Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Luận văn thạc sỹ: Nghiên cứu thống kê chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.18 KB, 103 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
NGUYỄN THỊ HUỆ
NGHIÊN CỨU THỐNG KÊ CHÊNH LỆCH
GIÀU NGHÈO Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI - NĂM 2007
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu luận văn Thạc sỹ kinh tế, em đã nhận được sự
hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các thày cô giáo trong Khoa Thống kê, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, các cán bộ Vụ Xã hội - Môi trường Tổng cục
Thống kê. Đặc biệt, luận văn đã được hoàn thành dưới sự giúp đỡ tận tình của
Thầy giáo - Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Kiểm.
Nhân dịp này em xin được trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thày cô giáo, đến
Ban Giám Hiệu Trường Cao đẳng Thống kê, các đồng nghiệp, bạn bè đã tạo điều
kiện, giúp đỡ trên nhiều phương diện để em có thể hoàn thành tốt Khoá học cũng
như bản luận văn này.
Tác giả
Nguyễn Thị Huệ
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng, đồ thị
Tóm tắt luận văn
Lời mở đầu
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
GNI : Tổng thu nhập quốc dân
UNDP : Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc
LDC : Các nước chậm phát triển
LTTP : Lương thực, thực phẩm


WB : Ngân hàng Thế giới
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới
OECD : Khối các nước phát triển Châu âu
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
SNG : Cộng đồng các quốc gia độc lập
VHLSS : Khảo sát mức sống hộ gia đình ở Việt Nam
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
CLGN : Chênh lệch giàu nghèo
TT : Thành thị
NT : Nông thôn
DBSH : Đồng bằng sông Hồng
DBSCL : Đồng bằng Sông Cửu Long
DHNTB : Duyên Hải Nam Trung Bộ
BTB : Bắc Trung Bộ
NN : Nông nghiệp
3
BQĐN : Bình quân đầu người
DANH MỤC BẢNG, ĐỒ THỊ
Trang
Hình 2.1. Đường cong LorenZ 45
Hình 2.2.Đường cong LorenZ theo chi tiêu BQĐN chia theo 5 chi tiêu năm
2004 46
Hình 3.1. Đường cong LorenZ theo thu nhập BQĐN năm 2002 -2006 60
Hình 3.2. Chi tiêu bình quân đầu người của 8 vùng thời kỳ 2002 -2006 69
Hình 3.3. Hệ số chênh lệch giàu nghèo của 8 vùng thời kỳ 2002 - 2006 75
4
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tháng 9/1945, Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã nói: nhiệm vụ của chính phủ từ trung ương đến địa phương là “làm
cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm".
Tuy nhiên, sau 30 năm kháng chiến gian khổ vì độc lập và thống nhất tổ quốc, những
năm đầu sau chiến tranh thiếu thốn mọi bề, các sản phẩm xã hội làm ra về cơ bản
được phân phối bình quân thì ranh giới giàu nghèo dường như đã bị xóa mờ trong ý
thức của đại đa số người dân nước ta.
Nhưng khi nền kinh tế nước ta bắt đầu chuyển sang thời kỳ đổi mới đó là nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự phân hóa giàu nghèo dần dần bộc
lộ rõ. Đặc biệt, trong giai đoạn 1998 - 2006, khi Việt Nam đạt được tốc độ tăng
GDP hàng đầu thế giới thì vấn đề chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng về thu nhập
và chi tiêu tuy chưa lớn so với các nước trên thế giới và khu vực, song lại càng có
chiều hướng gia tăng trên phạm vi cả nước, giữa thành thị và nông thôn, cũng như
giữa các vùng, các tỉnh, các địa phương và các nhóm dân cư trong cả nước. Đây là
một thách thức lớn cho quá trình phát triển bền vững, mang tính nhân văn ở Việt
Nam. Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng tình trạng chênh lệch giàu nghèo, bất bình
đẳng về thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển nói chung, phương
hại đến sự gắn kết xã hội, gây ra những tổn phí không đáng có cả về mặt kinh tế và
xã hội, cụ thể: gây ảnh hưởng xấu tới chất lượng cuộc sống của người dân, làm tăng
tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ trong y tế và giáo dục, góp phần làm gia tăng tình
trạng tội phạm.
Trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, cũng đã
làm nảy sinh sự gia tăng chênh lệch về thu nhập và chi tiêu giữa các nhóm dân cư.
Vì vậy, việc nghiên cứu chênh lệch giàu nghèo là một vấn đề cấp thiết và hết sức
có ý nghĩa không những trên phạm vi thế giới mà còn cả trong phạm vi của một
quốc gia. Do đó, tôi đã chọn đề tài: " Nghiên cứu thống kê chênh lệch giàu nghèo
ở Việt Nam " cho luận văn thạc sĩ của mình. Nội dung của đề tài tập trung chủ yếu
vào phân tích vấn đề chênh lệch về thu nhập và chi tiêu của dân cư theo yếu tố địa
lý và theo thời gian. Qua đó thấy được các nguyên nhân cơ bản gây ra sự chênh lệch
giàu nghèo. Đồng thời đề tài cũng phân tích các yếu tố chủ yếu quyết định giàu
nghèo, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đưa ra những kiến nghị góp phần thu

hẹp khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
-Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thống kê chênh lệch giàu nghèo của
dân cư.
-Nghiên cứu các chỉ tiêu thống kê về thu nhập, chi tiêu và chênh lệch giàu nghèo;
các phương pháp đo lường, phân tích chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam.
-Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích tình trạng chênh lệch
giàu nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1998-2006, phân tích các yếu tố ảnh hưởng
đến sự phân hóa giàu nghèo ở Việt Nam. Qua đó đánh giá thực trạng về phân
phối thu nhập và khoảng cách chênh lệch giàu nghèo ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề về thống kê chênh lệch giàu nghèo;
hệ thống các chỉ tiêu thống kê thu nhập, chi tiêu và các chỉ tiêu đo lường chênh lệch
giàu nghèo; các phương pháp thống kê phân tích chênh lệch giàu nghèo.
-Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu thống kê chênh lệch giàu nghèo ở
Việt Nam giai đoạn 2002 - 2006, dựa trên cơ sở bộ số liệu có thể thu thập và tính
toán được qua các cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam năm 2002, 2004, 2006
và các số liệu thống kê được công bố trên các báo, tạp chí, trên mạng viễn thông.
4. Phương pháp nghiên cứu
-Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, logic, các phương
pháp phân tích kinh tế xã hội, đồng thời kết hợp với các phương pháp thống kê như:
phương pháp phân tổ, hồi quy tương quan, dãy số thời gian, số bình quân, số tương
đối, số tuyệt đối, đặc biệt là phương pháp thống kê đo lường bất bình đẳng thu
nhập/ chi tiêu.
-Luận văn sử dụng một số phần mềm thống kê chuyên dụng như: Stata, Excel để
tính toán, vẽ đồ thị và chạy mô hình hồi quy dựa trên bộ số liệu gốc VHLSS02,
VHLSS04, VHLSS06.
5. Những đóng góp của luận văn

-Hệ thống hóa các vấn đề lý luận chung về thống kê chênh lệch giàu nghèo.
- Hệ thống hóa và lựa chọn các chỉ tiêu thống kê thu nhập, chi tiêu, thống kê
chênh lệch giàu nghèo và các phương pháp phân tích, đánh giá chênh lệch giàu
nghèo.
-Phân tích sự gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, giữa thành thị
với nông thôn, giữa các vùng, qua đó tìm ra được các nguyên nhân cơ bản gây ra sự
chênh lệch này.
-Phân tích các yếu tố quyết định đến sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nhóm dân
cư.
-Đề xuất các kiến nghị nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và giảm bất bình
đẳng về thu nhập và chi tiêu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3
chương:
-Chương I: Những vấn đề lý luận chung về thống kê chênh lệch giàu nghèo.
-Chương II: Lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê và các phương pháp thống kê phân
tích chênh lệch giàu nghèo.
-Chương III: Phân tích thống kê chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam giai đoạn 2002-
2006.
6
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
THỐNG KÊ CHÊNH LỆCH GIÀU NGHÈO
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN THỐNG KÊ CHÊNH LỆCH GIÀU
NGHÈO
1.1.1. Khái niệm về thu nhập
Thu nhập là một trong những phương tiện quan trọng để mở rộng sự lựa
chọn cho con người và là một trong những chỉ tiêu kinh tế để đánh giá mức sống
của dân cư. Vì vậy, tăng thu nhập là yếu tố hàng đầu để cải thiện và nâng cao mức
sống, tăng tích lũy, mở rộng sản xuất.
Thu nhập của dân cư là toàn bộ các khoản thu nhập bằng tiền và hiện vật mà

người dân nhận được từ công lao động của mình được sử dụng trong quá trình sản
xuất cộng với các khoản thu nhập nhận được ngoài thù lao lao động trong một thời
gian nhất định thường là một năm.
Theo cuộc Điều tra mức sống dân cư thu nhập của dân cư hay hộ gia đình
được chia theo các nhóm sau:
Các khoản thu nhập nhận được từ tiền công, tiền lương bằng tiền và hiện vật như:
tiền lương, tiền công, các khoản tiền có tính chất lương của cán bộ công nhân viên,
người lao động làm việc trong các cơ quan, các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau. Và các khoản thu nhập ngoài lương như: tiền ăn trưa, tiền ăn ca
ba, tiền làm thêm giờ, phụ cấp, tiền thưởng, tiền phong bao hội nghị, tiền may quần
áo, trang phục bảo hộ lao động
Các khoản thu nhập từ hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản: đó là các
khoản thu nhập bằng tiền và hiện vật trong các hộ gia đình nông dân, công nhân
viên của các tầng lớp dân cư bao gồm: thu từ lâm nghiệp, thu từ trồng trọt, thu từ
chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi trồng thuỷ sản và các hoạt động liên quan đến nông
nghiệp như chế biến sản phẩm do gia đình sản xuất ra, cho thuê đất canh tác
Các khoản thu nhập từ sản xuất ngành nghề phi nông nghiệp của hộ bao gồm các
khoản thu của hộ gia đình tham gia vào các lĩnh vực như: thương nghiệp, công
nghiệp gia công chế biến tại nhà, các loại hình dịch vụ,
Các khoản thu nhập khác: thu từ hưu trí, trợ cấp, học bổng, quà biếu, quà tặng, thu
từ cho thuê tài sản (nhà cửa, máy móc thiết bị ), thu từ tiền lãi cho vay, lãi tiền gửi
tiết kiệm, thu do được biếu hoặc tặng, thu từ trúng xổ số, thu từ trợ giúp không phải
hoàn lại từ các tổ chức, cá nhân khác
1.1.2. Khái niệm về chi tiêu
Chi tiêu của hộ gia đình là toàn bộ các khoản chi được biểu hiện bằng tiền và
hiện vật trong một thời kỳ nhất định thường là một năm.
Chi tiêu của hộ gia đình gồm có: chi cho sản xuất, chi cho tiêu dùng và các
khoản chi tiêu khác. Tuy nhiên, trong luận văn này tác giả chỉ nghiên cứu chi tiêu ở
phạm vi chi tiêu cho tiêu dùng.
Chi tiêu dùng của hộ gia đình (hay của dân cư) là toàn bộ giá trị sản phẩm

