Chuyên đề tốt nghiệp
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
SDFC Công ty tài chính cổ phần Sông Đà
ĐTPT Đầu tư phát triển
DPRR Dự phòng rủi ro
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
TSĐB Tài sản đảm bảo
NQH Nợ quá hạn
XDCTGT Xây dựng công trình giao thông
TCKT Tổ chức kinh tế
TCTD Tổ chức tín dụng
CTTC Công ty tài chính
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
1
Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, sự ra đời và phát triển của loại hình công ty tài
chính các tổ chức tín dụng cùng với tính đa dạng của các hoạt động đã làm cho
nền kinh tế có những đổi mới sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc kiềm chế lạm
phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong các công ty tài chính, hoạt động tín dụng là một trong những
hoạt động quan trọng mang lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Đây chính là
chức năng quan trọng nhất của công ty tài chính là cơ sở cho sự ra đời các
chức năng khác, thực tế cho thấy hoạt động tín dụng luôn chứa đựng những
rủi ro tiềm ẩn. Để hạn chế rủi ro này, một trong những biện pháp hữu hiệu là
nâng cao chất lượng tín dụng của các công ty tài chính. Với tính cấp thiết nói
trên, em chọn vấn đề “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của công ty
tài chính cổ phần Sông Đà” để làm đề tài thực tập của mình.
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hoạt động tín dụng ĐTPT tại công ty tài
chính cổ phần Sông Đà nhằm phát hiện mặt hạn chế, nguyên nhân cũng như tìm
kiếm giải pháp góp phần nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư an toàn hiệu quả.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục kèm theo.
Đề tài được chia thành 3 phần chính:
Chương I: Chất lượng tín dụng của công ty tài chính trong tập
đoàn kinh tế
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại công ty tài chính cổ
phần Sông Đà
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ở công ty tài
chính cổ phần Sông Đà
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
1
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1. Hoạt động tín dụng của công ty tài chính
1.1.1. Hoạt động cơ bản của công ty tài chính
1.1.1.1. Huy động vốn
Công ty tài chính được huy động vốn từ các nguồn sau:
Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức , cá nhân theo
quy định của ngân hang nhà nước
Phát hành kỳ phiếu ,trái phiếu ,chứng chỉ, tiền gửi và các loại giấy tờ có
giá khác để huy động vốn của các tổ chức ,cá nhân trong và ngoài
nước theo quy định của pháp luật hiện hành
Vay các tổ chức tài chính,tín dụng trong nước , ngoài nước và các tổ
chức tài chính quốc tế
-Tiếp nhận vốn ủy thác của chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng
Công ty tín dụng được cho vay dưới các hình thức
Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của ngân
hàng nhà nước
Cho vay theo ủy thác của chính phủ ,của tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước theo quy định hiên hành của Luật các tổ chức tín dụng và
hợp đồng ủy thác
Cho vay tiêu dung bằng hình thức cho vay trả góp
Chiết khấu , tái chiết khấu ,cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
trị khác
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
2
Chuyên đề tốt nghiệp
Công ty tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố
thương phiếu ,trái phiếu và các giấy tờ khác đối với các tổ chức và cá
nhân
Công ty tài chính và các tổ chức tín dụng khác được tái chiết khấu ,cầm
cố thương phiếu , trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác nhau
1.1.1.3. Bảo lãnh
Công ty tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình
đối với người nhận bảo lãnh .Việc bảo lãnh của công ty tài chính phải được
thực hiện theo quy định
1.1.1.4. Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ
Mở tài khoản
Công ty tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại Ngan hàng Nhà nước
nơi công ty tài chính đặt trụ sở và các ngân hàng hoạt động trên lãnh
thổ việt nam .việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ
việt nam phải được ngân hàng nhà nước cho phép
Dịch vụ ngân quỹ
Công ty tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho
khách hàng
1.1.1.5. Các hoạt động khác
Góp vốn, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng
khác
Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng
Tham gia thị trường tiền tệ
Làm đại lý phát hành trái phiếu ,cổ phiếu ,và các loại giấy tờ có giá trị
trong các doanh nghiệp
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Được quyền nhận ủy thác , làm đại lý trong các lĩnh vực lien quan tới
tài chính ,ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư,kể cả việc quản lý tài sản ,vốn
đầu tư của các tổ chức , cá nhân theo hợp đồng
Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng , tài chính, tiền tệ, đầu tư
cho khách hàng
Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý,giấy tờ có giá trị ,cho thuê tủ
két , cầm đồ và các dịch vụ khác.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của công ty tài chính
Công ty tài chính với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, ra đời do
sự phát triển của nền sản xuất xã hội cùng với nhu cầu vốn lớn cho mọi lĩnh vực
đồng thời lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội cũng phát triển. Cùng với sự phát triển
của ngân hàng và nhu cầu cần thiết của nền kinh tế cho nên tín dụng ra đời
nhằm cải thiện các vấn đề về khối lượng cho vay, thời hạn cho vay và phạm vi
cho vay. Vì vậy tín dụng trở nên thường xuyên và phổ biến trong nền kinh tế tín
dụng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Thứ hai: Các công ty tài chính đóng vai trò là tổ chức trung gian trong
quá trình huy động vốn và cho vay.
Thứ ba: Sự vận động và phát triển của tín dụng độc lập tượng đối với
sự vận động và phát triển của quá trình tái sản xuất xã hội
Vốn tín dụng là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình tái
sản xuất xã hội. Như vậy nếu khối lượng hàng hóa sản xuất và lưu thông
tăng lên thì nhu cầu vốn tăng trong đó có vốn tín dụng cũng tăng lên, nghĩa
là vốn của tín dụng vận động phù hợp với sự vận động và phát triển của quá
trình tái sản xuất xã hội. Công ty tài chính với tư cách là người đi vay, công
ty tài chính huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội bằng hình
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
4
Chuyên đề tốt nghiệp
thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân hoặc phát hành
chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội.
