BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
*****
Nguyễn Hương Trang
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN ĐIỆN LỰC
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng
Mã số:
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Chu Văn Yêm
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi;
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hương Trang
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
MỤC LỤC
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Ý KIẾN NGƯỜI HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EVN Tập đoàn Điện lực Việt Nam
EVNFC Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NQH Nợ quá hạn
PCFC Công ty cổ phần Tài chính Dầu khí
TCTD Tổ chức tín dụng
VCFC Công ty cổ phần Tài chính Hóa chất
VĐL Vốn điều lệ
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Số hiệu Tên bảng Trang
2.1 Nguồn vốn huy động 34
2.2 Đánh giá tốc độ tăng trưởng hoạt động đầu tư 38
2.3 Các chỉ tiêu tài chính cơ bản 42
2.4 Tốc độ tăng trưởng quy mô tín dụng 45
2.5 Tỷ lệ nợ quá hạn 48
2.6 Tỷ lệ nợ quá hạn của một số công ty tài chính khác 49
2.7 Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn 49
2.8 Tỷ lệ nợ xấu 50
2.9 Trích lập dự phòng rủi ro 51
2.10 Tỷ lệ cho vay có tài sản bảo đảm 52
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
2.11 Hệ số sử dụng vốn 53
2.12 Hệ số thu nợ 55
2.13 Tỷ suất sinh lời từ hoạt động tín dụng 56
2.14 Tỷ lệ thu nhập từ hoạt động tín dụng/Tổng thu nhập 57
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu Tên sơ đồ Trang
2.1 Cơ cấu nguồn vốn 35+36
2.2 Cơ cấu hoạt động đầu tư 39
2.3 Tốc độ tăng trưởng quy mô tín dụng 44
2.4 Cơ cấu dư nợ tín dụng theo thời hạn cho vay 46
2.5 Cơ cấu dư nợ tín dụng theo nhóm khách hàng 47
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vốn là điều kiện tiên quyết trong quá trình tái sản xuất xã hội, là nhu cầu
cần thiết của mọi nền kinh tế, nhất là với nền kinh tế Việt Nam, đang phát triền
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và thực hiện “công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” đất nước. Việc tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tổ chức
kinh tế, xã hội, dân cư để đầu tư cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế được giao cho các định chế tài chính bao gồm: ngân hàng, công
ty tài chính…hay còn gọi chung là các tổ chức tín dụng (TCTD).
Tuy nhiên, hiện nay hoạt động tín dụng của các công ty tài chính đang gặp
phải sự canh tranh gay gắt; đặc biệt do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới
cũng như những khó khăn trong nước. Việc mở rộng, tăng trưởng tín dụng gắn
với nâng cao chất lượng tín dụng đang là vấn đề mà các TCTD đặc biệt quan
tâm.
Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực (EVNFC) là một TCTD phi ngân
hàng được thành lập từ cuối năm 2008. Nhờ có sự chuẩn bị chu đáo và sự nghiên
cứu kỹ lưỡng về thị trường tài chính Việt Nam, sau hơn 5 năm hình thành và
phát triển Công ty đã đạt được những kết quả nhất định. Hoạt động tín dụng của
Công ty đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng phục vụ phát triển của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Tuy nhiên, Công ty vẫn còn tồn tại một số bất
cập như: Thu nhập từ hoạt động tín dụng đang có xu hướng giảm, hiệu suất sử
dụng vốn tín dụng còn thấp và khả năng thu hồi vốn tín dụng chưa cao, mức độ
an toàn vốn tín dụng có những dấu hiệu suy giảm, tỷ trọng dư nợ cho vay ngắn
hạn còn thấp, tỷ lệ nợ xấu nợ quá hạn gia tăng….
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp nâng cao chất
lượng tín dụng tại Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực” có ý nghĩa lớn với
EVNFC
7
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn tập trung vào 03 nội dung chính sau:
- Nghiên cứu lý luận cơ bản về tín dụng và chất lượng tín dụng của công ty
tài chính.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng chất lượng tín dụng của Công ty Tài
chính Cổ phần Điện lực, tìm ra các nguyên nhân của những hạn chế về
chất lượng tín dụng tại EVNFC.