7
vật chất và dịch vụ sử dụng cho nhu cầu đời sống sinh hoạt hàng ngày của hộ gia
đình dân cư như: ăn, uống, ở, đi lại, quần áo, chăm sóc sức khoẻ, đồ dùng lâu
bền, và các khoản chi tiêu khác trong một thời gian nhất định thường là một năm.
Theo Điều tra mức sống dân cư Việt Nam chi tiêu dùng của hộ gia đình bao
gồm các khoản sau:
- Chi tiêu cho đời sống:
Chi giáo dục: tiền học phí, học thêm, tiền đóng góp xây dựng trường, lệ phí
thi, đóng góp hội huynh
Chi về y tế và chăm sóc sức khoẻ: chi khám chữa bệnh, đóng góp bảo hiểm y
tế, mua thuốc, tiền nằm viện
Chi lương thực thực phẩm (LTTP) và sản phẩm tự sản xuất: chi ăn uống
hàng ngày và vào các dịp lễ tết.
Chi tiêu phi lương thực thực phẩm và đồ dùng lâu bền: đó là các khoản chi
về phi LTTP do hộ tự sản xuất hoặc mua trên thị trường như: than, củi,
quạt, tivi, tủ lạnh,
Chi về điện, nước và vệ sinh môi trường.
Chi về thuốc lá, thuốc lào.
Chi phí về thuê nhà ở.
- Chi tiêu khác: đóng góp các quỹ, ma chay, cưới xin, đóng góp lao động công ích,
cho, biếu, tặng
1.1.3. Các khái niệm về nghèo
Nghèo được khái niệm là sự bần cùng hoá về phúc lợi. Nhưng tình trạng bần
cùng hoá là gì? làm thế nào để đo lường nó? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về
nghèo, theo Ngân hàng thế giới (WB 2000) "đói nghèo là sự mất đi tình trạng ấm
no". Ấm no có thể được đo bằng việc sở hữu của cá nhân về thu nhập, sức khỏe,
dinh dưỡng, giáo dục, tài sản, nhà ở và các quyền nhất định trong xã hội như quyền
tự do ngôn luận, quyền chữa bệnh, quyền thụ hưởng sinh hoạt văn hoá, thể dục thể
thao Cũng có thể hiểu đói nghèo là sự thiếu các cơ hội, thiếu các quyền lực và khả
năng dễ bị tổn thương trước các sự kiện bất lợi.

Theo quan điểm truyền thống, nghèo được hiểu trước hết là sự thiếu thốn về
vật chất, sống với mức thu nhập và tiêu dùng thấp, điển hình là tình trạng dinh
dưỡng kém và điều kiện sống thiếu thốn. Tuy nhiên, dễ nhận thấy rằng trong hầu
hết các trường hợp, nghèo về thu nhập luôn liên quan tới cái gọi là nghèo về con
người- hay sức khoẻ kém và trình độ giáo dục thấp, cả hai đều là nguyên nhân hoặc
là kết quả của mức thu nhập thấp. Nghèo về thu nhập và về con người cũng thường
kèm theo tình trạng nghèo về xã hội như tính dễ bị tổn thương trước các sự kiện bất
lợi, ví dụ như bệnh tật, thiên tai, hoặc khủng hoảng kinh tế, không có tiếng nói trong
hầu hết các thể chế trong xã hội và sự bất lực trong việc cải thiện điều kiện sống của
cá nhân. Bản chất đa chiều này của tình trạng nghèo đã được bộc lộ thông qua các
cuộc phỏng vấn với chính những người nghèo và được khẳng định qua những
nghiên cứu xã hội học đặc biệt.
Khái niệm rộng hơn coi nghèo như một hiện tượng đa chiều đưa đến sự hiểu
biết rõ ràng hơn về nguyên nhân của nghèo và một chính sách toàn diện hơn trong
việc xoá đói giảm nghèo. Chẳng hạn, bên cạnh các vấn đề về tăng trưởng kinh tế và
8
phân phối thu nhập, khái niệm này còn đặt ra vấn đề khả năng tiếp cận công bằng
hơn đến các dịch y tế, giáo dục cũng như sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội.
Những chiến lược xoá đói giảm nghèo cũng phải thừa nhận thực tế là những khía
cạnh khác nhau của nghèo tương tác qua lại và củng cố lẫn nhau. Ví dụ, việc tăng
cường an sinh xã hội không chỉ giúp cho người nghèo ít bị tổn thương hơn mà còn
cho phép họ tận dụng tốt những cơ hội có tính rủi ro cao hơn, chẳng hạn việc
chuyển tới một nơi khác hay thay đổi nghề nghiệp. Sự đại diện và tham gia ngày
càng nhiều của người nghèo không chỉ giúp họ vượt qua cảm giác bị gạt ra ngoài lề
xã hội mà còn góp phần định hướng tốt hơn các dịch vụ giáo dục và y tế.
Như vậy, có rất nhiều khái niệm khác nhau về nghèo nhưng nhìn chung đều
có tư tưởng cốt lõi giống nhau đó là: tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người đã được xã hội thừa nhận
theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương
trong một quốc gia.

Những nhu cầu cơ bản của con người được xác định theo chuẩn nghèo và
phụ thuộc vào thời gian và không gian. Quốc gia nào càng giàu thì chuẩn nghèo của
quốc gia đó càng cao. Đối với các nước nghèo, nghèo thường được hình dung là sự
thiếu hụt tuyệt đối, sự thiếu hụt các chất dinh dưỡng cơ bản cho cuộc sống. Trong
khi đó đối với các nước giàu, có thể là sự thiếu hụt tương đối, sự thiếu khả năng để
có một mức sống ngang bằng với các nhóm dân cư hiện có thu nhập cao hơn.
Nhìn chung nghèo được hiểu theo hai nghĩa sau đây:
1.1.3.1.Nghèo tuyệt đối
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống.
Với khái niệm này thì nhu cầu tối thiểu của các nước rất khác nhau và luôn
thay đổi theo thời gian. Một cái gì đó có thể được coi là xa xỉ ở nước này nhưng lại
được coi là một nhu cầu tối thiểu ở nước khác. Ví dụ, có một hệ thống lò sưởi trong
nhà là tiện nghi tối thiểu ở Pháp nhưng lại là xa xỉ ở Butan. Chính vì vậy, một người
ở Mỹ và một người ở Việt Nam đều được coi là người nghèo, mặc dù thu nhập và
chi tiêu của người ở Mỹ cao gấp nhiều lần so với người ở Việt Nam. Rất nhiều
người nghèo ở Mỹ được xem là khá ấm no theo chuẩn nghèo của Việt Nam. Tuy
nhiên, các nhu cầu tối thiểu cần thiết về lương thực, thực phẩm ở các quốc gia lại
không khác nhau nhiều lắm.
Nói tới nghèo tuyệt đối, người ta thường hay đưa ra một đường nghèo tuyệt
đối được cố định theo trình độ phát triển của mức sống và được dùng để thực hiện
các so sánh nghèo đói.
Đối với các nước nghèo, chậm phát triển thì hiện tượng nghèo tuyệt đối
không đáp ứng đủ các nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, mặc, chất đốt là phổ biến.
Khái niệm nghèo tuyệt đối không có ý nghĩa nhiều lắm đối với các nước
công nghiệp phát triển như: Mỹ, Anh, Nhật, bởi vì ở các nước này có mức thu
nhập cao và sự giàu có ngày càng tăng lên. Do đó, nghèo tuyệt đối hầu như không
có ở các nước này mà chủ yếu là nghèo tương đối.
1.1.3.2.Nghèo tương đối
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức

9
trung bình của cộng đồng trên phạm vi địa bàn.
Hay có thể hiểu nghèo tương đối theo một nghĩa khác là vị trí của một hộ
gia đình hay một cá nhân so với mức thu nhập trung bình của quốc gia nơi mà họ
đang sinh sống. Chẳng hạn, ở Việt Nam những người thuộc hai nhóm thu nhập thấp
nhất trong năm nhóm thu nhập thì được coi là nghèo tương đối.
Như vậy, nói tới nghèo tương đối là nói đến sự phân bổ thu nhập hay chính
là sự bất bình đẳng về thu nhập. Nghèo tương đối xuất hiện bất chấp quy mô của
nghèo tuyệt đối, tức là số người nghèo tuyệt đối có thể tăng lên hoặc giảm đi nhưng
nghèo tương đối vẫn giữ nguyên. Điều này có nghĩa là nghèo tương đối luôn luôn
tồn tại cùng chúng ta. Căn cứ vào nghèo tương đối có thể đánh giá sự phân phối thu
nhập có công bằng hay không giữa các nhóm dân cư.
1.1.4. Khái niệm về chênh lệch giàu nghèo
Để hiểu được cuộc sống tại một quốc gia đang diễn ra như thế nào, ví dụ để
biết xem có bao nhiêu người dân là thuộc diện nghèo thì phải căn cứ vào thu nhập
hoặc chi tiêu bình quân đầu người của quốc gia đó. Nhưng số người nghèo của một
quốc gia và chất lượng cuộc sống trung bình không chỉ phụ thuộc vào thu nhập
hoặc chi tiêu mà còn phụ thuộc vào việc thu nhập và chi tiêu đó được phân phối một
cách bình đẳng hay bất bình đẳng. Vậy chúng ta hiểu bất bình đẳng về thu nhập hay
chênh lệch giàu nghèo là như thế nào? Chênh lệch giàu nghèo được khái niệm như
sau:
Ở phạm vi toàn thế giới, chênh lệch giàu nghèo là chênh lệch về thu nhập
hoặc chi tiêu giữa các nước giàu với các nước nghèo (hay là giữa các nước công
nghiệp phát triển với các nước chậm phát triển).
Trong phạm vi một quốc gia, chênh lệch giàu nghèo là chênh lệch về thu
nhập hoặc chi tiêu giữa các nhóm dân cư, chênh lệch giữa thành thị với nông thôn,
giữa các vùng, các địa phương trong cả nước.
Tóm lại, sự chênh lệch giàu nghèo không chỉ diễn ra giữa các nước giàu với
các nước nghèo trên thế giới mà còn diễn ra trong phạm vi từng quốc gia. Tuy
nhiên, các quốc gia khác nhau có mức độ chênh lệch giàu nghèo không giống nhau

và sự biến động của nó còn chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam
1.2.1. Tăng trưởng kinh tế
Đại hội X của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, phải thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Như thế tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội mới là mục tiêu vươn tới của xã hội
nước ta.
Trong 20 mươi năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu rất cơ bản về
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi
năm từ 1986 đến 2000 đạt 6,3% và đạt 7,5% trong thời kỳ 2001 - 2005. Với tốc độ
tăng trưởng như trên, nước ta đứng vào hàng các nước có tăng trưởng kinh tế khá
cao. Những thành tựu đã đạt được trong tăng trưởng kinh tế tạo cơ sở vật chất để
chúng ta thực hiện công bằng xã hội.
Ngoài hình thức phân phối thu nhập theo hiệu quả lao động, theo các nguồn
lực đóng góp thì nước ta còn hình thức phân phối thông qua quỹ phúc lợi như: thực
10
hiện chính sách người có công với nước, với dân; chính sách bảo trợ những người
già cô đơn không nơi nương tựa; chính sách đối với trẻ em lang thang có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn; chính sách hỗ trợ các hộ gia đình thuộc diện đói nghèo; chính
sách bảo trợ phát triển xã hội ở vùng sâu, vùng xa
Mỗi năm chính phủ đã dành từ 24,4% đến 28,4% ngân sách nhà nước đầu tư
cho các lĩnh vực xã hội. Hiện nay cả nước không còn hộ đói kinh niên, số hộ nghèo
đã giảm nhanh chóng, số hộ giàu ngày một tăng. Tính đến 31 -12 - 2005 cả nước có
85% hộ gia đình chính sách, người có công với đất nước có mức sống bằng hoặc
khá hơn mức sống trung bình của cộng đồng nơi cư trú. Nhờ có hệ thống các chính
sách an sinh xã hội đã góp phần làm cho đời sống của các hộ nghèo được cải thiện
hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hiện nay chúng ta đang
đứng trước một loạt các vấn đề cần giải quyết. Một trong các vấn đề đó là tăng
trưởng kinh tế càng nóng thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng rộng. Hay

có thể hiểu tăng trưởng kinh tế là một trong những nhân tố tác động đến vấn đề
chênh lệch giàu nghèo. Vậy tăng trưởng kinh tế tác động đến chênh lệch giàu nghèo
theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực, nó làm chênh lệch giàu nghèo tăng lên
hay giảm đi? Để trả lời được câu hỏi này chúng ta cần phải xem tăng trưởng kinh tế
có tốt cho người nghèo không?
Đây là một trong những chủ đề được bàn cãi rất nóng bỏng, nhất là trong
những cuộc thảo luận mới về thay đổi trong tư duy phát triển. Một bài viết gần đây
của tác giả David Dollar khẳng định giả thiết người nghèo có thể thu lợi hoàn toàn
từ tăng trưởng. Giả thiết này được thử nghiệm bằng một kỹ thuật rất đơn giản: so
sánh tỷ lệ tăng thu nhập của nhóm 1/5 nghèo nhất với tỷ lệ tăng thu nhập trung bình.
Kết quả cho thấy rằng gần như có tỷ lệ 1:1 giữa hai chỉ số này ở hầu hết các nước
và như vậy người nghèo gần như đã hoàn toàn hưởng lợi được từ tăng trưởng về thu
nhập và tình trạng bất bình đẳng không gia tăng khi thu nhập tăng. Kết luận này đơn
giản nhưng sâu sắc: một chính sách thúc đẩy tăng trưởng cũng chính là một chính
sách vì người nghèo.
Thử nghiệm này được lặp lại và mở rộng cho Việt Nam trong giai đoạn
1996- 2004. Kết quả hết sức thú vị, mặc dù tăng trưởng nhìn chung đem lại lợi ích
cho tất cả, cả người giàu và người nghèo, song người giàu được hưởng lợi nhiều
hơn. Tình trạng này thậm chí còn trầm trọng hơn ở những tỉnh tăng trưởng nhanh.
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi thu nhập tăng thì bất bình đẳng gia tăng, nghĩa là
chênh lệch giàu nghèo cũng gia tăng. Nhưng tăng trưởng về kinh tế, dù là so sánh
tuyệt đối hay tương đối thì mọi sự tăng trưởng kinh tế đều kéo theo sự giàu chung
của toàn xã hội. Động lực chính của sự phát triển là sự giải phóng sức sản xuất để
mọi người ganh đua nhau vươn lên làm giàu. Nhưng điều đó không hoàn toàn có
nghĩa là sự giàu lên đồng loạt của các tầng lớp dân cư mà trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng sẽ bỏ lại phía sau một nhóm dân cư nghèo khó so với chính số dân cư
đang giàu lên trong xã hội đó. Điều này có thể hiểu, khi người nghèo tiến thêm
được một bước thì người giàu đã tiến thêm được hai, ba thậm chí hàng chục bước.
Từ đó thấy rằng tăng trưởng kinh tế là tốt cho người nghèo nhưng khi có thêm tính
nhân văn nó còn tốt hơn.

Như vậy, giữa tăng trưởng kinh tế và chênh lệch giàu nghèo ở Việt Nam có
11
mối quan hệ với nhau. Điều này không chỉ xảy ra ở riêng Việt Nam mà nó cũng
diễn ra ở các nước khác trên thế giới.
Chẳng hạn như ở Trung Quốc, khoảng 10 năm trở lại đây Trung Quốc đang
trên con đường trở thành một siêu cường quốc nhờ tốc độ phát triển kinh tế như vũ
bão. Trong giai đoạn 1993 - 2005 Trung quốc là một nước có tốc độ tăng trưởng
cao nhất Châu Á. Nhưng đằng sau ánh hào quang ấy còn tồn đọng nhiều khoảng tối,
đặc biệt là tình trạng phân hoá giàu nghèo, khoảng cách chênh lệch quá lớn giữa
thành thị và nông thôn, giữa các nhóm dân cư đã trở thành một trong những hiểm
hoạ được kỳ họp quốc hội của Trung Quốc mới đây đưa vào.
Theo khảo sát sơ bộ thu nhập bình quân của lao động nông thôn là 395,7
nhân dân tệ/tháng (49 USD), so với thu nhập bình quân của một giám đốc công ty là
8000 nhân dân tệ (997 USD). Trung quốc hiện còn tới 100 triệu người nghèo, một
nửa vùng nông thôn không có nước sạch. Các cơ sở vệ sinh và y tế còn lạc hậu,
nông dân phải tự trả tiền cho các công trình làm đường xá, hệ thống nước sạch và
hệ thống chiếu sáng công cộng.
Như vậy, có thể thấy ở Trung Quốc cùng với sự tăng trưởng mạnh về kinh tế
thì tình trạng phân hoá giàu nghèo cũng ngày một gia tăng.
Việt Nam, trong mấy năm qua, mặc dù kinh tế tăng trưởng cao nhưng hiệu
quả của nó tác động đến người nghèo lại giảm tương đối. Theo một số nghiên cứu
nếu tăng trưởng kinh tế tăng 10% thì người nghèo chỉ được hưởng lợi từ 1/4 số đó.
Trái lại nhóm các hộ giàu có thể khai thác nhiều hơn cơ hội tăng trưởng đó cho
phúc lợi của mình. Nghĩa là trong khi tăng trưởng kinh tế góp phần to lớn vào xoá
đói, giảm nghèo thì chính nó lại làm gia tăng thêm khoảng cách chênh lệch giàu
nghèo, do thành quả của tăng trưởng không được chia sẻ một cách đồng đều mà lại
theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống dư dật khá giả hơn.
Điều này được lý giải như sau: trong quá trình đổi mới, bắt đầu theo đuổi
kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam có hiệu suất sinh lời của đồng vốn đầu tư
cao. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tập trung vào những ngành đòi hỏi vốn