Với tư cách là người cho vay, công ty tài chính đáp ứng nhu cầu vốn
cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ
sung trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Và đặc biệt là đáp
ứng nhu cầu của các công ty mẹ sáng lập ra công ty tài chính cổ phần này.
Với vai trò này tín dụng đã thực hiện chức năng phân phối lại vốn tiền tệ để
đáp ứng yêu cầu tái sản xuất xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường hoạt động tín dụng của công ty tài chính
được sử dụng như là công cụ khai thác và động viên có hiệu quả nhất, lượng
tiền nhàn rỗi vào quá trình tái sản xuất xã hội phù hợp với quá trình vận động
liên tục của vốn. Tín dụng tại công ty tài chính không chỉ đáp ứng nhu cầu
vốn ngân hàng để dự trữ vật tư trang tải chi phí sản xuất và thanh toán các
khoản nợ mà còn tham gia vào việc đầu tư cơ bản như: xây dựng xí nghiệp
mới, xây dựng cơ sở kỹ thuật hạ tầng, cải tiến, đổi mới kỹ thuật, áp dụng
những thành tựu khoa học vào sản xuất ở mỗi nước, do trình độ phát triển kỹ
thuật, mục tiêu chiến lược kinh tế- xã hội khác nhau cho nên vai trò tín dụng
của công ty tài chính đối với tập đoàn kinh tế được thể hiện và có những định
hướng khác nhau. Trong chiến lược phát triển kinh tế , nhiệm vụ được đặt ra
là “Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng tại
các công ty tài chính và ngân hàng trong cả nước nhằm ổn định giá trị đồng
tiền góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển”. Chính vì vậy, tín dụng có vai
trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tín dụng ở công ty tài chính là công cụ để quản lý tập trung nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, đầu tư vào nền kinh tế thúc đẩy sản xuất và lưu
thông phát triển góp phần đẩy mạnh nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng.
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Vốn là yếu tố không thể thiếu được của quá trình sản xuất kinh doanh
kể từ khi bắt đầu tiến hành sản xuất kinh doanh cũng như khi một loại hình
sản xuất kinh doanh ra đời. Song bất kỳ nền kinh tế hàng hóa nào cũng đều có
nguồn tiền nhàn rỗi và chưa sử dụng trong mọi tổ chức thành phần kinh tế.
Tín dụng tại các công ty tài chính đã tập trung các nguồn tiền đó thông qua
hoạt động huy động vốn của mình theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Tín
dụng tại công ty tài chính buộc các tổ chức kinh tế phải mở tài khoản tiền gửi
tại công ty tài chính. Trong quá trình hoạt động, tiền gửi trên tài khoản của
các đơn vị luôn có số dư nhất định, nhờ có chức năng này tín dụng tại các công
ty tài chính có thể huy động những nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong quá trình
sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế- xã hội và những dự trữ chưa dùng
đến của ngân sách nhà nước hình thành nên nguồn vốn của công ty tài chính và
tiến hành phân phối các nguồn đó một cách có khoa học, đáp ứng nhu cầu của
quá trình tái sản xuất mở rộng.
Theo Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988, công ty tài chính đã thực
sự chuyển sang hạch toán kinh doanh với phương châm “đi vay để cho vay”.
Điều này là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp và cho phép đạt được những hiệu
quả cao trong mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội. Trước tình hình đó, công ty
tài chính phải không đổi mới các chính sách tiền tệ, lãi suất, mục tiêu tín dụng
để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nền kinh tế nhiều thành phần. Quá trình đổi
mới đó cần phải nhằm vào mục tiêu đầu tư có hiệu quả thúc đẩy sản xuất phát
triển, nâng cao năng lực tự chủ tài chính của các doanh nghiệp đồng thời tận
dụng tối đa các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi để tạo nguồn vốn cho vay. Trong
nền kinh tế thị trường yếu tố cạnh tranh luôn đóng vai trò là chất xúc tác
mạnh mẽ , thúc đẩy sự phát triển của cơ chế đó. Chính vì vậy, trong quá trình
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp có thể tồn tại, phát triển hoặc thua lỗ kéo
dài và phá sản đặc biệt khi kinh doanh trong lĩnh vực tài chính cần phải tìm
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
6
Chuyên đề tốt nghiệp
hiểu thực trạng, dự đoán để đi đến quyết định đúng đắn, tránh những rủi ro
trong cung ứng tín dụng có thể dẫn đến không thu hồi được vốn đầu tư. Muốn
vậy, cần tạo ra “chữ tín” và “lòng tin”, điều này phụ thuộc cả về phía công ty
tài chính và khách hàng, rủi ro và lòng tin luôn luôn là bạn đường trong kinh
doanh tín dụng.
Tín dụng trong công ty tài chính phục vụ cho sự phát triển của kinh tế,
tăng cường quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế và là công cụ
hỗ trợ tài chính nhà nước.