- Đưa ra các giải pháp thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của
Công ty Tài chính Cổ phần Điện lực cho phù hợp với định hướng phát
triển của Công ty, đảm bảo Công ty phát triển một các bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng tín dụng của Công ty Tài
chính
- Phạm vi nghiên cứu: Phân tích và đánh giá chất lượng tín dụng tại Công
ty Tài chính Cổ phần Điện lực trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2013
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập, thống kê số liệu từ các báo cáo hoạt động tín dụng
của Công ty theo quý, năm
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: đánh giá chất lượng tín dụng sẽ được
phân tích trên từng tiêu thức riêng biệt, sau đó tổng hợp và nhận định để
đưa ra các đánh giá tổng quan và khách quan về chất lượng tín dụng tại
Công ty
8
- Phương pháp so sánh đối chiếu: đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, so
sánh với các Công ty tài chính khác để đánh giá thực trạng chất lượng tín
dụng của EVNFC
- Phương pháp khảo sát, tham khảo ý kiến của các cán bộ nhân viên trong
Công ty để có cái nhìn khách quan hơn về thực trạng cũng như bổ sung
thêm các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của luận văn được chia thành 03 chương:
- Chương 1: Lý luận cơ bản về chất lượng tín dụng của Công ty Tài chính
- Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Công ty Tài chính Cổ phần
Điện lực
- Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Công ty Tài chính
Cổ phần Điện lực
9
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm công ty tài chính
Công ty Tài chính là loại hình TCTD phi ngân hàng, với chức năng là sử
dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng
các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy
định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận
tiền gửi dưới 1 năm. (Theo Nghị định 79/2002/NĐ-CP ngày 4/10/2002 của Chính
phủ)
Theo điều 4 luật các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 thì:
Tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp được thực hiện một số hoặc tất cả
các hoạt động Ngân hàng. TCTC bao gồm Ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ
chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
theo quy định của Luật này.
TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một hoặc một số
hoạt động ngân hàng theo qui định của pháp luật, trừ các hoạt động nhận tiền gửi
của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
TCTD phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các
tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
10
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Công ty Tài chính
Công ty Tài chính có các hoạt động cơ bản sau: Hoạt động huy động vốn;
Hoạt động tín dụng; Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ; Hoạt động khác.
Hoạt động huy động vốn
Công ty Tài chính được huy động vốn từ các nguồn sau: Nhận tiền gửi có kỳ
hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN); Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy
định của pháp luật hiện hành; Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài
nước và các tổ chức tài chính quốc tế; Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ
chức và cá nhân trong và ngoài nước.
Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng của Công ty tài chính cũng giống như các TCTD khác,
bao gồm các hoạt động sau:
- Cho vay: Có rất nhiều khái niệm về cho vay nhưng về cơ bản “cho vay là sự
chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng sau
một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu”.
[7.tr5]. Hoặc theo luật các TCTD số 47/2010/QH12 ngày 16/6/2010 thì “cho vay là
một hình thức cấp tín dụng theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất
định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”.
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
11
Hoạt động cho vay bao gồm: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn
theo quy định của NHNN; Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật Các TCTD và hợp đồng
uỷ thác; Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp.
- Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác
- Bảo lãnh: Công ty Tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài
chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính
phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các TCTD và
hướng dẫn của NHNN.
- Các hình thức cấp tín dụng khác
Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ
- Mở tài khoản: Công ty Tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại NHNN,
nơi Công ty Tài chính đặt trụ sở chính và các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam. Việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải
được NHNN cho phép.
- Dịch vụ ngân quỹ: Công ty Tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát
tiền mặt cho khách hàng.
Hoạt động khác
Các nghiệp vụ khác được phép thực hiện theo đúng quy định của pháp luật
hiện hành: Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các TCTD khác; Đầu tư
cho các dự án theo hợp đồng; Tham gia thị trường tiền tệ; Thực hiện các dịch vụ
kiều hối, kinh doanh vàng; Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại
giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp; Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
12
lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý
tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng; Cung ứng các dịch vụ tư
vấn về tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng; Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện
vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác.
