Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

CHỨC NĂNG văn học, cung cấp những kiến thức mới nhất về chức năng văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.47 KB, 6 trang )

CHỨC NĂNG VĂN HỌC
I. Chức năng văn học là gì ?
Chức năng văn học: là vai trò vị trí của văn học trong đời sống xã hội, là tác dụng, giá
trị xã hội của văn học đối với đời sống tinh thần của con người. Văn học là hiện tượng
đa chức năng, các chức năng gắn bó hữu cơ không tách rời nhau. Sự gắn bó giữa các
chức năng làm cho văn học có sức tác động sâu xa, bền bỉ, có sức sống mãnh liệt, lâu
dài trong đời sống tinh thần của chúng ta.
Nói đến chức năng của văn học là nói đến mục đích sáng tác tác phẩm văn học, đến vấn
đề viết để làm gì.
II. Các chức năng của văn học
1. Chức năng nhận thức
1.1. Văn học cung cấp những kiến thức bách khoa về hiện thực đời sống:
Văn học cung cấp tri thức, mang đến sự hiểu biết, giúp con người khám phá thế giới
hiện thực. Khác với khoa học, văn học nhận thức hiện thực không theo kiểu phân môn
biệt loại mà phản ánh cuộc sống trong toàn bộ tính tổng hợp toàn vẹn của nó. Cho nên
văn học có khả năng cung cấp những kiến thức bách khoa về con người.
Có thể tìm thấy trong tác phẩm văn học những tri thức về thiên nhiên, vũ trụ. Có
một mức độ nào đấy thần thoại là nhận thức về vũ trụ, con người, thế giới. Những tác
phẩm hiện đại như Sông Đông êm đềm của M. Sholokhov, Đất rừng phương Nam của
Đoàn Giỏi, Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức
bổ ích về phân loại thực vật và tập tính của rất nhiều giống loài động vật.
Văn học là cái kho chứa khổng lồ những tri thức về đời sống xã hội ( vì đời sống
xã hội là đối tượng nhận thức trung tâm ). Văn học cho ta biết được phong tục tập quán
của nhiều địa phương, nhiều dân tộc. Những tiểu thuyết lịch sử như Tam quốc diễn
nghĩa của La Quán Trung, Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái đưa ta về quá
khứ xa xăm của các dân tộc. Thơ văn Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu
làm sống lại cuộc sống đau thương và hào hùng của dân tộc ta. Những tác phẩm thuộc
trào lưu hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 hướng trọng tâm vào vấn đề con người trước
hoàn cảnh sống đặc biệt là quá trình bần cùng hóa của một bộ phận nông dân. Văn học
chứa đựng những sự kiện lịch sử, lưu giữ lời ăn tiếng nói của người xưa, cung cấp tri
thức có giá trị về lịch sử kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Ăng ghen từng nói về bộ


Tấn trò đời của Banzac “ Xung quanh bức tranh trung tâm này Ban zắc tập trung toàn
bộ lịch sử nước Pháp trong đó ngay cả vè phương diện các chi tiết kinh tế tôi cũng đã
biết nhiều hơn- các sách của tất cả các chuyên gia- các nhà sử học, kinh tế học, thống
kê học thời ấy cộng lại. “
Văn học miêu tả các hiện tượng, đối tượng thuộc thế giới tự nhiên và đời sống xã
hội là để khám phá đời sống con người trong những quan hệ đầy phức tạp ( cho nên
hình tượng con người luôn là hình tượng trung tâm của tpvh ).
Qua hình tượng nhân vật đặc biệt là nhân vật điển hình, văn học giúp ta tìm hiểu thân
phận con người, khám phá các tính cách xã hội của một giai đoạn, một xã hội, một tầng
lớp hay một giai cấp nào đó ( như tính cách thể hiện đặc điểm dân tộc trong AQ chính
truyện của Lỗ Tấn, tính cách như là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội – lịch sử trong các
sáng tác của Nam Cao, Ban zắc ).