Ở đây Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế
vĩ mô nền kinh tế thị trường thông qua các công cụ tài chính tín dụng sao cho
việc sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tài nguyên và sức lao động. Muốn phát
huy thế mạnh về tài nguyên để chuyển hướng cơ cấu phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội thì không thể thiếu vai trò của tài chính tiền tệ. Trong
đó, tín dụng tại công ty tài chính tạo nguồn vốn bằng cách huy động tiền nhàn
rỗi trong nền kinh tế thông qua lãi suất linh hoạt và phù hợp với chỉ số trượt
giá của đồng tiền để đầu tư vào các ngành, các công trình trọng điểm… hình
thức huy động vốn bằng nghiệp vụ tín dụng có ý nghĩa kinh tế là không làm
tăng khối lượng tiền tệ lưu thông nên không ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ
và giá cả thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, nông
nghiệp là ngành sản xuất đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, vì vậy trong giai
đoạn trước mắt nhà nước phải đầu tư phát triển nông nghiệp để giải quyết nhu
cầu tối thiểu của xã hội về lương thực, thực phẩm… đồng thời tạo điều kiện
phát triển các ngành khác. Bên cạnh đó, nhà nước còn tập trung tín dụng để
tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn mà sự phát triển của các ngành này
sẽ tạo cơ hội, cơ sở để thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như: sản
xuất hàng xuất khẩu khai thác dầu khí…
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Bằng việc nhận và trả tiền gửi, mở tài khoản và thanh toán qua ngân
hàng với quy mô ngày càng lớn, tính chất thường xuyên, liên tục cũng như
việc cho vay và thu hồi nợ của ngân hàng gắn liền với sự vận động giá trị vật
tư hàng hóa trong quá trình sản xuất lưu thông qua hệ thống các công ty tài
chính, sử dụng công cụ lưu thông tín dụng (tiền tín dụng, giấy bạc ngân hàng)
đóng vai trò thay thế tiền bạc trong lưu thông. Sự phát triển các nghiệp vụ tín
dụng đi đôi với việc thanh toán không dùng tiền mặt trong lưu thông góp phần
ổn định lưu thông tiền tệ và đây là một trong những phương cách để kiềm chế
lạm phát.
Tín dụng tại các công ty tài chính thực hiện vai trò kiểm soát hoạt động
sản xuất kinh doanh: kích thích sử dụng vốn có hiệu quả.
Sự vận động của tín dụng của công ty tài chính cũng như việc quản lý
tập trung thông nhất công tác tín dụng đã tạo ra tiền đề khách quan cho tín
dụng tại công ty tài chính thực hiện việc phân phối lại tiền tệ trên nguyên tắc
có hoàn trả, phục vụ tái sản xuất mở rộng. Tín dụng ở công ty tài chính phản
ánh một cách tổng hợp và nhạy bén tình hình hoạt động kinh tế- tài chính
trong nền kinh tế, quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế có
quan hệ mật thiết với nhau trên cơ sở đó, Nhà nước có biện pháp kịp thời phát
huy những nhân tố tích cực và hạn chế những tiêu cực có thể xảy ra. Quá trình
phản ánh và kiểm soát của tín dụng ở công ty tài chính được sử dụng như một
đòn bẩy kinh tế không thể thiếu được trong việc quản lý tài chính, kiểm soát
các quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm xã hội, thực hiện và củng cố chế
độ hạch toán kinh tế trong tất cả các ngành.
Tín dụng ở công ty tài chính là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy quá trình
mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện hiện nay, việc phát triển kinh tế của một nước luôn gắn
liền với nền kinh tế thế giới. Trong mối quan hệ kinh tế đó, sự hợp tác bình
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
8
Chuyên đề tốt nghiệp
đẳng hai bên cùng có lợi giữa các nước trên thế giới và trong khu vực đang
được phát triển đa dạng cả về nội dung và hình thức, cả về chiều sâu lẫn chiều
rộng. Đó là nhân tố hết sức quan trọng tạo cho sự phát triển kinh tế mỗi nước,
đặc biệt đối với các nước kinh tế đang phát triển trong đó có Việt nam. Tín
dụng của công ty tài chính đã trở thành một trong những phương tiện nối liền
kinh tế các nước với nhau. Ở nước ta trong thời gian qua, tín dụng của công ty
tài chính đã góp phần đáng kể vào quá trình hợp tác kinh tế với các nước trên
thế giới.
1.1.3. Đặc trưng hoạt động tín dụng công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế
Xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển nhu vũ bão của khoa học công
nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sự nới lỏng các quy định pháp lý về
tài chính là nguyên nhân chính thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của
các tập đoàn tài chính. Khi phát triển đến mức độ nhất định và do nhu cầu của
nền kinh tế, các ngân hàng công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán đều
vươn ra hoạt động đa năng và hướng ra toàn cầu thông qua những hình thức
khác nhau như liên kết, hợp nhất, sáng nhập, thành lập các công ty trực thuộc.
Mục tiêu của việc hình thành các công ty tài chính là mở rộng quy mô hoạt
động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để cố thể tồn tại trong cạnh tranh, từ
đó đem lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn.
Theo mức độ chuyên môn hoá, các tập đoàn TC-NH trên thế giới được
phân thành 2 nhóm chính: Nhóm tập đoàn chuyên ngành hẹp và nhóm tập
đoàn đa nghành, kinh doanh tổng hợp. Các tập đoàn TC-NH chuyên nghành
hẹp có mức chuyên môn hoá sâu, gồm các công ty con hoạt động trong cùng
lĩnh vực dịch vụ tài chính và liên kết chặt chẽ với nhau nhằm khai thác thế
mạnh trong kinh doanh dịch vụ Tài chính – Ngân hàng
Tập đoàn là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức nhưng có quan hệ rất
chặt chẽ với nhau về chiến lược thị trường và chiến lược luân chuyên vốn. Đa
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
9
Chuyên đề tốt nghiệp
số các tập đoàn không có tư cách pháp nhân, không có ‘trụ sở chính’, không
có ‘cơ quan hành chính’ thường trực chung của tập đoàn, tuy nhiên cũng có
các tập đoàn có tư cách pháp nhân là do được hình thành theo quyết định của
chính phủ. Nhưng đã là tập đoàn thì nhất thiết phải có một số thiết chế quản
trị chung của tập đoàn như hội đồng chiến lược, uỷ ban kiểm toán, uỷ ban bầu
cử, hội đồng quản trị.