Các nghiệp vụ phải được các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho
phép: Hoạt động ngoại hối; Hoạt động bao thanh toán; Các hoạt động khác
1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.2.1. Khái niệm và vai trò của hoạt động tín dụng trong Công ty tài chính
Sự ra đời và phát triển của tín dụng gắn liền với lịch sử phát triển của phương
thức sản xuất hàng hoá. Ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên
nguyên tắc hoàn trả. Đó là quan hệ giữa hai bên, trong đó một bên chu cấp tiền hay
hàng hoá cho bên kia, và được bên kia cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi trong một
khoảng thời gian nhất định. Đến nay, chúng ta có thể hiểu tín dụng của các TCTD
nói chung và tín dụng của Công ty tài chính nói riêng như sau: “Tín dụng là quan
hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ TCTD cho khách hàng trong một thời gian
nhất định với một khoản chi phí nhất định. Cũng như các quan hệ tín dụng khác, tín
dụng TCTD chứa đựng 03 nội dung: có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
người sở hữu sang người sử dụng, sự chuyển nhượng này mang tính tạm thời hay
có thời hạn, sự chuyển nhượng này có kèm chi phí”.
Hoạt động tín dụng không những quyết định sự tồn tại, phát triển của TCTD
(Ngân hàng, Công ty tài chính…) mà còn có vai trò quan trọng đối với doanh
nghiệp và nền kinh tế.
Đối với các Công ty tài chính
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
13
Tín dụng được xem là một trong những hoạt động cơ bản và chủ yếu mang
lại thu nhập cho công ty tài chính. Hoạt động tín dụng góp phần tạo điều kiện mở
rộng các hoạt động kinh doanh khác nhằm tăng thu nhập cho công ty tài chính.
Tín dụng là hoạt động sống còn của các công ty tài chính, quyết định sự tồn
tại, phát triển của mọi công ty tài chính. Một công ty tài chính chỉ có thể tồn tại và
phát triển khi xác định được phạm vi, giới hạn và mức độ tín dụng phù hợp với thực
lực của bản thân, đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường và mang lại lợi
nhuận cao. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng cũng là một hoạt động phức tạp và chứa
đựng nhiều rủi ro. Trong quá trình hoạt động kinh doanh thì chất lượng tín dụng
luôn được quan tâm hàng đầu.
Đối với các doanh nghiệp
Tín dụng có vai trò quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp vì tín
dụng sẽ góp phần cung cấp đủ vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra khoản
lãi phải trả khi vay sẽ khiến các doanh nghiệp buộc phải tính toán đầu tư vào các
dự án đem lại hiệu quả cao.
Đối với nền kinh tế
Hoạt động tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân, làm
nhiệm vụ chuyển vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, từ những nhà tiết kiệm
sang nhà đầu tư, phục vụ phát triển kinh tế.
Do tập trung được vốn và điều hoà cung cầu vốn trong nền kinh tế, tín dụng
góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng đầu tư phát triển kinh tế.
Tín dụng còn có vai trò trong việc thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
NHNN luôn quản lý tín dụng bằng các quy định và chính sách của mình. Thông qua
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
14
tín dụng, Chính Phủ cũng có thể quản lý và thực hiện các chương trình kinh tế lớn
một cách có hiệu quả.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động tín dụng của Công ty tài chính
Xét về bản chất và phạm vi hoạt động, công ty tài chính là loại hình TCTD
phi ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn
khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực
hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch
vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới một năm. Trong khi đó, Ngân hàng là
loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan, cụ thể là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Tuy có phạm vi hoạt động có thể ở mức hẹp hơn so với các ngân hàng trên
thị trường tiền tệ song công ty tài chính vẫn là một công cụ đắc lực để các tập đoàn
kinh tế điều tiết vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả và thuận lợi nhất.
Đặc điểm khác biệt đầu tiên trong hoạt động tín dụng của công ty tài chính so
với với các ngân hàng là đối tượng khách hàng. Đối tượng khách hàng của hoạt
động tín dụng công ty tài chính đa phần là các công ty thành viên trong nội bộ tập
đoàn hoặc nhóm công ty có quan hệ lợi ích gắn bó.
Ở nước ta, phần lớn các công ty tài chính ra đời với mục đích đáp ứng nhu
cầu thu xếp vốn trong nội bộ các tổng công ty, tập đoàn lớn. Công ty tài chính có
thể dễ dàng huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các công ty thành viên trong nội bộ tập
đoàn, sau đó chuyển cho các công ty thành viên khác vay để thực hiện các dự án
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
15
quan trọng. Các dự án mà công ty tài chính thu xếp vốn thường là các dự án có
nguồn vốn huy động lớn, thời gian thu hồi chậm hơn so với các khoản cấp tín dụng
của các NHTM.
Cuối cùng, do hoạt động tín dụng chủ yếu tập trung phục vụ các đơn vị thành
viên trong tập đoàn, công ty mẹ do đó rủi ro tín dụng xảy ra đối với các công ty tài
chính thấp hơn so với các ngân hàng, và mức độ ảnh hưởng của rủi ro tín dụng nếu
có cũng chủ yếu trong nội bộ tập đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh
hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân
thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là không lớn. Tuy nhiên, nếu các quan
hệ kinh tế này thiếu minh bạch, việc vay mượn dựa trên mối quan hệ công việc thì
vấn đề rủi ro tín dụng đối với các Công ty tài chính lại không phải là vấn đề nhỏ.
1.2.3. Các hình thức tín dụng trong Công ty tài chính
Căn cứ vào hình thức cấp tín dụng, tín dụng Công ty tài chính gồm các hình
thức:
Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu thương phiếu: là việc Công ty tài chính ứng trước tiền cho khách
hàng ứng với giá trị thương phiếu trừ đi phần thu nhập của Công ty tài chính để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý, Công ty tài chính không phải
đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy
nhiên đối với Công ty tài chính, hiện tại bỏ ra một khoản tiền để thu về một khoản
lớn hơn trong tương lai với lãi suất định trước được coi là hoạt động tín dụng.
Cho vay
Cho vay: là việc Công ty tài chính đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải hoàn trả cả gốc và tiền lãi trong một thời gian xác định với các
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
16
điều kiện đã được thoả thuận trước trong hợp đồng; Là hình thức cấp tín dụng trong
đó tiền là đối tượng tín dụng. Có nhiều hình thức cho vay như: cho vay thấu chi,
cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển,
Bảo lãnh
Bảo lãnh: là việc Công ty tài chính cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song Công ty tài chính đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi;
Là cam kết của Công ty tài chính dưới các hình thức phát hành thư bảo lãnh,
mở thư tín dụng, ký hối phiếu nhận nợ về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đó như cam kết với bên
thứ ba.
Cho thuê
Cho thuê: là việc Công ty tài chính bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định.
Căn cứ vào thời hạn cho vay, tín dụng Công ty tài chính gồm các hình
thức:
Tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng được sử dụng để
bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân.
Tín dụng trung hạn
Tín dụng trung hạn: có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng. Loại tín dụng
này chủ yếu được doanh nghiệp sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
17
hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và thời hạn thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn
Tín dụng dài hạn có thời hạn trên 60 tháng. Loại tín dụng này chủ yếu để đáp
ứng nhu cầu dài hạn của doanh nghiệp như: Xây dựng nhà xưởng, các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. .
Căn cứ theo hình thức bảo đảm tín dụng
Căn cứ vào hình thức bảo đảm tín dụng, tín dụng Công ty tài chính gồm các
hình thức:
- Cầm cố: là hình thức tín dụng theo đó người nhận tài trở của Công ty tài
chính phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho Công ty tài chính
trong thời gian cam kết
- Thế chấp: là hình thức tín dụng theo đó người nhận tài trợ của Công ty tài
chính phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu các tài sản đảm bảo sang cho
Công ty tài chính nắm giữ trong thời gian cam kết.
- Đảm bảo bằng sự bảo lãnh của người thứ ba: là hình thức đảm bảo đối
nhân, trong đó người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Công
ty tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ đó.
- Tín chấp: là hình thức cấp tín dụng không đòi hỏi có tài sản thế chấp, cầm
cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cấp tín dụng chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng.
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
18
Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Căn cứ vào phương thức hoàn trả, tín dụng Công ty tài chính gồm các hình
thức:
- Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi
theo định kỳ.
- Tín dụng phi trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả gốc và
lãi một lần theo kỳ hạn đã thoả thuận.
- Tín dụng không xác định thời hạn: là loại tín dụng mà người vay có thể
hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập, Công ty tài chính thường không ấn định
thời hạn cụ thể đối với hình thức tín dụng này.
Căn cứ xuất xứ tín dụng
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng, tín dụng Công ty tài chính gồm các hình thức:
- Tín dụng trực tiếp: Công ty tài chính cấp tín dụng trực tiếp cho người đi
vay, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho Công ty tài chính.
- Tín dụng gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại
các khế ước hoặc những chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán.
1.3. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1.3.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Có thể hiểu chất lượng tín dụng của công ty tài chính chính là sự đáp ứng yêu
cầu của khách hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại
phát triển của công ty tài chính. Chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
19
triển của mỗi công ty tài chính. Vì chất lượng tín dụng đáp ứng tốt được nhu cầu
của khách hàng thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng và ngược lại. Việc thu hút
được nhiều khách hàng sẽ đem đến nhiều cơ hội đầu tư có hiệu quả cho công ty tài
chính.
Chất lượng tín dụng vừa là một khái niệm mang tính cụ thể vừa mang tính trừu
tượng.
Tính cụ thể được thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng có thể lượng
hóa được (nợ quá hạn, nợ xấu, tốc độ tăng trưởng tín dụng )
Tính trừu tượng thể hiện qua khả năng lôi cuốn hấp dẫn khách hàng uy tín của
công ty tài chính và mức độ tác động đối với nền kinh tế.
1.3.2. Ý nghĩa và sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng tín dụng
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang phát triển theo nền kinh tế thị
trường, đặc biệt trong giai đoạn những năm 2000-2009 với việc thanh lập thêm
hàng loạt Ngân hàng, Công ty tài chính lĩnh vực kinh doanh tài chính tiền tệ chưa
bao giờ sôi động và có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Chính vì sự cạnh tranh
gay gắt này mà nâng cao chất lượng dịch vụ nói chung và chất lượng tín dụng nói
riêng sẽ là điều kiện tiên quyết quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi
Ngân hàng, Công ty tài chính.
Đối với công ty tài chính
Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần mở rộng quy mô tín dụng và tăng thị
phần cho công ty tài chính. Chất lượng tín dụng cao đồng nghĩa với việc giải ngân
nhanh thuận tiện cho khách hàng, đảm bảo cơ hội đầu tư cho khách hàng. Từ đó
giúp công ty tài chính tạo được uy tín với khách hàng, tăng khả năng có những
khách hàng trung thành.
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
20
Việc nâng cao chất lượng tín dụng có thể hạn chế được những rủi ro đồng
thời tăng thêm thu nhập cho công ty tài chính. Việc công ty tài chính tích cực nâng
cao chất lượng tín dụng của mình sẽ đánh giá một cách chính xác tiềm lực của
doanh nghiệp vì chỉ những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh mới có
thể đáp ứng được yêu cầu về thẩm định dự án cho vay của công ty tài chính . Mặt
khác chất lượng tín dụng được chú trọng còn góp phần kiểm soát việc giải ngân vốn
vay thêm chặt chẽ. Chất lượng tín dụng nâng cao sẽ giúp công ty tài chính thực
hiện và duy trì được tình hình tài chính lành mạnh
Có thể nói, với những ý nghĩa trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng
tín dụng của các công ty tài chính là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát
triển lâu dài của công ty tài chính
Đối với khách hàng
Chất lượng tín dụng cao sẽ đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn với
thời gian và lãi suất hợp lý, giúp cho doanh nghiệp có đầy đủ vốn tận dụng được
các cơ hội kinh doanh, lựa chọn được các dự án có lợi nhuận cao
Tín dụng tạo ra nguồn vốn bổ sung kịp thời cho các doanh nghiệp đang thiếu
vốn tạm thời hoặc gặp khó khăn về mặt tài chính. Trong nhiều trường hợp tín dụng
còn là giải pháp tiết kiệm cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bắt
kịp những cơ hội kinh doanh, tận dụng được những thời cơ kiếm lợi.
Tín dụng đồng thời là động lực, yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Các điều kiện trong hợp đồng tín dụng giữa công ty tài chính và
doanh nghiệp tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có hiệu quả cố
gắng quay vòng vốn nhanh, tìm kiếm các chính sách có hiệu quả nhất nhằm mục
đích kiếm lợi nhuận và trả nợ.
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
21
Đối với nền kinh tế
Xét trên phương diện toàn nền kinh tế, chất lượng tín dụng cao sẽ tác động
tích cực tới các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Phát triển cho vay tín dụng sẽ
đáp ứng nhu cầu thu xếp vốn trong nội bộ các tổng công ty, tập đoàn lớn, giảm bớt
đáng kể các khoản bao cấp từ ngân sách cho đầu tư sản suất kinh doanh.
Tín dụng Công ty tài chính còn góp phần đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập
trung lớn của nền kinh tế. Không những thế chất lượng tín dụng còn góp phần kìm
chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia.
Kinh tế phát triển sẽ làm xã hội ổn định hơn và chính trị theo đó cũng ổn
định và phát triển hơn.
1.3.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Thông thường, khi đánh giá chất lượng tín dụng cần phải xem xét trên cả ba
khía cạnh: TCTD - khách hàng - nền kinh tế. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của
luận văn chỉ xem xét, đánh giá chất lượng tín dụng trên khía cạnh của TCTD nói
chung và Công ty tài chính nói riêng.
Để đánh giá chất lượng tín dụng của một Công ty tài chính, người ta dùng 02
hệ thống chỉ tiêu: chỉ tiêu định lượng và chỉ tiêu định tính. Trong đó, hệ thống các
chỉ tiêu định lượng bao gồm: (1) nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn vốn tín
dụng, (2) nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng vốn tín dụng và (3) nhóm chỉ
tiêu phản ánh khả năng sinh lời vốn tín dụng
1.3.3.1 Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ an toàn vốn tín dụng
Khi cấp tín dụng cho khách hàng, công ty tài chính quan tâm hàng đầu là vấn
đề về an toàn vốn, tức khả năng thu hồi cả gốc lẫn lãi của khoản vay, đây là yếu tố
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
22
quyết định nhất đến chất lượng tín dụng của công ty. Công ty tài chính có chất
lượng tín dụng cao khi các món cho vay đều được đảm bảo an toàn và thu hồi gốc
lãi đúng thời hạn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiểm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy chấp
nhận một tỷ lệ nợ xấu trong một giới hạn nhất định cũng là điều bình thường.
Để đánh giá về tính an toàn và khả năng thu hồi vốn của hoạt động tín dụng,
các Công ty tài chính thường sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ khó đòi.
Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ nợ quá hạn
Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, đánh giá độ an toàn
tín dụng và chất lượng tín dụng của Công ty tài chính. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp tức là
độ an toàn tín dụng tại Công ty tài chính hiện tại cao và ngược lại nếu tỷ lệ nợ quá
hạn cao đồng nghĩa với việc Công ty tài chính đang phải đối mặt với rủi ro tín dụng.
Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ “có vấn đề”, có thể bị mất toàn bộ
vốn cho vay hoặc mất một phần.
Tuy nhiên, trong thực tế, do những rủi ro trong hoạt động tín dụng nói chung
và hoạt động tín dụng của công ty tài chính là không thể tránh khỏi. Vậy chấp nhận
một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới hạn an toàn.
Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ xét đến việc các khoản cho vay đã quá hạn
chứ không xét đến tổng dư nợ có nguy cơ quá hạn, nếu khoản cho vay tăng nhanh
thì việc sử dụng tỷ lệ nợ quá hạn có thể phản ánh rủi ro không chính xác. Như vậy
tốc độ tăng cho vay tăng nhanh có thể che giấu đi vấn đề nợ quá hạn. Do đó Công ty
tài chính cần thận trọng khi đánh giá độ an toàn tín dụng bằng việc xác định kỳ hạn
như thế nào thì coi là quá hạn.
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)= ×100%
Tổng dư nợ tín dụng
23
Khi sử dụng các chỉ tiêu về nợ quá hạn để đánh giá chất lượng tín dụng, cần
chú ý rằng các chỉ tiêu này có thể bị thay đổi do định kì hạn nợ không đúng; do đảo
nợ, giãn nợ; hoặc do chính sách cho vay,… khi đó sẽ không phản ánh chính xác về
các mức độ an toàn của hoạt động tín dụng.
Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn
Ngoài tỷ lệ nợ quá hạn, các Công ty tài chính còn sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ nợ
khó đòi trên tổng dư nợ quá hạn hoặc tỉ lệ nợ quá hạn có khả năng thu hồi trên tổng
dư nợ quá hạn. Nhờ có các chỉ tiêu đó mà Công ty tài chính có thể biết được bao
nhiêu phần trăm trong tổng nợ quá hạn có khả năng thu hồi, bao nhiêu phần trăm
không có khả năng thu hồi. Việc kết hợp giữa các chỉ tiêu này cho phép đánh giá
chi tiết, chính xác hơn về độ an toàn tín dụng.
Rõ ràng tỷ lệ này càng cao, thì tín dụng có chất lượng càng thấp. Nợ khó đòi
có nguy cơ làm giảm lợi nhuận của công ty tài chính và nếu tỷ lệ nợ khó đòi cao sẽ
là nguy cơ làm cho công ty tài chính phá sản. Các Công ty tài chính cần cố gắng
giảm đến mức tối đa các khoản nợ khó đòi để làm tăng chất lượng tín dụng.
Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ ( tỷ lệ nợ xấu)
Chỉ tiêu này cho thấy số nợ khó đòi trên toàn bộ dư nợ của công ty. Chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của công ty càng thấp và ngược lại. Theo
thông lệ quốc tế thì:
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
Dư nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi (%)= ×100%
Dư nợ quá hạn
Dư nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ xấu (%)= ×100%
Tổng dư nợ
24
- Tỷ lệ nợ xấu <= 3% có thể nói mức độ an toàn tương đối cao;
- Tỷ lệ 3% - 5% được coi là bình thường;
- Tỷ lệ nợ xấu>= 5% cho thấy hoạt động tín dụng hàm chứa nhiều rủi ro .
- Tỷ lệ >=7% thì mức độ an toàn vốn tín dụng được đánh giá là yếu kém
Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ mất vốn
Chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng trực tiếp của chính sách xoá nợ của
Công ty tài chính. Từ đó, nếu các khoản vay được xoá nợ quá nhanh thì tỷ lệ nợ quá
hạn thấp một cách không thực tế và chất lượng tín dụng dường như là tốt. Do vậy,
chỉ tiêu này được sử dụng để phân tích song song với các chỉ tiêu về nợ quá hạn ở
trên, cùng phản ánh mức độ an toàn của hoạt động tín dụng.
Tỷ lệ mất vốn là tỷ số giữa số vốn bị mất do xoá nợ cho kỳ báo cáo trên dư
nợ bình quân của kỳ báo cáo. Tỷ lệ này cho biết những khoản cho vay có khả năng
bị mất và các khoản cho vay bị mất thực sự của công ty tài chính.
Chỉ tiêu 5: Trích lập dự phòng rủi ro
Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất
có khả năng xảy ra đối với TCTD do khách hàng không thực hiện theo nghĩa vụ
cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí của
TCTD. Dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ thể (được trích lập trên cơ sở phân
loại cụ thể các khoản nợ) và dự phòng chung (được trích lập cho những tổn thất
chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ).
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012
Dư nợ quá hạn được xóa nợ
Tỷ lệ mất vốn (%) = ×100%
Dư nợ bình quân
25
Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN ngày 21/2/2013 của NHNN thì tỷ lệ
trích lập dự phòng rủi ro với các nhóm nợ như sau:
Nợ nhóm 1- nợ đủ tiêu chuẩn : 0%
Nợ nhóm 2 – nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày : 5%
Nợ nhóm 3- nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày : 20%
Nợ nhóm 4- nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày : 50%
Nợ nhóm 5- nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên : 100%
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận
khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với TCTD,
gây tổn thất cho TCTD, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ,
đúng hạn cả gốc và lãi cho TCTD.
Trong quan hệ tín dụng có hai đối tượng tham gia là TCTD cho vay và người
đi vay. Nhưng người đi vay sử dụng tiền vay trong một thời gian, không gian cụ
thể, tuân theo sự chi phối của những điều kiện cụ thể nhất định mà ta gọi là môi
trường kinh doanh, và đây là đối tượng thứ ba có mặt trong quan hệ tín dụng. Rủi ro
tín dụng xuất phát từ môi trường kinh doanh gọi là rủi ro do nguyên nhân khách
quan. Rủi ro xuất phát từ người vay (sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí
trả nợ, khả năng quản lý kinh doanh kém, …) và rủi ro xuất phát từ phía TCTD cho
vay (quản lý lỏng lẻo, thiếu giám sát, trình độ và đạo đức cán bộ tín dụng kém …)
gọi là rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
Cho dù rủi ro tín dụng xuất phát từ nguyên nhân chủ quan hay khách quan thì
nó vẫn có khả năng gây ra tổn thất cho TCTD nói chung và Công ty tài chính nói
riêng. Do vậy, Công ty tài chính cần phải lường trước được những khoản tín dụng
Nguyễn Hương Trang –CHC10-2012