1.2. Nhận thức cái khái quát qua cái cụ thể, cái mới lạ trong cái quen thuộc, làm con
người tự nhận thức là chức năng đặc thù của văn học.
Mục đích cuối cùng của nhận thức là hướng tới những khái quát lớn, khám phá
bản chất, quy luật của các hiện tượng đối tượng.Tác phẩm văn học chân chính phải đặt
ra những vấn đề then chốt của thời đại, giúp người đọc nhận ra một trạng thái nhân sinh.
Do phản ánh được bản chất và quy luật vận động của đời sống hiện thực các kiệt tác văn
học thường chứa đựng những dự báo về tương lai ( như một số truyện kí của Nguyễn
Ái Quốc và thơ TH trước cách mạng tháng Tám, Người mẹ và Bài ca chim báo bão của
Gorki ).
Văn học giúp ta nhận thức cái chung, cái mang tính quy luật qua cái riêng cái độc
đáo tưởng như ngẫu nhiên cá biệt( ví dụ như Tắt Đèn – NTT, Chí Phèo – NC, Bước
đường cùng của NCH ta thấy chị Dậu, Chí Phèo, anh Pha mỗi người có ngoại hình
riêng, cảnh ngộ riêng, lời ăn tiếng nói cách cảm và nghĩ khác nhau nhưng chúng ta vẫn
nhận ra số phận và tính cách chung của người nông dân VN trước cách mạng )
Văn học phát hiện không biết bao điều mới lạ sâu xa, chí lí trong cái bình
thường, đơn giản và gần gũi, thân quen mà ta vẫn tiếp xúc, nhìn thấy hàng ngày. Với
người đọc quá trình nhận thức hiện thức đời sống trong tác phẩm đồng nghĩa với quá
trình người đọc nếm trải, sồng lại từ đầu một biến cố, một tâm trạng, một tình huống

hay số phận để ngộ ra, giác ngộ ra điều mà ta đã biết, đã quen nhưng giờ mới thấy thấm
thía. Những ai từng trải sẽ có dịp nghiền ngẫm bình tĩnh và khách quan hơn, còn ai chưa
từng sống qua thì nếm trải nó như chính cuộc đời. Cho nên tác phẩm nghệ thuật mỗi lần,
mỗi thế hệ khác nhau khi xem lại, đọc lại nhiều lần đều thấy thêm nhiều điều mới lạ. Tri
thức đó mang lại cho ta sự nhạy bén, giúp ta biết phân biệt đâu là thật là giả, thiện ác,
đẹp xấu. Đó là tri thức dạy khôn cho con người.
Văn học giúp ta nhận thức các giá trị tinh thần kết tinh trong thế giới đối tượng,
khơi gợi khả năng biến quá trình tự nhận thức thế giới khách quan thành quá trình tự
nhận thức về bản thân. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của chức năng nhận thức của
văn học. Văn học nhận thức đối tượng mà chủ yếu là nhận thức các quan hệ xã hội của
con người, phát hiện ra giá trị của thế giới đối tượng mà chủ yếu là các giá trị tinh thần
của con người được kết tinh trong đó. Qua đó giúp ta nhận ra giá trị ý nghĩa của cuộc
sống. Với hàng loạt câu hỏi từ ngàn đời đặt ra với con người ( Mình là ai? Mình là gì ?
Mình là cái gì? Mình sống để làm gì ? Tại sao mình phải sống trong đau khổ? Làm thế
nào để có cuộc sống sung sướng? Thế nào là đúng. Là sai ?