Đặc trưng quan trọng nhất là mỗi công ty trong tập đoàn phải là một
pháp nhân độc lập: Các công ty thành viên hoặc công ty con có sở hữu tài sản
riên, thị trường riêng, thậm chí ngành nghề riêng. Chính vì vậy, giữa các công
ty trong tập đoàn có sự khác nhau về mức thu nhập, tình trạng rủi ro và quy
mô tài chính. Nhìn chung, các tập đoàn kinh doanh được hình thành theo
nguyên tắc tự nguyên.
Thời gian gần đây, đặc biệt khi Việt Nam đang gấp rút để cải cách
doanh nghiệp theo hướng tăng cường tiềm lực tài chính và năng lực cạnh
tranh là nhiệm vụ hết sức cấp bách. Nhà nước đã thực hiện nhiều giải pháp đổ
mới DNNN như cổ phần hóa, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, ban hành
Luật doanh nghiệp thống nhât, quyết định thí điểm thành lập một số tập đoàn
kinh tế trên cơ sở tổ chức lại các tổng công ty nhà nước.
Trong lĩnh vực Tài chính- Ngân hàng, bên cạnh việc cổ phần hóa các
NHTMNN như Ngân hàng ngoại thương và Ngân hàng nhà Đồng bằng sông
Cửu Long và các Ngân hàng khác.
Các tập đoàn kinh tế đã được thành lập theo mô hình công ty mẹ – công ty
con. Trong đó, công ty mẹ cũng chính là tập đoàn; các công ty con là công ty
trực thuộc hoặc công ty cổ phần do tập đoàn đầu tư vốn hoặc góp vốn. Nghĩa
là chỉ có sự đổi tên công ty mẹ (tổng công ty) thành tập đoàn, mối quan hệ
giữa công ty mẹ và công ty con vẫn được thực hiện thông qua quan hệ chủ sở
hữu vốn góp, chưa xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ cũng như mối quan hệ
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
10
Chuyên đề tốt nghiệp
giữa tập đoàn công ty mẹ và các công ty con. Nói cách khác, mô hình tập
đoàn kinh tế chưa thực sự tồn tại mà chỉ là nhóm công ty được tổ chức theo
mô hình công ty mẹ, công ty con với tên gọi là “tập đoàn kinh tế”. Cho đến
nay, Luật Doanh nghiệp chưa có những quy định cụ thể về tổ chức và hoạt
động của tập đoàn công ty mà giao cho Chính phủ quy định chi tiết về tiêu
chí, tổ chức và hoạt động của tập đoàn công ty, nhưng Nghị định về tập đoàn
công ty vẫn chưa được ban hành. Và các công ty con góp phần rất lớn thúc
đẩy và hỗ trợ công ty mẹ.
1.2. Chất lượng tín dụng công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế.
1.2.1. Khái niệm
Như chúng ta đã biết, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng
giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định quay
về với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Công ty tài chính là một thành phần của nề kinh tế, nền kinh tế có phát
triển thì các CTTC mới tăng trưởng bền vững được. Tuy nhiên trong thực tế
thì vai trò của CTTC còn quan trọng hơn thế rất nhiều. Các CTTC đóng vai
trò như một trung gian tài chính bơm hút vốn từ nền kinh tế, thế nên đối với
một doanh nghiệp nếu chất lượng sản phẩm không tốt thì đơn thuần chỉ là
doanh nghiệp đó phá sản. Khi một CTTC phá sản sẽ xảy ra hậu quả vô cùng
trên thị trường tài chính, không chỉ ảnh hưởng đến hầu hết các CTTC khác
như một sự ảnh hưởng dây truyền mà sau đó còn kéo theo sự khủng hoảng
của toàn bộ nền kinh tế. Thế nên vấn đề về chất lượng tín dụng không chỉ là
việc của riêng CTTC mà là vấn đề toàn xã hội quan tâm.
Là một vấn đề rất quan trọng nên có rất nhiều học giả nghiên cứu vấn
đề này và đưa ra rất nhiều nhận định.
Qua đó, ta có thể thấy một vài điểm quan trọng như sau:
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
11
Chuyên đề tốt nghiệp
Chất lượng tín dụng là một khái niệm vừa cụ thể, vừa trìu tượng, chịu
ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan và khách quan.
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, phản ánh mức độ thích
nghi của ngân hàng với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, thể hiện
khả năng cạnh tranh của CTTC trong nền kinh tế.
Chất lượng tín dụng được xác định qua nhiều yếu tố: thủ tục, độ thu
hút, độ an toàn, chi phí lãi…
Chất lượng tín dụng là kết quả của một quá trình kết hợp hoạt động
giữa những con người trong mọi tổ chức, giữa các tổ chức vì mục đích
chung. Do đó, để đạt được chất lượng cần có sự quản lý, kết hợp ăn ý
giữa các nhân tố. Cần phải quản lý chất lượng đồng bộ, không chỉ
nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng mà còn cải tiến hiệu quả và linh
hoạt của toàn bộ cơ sở kinh doanh.
Hiểu được đúng bản chất chất lượng tín dụng, phân tích và đánh giá
đúng thực trạng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng tìm ra các giải pháp quản trị
rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
1.2.2. Các chỉ tiêu xác định chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh độ thích nghi
của CTTC với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh
của một CTTC trong quá trình cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Chính vì
vậy, để đánh giá được CTTC đó mạnh hay yếu thì phải đánh giá được chất
lượng tín dụng. Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, có chỉ tiêu
mang tính định lượng có chỉ tiêu mang tính định tính.
1.2.2.1. Chỉ tiêu định tính
Cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch với CTTC nếu
CTTC có bảo vệ, có bãi gửi xe, có nhân viên trông xe không thu lệ phí thì
CTTC sẽ tạo được một ấn tượng đầu tiên rất tốt đẹp trong lòng khách hàng.
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Nếu CTTC có sơ đồ làm việc của các phòng ban sẽ giúp khách hàng
không bị bỡ ngỡ và đỡ tốn thời gian, từ đó khách hàng sẽ có ấn tượng tốt
về CTTC.
Cách bố trí sắp sếp trong phòng làm việc của CTTC, trang phục của
nhân viên, đặc biệt là thái độ của cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng của CTTC. Nếu chất lượng tín dụng cao thì chắc chắn CTTC
sẽ có nhiều khách hàng mới.
Uy tín của CTTC cũng góp phần làm nên chất lượng tín dụng của
CTTC.
Như vậy, dựa vào các chỉ tiêu định tính có thể đánh giá được phần nào
chất lượng tín dụng của các CTTC.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
Chỉ tiêu tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền CTTC cấp cho nền
kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung
hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của CTTC yếu kém, không
có khả năng mở rộng, khả năng tiếp thị của CTTC kém, trình độ cán bộ công
nhân viên thấp. Mặc dù vậy, không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất
lượng tín dụng càng cao bởi vì đằng sau những khoản tín dụng đó còn những
rủi ro tín dụng mà CTTC phải gánh chịu.
Chỉ tiêu tổng dư nợ phản ánh quy mô tín dụng của CTTC, sự uy tín của
CTTC đối với doanh nghiệp. Tổng dư nợ của CTTC khi so sánh với thị phần
tín dụng của CTTC trên địa bàn sẽ cho chúng ta biết được dư nợ của CTTC là
cao hay thấp.
Kết cấu dư nợ phản ánh tỷ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ.
Phân tích kết cấu dư nợ sẽ giúp CTTC biết được CTTC cần đẩy mạnh cho vay
theo loại hình nào để cân đối với thực lực của CTTC. Kết cấu dư nợ khi so
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
13
Chuyên đề tốt nghiệp
với kết cấu nguồn huy động sẽ cho biết rủi ro của loại hình cho vay nào là
nhiều nhất.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng không
hoàn hảo khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình
cho CTTC đúng hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của
CTTC ở một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm.
Tỷ lệ nợ Nợ quá hạn
=
Quá hạn Tổng dư nợ
Xét về mặt bản chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu
tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay
không được trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì
nó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường.
Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề có khả
năng mất vốn. Như vậy, tỷ lệ nợ quá hạn càng cao thì CTTC càng gặp khó khăn
trong kinh doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm lợi
nhuận, tức là tỷ lệ nợ quá hạn càng cao, chất lượng tín dụng càng thấp.
Mặt khác, để đánh giá chính xác hơn chỉ tiêu này người ta chia tỷ lệ nợ
quá hạn ra làm hai loại:
Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn có khả năng thu hồi
=
có khả năng thu hồi. Nợ quá hạn
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
không có =
khả năng thu hồi. Nợ quá hạn
Hai chỉ tiêu này cho chúng ta biết được bao nhiêu phần trăm trong
tổng nợ quá hạn có khả năng thu hồi, bao nhiêu phần trăm không có khả
năng thu hồi. Do vậy sử dụng thêm chỉ tiêu này cho phép đánh giá chính
xác hơn chất lượng tín dụng.
Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Đây là chỉ tiêu thường được các CTTC tính toán hàng năm để đánh giá
khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Vòng quay vốn Doanh số thu nợ
=
tín dụng Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay
vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguốn vốn vay CTTC đã luân chuyển nhanh,
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Với một số vốn
nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên CTTC đã đáp ứng
được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác CTTC có vốn để tiếp tục
đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, hệ số này càng tăng phản ánh tình
hình quản lý vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng
Không thể nói một khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem
lại một khoản thu nhập cho CTTC. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn
thu chủ yếu để CTTC tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do tín dụng đem lại
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
15
Chuyên đề tốt nghiệp
chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm
bảo được độ an toàn của nguồn vốn cho vay.
Thu nhập từ Lãi từ hoạt động tín dụng
=
hoạt động tín dụng Tổng thu nhập
Ta thấy rằng nếu CTTC chỉ chú trọng vào việc giảm và duy trì một tỷ
lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì tỷ
lệ nợ quá hạn thấp cũng không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng được nâng cao
chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của CTTC.
Chỉ tiêu doanh số cho vay
Doanh số cho vay là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của CTTC
đối với nền kinh tế. Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động
cho vay trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng qua
các năm.
Chỉ tiêu các thông số quy định
Ngoài các chỉ tiêu trên thì chất lượng tín dụng còn được đánh giá thông
qua việc đảm bảo các quy chế thể lệ tín dụng như cho vay một khách hàng, hệ
số an toàn vốn tối thiểu 8%.
Giới hạn cho vay một khách hàng: Để đảm bảo khả năng thanh
toán, bất cứ một CTTC nào cũng chỉ được cấp tín dụng cho một
khách hàng không quá 15% vốn tự có.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (hệ số Cook): Tỷ lệ này cho biết một
đồng vốn tự có bảo vệ cho bao nhiêu đồng tài sản có rủi ro của
CTTC. Nó được tính bằng công thức sau:
Tỷ lệ an toàn Vốn tự có
=
vốn tối thiểu Tài sản có rủi ro qui đổi
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Dư nợ của 1 khách hàng không quá 10% vốn điều lệ và các quỹ.
Trên đây là các chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Dựa
vào các chỉ tiêu đó ta có thể nhận định được chất lượng tín dụng CTTC cao
hay thấp. Tuy nhiên chất lượng tín dụng còn chịu tác động của các nhân tố
khác.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Phân tích cơ cấu cho vay trong tổng nguồn vốn huy động là việc xem
xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của bản thân
CTTC cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các
CTTC có thể biết được khả năng mở rộng tín dụng của mình. Từ đó, có thể
quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để vừa
đảm bảo an toàn vốn cho vay, vừa có thể thu lại lợi nhuận cao nhất có thể.
Chỉ tiêu này có thể được biểu thị bằng công thức:
Hiệu suất Tổng dư nợ
=
sử dụng vốn Tổng vốn huy động
Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay
Về nguyên tắc, nguồn trả nợ cho CTTC chính là tiền bán hàng (với tín
dụng ngắn hạn), là khấu hao tài sản cố định của tài sản cố định được đầu tư
bằng nguồn vốn vay đó, lợi nhuận sau thuế có thể từ tài sản đó hoặc tất cả
hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với tín dụng trung và dài hạn).
Tuy vậy, có nhiều trường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả, sản xuất
kinh doanh thua lỗ, phá sản nên người vay phải bán tài sản thế chấp (có thể
do tự nguyện hoặc bắt buộc) để trả nợ CTTC. Tỷ lệ này được xác định như
sau:
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỷ lệ thanh toán nợ do Số tiền thu nợ do bán tài sản thế chấp
= x 100%
bán tài sản của người vay Tổng doanh số thu nợ
Lãi treo
Lãi treo là lãi tính trên nợ gốc và các khoản cho vay của CTTC nhưng
chưa thu hồi được.
Tổng các khoản lãi treo trên các món nợ càng thấp càng tốt. Lãi treo
càng cao phản ánh rủi ro mất vốn của CTTC càng lớn, CTTC có khả năng mất
cả vốn lẫn lãi. Từ đó chất lượng tín dụng giảm và ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh của CTTC.
Trên đây là các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng,
tuy nhiên để đánh giá một cách chính xác cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng
tới chất lượng tín dụng.
1.2.3. Sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.3.1. Đối với người cho vay (công ty tài chính)
Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện để CTTC tăng cường vốn
của mình, CTTC với tư cách là trung gian tài chính quan trọng trong nền kinh
tế, nếu chất lượng tín dụng tốt thì sẽ tạo được nguồn vốn phong phú, đa dạng
và hiệu quả. Chất lượng tín dụng còn là điều kiện để CTTC bảo toàn vốn, nếu
việc cho vay có hiệu quả và có khả năng thu hồi được cả gốc và lãi vay thì
CTTC không phải dùng nguồn vốn để bù đắp. Nhằm để đạt lợi nhuận, CTTC
phải tìm liếm lợi những lợi tức cao nhất có thể có của những khoản vốn cho
vay và của các khoản đầu tư tín dụng hay huy động được nhiều tiền gửi của
dân cư, doanh nghiệp… đồng thời cố gắng giảm đến tối thiểu mức độ rủi ro,
tạo những khoản cho vay có đủ tiêu chuẩn. Mặt khác CTTC tăng cường uy tín
và duy trì được khả năng thanh toán, sự ổn định tào chính vầ đảm bảo quyền
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
18
Chuyên đề tốt nghiệp
lợi cho khách hàng. Chính là những điều kiện trong việc nâng cao chất lượng
tín dụng của CTTC.
1.2.3.2. Đối với người đi vay (khách hàng)
Muốn nâng cao chất lượng tín dụng là trách nhiệm của CTTC trong
việc cho vay thì CTTC luôn phải lành mạnh hóa các mối quan hệ tín dụng
giữa khách hàng và CTTC. Quan hệ với khách hàng lâu dài giúp cho quá trình
giám sát và sàng lọc của CTTC thêm phần hiệu quả, sẽ tạo ra những khoản tín
dụng có chất lượng giúp cho khách hàng được thỏa mãn về nhu cầu vay vốn
để duy trì, mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Mặt khác khách hàng còn có nhiều mối quan hệ với nhiều đối tác
trong nền kinh tế nhưng đối tác quan trọng nhất vẫn là CTTC (CTTC là trung
gian thanh toán cho khách hàng). Việc nâng cao chất lượng cũng đồng nghĩa
với việc khách hàng chỉ phải chịu mức chi phí cho khoản tín dụng tương đối,
vì vậy khách hàng có thể tiết kiệm được nhiều chi phí khác nhau như: giảm
giá thành, tăng tính cạnh tranh của hàng hóa. Ngoài ra việc nâng cao chất
lượng tín dụng còn là điều kiện để khách hàng (các doanh nghiệp) củng cố
chế độ hạch toán và kế toán theo đúng những quy định hiện hành.
1.2.3.3. Đối với nền kinh tế
CTTC là loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền kinh tế, là loại hình
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Là cầu nối giữa người có vốn và người cần
vốn, nếu CTTC hoạt động có hiệu quả sẽ làm cho khu vực tài chính được lành
mạnh hóa, góp phần ổn định tiền tệ và giảm làm phát. Mặt khác trong nền
kinh tế, mọi đối tượng vay vốn đều đều có nhu cầu sản xuất, được đầu tư nâng
cao khả năng cạnh tranh nghĩa là trong nền kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại
về nhu cầu vốn.
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Trong cơ chế thị trường cũng như các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh khác CTTC muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải giải quyết các
mâu thuẫn trong quá trình kinh doanh giữa người mua và người bán, giữa thế
mạnh của mình với CTTC khác, giữa sản phẩm và dịch vụ để cung ứng cho
khách hàng. Qua đó ta thấy các rủi ro phần lớn phía CTTC, do gánh chịu một
số nguyên nhân sau:
Về chính sách thể lệ, chế độ tín dụng chưa chặt chẽ nên còn ảnh hưởng
tới chất lượng tín dụng. Chính sách tín dụng của một CTTC do CTTC đó đề
ra, thông qua và xem xét sửa đổi định kỳ có thể coi là chiến lược, đường lối
cho hoạt động tín dụng. Trong đó quy định về một quy trình tín dụng chuẩn
về bộ máy và các đầu mối xét duyệt tín dụng cơ cấu và tỷ trọng dư nợ, về các
quy chế phân loại dư nợ nhóm quản lý rủi ro. Nhưng còn sự bất cập của một
số trường hợp xử lý cho vay, nếu có món nợ vượt quá 15% vốn tự có và chính
những món vay như vậy nếu không hoàn trả lại được sẽ gây thiệt hại lớn cho
CTTC, nếu việc buông lỏng theo dõi kiểm tra trước trong và sau khi cho vay
là vấn đề nguy hiểm nhất, sẽ dẫn đến rủi ro. Việc cho phép được vay chồng
chéo, đã làm cho việc theo dõi quản lý tiền vay khó khăn và dễ dẫn đến tình
trạng nợ quá hạn và gây tổn thất. Như vậy nếu như chính sách tín dụng đúng
đắn, phù hợp và hiệu quả thì chính là điều kiện để cán bộ tín dụng làm tốt
công việc và có thể tạo ra các khoản tín dụng có chất lượng.
- Trình độ cán bộ tín dụng còn bị hạn chế: một khoản cho vay có chất
lượng đòi hỏi một đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn để đánh giá,
phải có khẳ năng phân tích then định dự án, thu nhập và xử lý thông tin về
tình hình sử dụng vốn, tình hình tuân theo các quy chế, thể lệ tín dụng, phải
kết hợp bộ máy quản lý, khả năng quyết toán khi có rủi ro. Ngoài ra cán bộ tín
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
20
Chuyên đề tốt nghiệp
dụng còn phải có kiến thức về xã hội, về thị trường giá cả, cung cầu thì sẽ tư
vấn cho khách hàng tránh được thiệt hại trong kinh doanh và tiền vay của
CTTC không bị rủi ro.
Các yếu tố khác: Uy tín CTTC, tiềm lực tài chính của CTTC, mạng
lưới, địa bàn hoạt động và cơ sở vật chất kỹ thuật…
1.3.2. Nhân tố khách quan
Nhìn từ góc độ người vay (khách hàng)
Hoạt động kinh doanh tín dụng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất
trong các hoạt động kinh tế, rủi ro của khách hàng chính là rủi ro của CTTC.
Điều này khẳng định buộc chúng ta phải tiến hành xem xét vấn đề người vay
có liên quan như thế nào tới chất lượng tín dụng.
Tiềm lực tài chính của khách hàng vay vốn: nếu có tiềm lực tài chính
lành mạnh thì sẽ được ngân hàng xem xét và nâng cao vị thế tín dụng dễ dàng
trong việc thỏa thuận với CTTC về các khoản vay. Trong quá trình kinh
doanh khi doanh nghiệp đưa vốn của CTTC vào sản xuất thì nguồn trả nợ và
lãi vay chính là doanh thu và hiệu quả kinh doanh, một doanh nghiệp mà đang
trong tình trạng hoạt động có biến động theo chiều hướng xấu thì làm cho
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ và khó khăn trong hoạt động
kinh doanh.
Nguyên tắc cho vay và điều kiện cho vay của CTTC luôn đề cập vấn đề
đảm bảo cho vay như việc cầm cố, thế chấp và bảo lãnh tiền vay.
Nếu doanh nghiệp có đủ tài sản để đảm bảo khoản cho vay nhằm tạo
điều kiện cho CTTC có đủ số vốn và lãi khi phát mại tài sản trong trường
hợp doanh nghiệp không trả được nợ. Nếu doanh nghiệp hoạt động hiệu quả,
có uy tín, có mối quan hệ lâu dài với các đối tác của mình thì có thể nhận
được sự bảo lãnh để vay vốn CTTC.
Đạo đức kinh doanh: khi xét duyệt cho vay, CTTC thường không xác
minh được mức độ trung thực của báo cáo của người vay và vấn đề rủi ro đạo
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
21
Chuyên đề tốt nghiệp
đức nảy sinh. Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, nhiều doanh nghiệp
dùng tiền quay vòng không đúng đối tượng kinh doanh, không đúng phương
án, mục đích khi xin vay nên đã không trả được nợ đúng hạn, thậm chí còn
cho khách hàng dùng vốn vay ngắn hạn đầu tư vào tài sản cố định hoặc kinh
doanh bất động sản nên không trả nợ đúng hạn và các doanh nghiệp chiếm
dụng vốn lẫn nhau kể cả vốn vay CTTC. Đạo đức kinh doanh của daonh
nghiệp vay vốn luôn là thach thức đối với các CTTC. Đây là một phạm trù
lớn và phức tạp, là hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nước.
Năng lực kinh nghiệm quản lý kinh doanh, trình độ nhân viên của
doanh nghiệp vay vốn còn bị hạn chế.
Một số doanh nghiệp khi vay họ lập phương án sản xuất kinh doanh rất
hiệu quả, chứng minh đầu vào và ra khả thi nhưng do không tính hết biến
động của thị trường nên bị thua lỗ. Thiếu năng động trong kinh doanh không
kịp thay đổi mục tiêu, chiến lược khi môi trường kinh doanh thay đổi hơn nữa
đội ngũ nhân viên còn hạn chế, kinh nghiệm thực tế không có, thiếu kỷ luật
cho nên dẫn đến tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp và sẽ làm chất lượng tín
dụng của khoản vay giảm đi.
Nhìn từ góc độ môi trường kinh tế
Bất kỳ một loại hình kinh doanh nào đều chịu sự chi phối của môi
trường sung quanh nó. Môi trường kinh tế không ít ảnh hưởng tới hoạt động
của CTTC đặc biệt là hoạt động tín dụng, trong kinh doanh tín dụng nếu
CTTC không dự đoán được sự biến động sẽ dẫn đến làm ăn kém hiệu quả
và gây ra rủi ro không nhỏ.
Sự giảm giá tiền tệ trong quá tình kinh doanh tín dụng cũng là một loại
rủi ro đối với CTTC, nó chính là hao mòn vô hình của khoản tiền mà ngân
hàng cho vay, lúc đó CTTC sẽ không chánh khỏi rủi ro khi hoạt động của nền
kinh tế khhong ổn định, lạm phát ở mức cao.
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của người vay
và thiệt hại hoặc thành công đối với người cho vay. Lạm phát có ảnh hưởng
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
22
Chuyên đề tốt nghiệp
bất lợi lớn tới chất lượng tín dụng, giá cả tăng dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng.
Tuy nhiên tron giai đoạn lạm phát diễn ra, các công ty tài chính có ảnh hưởng
mạnh và các cá nhân có ảnh hưởng lớn về tài chính với các phí tổn khác, chi
phí của dịch vụ nợ cũng gia tăng. Nợ không thay đổi tương ứng với sức mua
của đồng tiền và kết quả nợ trở thành gánh nặng mà một số người vay không
thể tiếp tục gánh vì vậy thiệt hại cho vay xảy ra.
Nhìn từ góc độ môi trường pháp lý
Môi trường kinh doanh tín dụng CTTC chưa đầy đủ và chưa đồng bộ.
Nhà nước chưa có luật về sở hữu, không có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp
chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản và
pháp lệnh thống kê- kế toán chưa đủ hiệu lực.
Hiệu lực của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải
quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát
mại tài sản thế chấp…
Quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, nhà
nước cho phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức
năng, nhiệm vụ vượt quá trình độ năng lực quản lý, quy mô hoạt động quá lớn
so với khả năng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp… dẫn đến vay vốn lớn
gấp nhiều lần vốn tự có làm nảy sinh những điều kiện đưa đến rủi ro trong
kinh doanh của doanh nghiệp.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1:
Tín dụng là vấn đề quan trọng đối với một nền kinh tế phát triển.
Nghiên cứu về tín dụng CTTC là việc cần thiết cho những người muốn hoạt
động trong lĩnh vực Tài chính. Mọi CTTC khi thực hiện các hoạt động kinh
doanh phải luôn chú trọng đến chất lượng tín dụng nhằm đảm bảo an toàn
trong kinh doanh cho CTTC mình cũng là đảm bảo an toàn cho nền kinh tế.
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
23
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH CỔ PHẦN SÔNG ĐÀ
2.1. Tổng quan về công ty tài chính cổ phần Sông Đà
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty cổ phần tài chính Sông Đà (SDFC) là một tổ chức tín dụng phi
ngân hàng, hoạt động trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ với chức năng lưu động
vốn, cấp tín dụng, đầu tư và các cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính chất
lượng cao tới các khách hàng.
Trong quá trình hoạt động, SDFC đã xây dựng định hướng chiến lược
phát triển rõ ràng, với nguyên tắc AN TOÀN - LINH HOẠT - HIỆU QUẢ.
Mục tiêu của SDFC là xây dựng để trở thành một định chế tài chính mạnh cả
về quy mô vốn, công nghệ ngân hàng,năng lực quản trị tiên tiến,có khả năng
hợp tác và hội nhập thành công với hệ thống các định chế tài chính trong
nước và quốc tế; hướng tới trở thành một trong những Định chế tài chính đa
năng hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực đầu tư tài chính,đầu tư dự án cũng
như cung cấp các sản phẩm, dịch vụ và giải pháp tài chính sáng tạo nhằm huy
động vốn, kết nối đầu tư và mang lại giá trị gia tăng cao nhất cho khách hàng.
Để thực hiện công định hướng phát triển, SDFC xác định các giải pháp
khả thi, hiệu quả để triển khai thực hiện kế hoạch kinh doanh như; nguồn
nhân lực,nguồn lực tài chính,phát triển thương hiệu,xây dựng mạng lưới quan
hệ hợp tác,hệ thống sản phẩm dịch vụ, công nghệ thông tin,….
Đứng trước những vận hội lớn của đất nước và xu thế hội nhập trong
thế kỷ 21, toàn bộ cán bộ, nhân viên SDFC bằng sự đoàn kết và nhiệt huyết
quyết tâm xây dựng doanh nghiệp trở thành một định chế tài chính uy tín
,chuyên nghiệp, phát triển an toàn và hiệu quả để góp phần vào sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
SV: Phạm Văn Dương Lớp: Ngân hàng -
K21
24