cao, ít lao động và lao động có trình độ cao. Vì vậy, những người giàu có nhiều điều
kiện hơn người nghèo để sản xuất, kinh doanh và sự sinh lời nhanh đã tạo thêm thu
nhập cho họ, góp phần làm tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng nhanh hơn.
Còn những người nghèo là những người bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình độ để
tham gia vào các ngành sản xuất đó, dẫn đến cơ hội việc làm, thu nhập, tiếp cận
thông tin, tri thức của họ ngày càng thấp. Cùng lúc, tại các địa phương có tỷ lệ vốn
đầu tư cao so với GDP và chất lượng giáo dục tốt hơn thì nhóm người giàu càng có
cơ hội tích tụ tài sản, đẩy mạnh làm ăn thu lời. Sự tăng trưởng của các địa phương
này vừa tạo thêm của cải cho người giàu (góp phần làm cho chênh lệch giàu nghèo
gia tăng), lại vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tóm lại, chênh lệch giàu nghèo hay bất bình đẳng về thu nhập không chỉ là
hậu quả của tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng. Bởi
vì bất bình đẳng để người giàu tăng tích luỹ, tăng đầu tư, do đó sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Nhưng nền kinh tế nước ta lựa chọn là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu là tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng
xã hội. Quá chú trọng tới tăng trưởng kinh tế, không quan tâm giải quyết các vấn đề
công bằng xã hội sẽ để lại nhiều hậu quả về mặt xã hội. Ngược lại, chỉ chú trọng tới
12
việc giải quyết các vấn đề xã hội sẽ triệt tiêu mất các động lực phát triển kinh tế.
Vì vậy, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội trong từng
bước đi và trong suốt quá trình phát triển của đất nước.
1.2.2. Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
Trong 20 năm tiến hành quá trình đổi mới, Việt Nam đã ngày càng biết đến
như một nền kinh tế năng động hàng đầu trong danh sách các nước đang phát triển
trên thế giới. Mặc dù vậy, tự do hoá, đặc trưng bằng quá trình mở cửa và hội nhập
vào kinh tế khu vực và thế giới, cũng đã làm nảy sinh sự gia tăng chênh lệch về thu
nhập giữa các nhóm dân cư, giữa khu vực thành thị với nông thôn, giữa các vùng
trong cả nước.
Theo kinh tế gia nổi tiếng Simon Kutznets, thường thì tại các nước bắt đầu
thực hiện tự do hoá, mở cửa kinh tế như tại các nước phương tây giữa thế kỷ 20, bất

bình đẳng thu nhập tăng nhanh, sau đó chậm dần rồi đến một thời điểm nào đó bắt
đầu giảm xuống. Nguyên nhân của hiện tượng này là do các yếu tố liên quan tới
cầu. Cụ thể, tại thời điểm bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá, công nghệ và thể chế
thay đổi sẽ kéo theo nhu cầu về vốn và lao động có kỹ năng, trong khi hạ thấp vai
trò của lao động không có kỹ năng dẫn đến bất bình đẳng tăng nhanh. Sau đó khi
nền kinh tế đã phát triển mạnh, thu nhập của lao động nói chung đều được cải thiện
thì bất bình đẳng thu nhập sẽ tăng chậm lại và giảm dần (hình chữ U ngược).
Việc mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới sẽ làm lợi chủ yếu cho các
trung tâm kinh tế của đất nước. Đầu tư vốn từ nước ngoài thường tập trung ở những
vùng đã có sẵn một hạ tầng cơ sở sản xuất tương đối tốt, nghĩa là ở thành thị. Mở
rộng kinh doanh và thu hút đầu tư nước ngoài như vậy sẽ có tác động đào sâu thêm
mức phân hoá giữa thành thị với nông thôn. Tuy nhiên, quá trình hội nhập với kinh
tế khu vực và thế giới giúp nền kinh tế của nước ta tiếp cận với các công nghệ hiện
đại, máy móc thiết bị hiện đại. Điều này đòi hỏi cán bộ, công nhân phải có trình độ,
tay nghề cao. Vì vậy mà những người lao động có trình độ chuyên môn sẽ được thu
hút vào làm việc và được trả lương cao, còn những lao động tay nghề thấp sẽ trở
nên thất nghiệp. Thêm vào đó, những người giàu có nhiều vốn và trình độ càng có
cơ hội làm ăn kinh doanh dẫn đến càng giàu có, những người nghèo không có vốn
và trình độ thì càng trở nên nghèo hơn. Do đó, không tránh khỏi sự gia tăng chênh
lệch về thu nhập và chi tiêu giữa thành thị với nông thôn, giữa lao động có tay nghề
với lao động giản đơn, giữa những người giàu có với những người nghèo.
Quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới dẫn đến sự chênh lệch
về thu nhập và mức sống giữa thành thị và nông thôn cũng là một sự kiện thường
thấy ở những nước nông nghiệp trong đó có Việt Nam. Từ những thập niên vừa
qua, giá quốc tế những mặt hàng nông, lâm sản, những nguyên liệu thô và sơ chế
giảm đi rất nhiều so với các mặt hàng công nghiệp. Mà công nghiệp lại thường có
địa bàn hoạt động ở các khu vực thành thị và vùng lân cận, khiến cho người dân
thành thị cổ cồn giàu lên và hưởng lợi nhiều nhất, trong khi nông dân hưởng lợi ít
nhất nên tương đối nghèo đi, dẫn đến mức thu nhập của dân cư thành thị tăng so với
dân cư nông thôn. Ngoài ra, những tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp và công

nghiệp chế biến khiến mức cầu lao động trong nông nghiệp giảm, lượng cung lao
động vượt cầu, gây thêm tác động tiêu cực đến mức thu nhập của người dân ở nông
thôn. Ngày nay, với sự phát triển của khâu dịch vụ cũng chủ yếu là ở thành thị, sự
13
chênh lệch thu nhập và mức sống diễn ra giữa hai khu vực này lại càng tăng thêm.
Bên cạnh đó, những vùng và khu vực có bộ máy hành chính hoạt động kém
hiệu quả với những thủ tục kinh doanh khó khăn và rườm rà, không tạo được môi
trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân tham
gia sản xuất kinh doanh, sẽ cũng tụt hậu.
Đặc biệt khi Việt Nam trở thành một thành viên của WTO, nếu chính phủ
không có các biện pháp tốt cho người nghèo và những người nông dân thì khoảng
cách giàu nghèo ngày một doãng rộng ra khi họ bắt buộc phải hội nhập vào WTO.
Bởi vì Việt Nam vẫn phải tiếp tục cải cách nền kinh tế trong vòng 5 năm sau sau khi
gia nhập WTO.
Các cuộc cải cách này có thể làm sút giảm thu nhập của các hộ nông dân,
khoét sâu hố ngăn cách thu nhập giữa thành thị với nông thôn và có khả năng làm
tăng tỷ lệ nghèo đói đang trên đà giảm. Những cuộc cải cách này sẽ có tác động đến
phân phối thu nhập, chẳng hạn sau khi gia nhập là phải xoá bỏ mọi trợ cấp nông
nghiệp và cắt giảm mạnh thuế nhập khẩu nông sản. Điều này sẽ làm giảm một cách
tương đối thu nhập của các hộ nông dân sản xuất những sản phẩm nông nghiệp bị
sản phẩm nhập khẩu cạnh tranh trực tiếp, đặc biệt là những sản phẩm chứa đựng lợi
thế đất đai, vốn không phải là thế mạnh của Việt Nam. Do đó, giảm nhu cầu về lao
động phổ thông sản xuất nông nghiệp. Thu nhập của những hộ nông dân bám vào
nông nghiệp còn giảm thêm do nhu cầu về đất đai canh tác giảm. Vì vậy, nếu Nhà
nước không có những chính sách hỗ trợ hữu hiệu thì thu nhập của hộ nông dân
thuần tuý dựa vào sản xuất nông nghiệp nói chung sẽ suy giảm cả về tuyệt đối và
tương đối so với hộ nông dân thoát ly nông nghiệp hay so với lao động ở khu vực
thành thị, dẫn đến làm tăng bất bình đẳng thu nhập trong khu vực nông thôn và giữa
nông thôn với thành thị.
1.2.3. Một số chính sách của nhà nước

Trong những năm qua chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều chính sách quan
tâm tới các vùng núi, vùng xa xôi, hẻo lánh, các hải đảo và các nhóm dân cư nghèo
khó như: cung cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, khám chữa bệnh miễn phí
cho những gia đình nghèo khó, miễn giảm học phí cho con em các gia đình nghèo,
gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, các đối tượng ưu tiên khác Và hàng loạt
các chương trình như: chương trình 135 (phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu,
vùng xa), chương trình 327 (Dự án trồng năm triệu ha rừng), chương trình 120 (Tạo
việc làm), chương trình tái định canh, định cư, thành lập ngân hàng người nghèo để
cung cấp tín dụng cho các hộ nghèo
Những chương trình và chính sách trên đã tạo được việc làm và thu nhập cho
hàng trăm ngàn hộ nghèo, giúp họ tự thoát khỏi nghèo đói. Điều này đã góp phần
làm giảm chênh lệch thu nhập và chi tiêu giữa các nhóm dân cư, các khu vực.
Song bên cạnh đó vẫn còn một số chính sách có tác động làm cho khoảng
cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư dường như ngày một nới rộng. Chẳng hạn
như chính sách chi tiêu công, theo báo cáo phát triển thế giới 2004 của Ngân hàng
thế giới, công bố cuối tháng 9/2003, nhóm 1/5 nghèo nhất của dân cư nhận được ít
hơn 1/5 chi tiêu cho giáo dục và y tế, trong khi nhóm 1/5 giàu nhất lại nhận được
nhiều hơn. Lý do cơ bản là chi tiêu công cộng đã nghiêng về những dịch vụ được
14
người giàu tiêu dùng nhiều hơn, cho dù ban đầu nó có xu hướng vươn tới người
nghèo.
Đối với chính sách đầu tư nói chung và đầu tư công nói riêng chưa hợp lý và
hiệu quả. Những vùng trọng điểm, kinh tế phát triển mạnh lại được đầu tư nhiều,
những vùng nghèo tỷ lệ vốn đầu tư còn quá thấp so với tổng vốn đầu tư. Chính sách
đầu tư công chủ yếu dành cho các doanh nghiệp nhà nước nhưng lại tạo ra rất ít việc
làm cho người lao động. Cụ thể, giai đoạn 2002 - 2004, trong khi khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh có tổng số vốn đầu tư là 320,9 nghìn tỷ đồng đã tạo ra khoảng
hơn 1 triệu việc làm mới, còn khu vực kinh tế nhà nước với tổng số vốn đầu tư là
384,8 nghìn tỷ đồng nhưng nhìn chung việc làm thay đổi ít.
Chính sách quản lý của nhà nước còn chưa chặt chẽ vẫn còn nhiều bất cập.

Chẳng hạn ở đầu giàu ngoài những người làm ăn chính đáng, làm giàu hợp pháp,
làm giàu bằng trình độ, bằng tri thức và năng lực của mình ra thì còn có một số
người giàu mới với các nguồn thu nhập không rõ ràng như tham nhũng, hoặc những
khoản thu nhập không chính đáng do kẽ hở của chính sách được hưởng từ nhà đất,
từ bao cấp mà có, hay các hiện tượng buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế, cạnh
tranh không lành mạnh, làm ăn phi pháp có xu hướng tăng, ảnh hưởng xấu tới tăng
trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội.
Về chính sách hỗ trợ cho người nghèo có hiệu quả nhưng chưa cao, thể hiện
ở đầu nghèo (tức là nhóm 1/5 thu nhập thấp nhất) có rất nhiều người nghèo do thiếu
vốn, thiếu lao động, thiếu việc làm, thiếu kinh nghiệm và trình độ hiểu biết, do bị
rủi ro ốm đau, tai nạn, thiên tai, do cơ cấu thu nhập.
Chính những điều bất cập được thể hiện ở các nhóm giàu và nghèo cũng là
một trong những nguyên nhân làm mở rộng khoảng cách giàu nghèo.
Tóm lại, ở Việt Nam nếu Nhà nước không quản lý và điều hành các chính
sách tốt hơn, đồng thời nếu không có một chính sách định hướng nhằm giảm thiểu
phân hoá giàu nghèo thì mức chênh lệch thu nhập hoặc chi tiêu giữa thành thị với
nông thôn, mức chênh lệch thu nhập giữa các nhóm dân cư, chênh lệch giữa các
vùng sẽ ngày càng gia tăng trong một nền kinh tế thị trường dưới áp lực toàn cầu
hoá và tư hữu hoá. Sự phân hoá ngày càng trầm trọng này sẽ tạo ra những vấn đề
phức tạp về an ninh quốc gia và an ninh xã hội. Đặc biệt luồng di dân từ nông thôn
ra thành thị, từ các tỉnh ra các thành phố lớn quá tải sẽ biến đô thị thành những
trung tâm của nạn thất nghiệp, môi trường thì ô nhiễm, các tệ nạn xã hội ngày càng
gia tăng
1.2.4. Các nhân tố thuộc về sự phát triển của các thể chế kinh tế thị trường
Các nhân tố thuộc về sự phát triển của các thể chế kinh tế thị trường như: vai
trò của đất đai đối với nông dân và nông thôn, sự hoạt động biến dạng của thị
trường đất đai và bất động sản Đây là những nhân tố quan trọng tác động đến
chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Với 79% người nghèo sống chủ yếu ở nông
thôn mà một trong những nguyên nhân dẫn đến nghèo đói là do họ không có ruộng
đất hoặc có quá ít đất canh tác. Tỷ lệ nông dân không có ruộng đất tăng lên cao tại

đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ và tình trạng thiếu đất canh tác
cũng xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Không có đất hay
thiếu đất canh tác, đồng nghĩa với việc người nông dân thiếu việc làm gay gắt, thu
nhập không ổn định và cuộc sống trở lên khó khăn hơn.
15
Tại các vùng ven đô đất canh tác không tăng thêm mà bị thu hẹp do quá trình
đô thị hoá. Đối với khu vực thành thị và các vùng sắp được đô thị hoá, việc đầu cơ
đất đai, đẩy giá đất lên mức khá cao hay việc chuyển nhượng bất động sản phi chính
thức chưa bị đánh thuế thu nhập, thuế lợi nhuận dẫn đến một số nhóm người giàu có
một cách nhanh chóng góp phần làm cho chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng
trong xã hội tăng lên.
Bên cạnh đó thị trường bất động sản chính thức thì hầu như đóng băng trong
khi thị trường bất động sản phi chính thức hoạt động với quy mô rất lớn không được
kiểm soát và điều tiết. Thị trường lao động thì chưa phát triển mạnh các dịch vụ môi
giới lao động, giới thiệu việc làm
1.3. Tình hình chung về chênh lệch giàu nghèo
1.3.1. Bức tranh chung về chênh lệch giàu nghèo của thế giới
Mức phân phối thu nhập giữa các nước vừa có xu hướng phân kỳ, vừa có xu
hướng hội tụ: ở một số khu vực khoảng cách thu nhập đang thu hẹp, trong khi một
số khác khoảng cách về thu nhập lại đang có chiều hướng gia tăng. Năm 1960, một
số khu vực tương đương nhau: vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương, Nam Á,
Châu Phi cận Sahara và các nước kém phát triển nhất có mức thu nhập bình quân
đầu người từ 1/10 đến 1/9 mức thu nhập bình quân đầu người của các nước thuộc
OECD thu nhập cao. Các nước Mỹ Latinh và vùng Caribê có mức thu nhập đầu
người khá hơn nhưng cũng chỉ bằng 1/3 đến 1/2 mức thu nhập đầu người của các
nước thuộc OECD.
Sự tăng trưởng đầy ấn tượng của các nước Đông Á và Thái Bình Dương làm
tăng tỷ lệ thu nhập của các nước này so với các nước thuộc OECD thu nhập cao, từ
khoảng 1/10 lên đến gần 1/5 trong thời kỳ 1960 - 2004. Thu nhập tương đối của các
nước vùng Caribê và Mỹ La tinh vẫn không thay đổi. Thu nhập của các nước Nam

Á - từ sau thời gian suy thoái vào những năm 1960 và 1970, rồi phục hồi đáng kể
vào những năm 1980 và 1990, vẫn chỉ bằng 1/10 mức thu nhập của các nước thuộc
khối OECD. Tại vùng Châu Phi cận Sahara, tình hình tồi tệ đi: thu nhập trên đầu
người khoảng 1/9 mức thu nhập của các nước thuộc khối OECD thu nhập cao vào
những năm 1960, đã giảm xuống còn khoảng 1/18 vào những năm 2002.
Mặc dù chênh lệch thu nhập tương đối ở nhiều nước có giảm đi, nhưng
khoảng cách tuyệt đối trong thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên. Thậm chí ở
khu vực tăng trưởng nhanh nhất là khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, chênh
lệch tuyệt đối về thu nhập so với các nước thuộc khối OECD thu nhập cao đã mở
rộng từ 6000 USD năm 1960 lên hơn 13000 USD năm 1998 và 16000 USD vào
năm 2005.
Một nghiên cứu gần đây của Milanovic so sánh giữa người giàu nhất với
người nghèo nhất trên toàn thế giới đưa ra một bức tranh về mức độ bất bình đẳng
trên thế giới đầy đủ hơn nhiều so với việc so sánh đơn giản các mức trung bình
quốc gia. Trên cơ sở số điều tra 1998- 2003, nghiên cứu này đề cập đến 91 nước
(chiếm khoảng 84% dân số thế giới) điều chỉnh theo quy tắc sức mua ngang bằng.
Nhược điểm của nghiên cứu này là dựa hoàn toàn vào số liệu điều tra về ngân sách
gia đình. Những cái có thể không so sánh được và có mức độ hạn chế. Dù sao
nghiên cứu cũng đưa ra một số kết quả đáng chú ý:
16
Mức độ bất bình đẳng trên thế giới lớn. Thu nhập của 10% những người
nghèo nhất trên thế giới chỉ bằng 1,6% thu nhập của 10% những người
giàu nhất.
1% những người giàu nhất trên thế giới có mức thu nhập bằng 57% những
người nghèo nhất.
Tổng thu nhập của 10% những người giàu nhất nước Mỹ lớn hơn thu nhập
của 43% những người nghèo nhất trên thế giới.
Khoảng 25% dân số giàu nhất thế giới chiếm 75% thu nhập toàn thế giới
( theo PPP USD).
Bên cạnh đó, vấn đề toàn cầu hoá làm xuất hiện nguy cơ phân hoá hai cực thế giới

(Bắc - Nam), phân hoá hai cực giàu nghèo, phân hoá xã hội một cách sâu sắc. Sự
nghèo khổ và hố ngăn cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển
ngày càng tăng lên. Trong báo cáo về " sự phát triển nhân văn" năm 1999, chương
trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) khẳng định: "Các thế lực của quá trình toàn
cầu hoá đã mang lại sự giàu có vô độ cho những người biết tận dụng lợi thế các
nguồn hàng hoá, dịch vụ đang tràn qua đường biên giới quốc gia", trong khi đa số
dân chúng trên thế giới ngày càng nghèo đi. Chính vì vậy, khoảng cách chênh lệch
giàu nghèo trên thế giới ngày một doãng ra.
Theo báo cáo của Liên hiệp quốc về phát triển con người năm 2000 cho thấy:
chỉ trong vòng 5 năm (1995 - 2000), 200 người giàu nhất thế giới đã nhân gấp đôi
số tài sản kếch xù của họ lên hơn 1000 tỷ USD; cũng trong thời gian đó 1,3 tỷ
người sống dưới mức nghèo khổ với thu nhập bình quân 1 USD/ngày vẫn không
thay đổi. Quá nửa dân số thế giới trên 3 tỷ người chủ yếu thuộc các nước đang phát
triển có mức thu nhập dưới 2 USD/ người/ngày, trên 90% số người nghèo khổ hiện
đang sống ở các nước đang phát triển. Từ năm 1971 đến nay, số nước nghèo và
chậm phát triển nhất (LDC) không giảm đi mà còn tăng từ 25 lên 48 nước. Trong
khi các nước công nghiệp phát triển với khoảng 1,2 tỷ người, bằng 1/5 dân số thế
giới đang chiếm tới 86% GDP toàn cầu và 4/5 thị trường xuất khẩu và 1/3 vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khống chế 75% đường dây điện thoại thế giới thì các
nước nghèo nhất chiếm 1/5 dân số thế giới nhưng chỉ tạo ra được 1% GDP toàn cầu
và chỉ chiếm 0,4% kim ngạch xuất khẩu, 0,6% kim ngạch nhập khẩu của thế giới.
Tỷ lệ về khoảng cách GDP theo đầu người giữa các nước giàu nhất và nghèo nhất
cũng gia tăng nhanh chóng từ 31/1 vào những năm 1960, lên 61/1 vào thập niên
cuối cùng của thế kỷ XX và hiện nay khoảng cách này là 74/1.
Trên đây, chúng ta mới chỉ xem xét vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các khu
vực, giữa nước giàu với nước nghèo, giữa các nước phát triển với các nước đang
phát triển ở trên phạm vi toàn thế giới. Còn vấn đề chênh lệch thu nhập hay chênh
lệch giàu nghèo trong phạm vi mỗi quốc gia cũng rất quan trọng và có thể tác động
đến triển vọng của quốc gia đó trong dài hạn.
Một nghiên cứu bao gồm 77 nước, chiếm 82% dân số thế giới cho thấy,

trong giai đoạn từ những năm 1950 đến những năm 2000, tình trạng chênh lệch
giàu nghèo đã tăng lên ở 45 nước và giảm ở 16 nước. Nhiều nước có tình trạng
chênh lệch về thu nhập tăng lên là các nước Đông Âu và cộng đồng các quốc gia
độc lập (SNG), những nước có mức tăng trưởng thấp và âm vào những năm 1990.
Tại 16 nước còn lại, hoặc xu hướng không rõ, hoặc bất bình đẳng thu nhập giảm,
17
sau đó chững lại.
Các nước mỹ La Tinh và vùng Caribê là những nước có bất bình đẳng thu
nhập cao nhất thế giới. Ở 13 nước trong số 20 nước có số liệu vào những năm đầu
của thế kỷ XXI, 10% những người nghèo nhất có mức thu nhập thấp hơn 1/20 mức
thu nhập của 10% những người giàu nhất. Tình trạng bất bình đẳng quá cao đẩy
hàng triệu người vào tình trạng nghèo đói quá mức và hạn chế nghiêm trọng tác
động của sự tăng trưởng có tính công bằng tới tình trạng nghèo đói. Do đo, các
nước Mỹ La Tinh và vùng Caribê chỉ có thể đạt được mục tiêu giảm được một nửa
tỷ lệ nghèo đói vào năm 2015 nêu trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ, chỉ khi khu
vực này tạo ra được tăng trưởng mạnh hơn và sự tăng trưởng đó mang lại lợi ích
cho người nghèo hơn.
Trung Quốc và Ấn Độ - hai nước có mức thu nhập bình quân đầu người thấp
nhưng tăng trưởng nhanh và dân số lớn - xứng đáng được chú ý tới. Tại Trung Quốc
bất bình đẳng có dạng hình chữ U, với tình trạng bất bình đẳng giảm cho đến giữa
những năm 1980, sau đó lại tăng lên và đến bây giờ đang ở thời kỳ nóng bỏng. Tình
trạng chệch lệch giàu nghèo ngày càng gia tăng và sự chênh lệch quá lớn giữa thành
thị và nông thôn. Các số liệu của chính phủ Trung Quốc cho biết, cùng với việc cải
cách kinh tế, 10% số người giàu nhất ở Trung Quốc sở hữu đến 40% tài sản đất
nước, trong khi đó 10% số người nghèo nhất chỉ chiếm 2%. Tình hình xảy ra tốt
hơn ở Ấn Độ, mức độ chênh lệch giàu nghèo giảm xuống cho tới gần đây và sau đó
tới điểm dừng.
Nhiều nước ở Châu Phi cận Sahara có mức chênh lệch giàu nghèo cao. 16
trong số 22 nước cận Sahara có số liệu những năm 90, thu nhập của 10% dân số
nghèo nhất chưa bằng 1/10 số thu nhập của 10% dân số giàu nhất, và ở 9 nước là ít

hơn 1/20.
Các nước thuộc khối OECD cũng có sự khác biệt trong bất bình đẳng thu
nhập, từ những mức thấp như ở Áo và Đan Mạch, đến những mức tương đối cao
như ở Anh và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, so với thế giới, mức độ bất bình đẳng về thu
nhập ở các nước này là tương đối thấp. Xu hướng thay đổi theo thời gian của các
nước này như thế nào? Kết quả từ nhiều nghiên cứu khác nhau ở các nước và giữa
các nước cho thấy rằng, bất bình đẳng thu nhập ở nhiều nước thuộc OECD đã tăng
lên từ giữa và cuối những năm 80 và những năm đầu của thế kỷ XXI.
Tóm lại, trong khi thế giới ngày càng giàu có hơn thì bất bình đẳng thu nhập
- dù là tuyệt đối hay tương đối, đều gia tăng nhanh chóng trong nội bộ từng nước và
giữa nước giàu với nước nghèo.
1.3.2. Sự phân hóa giàu nghèo của Việt Nam
Chúng ta biết rằng, quá trình phân hoá giàu nghèo tiếp diễn liên tục trong
lịch sử loài người theo dòng chảy của sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ khi
lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa ra đời và phát triển, xuất hiện chế độ chiếm hữu tư nhân và trao đổi, sự phân
hoá giàu nghèo bắt đầu từ đó. Trong tác phẩm " Nguồn gốc của gia đình, của chế độ
tư hữu, của chế độ nhà nước", Ăng ghen đã viết: " Sự phân biệt giữa kẻ giàu và
người nghèo đã xuất hiện bên cạnh sự phân biệt giữa người tự do và người nô lệ.
Cùng với sự phân công mới là sự phân chia mới xã hội thành giai cấp".
Như vậy, chính sự phân hoá giàu nghèo tất yếu dẫn đến sự phân hoá giai cấp
18
và khi lợi ích của các giai cấp mâu thuẫn thì xung đột xã hội trở nên gay gắt. Việt
Nam dưới thời kỳ xã hội phong kiến được chia ra thành hai giai cấp đó là giai cấp
địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân, người lao động làm thuê. Sự giàu có tập
trung vào tay các nhà địa chủ, họ nắm trong tay hàng trăm héc ta ruộng đất, hàng
ngàn lao động làm thuê. Còn sự nghèo khó lại rơi vào những người nông dân,
những lao động làm thuê. Ngay trong giai đoạn này xã hội đã được chia thành hai
tầng lớp giàu có và nghèo khổ.
Đến thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, các sản phẩm xã hội

làm ra về cơ bản được phân phối mang tính bình quân bao cấp hiện vật, thực chất là
chia đều sự nghèo khổ. Việc thực hiện công bằng trong xã hội này là "cào bằng", là
chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất lượng, hiệu quả sản xuất
kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người trong sự phát triển chung của cộng đồng.
Vì vậy, cuộc sống của người dân " khéo ăn mới no, khéo co mới ấm". Do đó, ranh
giới giàu nghèo dường như đã bị xoá mờ trong ý thức của đại đa số người dân nước
ta.
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, không thể duy trì cơ chế phân phối bình quân bao cấp như trước kia thì sự
phân hoá giàu nghèo dần dần lộ rõ. Khi nền kinh tế có điều kiện tăng trưởng, do đó
không tránh khỏi việc gia tăng chênh lệch giàu nghèo. Tại Đại hội Đảng cộng sản
Việt Nam lần thứ VII diễn ra vào tháng 6 năm 1991 đã nêu lên chủ chương
"Khuyến khích làm giàu đi đôi với giảm số người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế". Mặc dù, tỷ lệ đói nghèo đã giảm và thu
nhập của nhóm nghèo đã được cải thiện nhưng vẫn còn có sự chênh lệch khá lớn
giữa các nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo về thu nhập và chi tiêu. Chính những
điều này đã tạo điều kiện, cơ hội cho các hộ giàu được tiếp cận nhiều hơn trên các
lĩnh vực giáo dục, y tế, dịch vụ Ngược lại, những người có thu nhập thấp càng
gặp khó khăn hơn trước sự bùng phát của vô số các dịch vụ.
Đây là xu thế vận động khó tránh khỏi không chỉ ở nước ta mà kể cả các
nước khác trong quá trình phát triển. Nước ta do trình độ của lực lượng sản xuất còn
lạc hậu, phát triển không đồng đều, dân số đông, có sự phức tạp về địa lý, điều kiện
khí hậu, tài nguyên cũng như phong tục tập quán văn hoá của các dân tộc. Vì vậy,
việc giải quyết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội là điều không
dễ. Tuy nhiên, kinh tế thị trường mà Việt Nam lựa chọn là kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng này đòi hỏi phải kiềm chế sự gia tăng bất hợp
lý của chênh lệch giàu nghèo.
1.3.3. Những tác động của chênh lệch giàu nghèo
Sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu, song việc

phân hoá đi quá xa, tập trung ở các khu vực hay các vùng nhạy cảm trong thời gian
dài sẽ trở thành lực cản thực sự trên bước đường phát triển kinh tế và thực hiện
công bằng xã hội. Đó cũng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn xung đột về
mặt chính trị, xã hội, đánh mất các cơ hội phát triển kinh tế. Sự chênh lệch giàu
nghèo không chỉ là điều đáng lo ngại đối với những người dân quan tâm đến tình
trạng thu nhập tương đối của họ mà nó còn đáng lo ngại cho cả một quốc gia vì các
tác động sau:
19
Một là, chênh lệch giàu nghèo có thể làm trầm trọng tác động của các thất
bại chính sách và thất bại thị trường tới tăng trưởng kinh tế, do vậy, tới sự tiến bộ
đối với người nghèo. Điều này làm cho chênh lệch giàu nghèo trở lên đặc biệt quan
trọng ở các nước nghèo như Việt Nam, nơi mà thị trường không hoàn hảo và các
thất bại về thể chế mang tính phổ biến. Ví dụ, những nơi thị trường vốn kém phát
triển như ở các tỉnh miền núi, các khu vực nông thôn và các khu vực vùng sâu, vùng
xa, người nghèo không có tài sản thế chấp sẽ khó có khả năng có thể vay vốn được.
Khả năng thực hiện các công việc kinh doanh nhỏ của họ do đó sẽ rất hạn chế - dẫn
đến làm giảm mức tăng trưởng chung của cả nước và hạn chế các cơ hội cho các hộ
nghèo.
Mặc dù, tăng trưởng kinh tế không phải là tất cả để thúc đẩy phát triển con
người và để giảm nghèo đói. Bởi vì khi có sự tăng trưởng kinh tế thì những người
nghèo chỉ được hưởng một phần từ sự tăng trưởng đó. Đặc biệt, đối với các quốc
gia chậm phát triển và bất bình đẳng về thu nhập ở mức cao, sự tăng trưởng sẽ tác
động rất ít đến việc giảm nghèo đói. Trái lại, đối với các nước có nền kinh tế phát
triển thì giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo đói lại có mối quan hệ về số học.
Kinh nghiệm của Trung Quốc, Hàn Quốc và các nước khác ở Đông Á cho thấy,
tăng trưởng kinh tế mang lại sự đóng góp rất lớn.
Hai là, sự tập trung thu nhập vào nhóm giàu nhất có thể làm hạn chế các
chính sách công cộng như chính sách hỗ trợ cho giáo dục công nhằm mục đích phổ
cập và nâng cao chất lượng - đây là một chính sách có thể nâng cao sự phát triển
của con người. Chi tiêu công cho giáo dục có xu hướng phân bổ không công bằng,

cơ hội giáo dục tốt hơn thường được dành cho trẻ em thành thị nhiều hơn trẻ em
nông thôn, cho trẻ em con nhà giàu hơn là trẻ em con nhà nghèo. Thậm chí, ngay cả
khi giáo dục tiểu học được cung cấp miễn phí thì trẻ em nghèo có thể cũng không
được hưởng lợi. Rất nhiều trong số những đứa trẻ nghèo này phải làm việc thay vì
đến trường. Làm việc quá tải trước tuổi trưởng thành làm giảm sức khoẻ của trẻ và
cản trở sự phát triển các kỹ năng xã hội của trẻ em, làm giảm năng lực kiếm sống
khi trở thành người lớn và kéo dài mãi cái vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo.
Các chính sách dân tuý gây ra lạm phát có thể làm ảnh hưởng đến người
nghèo trong dài hạn. Trong báo cáo "Nước cho tất cả" vừa được công bố, các tác
giả đã chứng minh được rằng trong khi tại các thành phố lớn, các khu đô thị thì
được hưởng nước sạch với giá rẻ thì tại nông thôn, các khu vực miền núi lại không
được cung cấp nước sạch. Bên cạnh đó, điện tiêu thụ ở nông thôn với giá đắt gấp
đôi ở thành thị và lại thường xuyên bị cắt trong những mùa nóng. Như vậy, việc xây
dựng và thực hiện các chính sách an sinh xã hội là cần thiết, khi mà vấn đề bất bình
đẳng xuất hiện dưới hình thức thu nhập tập trung vào một nhóm dân cư giàu có nhất
đứng đầu và tình trạng nghèo đói nặng nề ở phía sau những người dưới đáy xã hội.
Ba là, sự chênh lệch giàu nghèo lớn, làm giảm số người có khả năng tiếp cận
các nguồn lực (như đất đai, vốn, giáo dục ) cần thiết để giải phóng toàn bộ tiềm
năng sản xuất của họ. Bất bình đẳng cao sẽ làm giảm các nguồn vốn xã hội, bao
gồm sự tự tin và tính trách nhiệm công dân, những yếu tố nền tảng cho sự tạo dựng
và tính bền vững của các thể chế công cộng lành mạnh. Ngoài ra, nó có thể hạn chế
sự tham dự của nhóm dân cư nghèo vào các hoạt động chung của đời sống cộng
đồng, như các hoạt động vui chơi giải trí, các hoạt động văn hoá thể thao Đồng
thời, chênh lệch giàu nghèo quá lớn thì làm tăng tỷ lệ tội phạm, ảnh hưởng tới đời
20
sống tương ái giữa các nhóm dân cư giàu nghèo. Như vậy, một quốc gia đã tự làm
mất những đóng góp mà người nghèo có thể thực hiện đối với phát triển kinh tế và
xã hội.
Bốn là, Chênh lệch giàu nghèo càng lớn càng đe doạ ổn định về chính trị của
một quốc gia do có nhiều người không thoả mãn về tình trạng kinh tế của mình,

khiến cho khó đạt được sự đồng thuận về chính trị giữa các nhóm dân cư có mức
thu nhập cao thấp khác nhau. Bất ổn về chính trị sẽ làm tăng rủi ro khi đầu tư vào
một quốc gia và làm suy giảm một cách đáng kể tiềm năng phát triển của quốc gia
đó. Bởi vì, một môi trường đầu tư thuận lợi bao gồm nhiều yếu tố làm cho việc đầu
tư vào nước này mang lại nhiều lợi ích hơn và ít rủi ro hơn khi đầu tư vào nước
khác. Sự ổn định về chính trị là một trong những yếu tố quan trọng nhất.
Tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước đều lo lắng trước những biến động
chính trị và viễn cảnh chế độ mới có thể áp đặt các mức thuế hà khắc hay tịch thu
các tài sản đầu tư. Kết quả là một quốc gia lại có thể rơi vào cái vòng luẩn quẩn của
đói nghèo, điều này đã từng xảy ra trong lịch sử tại nhiều nước Châu Phi và một vài
nước Châu Mỹ Latinh. Sự bất ổn chính trị "xua đuổi" những khoản đầu tư mới, cái
bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và cải thiện phúc lợi cho cuộc sống
của người dân, thậm chí gây ra sự bất mãn về chế độ chính trị và làm tăng sự bất ổn
chính trị. Rơi vào cái vòng luẩn quẩn này có thể gây trở ngại to lớn cho các nỗ lực
thúc đẩy phát triển kinh tế và xoá đói giảm nghèo.
Năm là, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng thường phản ánh điều kiện
địa dư của phân bố tài nguyên, mặt khác phản ánh mức độ phát triển của từng vùng
và sự hoà nhập kinh tế của các vùng với nhau. Nếu sự chênh lệch này mà ở mức
không đáng kể thì có thể coi như là ổn định, nếu sự chênh lệch này đạt đến một mức
độ nào đó, mâu thuẫn quyền lợi kinh tế địa phương là điều không tránh khỏi. Những
mâu thuẫn này có thể dẫn đến những xung đột mà mức gay gắt nhất là ly khai. Lịch
sử nhân loại đầy những thí dụ này và nhất là ở Châu Phi trong hai mươi năm trở lại
đây. Cách giải thích thường ghép thêm sắc tộc vào những vùng xảy ra ly khai và
đem những lý lẽ như văn hoá, quyền tự trị ra làm nguyên do cho những xung đột
không thể hoà giải này được. Thực ra, chính mức thu nhập mới là động cơ và nếu
thêm tác động từ bên ngoài, thường là từ một cường quốc có quyền lợi kinh tế trong
vùng thì khả năng đẩy mức xung đột đến bạo loạn ly khai mới có thể được.
Sáu là, sự chênh lệch thu nhập giữa thành thị với nông thôn quá cao sẽ gây ra
các tác hại không thể lường trước được. Chẳng hạn như vấn đề an ninh quốc gia và
an ninh xã hội. Vì vậy, nếu phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị theo

vùng ngày càng sâu sắc thì dể xảy ra các tranh chấp xã hội giữa nông dân với nhau,
giữa nông dân với thị dân. Ngoài ra, người dân nông thôn tự mình di chuyển về các
thành phố lớn và các khu đô thị quá tải, tạo ra các bài toán mới về nhà ở, số người
thất nghiệp, ô nhiễm môi trường và những tệ nạn sinh ra từ nghèo khó. Mức sinh
hoạt kinh tế đô thị sẽ bị ảnh hưởng đáng kể, với một dân số quá lớn thiếu công ăn
việc làm.
Bẩy là, sự chênh lệch giàu nghèo cao hạn chế việc sử dụng các công cụ thị
trường quan trọng như thay đổi mức giá và tiền phạt. Ví dụ, tiền điện và tiền nước
sạch cao hơn sẽ làm tăng tính hiệu quả trong việc sử dụng năng lượng, nhưng trong
bối cảnh bất bình đẳng thu nhập nghiêm trọng, chính phủ chỉ cần tăng giá một chút
21
cũng có nguy cơ gây ra tình trạng nghèo khổ cùng cực cho đại bộ phận dân chúng
nghèo nhất.
Tóm lại, những tác động của chênh lệch giàu nghèo vừa kể ở trên đã đặt rõ
vấn đề làm sao để giảm bớt chênh lệch thu nhập và chênh lệch mức sống giữa các
nhóm dân cư giàu nghèo, giữa các vùng và giữa thành thị với nông thôn. Khát vọng
một tương lai chung cho mọi tầng lớp là một nền kinh tế có phát triển và từng bước
hiện đại hoá. Sự phát triển này không đi ngược với chính sách làm sao cho phân hoá
giàu nghèo, mỗi ngày một giảm đi. Và nhất là giảm cho đến dưới mức nó có khả
năng thành nguyên do của những bất ổn chính trị và xã hội.
CHƯƠNG II: LỰA CHỌN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ
VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ PHÂN TÍCH CHÊNH
LỆCH GIÀU NGHÈO
2.1. LỰA CHỌN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ CHÊNH LỆCH GIÀU
NGHÈO
2.1.1 Sự cần thiết và những yêu cầu của lựa chọn hệ thống chỉ tiêu thống kê chênh
lệch giàu nghèo
Các chỉ tiêu thống kê chênh lệch giàu nghèo là một bộ phận của hệ thống các
chỉ tiêu kinh tế xã hội nói chung và hệ thống các chỉ tiêu thống kê mức sống dân cư
nói riêng. Do vậy, việc lựa chọn các chỉ tiêu phản ánh chênh lệch giàu nghèo hay

chính là các chỉ tiêu phản ánh sự bất bình đẳng về thu nhập và chi tiêu phải phản
ánh được ở nhiều góc độ khác nhau, cho nên khi nghiên cứu cần phải có các chỉ tiêu
22
phản ánh về thu nhập, về chi tiêu và các chỉ tiêu phản ánh chênh lệch giàu nghèo.
Bên cạnh đó, việc lựa chọn hệ thống chỉ tiêu đo lường chênh lệch giàu nghèo
rất hữu ích cho việc so sánh sự chênh lệch về thu nhập hoặc chi tiêu giữa các nhóm
dân cư, các khu vực, các vùng trong nội bộ một quốc gia hay có thể so sánh quốc tế,
đồng thời có thể so sánh mức độ chênh lệch giàu nghèo theo thời gian.
Ngày nay, vấn đề chênh lệch giàu nghèo được coi là vấn đề quan trọng đối
với bất kỳ quốc gia nào. Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực đưa ra các biện pháp
nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo như các chương trình phát triển, ưu đãi đầu
tư cho khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa và các chương trình xoá đói giảm
nghèo mà điển hình là chương trình 135 Vì vậy, cần phải lựa chọn hệ thống chỉ
tiêu đo lường, đánh giá chênh lệch giàu nghèo cho phù hợp với điều kiện cụ thể của
nước ta.
Việc lựa chọn các chỉ tiêu thống kê chênh lệch giàu nghèo phải đảm bảo một
số yêu cầu sau đây:
Tính chuyển nhượng: đây chính là nguyên lý chuyển nhượng của Pigou- Dalton,
nguyên lý chuyển nhượng đòi hỏi một chuyển nhượng thu nhập hoặc chi tiêu từ
một người giàu hơn tới một người nghèo hơn sẽ làm giảm tính toán chênh lệch
giàu nghèo mà không làm thay đổi vị trí tương đối của họ. Tất cả các chỉ số đo
lường chênh lệch giàu nghèo đều thỏa mãn nguyên lý chuyển nhượng.
Tính độc lập trung bình: các hệ số chênh lệch giàu nghèo sẽ không thay đổi nếu tất
cả thu nhập hoặc chi tiêu tăng hay giảm cùng một tỷ lệ. Điều này có nghĩa là nó
phụ thuộc vào tỷ lệ Y
1
:Y
2
:Y
3

: :Y
n
( với Y
i
là thu nhập hoặc chi tiêu của người
thứ i) chứ không phụ thuộc vào giá trị tuyệt đối của các thu nhập cũng như sự
chênh lệch giữa các thu nhập ((Y
1
-Y
2
), (Y
2
-Y
3
), (Y
n-1
-Y
n
)).
Tính độc lập theo quy mô dân số: nếu dân số thay đổi, các điều kiện khác vẫn giữ
nguyên thì các thước đo chênh lệch giàu nghèo không thay đổi.
Tính cân bằng: nếu hai người đánh đổi thu nhập hoặc chi tiêu cho nhau thì các
thước đo chênh lệch giàu nghèo hay bất bình đẳng vẫn giữ nguyên.
Tính phân tách cộng dồn giữa các nhóm nhỏ: Việc phân tách bất bình đẳng theo
một tập hợp các nhóm nhỏ là cần thiết cho việc đánh giá tổng số bất bình đẳng
về thu nhập hoặc chi tiêu là bao nhiêu do sự chênh lệch trong các nhóm và tổng
bất bình đẳng là bao nhiêu do sự chênh lệch giữa các nhóm với nhau. Những
nhóm này có thể được chia thành các nhóm dân cư, các vùng, khu vực thành thị
- nông thôn. Với tiêu chí này chỉ có các số đo Entropi khái quát hóa về bất bình
đẳng là chỉ số Theil L và Theil T mới thỏa mãn tính phân tách cộng dồn, trong

đó bất bình đẳng trong từng nhóm nhỏ và bất bình đẳng giữa các nhóm cộng lại
bằng tổng bất bình đẳng. Tuy nhiên, nếu phân tách bất bình đẳng giữa các nguồn
thu nhập thì cần phải lưu ý vì thu nhập không phải là các nhóm loại trừ lẫn nhau.
Nhiều hộ có các nguồn thu nhập từ hơn một nhóm, ví dụ như vừa từ hoạt động
nông nghiệp, vừa từ lao động hưởng lương.
Có thể xử lý được các giá trị thu nhập âm: thu nhập âm xảy ra khi mất mùa diễn ra
từ năm này qua năm khác hoặc các doanh nghiệp tự trả lương làm ăn thua lỗ từ
năm này qua năm khác. Với tiêu chí này chỉ có hệ số Gini mới thỏa mãn.
Như vậy, các chỉ tiêu đo lường chênh lệch giàu nghèo có thể thỏa mãn tất cả hoặc
23
chỉ một vài yêu cầu đưa ra ở trên. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng tất cả các hệ số
chênh lệch giàu nghèo đều là các đơn vị tự do, do đó có thể nói nó chỉ là các con số
thuần túy. Chính vì vậy nó rất thuận tiện cho việc so sánh chênh lệch giàu nghèo
giữa các nhóm dân cư, các vùng, các khu vực, các địa phương trong cả nước và
giữa các nước với nhau.
Để phân tích được sự chênh lệch giàu nghèo thì cần phải tính toán được các
chỉ tiêu về thu nhập như thu nhập của dân cư ( hộ gia đình), thu nhập bình quân đầu
người Tuy nhiên, việc tính toán thu nhập của hộ gia đình có nhiều sai số, nhất là ở
các nước có thu nhập thấp như nước ta mà hộ nông dân và doanh nghiệp phi nông
nghiệp chiếm ưu thế, người trả lời phỏng vấn có thể rất miễn cưỡng khi đưa ra con
số về thu nhập thực tế của họ. Các hộ có thể cũng không biết chính xác được mức
thu nhập của họ. Việc tính toán nguồn thu thuần cho các doanh nghiệp cá thể đòi
hỏi phải tổng hợp một số lượng lớn đầu vào có định kỳ, chi phí lao động và doanh
số sản phẩm cũng như giải quyết được các vấn đề có tính khái niệm và khó trên
thực tiễn. Cuộc điều tra mức sống hộ gia đình đã cố gắng rất nhiều để có thể tính
toán được tất cả các mục này qua hàng trăm loại đầu vào và đầu ra nhưng tổng hợp
chung về nguồn thu nhập thuần của hộ vẫn không tránh khỏi sai số. Có khá nhiều số
âm và dương với khác biệt rất lớn trong nguồn thu thuần của hộ nông dân và hộ gia
đình không phải ở nông thôn. Chẳng hạn như cuộc điều tra mức sống dân cư năm
1993 rất nhiều hộ gia đình có thu nhập thấp hơn chi tiêu của hộ.

Vì vậy, trong luận văn này, tác giả sẽ sử dụng cả chỉ tiêu thu nhập và chi tiêu
nhưng chủ yếu vẫn là thu nhập để phân tích và tính toán. Sở dĩ, tác giả dùng chi tiêu
để tính toán và phân tích bởi vì chi tiêu có thể được xem là một phép ước tính của
thu nhập thường xuyên và được tính toán một cách khá chính xác.
Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh chênh lệch giàu nghèo nhưng trong chương
này tác giả xin lựa chọn và giới thiệu một số chỉ tiêu cơ bản nhất hay được sử dụng
phổ biến để tính toán và phân tích. Các chỉ tiêu được chia thành 3 nhóm: nhóm chỉ
tiêu phản ánh quy mô, mức độ thu nhập và chi tiêu; nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu
thu nhập và chi tiêu; nhóm chỉ tiêu đo lường chênh lệch giàu nghèo. Trong 3 nhóm
chỉ tiêu này thì nhóm chỉ tiêu đo lường chênh lệch giàu nghèo được sử dụng là chủ
yếu còn hai nhóm trên chỉ sử dụng mang tính hỗ trợ.
2.1.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh quy mô, mức độ thu nhập và chi tiêu
2.1.2.1. Thu nhập của hộ gia đình
Thu nhập của hộ gia đình là tổng số tiền mà hộ gia đình và các thành viên
của hộ nhận được từ các nguồn thu khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định
thường là một năm.
Cách xác định:
Thu nhập của hộ gia đình = (bằng)
Thu nhập từ tiền lương, tiền công
+(cộng) Tổng thu từ hoạt động SXKD nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
-(trừ) Chi phí SXKD nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
+(cộng) Tổng thu từ hoạt động SXKD phi nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
24
-(trừ) Chi phí SXKD phi nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
+(cộng) Thu nhập từ hưu trí, trợ cấp và học bổng
+(cộng) Thu nhập từ chuyển nhượng hiện hành khác
2.1.2.2. Thu nhập bình quân đầu người
Thu nhập bình quân đầu người là số tiền trung bình mà một người nhận được
trong một khoảng thời gian nhất định thường là một năm.
Công thức:

N
Y
Y =
Trong đó:
Y
là thu nhập bình quân đầu người
Y là tổng thu nhập của dân cư
N là dân số bình quân.
Chỉ tiêu này phản ánh sức mua của từng người trong một thời gian nhất định và
được tính cho từng nhóm dân cư, từng khu vực, từng vùng và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
2.1.2.3. Chi tiêu của hộ gia đình
Chi tiêu của hộ gia đình là tổng số tiền mà hộ và các thành viên của hộ chi
cho các nhu cầu về vật chất và dịch vụ của mình trong một khoảng thời gian nhất
định thường là một năm.
Công thức tính:
Chi tiêu của hộ gia đình = Chi tiêu về LTTP + Chi tiêu về phi LTTP
Trong đó:
+ Chi tiêu về LTTP là tổng chi tiêu về ăn uống của hộ trong 12 tháng qua.
+ Chi tiêu về phi LTTP gồm có chi cho giáo dục, chi y tế, chi nhà ở, chi điện, nước,
vệ sinh môi trường và các chi tiêu hàng hoá phi LTTP và dịch vụ khác.
2.1.2.4. Chi tiêu bình quân đầu người
Chi tiêu bình quân đầu người là số tiền trung bình mà một người dân bỏ ra để
chi tiêu cho nhu cầu vật chất và dịch vụ của mình trong một khoảng thời gian nhất
định thường là một năm.
Công thức:
N
EX
EX =
Trong đó:

EX
là chi tiêu bình quân đầu người
EX là tổng chi tiêu của dân cư
N là dân số bình quân
Chỉ tiêu này có thể tính cho từng nhóm dân cư, từng khu vực, từng vùng và trên
phạm vi nền kinh tế quốc dân.
2.1.3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu thu nhập và chi tiêu
2.1.3.1. Cơ cấu thu nhập hoặc chi tiêu phân theo các nhóm thu nhập (ngũ phân vị,
25

×