* Tóm lại: Chức năng nhận thức: là khả năng của văn học trong việc cung cấp tri thức
bách khoa về đời sống, mang lại sự hiểu biết, nhất là hiểu biết về các tính cách xã hội,
những bí ẩn trong tâm hồn, giúp dạy khôn cho con người, giúp con người mài sắc cảm
giác,biết phân biệt thật giả, biết cảm nhận tinh tế sự phong phú của thế giới cảm tính,
phát hiện cái chung, cái bản chất, cái mới lạ, sâu xa qua cái ngẫu nhiên cá biệt, cái quen
thuộc, cái bình thường. Nội dung quan trọng nhất trong chức năng nhận thức là giúp con
người tự nhận thức bản thân, sống cuộc sống có ý thức mãnh liệt, sâu sắc về giá trị và
năng lực vô tận của mình để phấn đấu, sáng tạo.
2. Chức năng thẩm mĩ
Chức năng thẩm mĩ của văn học là nó có nhiệm vụ thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ, phát hiện
nhu cầu và thị hiếu thẩm mĩ cho con người.
2.1. Thỏa mãn nhu cầu thẫm mĩ, giải trí, khơi dậy những khoái cảm nghệ thuật:
Chức năng thẩm mĩ của văn học có nhiều cấp độ, nhiều bình diện. Ở cấp độ thứ
nhất, nội dung cơ bản của nó là thỏa mãn tối đa nhu cầu thẫm mĩ để gợi dậy khoái cảm
nghệ thuật.

Văn học thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ chủ yếu bằng cách mang đến cho con người sự
hưởng thụ cái đẹp. Khi chưa có nghệ thuật nhu cầu hưởng thụ cái đẹp đã có, hoạt động
thẩm mĩ cũng không có giới hạn trong phạm vi nghệ thuật. Trong bất kì lĩnh vực nào
người ta cũng sáng tạo theo quy luật cái đẹp ( cái đẹp có ở khắp mọi nơi ). Nhưng sáng
tạo cái đẹp không phải là mục đích cứu cánh cảu hoạt động thực tiễn và nhiều lĩnh vực
hoạt động tinh thần khác. Chỗ khác nhau giữa nghệ thuật với các hoạt động khác ở chỗ
đó “ Cái đẹp là điều kiện không thẻ thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì
không và không thể có nghệ thuật. Đó là một định lí “. Sáng tạo cái đẹp là chức năng
quan trọng nhất của văn nghệ. Văn học là lĩnh vực có khả năng thỏa mãn tối đa nhu cầu
hưởng thụ cái đẹp. Vậy cho nên văn học nghệ thuật khơi dậy ở con người khoái cảm
lớn, niềm vui lớn.
Văn học đem đến sự hưởng thụ thẩm mĩ bằng nhiều cách, trước hết bằng cách
miêu tả phản ánh cái đẹp vốn có trong đời sống hiện thực. Cho nên đến với tác phẩm
được tiếp xúc với cái đẹp của bản thân đời sống. Có thể tìm thấy trong tác phẩm văn
học muôn vàn vẻ đẹp phong phú đa dạng của cỏ cây hoa lá, sông nước mây trời( Ví dụ
T kiều, thơ HCM thắm chất mộng chất say trong thơ. ) Văn học là nhân học nới tôn
vinh vẻ đẹp và cuộc sống con người ( Ví dụ thần thoại, sử thi xây dựng các hình tượng
nghệ thuật kì vĩ để ngợi ca những chiến công hiển hách, ngợi ca tài năng và sức mạnh
của con người. Truyện cổ tích đề cao cái thiện và những chuẩn mực đạo đức như là
nền tảng của nhân tính muôn đời, Văn học trung đại biểu dương những tấm gương trung
liệt, nghĩa khí, văn học hiện đại phát hiện vẻ đẹp ở những nơi lấm láp, nhiều tục lụy
nhất: lòng yêu cuộc sống, yêu đời, vẻ đẹp tâm hồn, vẻ đẹp của lòng nhân ái
Trong tác phẩm văn học hình tượng được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ cho
nên tác phẩm văn học không chỉ đem đến cho con người khoái cảm trước vẻ đẹp của đời
sống mà còn khơi dậy những khoái cảm trước vẻ đẹp của chất liệu, vẻ đẹp của các
phương thức, phương tiện nghệ thuật tổ chức chất liệu ấy. Đó có thể là một từ dùng đắt,
một câu văn hay, một đoạn thơ có tiết tấu uyển chuyển hoặc vần điệu nhịp nhàng; một
cốt truyện hấp dẫn hoặc một chi tiết nghệ thuật sinh động lột tả được cái thần, cái hồn
của nhân vật. Trong tpvh nhà văn tìm cách tổ chức chất liệu để khắc phục lối diễn đạt
thông thường nhằm giải phóng hình tượng ra khỏi ngôn từ. Cho nên hình tượng trong

tác phẩm đem lại cho ta khoái cảm về sự thống nhất cao độ giữa nội dung và hình thức
nghệ thuật. Và ở đây khoái cảm trước vẻ đẹp của nghệ thuật hoàn toàn không đồng nhất
với khoái cảm trước vẻ đẹp của đời sống. Ví dụ đọc T. Kiều ta không chỉ yêu mến Thúy
Kiều mà còn thích Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh vì những từ dùng đắt, những chi
tiết sống động mà tác giả đã điểm huyệt chúng lôi chúng ra ánh sáng.
Văn học thực hiện chức năng thẩm mĩ qua hình tượng nghệ thuật. Hình tượng
nghệ thuật đem lại cho tâm hồn sự hưởng thụ thẩm mĩ cao đẹp, gợi dậy những khoái
cảm mãnh liệt mà vô tư trong sáng, không gắn với những mục đích vụ lợi trực tiếp.
( Vì hình tượng văn học là hiện tượng tinh thần chứ không phải vật chất. Nên trước vẻ
đẹp đó ta chỉ có thể chiêm ngưỡng chứ không thể theo đuổi biến thành của riêng. Vì thế
hưởng thụ thẩm mĩ mà văn học đem lại cho ta không gắn với những mục đích vụ lợi,
trực tiếp, nhỏ nhen tầm thường. Mà đó là sự hưởng thụ cao đẹp của tâm hồn. Những
giây phút sống với tác phẩm văn học làm cho tâm hồn ta trong sáng: ta biết vui sướng,
biết đau khổ, biết yêu, biết ghét, biết quên mình vì vận mệnh tổ quốc )
Cái đẹp ở trong hiện thực đi vào nghệ thuật được nhân đôi, nhờ có nghệ thuật mà
một phong cảnh, một sự việc, một con người trở thành đẹp hai lần: một lần trong đời
sống và một lần trong tác phẩm.
2. Hình thành thị hiếu, lí tưởng thẩm mĩ, đánh thức bản chất nghệ sĩ và cảm hứng sáng
tạo của con người.
Thị hiếu là năng lực định giá thẩm mĩ ( năng lực nhận biết, đánh giá cái đẹp ). Nó
giúp con người có năng tiếp nhận và đánh giá những khách thể khác nhau: biết phân
biệt cái đẹp, cái xấu; cái thẩm mĩ với cái phi thẩm mĩ, nhận ra nét bi và hài trong các
đối tượng và hiện tượng. Có nhiều nhân tố góp phần hình thành thị hiếu thẩm mĩ như
giáo dục, thói quen, tính nết, kinh nghiệm sống trong đó văn học giữ một vai trò đặc biệt
quan trọng. Đọc tác phẩm văn học ta tiếp xúc với muôn vàn vẻ đẹp phong phú, đa dạng
của đời sống hiện thực và cảm nhận được cả vẻ đẹp của các phương thức, phương tiện
nghệ thuật. Văn học giúp ta làm giàu kho kinh nghiệm thẩm mĩ, mài sắc các giác quan
thẩm mĩ thường xuyên tiếp xúc với văn học nghệ thuật ta sẽ thành người sành sỏi, tinh
tế, nhạy bén có chuẩn mực đánh giá riêng của mình để phân biệt cái đẹp và không đẹp
trong văn học và trong cuộc sống quanh ta. Như vậy văn học có khả năng hình thành thị

hiếu thẩm mĩ là vì thế. Ví dụ bài Thu Vịnh của N. Khuyến gợi tả cái thanh cao, nhẹ
nhàng, trong sáng của một bức tranh thu rất đặc sắc của đồng bằng Bắc Bộ. Còn vẻ đẹp
trong những bức tranh thiên nhiên của Huy Cận in đậm cảm hứng vũ trụ và nỗi buồn
nhân thế của cái tôi mênh mang “ thiên cổ sầu “.
Văn học còn hình thành lí tưởng thẩm mĩ cho con người. Bởi vì vh bao giờ cũng
phản ánh hiện thực đời sống dưới ánh sáng của lí tưởng thẩm mĩ. Lí tưởng thẩm mĩ là
hình ảnh các giá trị thẩm mĩ mong muốn cần phải có, là lí tưởng về đời sống phù hợp
quan niệm của chúng ta về cái đẹp. Chẳng hạn tập thơ Từ ấy là hình ảnh người chiến sĩ
sẵn sàng dấn thân trên con đường cách mạng, dẫu phải hi sinh vẫn quyết tâm để xóa bỏ
áp bức bóc lột mang lại tụ do cho nhân dân. Trong bài Tây Tiến của Q. Dũng là vẻ đẹp
hòa hùng, dữ dội của nghệ sĩ.
Trong mọi hoạt động thực tiễn, con người luôn sáng tạo theo quy luật của cái đẹp.
Văn học không chỉ khơi dậy khoái cảm thẫm mĩ, mà còn đánh thức bản chất nghệ sĩ và
niềm say mê sáng tạo trong mỗi cá nhân. Đó là chức nội dung cơ bản của chức năng
thẩm mĩ của văn học nghệ thuật.
3. Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục thường được xem là giáo dục đạo đức phẩm chất cho con
người. Tuy nhiên văn học không chỉ giáo dục đạo đức mà còn tác động và cải tạo thế
giới và các quan điểm chính trị - xã hội của con người. Chức năng giáo dục chính là
chức năng tác động, cải tạo quan điểm, tư tưởng đạo đức của con người. Ngay từ thời cổ
đại Hi Lạp Arixtot đưa ra phạm trù thanh lọc khi người ta xem kịch nếu có khóc thì sẽ
làm người ta trong sạch và cao thượng hơn. Nhà mĩ học Letsxing của Đức cho rằng sân
khấu phải trở thành “ một trường học đạo đức “. Ở VN việc coi văn học có chức năng
giáo dục đã có từ lâu đời trong bài tựa Lĩnh Nam chích quái Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã
viết “ Việc tuy kì dị mà không quái đản, văn tuy thần bí nhưng không nhảm nhí, tuy nói
những chuyện hoang đường mà tung tích vẫn có bằng cứ, há chẳng phải là chẳng
khuyên điều thiện, trừng điếu ác, bỏ giả theo thật “. Và từ xưa đến nay văn học vẫn
được coi như một thứ vũ khí giáo dục, tuyên truyền phục vụ sự nghiệp đấu tranh giữ
nước, dựng nước. Trong Văn học VN văn học được sử dụng như một hình thức giáo
dục đạo đức, tu dưỡng tính tình được hết sức chú ý. Tiêu biểu là tác phẩm LV Tiên

Với văn học giáo dục được tác động ở sự lay động tình cảm con người, tác động
vào tình cảm là tác động vào khâu then chốt. Người đọc bị xúc động say mê, lôi cuốn
bởi những điều viết ra trong tác phẩm người đọc sẽ dễ nhận ra những lầm lạc hoặc làm
theo tiếng gọi của những điều tốt đẹp mà tác giả gợi ra. