết lý riêng của mình về nhân sinh. Bởi xét đến cùng, thiên chức cao cả của văn chương nghệ
thuật là phản ánh con người và hướng tới phục vụ đời sống con người. Văn học là một hình thái ý thức tinh thần; bởi thế, nhà
văn khi viết tác phẩm không thể không bộ lộ tư tưởng của riêng mình, chủ kiến của riêng mình trước những vấn đề của cuộc
sống. Làm sao văn học có thể thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng của mình là bồi đắp, làm giàu đời sống tinh thần của con
người, nếu như người viết không gửi được vào tác phẩm của mình tư tưởng nào đó về cuộc sống?
Mặt khác, bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo. Nghề văn phải là nghề sáng tạo. Mà tôi cho rắng sáng tạo khó khăn
nhất, nhưng cũng vinh quang nhất của người nghệ sĩ, là khám phá, phát minh ra một hệ thống tư tưởng của riêng mình. Văn
học đâu chấp nhận những sản phẩm nghệ thuật chung chung, quen nhàm, viết ra dưới ánh sáng của một khuôn mẫu tư tưởng
nào đó. Nếu thế thì văn chương sẽ tẻ nhạt biết bao! Không, "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biêt tìm tòi,
biết khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa ai có" (Nam Cao). Một khi anh đề xuất được những tư tưởng
mang tính khám phá về đời sống, tư tưởng ấy sẽ quyết định đến sự sáng tạo hình thức của tác phẩm. Chưa nói rằng, ở những
nhà văn lớn, tư tưởng là yếu tố cốt lõi hình thành nên phong cách nghệ thuật, gương mặt riêng, dấu ấn riêng của nhà văn
trong đời sống văn học vốn mênh mông phức tạp, vàng thau lẫn lộn này. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng ấy là tố chất của
một nhà nghệ sĩ lớn.
Tuy nhiên, theo Nguyễn Khải, tư tưởng của nhà văn không phải là tư tưởng "nằm thẳng đơ trên trang giấy", mà là tư tưởng
đã được rung lên ở các cung bậc của tình cảm"
Vấn đề đặt ra là tai sao tư tưởng lại phải chuyển tải bằng tình của người viết và tình của nhà văn sao lại là khâu đầu tiên và là
khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm nghệ thuật"?
Có lẽ, xin được bắt đầu từ quy luật lớn của văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung. C.Mac có lần nhấn mạnh: Nói quy luật
của văn học là quy luật của cái đẹp. Người khác thì cụ thể hơn, khẳng định quy luật của cái đẹp là quy luật của tình cảm. Vậy
tình cảm chứ không phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải
hướng con người tới cái đẹp bằng tình cảm của nhà văn. Tác phẩm của anh phải lên tiếng, sự thăng hoa cảm xúc của chính
anh. Không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về thơ, nhiều nhà văn, nhiều học giả đều khẳng đinh vai trò của tình cảm đố với thơ.
Ngô Thì Nhậm thì kêu gọi các thi nhân:" Hãy xúc động hồn thơ cho hồn bút có thần", còn Muytxê cũng nhắn nhủ các nhà
thơ: "Hãy đập vào tim anh, Thiên tài là ở đó" Tư tưởng của một nhà văn dù dầu có giá trị đến đâu, độc đáo mới mẻ đến
nhường nào thì nó cũng chỉ là một xác buớm ép khô trên trang giấy, nếu không được tình cảm của họ thổi hồn đánh thức dậy.
Nếu anh chỉ có tư tưởng không thôi, thì không thể làm một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đính thực. Tư tưởng của anh phải
được rung lên ở các cung bậc của tình cảm. Cảm xúc trơ lì, mòn sáo, tình cảm thoáng qua, hời hợt, rút cuộc những tư tưởng
ấy dù hay đến mấy cũng chỉ "nằm thẳng đơ", vô hồn, vô cảm trên trang giấy mà thôi. Những sáng tạo nghệ thuật chân chính
tuyệt nhiên không phải là sự minh hoạ giản đơn cho tư tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay (Ý của
Khrapchencô). Tư tưởng của nhà văn không khô khan, cứng nhắc, tư tưởng của nhà văn là tư tưởng nghệ thuật, là tình cảm,
là "nhiệt hứng", là "say mê", là tất cả nhiệt tình kết tinh lại (Biêlixky)
Đề 5
Phận tích sắc thái riêng biệt trong ba bài thơ viết về mùa thu của Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi
Yêu cầu HS phải chỉ ra được những nét riêng biệt (là chính) trong cảm xúc về mùa thu của ba tác giả qua ba thi phẩm cụ thể.
Bài viết cần đạt được những ý cơ bản sau đây :
- Ý 1 : Đề tài mùa thu trong lịch sử văn thơ và những nét giống nhau giữa ba nhà thơ khi viết về mùa thu qua ba bài
thơi. Nét giống nhau bao trùm là mùa thu trong thơ ba tac giả rất đẹp nhưng cũng đều nhuốm một nỗi buồn (có thể
phân tích và dẫn ra một vài câu tiêu biểu ở mỗi bài thơ nhưng không đi sâu).
- Ý 2 : Trình bày những nét riêng biệt trong cảm hứng về mùa thu của ba nhà thơ qua việc phân tích và làm sáng tỏ từ
ba bà thơ (ý chính)
Nguyễn Khuyến lấy cảm hứng từ cảnh thu ở một vùng quê thôn dã. Chắc chắn đó là vùng quê Yên Đổ rất mực gắn bó với
ông. Có thể nói mùa thu ở đây là mùa tiêu biểu cho mùa thu của làng quê Việt Nam (đặc biệt là vùng đồng bằng Bắc Bộ). Đó là một
mùa thu thơ mộng, tĩnh lặng, trong trẻo và yên ả đến kì lạ. Sau đó, học sinh phân tích những hình ảnh và cảnh sắc trong bài thơ để làm
nổi bật tính chất tiêu biểu đã nói.
Trước cảnh thu ấy, tác giả vừa đắm say vừa buồn bã. Một nỗi buồn dịu nhẹ, bâng khuâng thấm đượm và bao phủ lên toàn bộ
cảnh thu. Cuối bài thơ, nỗi buồn đã trở thành nỗi thẹn, nỗi đau man mác về khí tiết của chính bản thân mình. Chính điều này làm cho
người đọc yêu mến và kính trọng ông hơn. HS phân tích và chỉ ra các thể từ các chi tiết trong bài thơ để làm sáng tỏ các nhận xét trên.
+ Bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu :
Nỗi cô đơn quạnh vắng của lòng người trước ngoại cảnh trải dài trong một bức tranh thiên nhiên buồn mà nên thơ nên họa.
Với cảm thức mạnh mẽ về thời gian, thi nhân bộc lộ niềm tiếc nuối, lòng yêu mến, gắn bó với sự sống một trái tim luôn khao khát
giao cảm với đời.Xuân Diệu đã góp vào hồn thu muôn thuở cái tôi cá nhân tài hoa và đa tình của mình. Cảnh thu đẹp, có sức gợi là lại
man mác buồn, cái buồn li tán, chia lìa. Đó cũng chỉ bởi một nỗi: lòng thi nhân buồn. Cái buồn chung của Thơ mới, của thời đại, của
lòng người. Có thể nói với Đây mùa thu tới nhà thơ Xuân Diệu đã tạo nên một điệu hồn Thơ mới đặc sắc. Xuân Diệu là một nhà thơ
rất mới về nhiều phương diện nhưng trước hết là phương diện ngôn từ. Nhiều cách đặt câu dùng từ của ông nay đã trở thành quen
thuộc và phổ biến đối với người Việt Nam nhưng hồi Xuân Diệu mới xuất hiện, đấy là một cuộc cách tân mạnh dạn. Hãy nghe một
nhận xét khá thú vị của người cùng thời với ông cách đây hơn nửa thế kỷ: "Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân
diệu viết văn tựa trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ tiếng Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái bỡ ngỡ ấy chính
là chỗ Xuân Diệu hơn người. Dòng tư tưởng quá sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy, khuôn khổ câu văn phải
lung lay
+ Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi :
Đất nước là bài thơ thành công hơn cả của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về những chủ đề lớn hơn. Đó cũng là bài thơ hay
của nền thơ Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm kết hợp được nhiều yếu tố : hình ảnh chân thực và chất suy
tưởng, khái quát, cảm xúc, suy ngẫm của cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc về đất nước . Có lẽ vì thế, trải qua nhiều năm
tháng, Đất nước vẫn là tiếng thơ hào sảng trong tâm hồn người Việt Nam.
Nhà thơ đưa người đọc vào thế giới cảm xúc của mình theo lối hứng của ca dao, dân ca. Khởi đầu là cảm xúc về một sáng
mùa thu, mùa thu thiên nhiên, đất trời, gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Rồi từ mùa thu thiên nhiên, đất trời, gợi nhớ về mùa thu
của đất nước, mùa thu của cách mạng với niềm xúc động đầy tự hào được làm chủ đất nước. Và, từ đó lại nghĩ về đất nước trong chiến
tranh, giải phóng, về những con người từ trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu - những anh hùng quần chúng. Bài thơ kết
thúc bằng hình ảnh mang tính biểu tượng về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.HS phân tích
những chi tiết và hình ảnh trong bài thơ để làm sáng tỏ các nhận xét trên.
- Ý 3 : Tiểu kết và nâng cao vấn đề :
+ Mùa thu trong tâm hồn Nguyễn Khuyến là mùa thu của một ông già tha thiết với quê hương xứ sở , nhưng chua chát, buồn
chán trước thời cuộc , thân thế.
+ Mùa thu trong tâm hồn Xuân Diệu là mùa thu của lớp thanh niên tiêu biểu tư sản chán nản trước thực tại xã hội, cô đơn, bế
tắc không lối thoát
+ Mùa thu trong tâm hồn Nguyễn Đình Thi là mùa thu của những chàng trai Hà Nội, hăm hở đến với cách mạng, buồn bã mà
kiên quyết ra đi kháng chiến và dạt dào niềm vui khi chiến thắng trở về.
Biểu điểm
- Ý 1 : 1 điểm
- Ý 2 : 9 điểm
- Ý 3 : 3 điểm
Lưu ý : Về cách làm, HS có thể trình bày tách rời các tác phẩm như trên cũng có thể lồng vào vừa phân tích vừa so sánh, miễn là làm
sáng tỏ được vấn đề. Hình thức chữ viết, chính tả, ngữ pháp, dùng từ và diễn đạt ít mắc lỗi : 2 điểm
Đề 6
Sắc thái nhân đạo riêng biệt của ba tác phẩm : Vợ nhặt, Chí Phèo và Hai Đứa Trẻ
1. Tìm hiểu đề: ( Hai đứa trẻ )
Đề bài thuộc kiểu đề tự do - chỉ nêu chủ đề mà không bắt buộc về cách thức, phương pháp triển khai
chủ đề đó. Chủ đề được nêu trong đề bài này là chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam).
Về thực chất, có thể hiểu, đề bài yêu cầu phân tích để tìm ra những biểu hiện của chất thơ cũng như vai
trò của nó trong việc tạo nên dấu ấn phong cách Thạch Lam và thành công của truyện ngắn "Hai đứa
trẻ". Để thực hiện yêu cầu này của đề bài, học sinh cần nắm vững, hiểu rõ khái niệm "chất thơ", chất
thơ trong truyện ngắn để trên cơ sở đó xác định đúng và phân tích thấu đáo biểu hiện cũng như giá trị
của chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ".
2. Dàn ý:
a. Mở bài:
- Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt, thậm chí đôi khi đơn
giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không thuộc vào những lớp người có sức ảnh hưởng lớn
trong xã hội. Vậy mà tác phẩm vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong
lòng người đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc lại, sống lại
cùng với nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính
là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang văn.
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" ("Nắng trong vườn" - 1938) là một truyện ngắn giàu chất thơ.
b. Thân bài:
b.1. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
- "Chất thơ": Tính chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm
trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình
cảm nhân văn.
- Chất thơ trong truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu hiện một cách tinh tế
cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc của chính mình trước thế giới bằng những chi
tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm
xúc, tâm hồn.
- Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết
không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời
sống hoặc của tâm hồn con người.
b.2. Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ":
b.2.1. Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
- ở nhân vật Liên có vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết, tự nhiên như chưa từng
chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc sống:
+ Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng nồng, âm ẩm bốc lên đã
khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động tâm
hồn Liên để cô cảm nhận được cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng như ngập đầy
bóng tối của buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn sao lấp lánh
để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm
hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới
quanh mình: những con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa
bàng rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá khứ và mơ mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với gánh nặng mưu sinh
không thể xoá bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm chí, chính cuộc sống tẻ nhạt hàng ngày lại
khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc khoải: dù kỉ niệm còn lại không nhiều, nhưng quá khứ luôn trở về
trong Liên bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo".
Chính nỗi nhớ quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện với hình ảnh thực của chuyến tàu
đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa xôi để "sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết" mà
chuyến tàu ấy gợi lên trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống một cuộc sống nghèo
khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà cô đang phải trải qua song không vì thế mà
Liên đóng kín tâm hồn đối với con người và cuộc sống quanh mình. Nhìn những đứa trẻ nghèo đang
nhặt nhạnh, tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy "động lòng thương" tuy chính chị cũng không có gì để cho
chúng. Sẵn có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút rượu của bà cụ Thi điên dù trong
em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự nhiên ở một đứa trẻ khi phải đối diện với một người
không hoàn toàn bình thường. Chính những tình cảm ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm
động như được "thanh lọc tâm hồn" để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết nhất.
- ở cái tôi Thạch Lam ẩn kín sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết truyện ngắn "Hai đứa tre"
bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể không nhận thấy
cái tình âu yếm mà Thạch Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn
nhân hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã hoá thân vào nhân
vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc
này để tạo cho những trang viết Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất thơ để tạo thành
một sức hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
b.2.2. Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật:
- Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân thực, sinh động lại vừa vô
cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng
ở mọi vật bình thường".
+ Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp giữa thành thị và thôn
quê song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất làng đã nhiều hơn tính chất phố.
+ Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút Thạch Lam gợi ra đều
chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy", đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn",
tiếng trống thu không "vang xa để gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió mát",
vòm trời "hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những con đom đóm "bay là là trên mặt đât hay len
vào những cành cây", bóng bác phở Siêu "mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng
rào hai bên ngõ"…Tất thảy đều là những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà
ngỡ như rất mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi nó không chỉ hiện diện như một
khái niệm mà như một trạng thái của sự sống đang xao động để chuyển dần một cách tinh tế cái xao
động ấy vào tâm hồn con người. Dưới ngòi bút Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ
quê cũng gợi nhớ bao điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của
ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương
này". Sức gợi cảm của thứ mùi vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của rất nhiều người
Việt.
- Truyện có những chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế giới của những cảm xúc,
cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả
thuốc sơn đen lúc chiều muộn với đôi mắt ngập đầy dần bóng tối; Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao
để mà thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và An chờ đợi
chuyến tàu đêm… Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai đứa trẻ chính là đỉnh điểm của chất
thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em Liên, đoàn tàu vừa là một thực tế, vừa là một ảo ảnh trong cái
nhìn non trẻ và đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng đã
chìm vào giấc ngủ song dư âm của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi đó là yếu tố cơ bản để
"gióng lên cái gì đó còn ở tương lai" (Nguyễn Tuân). ánh sáng của đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ
ánh sáng khác - ánh sáng của khát vọng da diết trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu
khi khám phá ra thứ ánh sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn đáng quý.
- Mạch truyện của "Hai đứa trẻ" rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình, tìm thấy những tính tình
và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn của chính mình". Từ đó có thể
thấy, cái hiện thực mà nhà văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm,
rung động của tâm hồn con người.
+ Truyện "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo mạch của những tình
tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng nhân vật. Để làm được điều này, nhà văn đã
đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật Liên - một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một
cô gái có tâm hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện với sự
đan xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ mà dường như, cái nổi trội
lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành trình tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái
hình ảnh đang hiện diện trong thực tại - hình ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này,
ngòi bút Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm xúc, cảm giác
nhiều khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: nỗi
buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày tàn, những hoài niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi
thơ, những cảm giác xa xôi không biết…
- Để thể hiện thành công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút pháp trữ tình đặc sắc
trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng, chính xác và dịu dàng, hoà hợp sự kín đáo
và giản dị như một lời thủ thỉ vừa phải, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời văn của ông nhuần
nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc trong tâm hồn. Câu văn của Thạch Lam
nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm
buồn nhưng cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một chiều êm ả
như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh
đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia
đồng ruộng mênh mang và yên lặng".
+ Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái xao động của sự sống
khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn tả cái thanh thoát, dịu hiền của tâm hồn
Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ
ngữ này liên kết với nhau như một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.
+ Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong thả. Dù diễn tả cái náo
nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến
tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng
rực, vui vẻ và huyên náo". Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và những thanh
trắc tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc
động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua". Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng
lập, đều đều, nhịp độ khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là
ở độ nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu văn.
c. Kết luận:
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện đều chan chứa chất
thơ - cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường nhật bằng chính rung động của tâm hồn
nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin
ở thiện căn của con người…
- Với những gì được khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện "Hai đứa trẻ" tựa như một
bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý nghĩa xã hội thì vẫn "đem đến cho người đọc một
cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và mát dịu" (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là cốt
cách văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng độc giả.
Vợ nhặt
1/Mở bài :
+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
- Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với "đất", với "người", với "thuần hậu nguyên
thủy" của cuộc sống nông thôn.
- Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ trong đã có Vợ nhặt
của Kim Lân.
+ Nhận xét khái quát: - Vợ nhặt xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Qua tình huống truyện, tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
2.Thân bài:
a. Bối cảnh xây dựng tình huống truyện.
+ Bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết. + Cái chết
hiện hình trong tác phẩm tạo nên một không khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn
bị cái chết đe dọa.
b. Trong bối cảnh ấy, Tràng, nhân vật chính của tác phẩm "nhặt" được vợ. Đó là một tình
huống độc đáo
+Ở Tràng hội tụ nhiều yếu tố khiến nguy cơ "ế" vợ rất cao:
- Ngoại hình xấu, thô.
- Tính tình có phần không bình thường.
- Ăn nói cộc cằn, thô lỗ.
- Nhà nghèo, đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
- Nạn đói đe dọa, cái chết đeo bám.
+ Tràng lấy vợ là lấy cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).
+ Việc Tràng lấy vợ là một tình huống bất ngờ
- Cả xóm ngụ cư ngạc nhiên.
- Bà cụ Tứ cũng hết sức ngạc nhiên
- Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn " ngờ ngợ".
+ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí
- Nếu không phải năm đói khủng khiếp thì "người ta" không thèm lấy một người như Tràng.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được.
c. Giá trị hiện thực: tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
+ Cái đói dồn đuổi con người.
+ Cái đói bóp méo cả nhân cách.
+ Cái đói khiến cho hạnh phúc thật mỏng manh, tội nghiệp.
+ Vợ nhặt có sức tố cáo mạnh mẽ tội ác của bọn thực dân, phát xít.
d. Giá trị nhân đạo:
+ Tình người cao đẹp thể hiện qua cách đối xử với nhau của các nhân vật.
- Tràng rất trân trọng người "vợ nhặt" của mình.
- Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người "vợ nhặt"
- Tình yêu thương con của bà cụ Tứ.
+ Con người huôn hướng đến sự sống và luôn hi vọng, tin tưởng ở tương lai:
- Tràng lấy vợ là để duy trì sự sống.
- Bà cụ Tứ, một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo
niềm tin cho dâu con vào một cuộc sống tốt đẹp.
- Đoạn kết tác phẩm với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.
3.Kết bài:
+ Khẳng định tài năng nhà văn qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn.
+ Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Chí Phèo
Nhan đề tác phẩm
- Đầu tiên, Nam Cao đặt nhan đề : Cái lò gạch cũ. Sau đó – năm 1941- NXB tự ý đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Năm
1946, khi in lại trong tập Luống cày, Nam Cao đã đặt lại tên là Chí Phèo - Ý nghĩa của nhan đề: Chí Phèo, vẽ nên một con
người cụ thể, một số phận cụ thể, cô đơn, cô độc…
1. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a, Sự xuất hiện của hình tượng Chí Phèo
• Mở đầu truyện là một Chí Phèo say rượu và chửi bới:
+ “Hắn vừa đi vừa chửi”
+ Hắn chửi tất cả : từ trời, đời ,cả làng Vũ Đại , “Chửii cha đứa nào không chửi nhau với hắn” “đứa chết mẹ nào đẻ ra
thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng
chửi qua đó cũng thu hẹp dần > chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc.
• Cái mà Chí nhận được là : “ trời có của riêng nhà nào”,“đời là tất cả nhưng chẳng là ai” , “không ai lên tiếng
cả” ,“không ai ra điều” , “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “ tiếng chó
cắn lao xao”.
• Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo:
Chí đã bị đánh bât ra khỏi xã hội loài người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng.ƒ+ Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp
với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”)
+ Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã
mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.
b. Sự ra đời và quá trình tha hoá của Chí Phèo.
• Khi mới sinh ra Chí bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ, được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ bất hạnh, tủi cực “
hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”
• Chí là một nông dân hiền lành, lương thiện:
+ Bà ba sai bóp đùi, hắn: “vừa làm vừa run” “ thấy nhục chứ yêu đương gì”
+ Chí là một con người có lòng tự trọng: khi bị bà ba sai bóp chân, Chí “thấy nhục hơn là thích” trước một việc làm mà
Chí cho là “không chính đáng”.
+ Có ước mơ giản dị: “ có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi
để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”
• Xã hội thực dân nửa phong kiến không để yên cho con người tội nghiệp ấy được sống với những ước mơ và khát vọng,
Bá Kiến ngấm ngầm đẩy Chí vào tù. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già Bá Kiến biến Chí Phèo từ một người nông
dân hiền lành lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ khét tiếng . Sau 7, 8 năm tù ra, Chí đã bị cái xã hội ấy vằm nát
cả nhân hình lẫn nhân tính, trở thành một kẻ lưu manh, một con quỷ dữ.
+ Nhân hình: Bị xã hội lưu manh vằm nát bộ mặt người.
•Gương mặt: “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông
gớm chết”
•Trang phục: “mặc quần nái đen với cái áo tây vàng”
•Thân thể: “cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng
thế”.
+ Nhân tính: Hành động và lời nói thể hiện tính cách của một kẻ liều lĩnh, hung hăng:
• “Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều…Rồi say khướt, hắn xách
một cái vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tận tên tục ra mà chửi”. Chí bộc lộ tính lưu manh cùng đường: “đập cái chai
vào cột cổng”, lăn lộn dưới đất…cào vào mặt”
“con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Từ đây chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương
thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương
thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say “ ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch
mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “
những cơn say của hắn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. • Nói với Bá Kiến: “Tao chỉ liều
chết với bố con nhà mày đấy thôi”. Trong câu nói ấy của Chí chất chứa hận thù. Chí vẫn đang còn tỉnh táo để nhận ra kẻ
thù của mình. Đó là ý thức hệ của tầng lớp bị thống trị đối với giai cấp thống trị. Thế nhưng trước một Bá Kiến cáo già
với châm ngôn sống “ Thứ nhất sợ kẻ anh hùng/ Thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”. Chí phèo đã sa vào bẫy của tên cáo
già ấymột cách thật dễ dàng. Để rồi sau đó hắn trở thành tay sai của BK, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một
người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh
Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì Nam Cao bằng tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã xuất hiện đúng
lúc. Ông mang đến cho Chí một “thiên sứ” – Thị Nở với hi vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo.
c. Chí Phèo gặp Thị Nở
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở trong một đêm trăng bên bờ suối đã thức tỉnh phần người của Chí giúp hắn trở về kiếp người. Sự
quan tâm, chăm sóc của Thị Nở đã giúp Chí cởi bỏ phần “quỷ” để sống lại làm người, khát khao hoàn lương, làm người
lương thiện.
- Diễn biến tâm lí, tình cảm của Chí Phèo
+ Từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ
• Tỉnh rượu: lần đầu tiên – từ khi mãn hạn tù – Chí hết say và cảm nhận được thời gian và âm thanh hằng ngày của cuộc
sống. Âm thanh cuộc sống đang từng tiếng một gõ nhịp vận hành cùng với sự thức tỉnh của Chí Phèo. * “Ở đây (căn lều)
người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng” * “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Tiếng mấy
bà đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông” . Những âm thanh này ngày nào mà chẳng có, nhưng
đây lại là lần đầu tiên chí mới nhận ra: chao ôi là buồn!
• Tỉnh ngộ : nhận thức và nhìn lại cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai * Qúa khứ :“Hắn nao nao buồn”
nhớ về một thời hắn đã từng ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn,…” * Hiện tại: “Hắn thấy hắn già mà
vẫn còn cô độc”, “hắn “đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, “cơ thể đã hư hỏng nhiều” * Tương lai: đáng buồn và lo sợ vì
nghĩ đến nhiều điều bất hạnh: “tuổi già”, “đói rét và ốm đau, và cô độc”. Tỉnh ngộ, Chí muốn khóc… Chí Phèo đang thức
tỉnh và bắt đầu hồi sinh về kiếp người.
+ Khát khao hoàn lương và mong ước hạnh phúc
• Chí ngạc nhiên và xúc động “mắt hình như ươn ướt” khi Thị Nở mang “một nồi cháo hành còn nóng nguyên” vì đây là
lần đầu tiên “hắn được một người đàn bà cho”, “đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Chí lại
nghĩ đến con mụ Bà Ba và lấy làm kinh tởm vì những trò dâm đãng “nó chỉ mong cho thỏa nó chứ yêu đương gì”.
• Chí “ăn năn”, “thấy lòng thành trẻ con” và “muốn làm nũng với thị như với mẹ” khi được Thị Nở chăm sóc bằng tình
cảm thương yêu.
• Chí trở nên hiền lành đến khó tin: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó vẫn là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt
đâm chém người?”, “cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi” đã trỗi dậy mạnh mẽ, Chí sống đúng với con người thật
của mình, giống như anh canh điền hiền lành trước đây.
• Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện: “Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết
bao ! Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”
giống như lời cầu hôn chất phác, giản dị. Qua miêu tả tâm lí hồi sinh của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao cho cho ta thấy
được bản tính tốt của con người có ngay trong con người bị tha hoá. Bản tính ấy sẽ trỗi dậy khi có chất xúc tác. Đó là sự
thương yêu, quan tâm. Từ đó nhà văn kêu gọi chúng ta cần tin vào con người, tin vào bản chất tốt đẹp của mỗi con
người và cần giúp đỡ họ tìm lại những cái tốt đẹp nhất của phần “người” * Bài học nhân sinh: Con người cần phải quan
tâm , chia sẻ tình thương giữa người với người. Tình thương có khả năng cảm hoá được con người.ƒ• Chí khát khao hạnh
phúc và có một mái ấm gia đình: “Gía cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.”
d. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo
cả làng Vũ Đại, cả xã hội ko ai đón nhận linh hồn người vừa trở về của Chí. Định kiến của bà cô cũng là định kiến của cả
xã hội đương thời. - Chí đau đớn và tuyệt vọng: - Nguyên nhân : Thị Nở đã cắt đứt với Chí Phèovì bị bà cô cấm đoán
+ Uống rượu cho thật say nhưng “càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn!”
+ “Hắn ôm mặt khóc rưng rức” càng thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. - Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến
nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đam chết con “khọm già”, con “đĩ nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân
phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của CP dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã
làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là BK.
+ Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyến làm người, cướp đi
cả bộ mặt và linh hồn của mình. - Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
+ “ Tao muốn làm người lương thiện”
+ “ Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau
của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân.
• Chí giết Bá Kiến và tự sát. Cái chết của Chí Phèo là bản án tố cáo xã hội thực dân nửa phong , một cuộc sống mà trong
đó, con người muốn sống lương thiện cũng không được.
III. Tổng kết Nghệ thuật:
- Xây dựng và điển hình hoá nhân vật.
- Miêu tả , phân tích tâm lí nhân vật.
- Trần thuật. - Ngôn ngữ sống động, gắn với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
- Giọng điệu phong phú, có sự đan xen lẫn nhau.
- Cốt truyện hấp dẫn, kịch tính và đầy bất ngờ.
- Kết cấu truyện độc đáo.
Đề 7
Trong tác phẩm "Việt Hán văn khảo", học giả Phan Kế Bính (1875-1921) viết : "Ngồi trong xó nhà mà lịch lãm suốt hết các
nơi danh lam thắng cảnh của thiên hạ; xem trên mảnh giấy mà tinh tường được hết các việc hay, việc dở của thế gian; sinh
sau mấy nghìn năm mà tựa hồ như được đối diện và được nghe tiếng bàn bạc của người sinh về trước mấy nghìn năm, cũng
là nhờ có văn chương cả"
Bằng những hiểu biết của mình về văn học, em hãy bình luận và làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Nhận thức đề
HS hiểu bản chất của vấn đề mà bài viêt yêu cầu để tập trung bình luận và làm sáng tỏ là vai trò, tác dụng to lớn của văn học đối
với con người. Cụ thể là nhờ có văn học, qua văn học mà người đọc không cần đi đâu cả (ngồi trong xó nhà) có thể am hiểu sâu sắc
(lịch lãm) nhiều cảnh đẹp của thiên nhiên trên khắp thế gian này (không gian); Qua văn học, nhờ văn học mà chỉ cần qua trang giấy,
người đọc hiểu được thấy đáo thế nào là cái hay, cái dở của việc đời, của con người; Cũng nhờ văn học mà người thời hiện tại như
được sống lại với người xưa mấy nghìn năm trước … (thời gian). Chú ý cách nói: ngồi trong xó nhà mà xem trên mảnh giấy mà …
2. Bố cục và các ý cơ bản cần đạt
Bài viết bao gồm hai phần: lí luận và chứng minh. Có thể nêu lí luận xong rồi chứng minh, nhưng có thể vừa nêu lí luận, vừa phân tích
tác phẩm chứng minh luôn, miễn là hiểu đúng và nói được các ý.
2.1 Phần bình luận
- Ý 1 : Khẳng định nhận định của Phan Kế Bình là hoàn toàn đúng đắn. Từ xưa đến nay văn học có một vai trò, tác dụng hết sức to lớn
đối với đời sống tinh thần của con người. Bám sát nhận định để cụ thể hóa vai trò và tác dụng của văn học như phần nhận thức đề đã
nêu ở trên.
- Ý 2 : Tại sao văn học lại có vai trò và tác dụng to lớn như thế? Phần này cần vận dụng được kiến thức lí luận văn học về đặc trưng,
chức năng của văn học để giải vấn đề.
- Ý 3 : Khái quát nâng cao vấn đề: Khẳng định tính đặc thù, độc đáo của văn học, vị trí không thể thay thế của nó đối với đời sống tinh
thần con người, đó cũng chính là lí do tồn tại và sự bất diệt của văn học.
2.2 Phần chứng minh
Chứng minh bằng việc phân tích các tác phẩm văn học. Phần này HS cần có năng lực bao quát kiến thức tác phẩm tốt để lựa chọn
được các tác phẩm đính đáng làm nổi bật được vấn đề. Ví dụ, cần lấy tác phẩm văn học nước ngoài để thấy ngồi ở ta mà am hiểu cảnh
vật và con người ở Tây, ở Tàu,… hoặc ngồi ở Bắc mà biết cảnh Nam. Cũng như cần lấy các tác phẩm thời Trung đại
3. Biểu điểm (10,0 điểm)
8,0 – 10,0 điểm : Ý đúng và đủ, kiến thức tác phẩm toàn diện, phong phú, văn viết hay, có cảm xúc, diễn đạt mạch lạc,
lập luận chặt chẽ, không sai chính tả và ngữ pháp, trình bày sáng sủa. Bài viết đạt điểm 8 và 9 có thể còn vài lỗi nhỏ.
5,0 – 7,0 điềm : Hiểu đúng vấn đề, nhưng ý có thể chưa đầy đủ, văn chưa được hay, nhưng không phảm phải những lỗi
cơ bản về kiến thức và diễn đạt
3,0 – 4,0 điểm : Có tỏ ra hiểu nhưng thiếu ý hoặc ý lộn xộn, diễn đạt lúng túng, sai sót nhiều.
0 – 2,0 điểm : Lạc đề, văn kém.
Đề 8
anh chị hiểu và suy nghĩ như thế nào khi nhà thơ R.Gamzatov nói : “ thơ ca , nếu không có người, tôi đã mồ côi.” (Trích
Đaghextan của tôi, tập 1 , trang 150)
Từ kinh nghiệm học và đọc thơ, hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
1 Nhận thức đề
1.1 Dù trình bày theo cách nào, thí sinh cũng phải hiểu bản chất câu nói của R.Gamzatov là bàn về vai trò và tác dụng to lớn của thơ
ca. Cụ thể là: Nếu không có thơ ca con người nói chung và các nhà thơ nói riêng đã rơi vào cô đơn, lạc lõng, bơ vơ, không được
sẻ chia, cảm thông và an ủi, vỗ về; sẽ rơi vào tình trạng “mồ côi” về tinh thần, tình cảm.
1.2 Phải hiểu vai trò của thơ ca không chỉ đối với các nhà thơ (R.Gamzatov chỉ là đại diện) mà còn đối với cả độc giả (nhà thơ cũng
đồng thời là một độc giả). Như thế, phần giải thích và bình luận phải chú ý triển khai cả hai hướng:
- Một là : Không có thơ ca, nhà thơ đã “mồ côi”.
- Hai là : Không có thơ ca bạn đọc cũng đã “mồ côi”.
1.3 Phần liên hệ với bản thân từ việc học và đọc thơ chính là phần chứng minh vai trò của thơ ca đối với đời sống tinh thần, tình cảm
của mỗi thí sinh. Phần này không yêu cầu người viết phân tích vai trò của thơ ca dưới góc độ nhà thơ mà là dưới góc độ một độc
giả.
2 Nội dung cần đạt
2.1 Đề nêu lên hai yêu cầu
Một là :Hiểu và suy nghĩ như thế nào về câu nói của R.Gamzatov
Hai là : Làm sáng tỏ câu nói từ kinh nghiệm đọc và học thơ của bản thân
Yêu cầu 1 thực chất là giải thích và bình luận câu nói. Yêu cầu 2 chính là chứng minh
2.2 Các ý cần trình bày trong phần giải thích và bình luận
a) Ý 1: Giải thích qua câu nói
Hiểu được chữ “mồ côi” ở đây, nhà thơ dùng theo nghĩa bóng: Chỉ sự cô đơn, bơ vơ, không được cảm thông, chia sẻ như
phần nhận thức đề đã nêu. Sau đó nêu một cách khái quát , bằng việc trả lời câu hỏi : nói như thế nghĩa là như thế nào?
b) Ý 2 : Lí giải tại sao có thể nói như thế
(1) Đối với nhà thơ
- Làm thơ thực sự là một sự giãi bày tình cảm, cũng là sự khao khát muốn được thổ lộ nỗi lòng (trữ tình). Nhà thơ khi có
những xúc động mạnh mẽ, khi có những suy nghĩ thầm kín, những tư tưởng sâu sắc và những tình cảm dâng trào “không nói ra không
được”, nếu không viết ra “có thể mình chết” như R.Rilke đã nói trong Thư gửi một nhà thơ trẻ, lúc ấy thơ đến với họ và họ làm thơ và
phải nói bằng thơ. Làm thơ trước hết là giãi bày lòng mình là vì thế. Cho nên rất nhiều người chỉ làm thơ cho chính mình đọc, hoặc
chỉ người hiểu mình mới đọc. Nguyễn Khuyến khi Dương Khuê mất, thì coi như mất tri âm và không muốn làm thơ nữa “Câu thơ cũ
đắn đo không viết – Viết đưa ai ai biết mà đưa”
- Tuy nhiên, làm thơ không chỉ là sự giãi bày lòng mình mà còn muốn được chia sẻ, mong được sự đồng vọng của nhiều tấm
lòng “thơ là những điệu hồn cần tìm những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). Làm thơ là muôn được người khác hiểu lòng mình để “nỗi
buồn nói ra vơi đi một nữa, niềm vui nói ra thì được nhân đôi”. Không chỉ mong người khác hiểu lòng mình mà nhà thơ còn muốn
người khác cùng thưởng thức cách nói, cách thể hiện, cách phô diễn những tình cảm và tư tưởng của mình bằng những hình thức nghệ
thuật ngôn từ độc đáo, khác lạ - hình thức của thơ.
Chú ý : Đây là ý khó dùng để cho điểm những thí sinh xuất sắc.
- Nếu không có thơ ca, tức là không làm thơ, thì có nghĩa là không giãi bày được, cũng không chia sẻ được, thông cảm với
người khác, như vậy: nhà thơ sẽ rơi vào tình trạng “mồ côi” về tinh thần, tình cảm, như Xuân Quỳnh đã tâm sự trong bài Nếu ngày
mai em không làm thơ nữa:
Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc
Trận mưa xuân dẫu làm ướt áo
Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu
Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau
Không xôn xao khi nắng hè đến sớm
(2) Đối với bạn đọc
Trước hết, cần phải thấy rằng nàh thơ cũng là một bạn đọc, đọc thơ người khác. Vì sao không có thơ, con người (bạn đọc) sẽ
“mồ côi”.
- Bạn đọc cũng như nhà thơ, đã là con người thì đều có những tâm trạng, những tình cảm và suy nghĩ nhiều khi rất giống nhơ
trước hiện thực cuộc sống. Nhưng nhà thơ khác người đọc là : Họ có tài nói lên được những điều đó bằng thơ. Các nhà thơ đã nói hộ
lòng người, cất lên “tiếng gọi đàn” (Chế Lan Viên), có khi là tiếng nói của cả dân tộc, thể hiện ý chí và nguyện vọng của một đất
nước; là “lương tâm của cả một thời đại”; “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình” (Tố Hữu), “Đọc thơ đồng chí ngỡ thơ
mình”(Tế Hanh).
- “Thơ là cô đúc.” Thơ đòi cô đúc để rồi trong một phút nổ ra như tiếng sét. (Chế Lan Viên, Bình giảng thơ, Từ gác Khuê Văn đến quán
Trung Tân, NXB Tác phẩm mới, 1981, tr.92) Tình yêu và thơ là hai phạm trù mà trong đó cái tuyệt vời thông minh kết hợp với cái tuyệt vời ngây
thơ, là hương đặc bịêt của một số tâm hồn thi sĩ và tình nhân. (Xuân Diệu, Trong việc làm thơ, Văn nghệ, 5/3/1977) Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng
nói thứ nhất của tâm hồn khi động chạm tới cuộc sống (…) văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi từ điểm này qua điểm khác. Thơ, chỉ
chọn một ít điểm chính, bấm vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo. Thơ là tống hợp, kết tinh. Văn xuôi cho phép không hoàn toàn, nhưng thơ
thì luôn đòi hỏi sự toàn bích.(Nguyễn Đình Thi, Mấy vấn đề văn học, NXB Văn học, 1958) ”…thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu
hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cùng mọc lên từ cái đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình
bao la, từ một điểm nhất định mà nó mở được ra một cái diện không gian thời gian, trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp.” (Nguyễn Tuân,
Thời và thơ Tú Xương, Tạp chí Văn nghệ, 5/1961) Văn xuôi bay ca hơn, nhưng thơ bay cao hơn. Văn xuôi giống chiếc máy bay khổng lồ có thể bình
thản bay quanh trái đất. Còn thơ lại giống chiếc máy bay tiêm kích có thể lao vút lên bầu trời và trong nháy mắt lên ngang tầm chiếc máy bay khổng
lồ kia, dù chiếc máy bay có bay cao đến đâu. (Raxun Gamzatốp, Đaghextan của tôi, tập 1, NXB Kim Đồng, 2001, tr.200).Thơ hay nhất phải là thơ
thiết thực. (Sóng Hồng, Thơ, NXB Văn học, tr.180) Từ bao giờ đến bây giờ, từ Homère đến Kinh Thi đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng
cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.(Hoài Thanh, Thi
nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1999, tr. 38)
c) Ý 3: Bình luận, nâng cao vấn đề
Câu nói của R.Gamzatov đã nói lên ý nghĩa và tần quan trọng to lớn của thơ ca đối với cuộc sống tinh thần cua con người.
- Nói giúp nhà thơ có ý thức và trách nhiệm hơn trong việc sáng tạo thơ ca của bản thân: Không chỉ nói lên tiếng nói của bản thân mà còn nói lên
tiếng lòng của muôn triệu trái tim
- Câu nói cũng nhắc nhở bạn đọc cần trân trọng thơ hơn, thấy rõ được sức mạnh của thơ ca, làm giàu tâm hồn minh bằng thơ và giúp ta đánh giá
được giá trị của mỗi bài thơ : Thơ hay phải là những bài thơ vừa thể hiện được cái riêng của mỗi tâm hồn vừa phải là tiếng đồng vọng của muôn vạn
tấm lòng
Đề 9
Nhà văn l.X Tuocghenhev nói: “ Cái quan trọng trong tài năng văn học là tiếng nói của mình, là cái giọng riêng biệt của
chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kì một người nào khác “ .
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên và làm sáng tỏ “ cái giọng riêng biệt” của Nguyễn Khuyến so với Trần Tế Xương qua
một số bài thơ tiêu biểu
3 Nhận thức đề
2.1. Vấn đề trọng tâm cần bình luận và làm sáng tỏ là phong cách độc đáo của mỗi nhà văn – yếu tố quan trọng quyết định tài năng
của nghệ sĩ về sức sống của tác phẩm văn học.
2.2. Bài viết cần đáp ứng được hai phần :
a) Phần bình luận ý kiến của Tuocghenhev:
- Giải thích qua câu nói: Cái giọng riêng biệt là gì? Nó có ý nghĩa là như thế nào?
- Tại sao điều quan trọng trong tài năng văn học của mỗi nghệ sĩ lại là giọng nói riêng biệt?
- Câu nói trên có ý nghĩa như thế nào?
b) Phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương để chỉ ra phong cách độc đáo của hai nhà thơ
4 Những ý cơ bản cần đạt
- So sánh một số bài thơ trào phúng châm biếm của hai tác giả thấy: Tiếng cười của Nguyễn Khuyến là tiếng cười nhẹ nhàng, kín đáo,
tế nhị mà vô cùng sâu sắc, thâm thúy – “cười ra nước mắt” … còn tiếng cười của Tú Xương là tiếng cười như bật ra từ nỗi uất ức,
nghẹn ngào, tiếng cười quyết liệt, dữ dội, sắc lạnh “ cười gần như mãnh vỡ thủy tinh”.
- So sánh một số bài thơ trữ tình của hai tác giả để thấy những tình cảm và nỗi lòng của hai ông được thổ lộ khác nhau: Nguyễn
Khuyến gửi hồn mình qua cảnh sắc đồng quê, thôn dã với những vần thơ thanh tao, nhẹ nhàng và có phần lạnh lẽo, u buồn … Tú
Xương trực tiếp thể hiện nỗi lòng đau đớn, xót xa, nhiều khi như là những nỗi buồn bực dọc riêng tây, nhưng thực ra là “ ấp ủ mãi vết
thương mất nước ở trong tâm hồn” …
5 Biểu điểm
Phần 1 (8 điểm): Bình luận được câu nói của Tuocghenhev một cách đầy đủ và sâu sắc
Phần 2 (12 điểm): Chỉ ra và làm sáng tỏ được nét độc đáo trong cách thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương
Chú ý khuyến khích những bài có chất văn, có cách diễn đạt và ý tứ độc đáo, mới mẻ, chữ viết và trình bày sáng sủa, không
mắc lỗi chính tả, ngữ pháp …
Đế 10
Trong bài thơ đất của trần đăng khoa có viết:
Đất muốn nói điều chi thế
Mà không nói được với con người
Em hãy tưởng tượng và viết lại câu chuyện tâm tình mà đất muốn nói với người
Yêu cầu
Đây là đề nghị luận xã hội theo dạng mở, nghĩa là không bó buộc HS vào một hệ thống ý cho trước
hoặc bắt buộc phải giống nhau. Mỗi HS có thể phát biểu những suy nghĩ của mình càng có màu sắc riêng,
càng độc đáo càng hay. Tuy nhiên, muốn hay trước hết phải đúng, nghĩa là cần hiểu đúng định hướng của
đề. Việc cấu trúc bài viết và sắp xếp các ý có thể rất khác nhau, nhưng định hướng chung của bài viết cần
làm rõ một số nội dung cơ bản sau :
(1) Đất và vai trò của đất với con người :
- Đất là gì ?
- Đất có vai trò như thế nào đối với con người (phân tích và chứng minh)
(2) Con người đã đối xử với đất như thế nào?
- Đối xử theo hướng tích cực (phân tích và chứng minh)
- Đối xử theo hướng tiêu cực (phân tích và chứng minh)
(3) Để có một tương lai tốt đẹp cho Trái Đất và cho chính con người :
- Nêu lên các hiểm họa nếu đất đai “trả thù”
- Con người cần phải làm gì để Trái Đất mãi bình yên và hòa thuận với con người
Đề 11
Giải thích quan niệm sau đây của nhà thơ Chế Lan Viên :
Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một giọt mật thành, đòi vạn chuyến ong bay
Nay rừng nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc
Ngọt mật ở đồng bằng mà hút nhị tận miền Tây
(Theo tuyển tập Chế Lan Viên,Ong và mật
NXB Văn học , 1985)
Yêu cầu
Đây là câu kiểm tra kiến thức lí luận văn học: Bàn về yêu cầu và quá trình sáng tạo của nhà thơ.
Bài viết cần nêu được một số ý chính sau đây:
(1) Giải thích
Giải thích vắn tắt nội dung ý tưởng của Chế Lan Viên thể hiện qua bài thơ
- Bằng cách so sánh: Con ong và quá trình làm mật, Chế Lan Viên đã nêu lên được yêu cầu và quá
trình sáng tạo của nhà thơ. Ong ở đây chính là nhà thơ, hoa là hiện thực đời sống, còn giọt mật chính là
tác phẩm
- Với sự so sánh trên, tác giả đã nêu lên được hai vấn đề quan trọng của sáng tạo thơ nói riêng và
văn học nói chung:
+ Thơ là kết tinh của chủ thể sáng tạo và hiện thực cuộc sống, cũng giống như để có được mật cần
có hai điều kiện: sự lao động cần cù của ong và trăm ngàn bông hoa. Nói cách khác, để có được thơ cần
có tài năng của nhà thơ và hiện thực cuộc sống muôn màu
+ Quá trình sáng tạo nên tác phẩm là một quá trình lâu dài, gian khổ của người nghệ sĩ. Thơ là kết
tinh của hiện thực cuộc sống thông qua tài năng sáng tạo của thi sĩ. Giống như con ong phải hút từ trăm
ngàn bông hoa, bay khắp bốn phương trời “nay rừng nhãn non Đoài, mai vườn cam xứ Bắc – Ngọt mật ở
đồng bằng mà hút nhị tận miền Tây. “
(2) Chứng minh
Phần này có thể kết hợp với giải thích và cũng có thể để riêng. Hướng chứng minh: Dẫn ra một số
tác phẩm thơ nổi tiếng; phần phân tích chỉ ra: tác phẩm ấy có được là nhờ nhà thơ được tắm mình trong
hiện thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Nguyễn Du viết được Truyện Kiều là nhờ tài năng và phải nhờ
những điều trông thấy, nhờ mười năm lưu lạc nơi đất Bắc, nhờ học hỏi được lời ca, điệu hát của “những
người hát dâu chăm tằm và trồng gai dệt vải” …
(3) Bình luận
- Quan niệm của Chế Lan Viên như một tuyên ngôn, nhằm điều chỉnh lại cách hiểu phiến diện:
Hoặc coi trọng chủ đề sáng tạo (nhà thơ) hoặc lại quá đề cao hiện thực cuộc sống, coi thường vai trò của
người viết.
- Bài học cho sáng tạo nghệ thuật: Rèn luyện tài năng nghệ thuật, nhưng cảm hứng thường bắt
đầu từ hiện thực cuộc sống, cần phải sống cuộc sống thực, chia sẻ, cảm thông… thì thơ mới đến được với
vạn tấm lòng.
Đề 12
Phân tích vẻ đẹp của đoạn văn sau :
“Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm
và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào không bị thương. Có những
cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề,
thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện vào thành từng cục
máu lớn.
Trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm
cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh
sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên
cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra. Có những cây con
vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu
còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những
cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao lông vũ. Đạn
đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như những vết thương trên một
thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã Cứ thế, hai ba năm nay
rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng
Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối
tiếp tới chân trời ”
(Nguyễn Trung Thành, Rừng Xà Nu,
Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục, 2004)
Yêu cầu
Đây là dạng đề yêu cầu phân tích vẻ đẹp của đoạn văn xuôi nghệ thuật. Như thế cần chỉ ra được vẻ
đẹp của đoạn trích cả nội dung và nghệ thuật. Bài viết cần nêu lên được một số ý cơ bản sau đây:
(1) Chỉ ra được vị trí và vai trò của đoạn trích với thiên truyện:
- Đây là đoạn mở đầu thiên truyện về một làng Xô Man nhỏ bé nhưng đầy kiên cường, bất khuất.
- Đoạn trích là một bức tranh, trong đó tác giả tái hiện lại hình ảnh rừng xà nu hiên ngang, đầy sức
sống trước sự hủy diệt của kẻ thù. Nó là hình ảnh thu nhỏ của dân làng Xô Man, như là biểu tượng của
dân tộc Tây Nguyên anh dũng, không chịu đầu hàng giặc.
(2) Để làm nổi bật điều đó, tác giả đã dùng bút pháp miêu tả đầy chất sử thi: Hoành tráng, lớn lao, kì vĩ
và cũng rất lãng mạn, bay bổng
- Đối lập giữa sự tàn khốc của chiến tranh với sức sống của cây xà nu (chỉ ra các chi tiết)
- Tạo dựng được một bức tranh hoành tráng và đầy lãng mạn về cây xà nu, rừng xà nu (không gian
ngút ngàn và hình tượng cây xà nu khỏe khoắn, mạnh mẽ, ham ánh sáng, khí trời … )
- Ngôn ngữ miêu tả trong đoạn trích khi mạnh mẽ, hùng tráng khi tha thiết, tự hào, vừa lãng mạn
vừa bay bổng, vừa trữ tình, sâu lắng … Mạnh mẽ, hùng tráng khi miêu tả, nhấn mạnh sự khốc liệt của
chiến tranh; tha thiết, tự hào khi miêu tả sức sống kì diệu không thể nào gục ngã của cây xà nu.
- Ngôn ngữ ấy xuất phát từ một điểm nhìn, một cảm hứng cũng mang tính sử thi, đó là một cái
nhìn đầy khâm phục, trân trọng và ngưỡng vọng đối với sự cao cả; đó là cảm hứng ngợi ca, tôn vinh cái
hùng, cái đẹp của thiên nhiên và con người.
(3) Bình luận
Đoạn trích mở đầu thiên truyện mang đầy ý nghĩa biểu trưng, là âm hưởng chủ đạo tạo phông nền
cho diễn biến của toàn bộ thiên truyện. Hình tượng cây xà nu và rừng xà nu mang ý nghĩa biểu tượng rất
cao: tiêu biểu cho sức sống của người dân Tây Nguyên. Mỗi cây xà nu là một con người, các thế hệ xà nu
là các thế hệ người dân làng Xô Man, cả rừng xà nu là hình ảnh của đồng bào Tây Nguyên bất khuất.
Đế 13
Licoln (1809-1865) viết : Trong thư gửi thầy hiệu trưởng ngôi trường nơi con trai mình đang theo học,
Tổng thống Mỹ Abraham
“ Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách…nhưng cũng cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ
suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong
ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh. “
Anh (chị) hiểu nguyện của vị Tổng thống này như thế nào? Phát biểu suy nghĩ của mình về điều đó.
Yêu cầu
Có hai yêu cầu cần đạt được trong bài viết nghị luận xã hội này: Một là giải thích câu nói của tổng
thống Mĩ, A.Lincoln; hai là phát biểu những suy nghĩ của bản thân về nội dung câu nói của Tổng thống.
(1) Qua câu nói có thể thấy nguyện vọng của người viết là:
- Sách có vai trò rất quan trọng, nó mang lại nhiều hiểu biết kì diệu cho mỗi con người, nhất là khi
còn ngồi trên ghế nhà trường. Để làm rõ phần này, HS cần vận dụng kiến thức ở bài Các giá trị của văn
học, đặc biệt là giá trị nhận thức. Sau đó nêu một số ví dụ để minh họa.
- Nhưng bên cạnh sách, nhà trường cần cho HS tiếp xức với thực tiễn cuộc sống, cảm nhận được vẻ
đẹp của cuộc sống một cách trực tiếp. Đó cũng là những điều kì diệu, những bí ẩn muôn thuở của cuộc
sống. Cuộc sống có nhiều điều bí ẩn, kì diệu chưa có trong sách. Tổng thống A.Lincoln chỉ nêu lên ba hình
ảnh nhưng người viết có thể nêu lên nhiều hiện tượng kì diệu và bí ẩn khác để làm sáng tỏ vẻ đẹp và sức
hấp dẫn của hiện thực cuộc sống.
(2) Phát biểu suy nghĩa của bản thân người viết về nội dung câu nói của A.Lincoln. Nội dung suy nghĩ cần
xoay quanh một số ý sau:
- Nguyện vọng của A.Lincoln có đúng không? Đúng ở chỗ nào?
- Vì sao?
- Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với HS hiện nay?
- Phê phán một số hiện tượng chỉ biết kiến thức sách vở, thiếu hiểu biết về cuộc sống thực tế, nhất
là những vè đẹp và sự kì diệu của thiên nhiên… Từ đó rút ra bài học cho chính bản thân mình.
Đế 14
Từ chữ sâu trong bài thơ” Nắng xuống trời lên sâu chót vót” và cách nói củi một cành khô trong câu” Củi
một cành khô lạc mấy dòng” (Tràng Giang của Huy Cận), bàn về lao động chữ nghĩa của nhà thơ.
Yêu cầu
Bài viết cần đạt những hai nội dung:
(1) Phân tích cái hay và sự sáng tạo của Huy Cận trong việc sử dụng từ sâu, và hình ảnh củi một cành khô
trong bài Tràng Giang
Muốn thấy được cái hay, sự độc đáo trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh đã nêu của Huy Cận trong
bài thơ, cần biết lí giải bằng cach so sánh với các từ ngữ và hình ảnh khác tương tự, gần nghĩa như chính
tác giả đã thay đổi, sửa chữa rất nhiều. Chẳng hạn: sâu nghĩa là gì? Sâu thường chỉ hiện tượng nào,
thường đi với các từ nào? Còn ở đây sâu dùng khác bình thường ở chỗ nào? Dùng như thế thể hiện được
nội dụng cảm xúc gì của người viết và tạo được ấn tượng gì cho người đọc? … Tương tự, cần trả lời câu hỏi
tại sao tác giả không sử dụng hình ảnh khác như cái bèo trôi chẳng hạn. Trong thực tế Huy Cận cũng đã
chữa nhiều cách khác nhau như:
- Một cánh bèo xanh lạc giữa dòng
- Một cánh bèo xanh lạc mấy dòng
- Củi một cành đơn lạc mấy dòng
- Củi mấy cành không lạc giữa dòng
- Củi một cành khô lạc mấy dòng
Bên cạnh cần lí giải được cái hay và tác dụng của cách nói theo kiểu đảo ngữ “củi một cành khô”
mà không phải là “một cành củi khô”…
Thay các từ gần nghĩa, các hình ảnh khác vào câu thơ, từ đó chỉ ra sự hợp lí và khó thay thế của các từ
ngữ, hình ảnh mà Huy Cận đã dùng là cách phân tích phù hợp với yêu cầu của đề bài.
(2) Bàn về lao động chữ nghĩa của nhà thơ
- Do tiếng Việt rất nhiều từ đồng nghĩa, gần nghĩa, có thể dùng nhiều từ để chỉ một hiện tượng.
Nhưng mỗi từ ( đồng nghĩa và gần nghĩa) lại có một sắc thái biểu cảm khác nhau, được dùng trong những
tình huống khác nhau nên nhà thơ rất công phu, vất vả để tìm được chữ nghĩa cho đích đánh, thích hợp;
diễn đạt trúng được tình cảm, cảm xúc trong lòng mình.
- HS cần vận dụng những hiểu biết về đặc trưng ngôn ngữ thơ và quá trình lao động nghệ thuật
của nhà thơ để làm sáng tỏ lao động chữ nghĩa là một thứ lao động cực nhọc, nhà thơ là “phu chữ” như Lê
Đạt quan niệm. Có thể dẫn ra nhiều câu nói nổi tiếng về thứ lao động này để minh chứng cho bài viết.
Đế 15
Cảm nhận của anh (chị) về lời ru của nhân vật Từ trong đoạn kết tác phẩm Đời thừa của Nam Cao :
Ai làm cho khói lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kì,
Cho hai hàng lệ đằm đìa tấm thân
Yêu cầu
Bài viết cần nêu được tóm tắt bối cảnh xuất hiện lời ru của Từ ở cuối thiên truyện Đời thừa. Từ đó
phát biểu suy nghĩ, cảm nhận của mình về lời ru ấy. Có thể nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận khác nhau,
nhưng cần hợp lí và làm nổi bật chủ đề tư tưởng và âm hưởng bi kịch của thiên truyện. Lời ru của Từ là lời
dân gian nhưng rất phù hợp với gia cảnh của Từ và Hộ, nó hàm chứa tâm trạng đau buồn của Từ, văng
vẳng vừa như oán trách, vừa như thông cảm, xót thương, da diết. Lời ru ấy để lại trong lòng người đọc sự
day dứt, ám ảnh, xót thương trước bi kịch một gia đình và số phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
Đề 16
Macxim Gorki từng nói:” Sách mở rộng trước mắt tôi những chân trời mới”. Ông cha ta lại cho rằng :”Đi
một ngày đàng, học một sàng khôn”.
Ý kiến của anh (chị) như thế nào?
Yêu cầu
1 Giải thích
1.1 Ý kiến của Macxim Gorki :
- “Sách”: Là sản phẩm của nền văn minh nhân loại, chứa đựng thành tựu của nền văn minh ấy.
- “Mở rộng trước mắt tôi” : Mở rộng khả năng nhận thức, tầm nhìn cho con người.
- “Những chân trời mới”: Những không gian mới, chỉ những hiểu biết mới để mở rộng thế giới trong nhận
thức của con người.
- Nội dung ý kiến: Sách giúp con người nâng cao hiểu biết, mở rộng tầm nhìn.
1.2 Quan niệm dân gian:
- “Đi một ngày đàng”: Sống gắn bó với đời sống thực tế, trải nghiệm qua thực tế.
- “Học” : Tiếp thu tri thức, kĩ năng do người khác truyền lại
- “Một sàng khôn” : Một lượng lớn hiểu biết để con người khôn ngoan, tiến bộ.
- Nội dung ý kiến : Những trải nghiệm trong thực tế cuộc sống sẽ giúp con người trưởng thành lên.
1.3 Khái quát ý nghĩa của hai ý kiến:
Đọc sách và trải nghiệm thực tế là hai con đường giúp con người có thêm tri thức, hiểu biết.
2. Phân tích và chứng minh
2.1 Ý kiến của Macxim Gorki :
- Sách là một kho tàng tri thức vô cùng đa dạng, phong phú của nhân loại:
+ Những kiến thức khoa học về mọi lĩnh vực tự nhiên cũng như xã hội
+ Những kinh nghiệm lao động sản xuất cũng như quan hệ, ứng xử.
+ Những tư tưởng, tình cảm phong phú của con người.
+ Những vẻ đẹp của tự nhiên, của con người và của chính cách thức tái hiện những vẻ đẹp đó.
- Khả năng của sách:
+ Cung cấp kiến thức, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ về mọi mặt cho con người
+ Giáo dục tư tưởng, bồi đắp tình cảm, nuôi dưỡng tâm hồn để con người trở nên nhạy cảm trong cảm xúc
, sâu sắc trong tình cảm và suy nghĩ để sống đúng hơn, tốt hơn, có ý nghĩa hơn.
+ Rèn luyện năng lực thẩm mĩ để con người trở nên tinh tế hơn trong phát hiện, cảm nhận và sáng tạo.
- Thái độ cần có đối với sách
+ Lựa chọn sách tốt và phù hợp với bản thân để đọc và học hỏi.
+ Vận dụng những gì có được trong quá trình đọc sách vào cuộc sống.
2.2 Quan niệm dân gian:
- Những thực tiễn đời sống là một trường học lớn :
+ Những sự vật, sự việc, con người với tất cả tính cụ thể, sinh động và phức tạp của nó.
+ Những quan hệ, biến cố của đời sống
+ Tất cả những gì đang tồn tại, đang diễn ra trong tự nhiên và trong xã hội có quan hệ đến đời sống con
người.
- Những điều con người có được khi gắn bó với thực tế :
+ Những cảm nhận cụ thể, trực tiếp và chân thực nhất.
+ Cơ hội để trải nghiệm cuộc sống và kiểm nghiệm năng lực sống, năng lực ứng phó, xử lí của bản thân
trước các vấn đề, các tình huống cụ thể của đời sống.
+ Điều kiện để rèn luyện, nâng cao kiến thức và bản lĩnh để trở nên hiểu biết và vững vàng hơn.
- Điều kiện cần thiết để nắm bắt các vấn đề thực tế, tích lũy kiến thức và hình thành kinh nghiệm từ sự
gắn bó với thực tế.
+ Có ý thức tìm hiểu, có bản lĩnh để có thể đứng vững và sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, thử thách
trong cuộc sống
+ Hiểu biết để có định hướng, có phương pháp trong xử lí các vấn đề của thực tế. Những hiểu biết ấy có
thể đến từ chính con đường đọc và học từ sách vở.
3. Bình luận – đánh giá
- Hai ý kiến đều đúng bởi cả kiến thức sách vở và kiến thức thực tế đều rất cần thiết và hữu ích đối với con
người, đọc sánh và gắn bó với thực tế đều là những con đường đúng đắn để đến với kho tàng kiến thức
của nhân loại.
- Mỗi phương thức đọc sách hay gắn bó với thực tế đều có những lợi thế và hạn chế riêng nên nếu tuyệt
đối hóa bất kì phương pháp nào đều dẫn đến sai lầm và tự hạn chế phạm vi hiểu biết của bản thân.
- Đọc sách và gắn bó với thực tế là hai trong nhiều con đường dẫn đến thành công.
- Nếu kết hợp đọc sách với thực tế sẽ phát huy tối đa thế mạnh của mỗi phương thức, mỗi con đường để
mở mang hiểu biết, nâng cao trình độ và hoàn thiện kinh nghiệm cho con người.
Đề 17
Nguyễn Bính và Xuân Diệu qua hai đoạn thơ sau :
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
(Nguyễn Bính, Tương tư)
Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời,
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm.
(Xuân Diệu, Tương Tư, chiều …)
Yêu cầu
Vấn đề trọng tâm cảu đề là : Sự sáng tạo của mỗi nhà thơ khi viết về cùng một đề tài , cụ thể là cùng viết
về tương tư nhưng mỗi nhà thơ có một cách thể hiện rất khác nhau. Cách thể hiện tuy rất khác nhau
nhưng cả hai ông đều là các nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới Việt Nam (1932 – 1945). Bài viết
cần nêu được một số ý chính sau đây :
(1) Giới thiệu qua Nguyễn Bính và Xuân Diệu :
- Nêu một vài nét phong cách nổi bật của hai ông
- Rút ra nhận xét : Họ rất khác nhau nhưng đều là các nhà thơ mới Việt Nam (1932- 1945)
- Điều đó có thể thấy rõ qua việc phân tích hai đoạn thơ cùng viết về một đề tài quen thuộc : Tương tư.
(2) So sánh hai đoạn thơ viết về cùng một đề tài :
(a) Giống nhau
- Cùng khai thác một đề tài rất tiêu biểu của Thơ mới : Tương tư. Một trạng thái tình cảm thường xuất
hiện khi người ta đang yêu : yêu nhau hoặc cũng có khi yêu một chiều.
- Nội dung cảm xúc : Đều thể hiện nỗi nhớ da diết của chủ thể trữ tình
(b) Khác nhau
- Về nội dung : Cùng thể hiện nỗi nhớ da diết trong tình yêu, nhưng nỗi nhớ trong đoạn thơ của Nguyễn
Bính mang nặng nỗi niềm trăn trở, băn khoăn, tình cảm được thể hiện một cách tế nhị, kín đáo… chủ yếu
là tỏ tình, ướm hỏi với bao khát khao, mong ước … tương tư một phía, vào thời điểm mới bắt đầu. Một tình
yêu mang đậm màu sắc dân gian. Còn với đoạn hai, tình cảm tương tư của Xuân Diệu sôi nổi, mãnh liệt,
dâng trào. Tác giả công khai thể hiện nỗi nhớ cháy bỏng, da diết và khát khao được gần gũi, chia sẻ với
người tình yêu. Một tình yêu rất ‘’ Hiện đại ‘’.
- Về hình thức : Bài viết cần chỉ ra để làm nổi bật nội dung nhà thơ đã có cách thể hiện rất khác nhau. Có
thể so sánh trên nhiều bình diện hình thức : Thể thơ ; thi liệu ; nhịp điệu ; từ ngữ, hìn hảnh ; tu từ.
(3) Bình luận
- Dù chỉ thông qua hai đoạn thơ, nhưng với các nhà thơ lớn, có thể thấy rất rõ dấu ấn phong cách của họ
trong mỗi đoạn thơ này.
- Bài học cho sáng tạo nghệ thuật : Có được một giọng điệu riêng, phong cách độc đáo là hết sức khó,
nhưng đó là điều kiện và yêu cầu của sáng tạp nghệ thuật . Muốn có được điều đó cần tạo ra được cách
cảm và đặc biệt cách thể hiện khác nhau.
Đề 18
Đọc câu chuyện và trả lời câu hỏi
Niềm tự hào của số 0
Nhờ rất nhiều số 0 đi theo mà số 1 trở thành khổng lồ.
Thành khổng lồ, những số 0 vinh dự và tự hào lắm, đi đâu cũng kể lể, vỗ ngực rằng : ‘’ Ta là khổng lồ ‘’.
(Theo Ngụ ngôn chọn lọc, NXB thanh niên, 2003)
Suy nghĩ của anh (chị) về ý nghĩa gợi ra từ câu chuyện trên.
Yêu cầu
Đây là dạng đề nghị luận về vấn đề xã hôi trong tác phẩm văn học. Tác phẩm mà đề nêu lên một
truyện ngụ ngôn rất ngắn gọn. Người viết có thể hiệu ý nghĩa của câu chuyện này theo nhiều cách khác
nhau, tuy nhiên dù hiểu cách nào cũng cần có lí do và có sức thuyết phục. Mỗi câu chuyện, nhất là truyện
ngụ ngôn có thể nêu lên nhiều ý nghĩa, nhưng thường có một ý nghĩa chủ đạo. Đó là ý nghĩa chung mà ai
đọc cũng cảm nhận và hiểu như thế. Ngoài ra, theo lí thuyết tiếp nhận, mỗi người có thể có những cách
hiểu riêng. Ở đây chỉ nêu lên ý nghĩa chung đó. Có thể nói câu chuyện nhỏ nhưng đã nêu lên một vấn đề
lớn :Trong cuộc sống, mỗi người cần biết nhận thức đúng về giá trị của bản thân mình. Nếu không nhận
thức đúng giá trị của mình, con người rất dễ trở nên ảo tưởng và ngông nghênh, tự hào và kiêu ngạo một
cách lố bịch.
Về cấu trúc ý, bài viết có thể nêu và xây dựng theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên hệ thống ý
cần hợp lí và thể hiện được lập luận chặt chẽ, có sức thuyết phục cao.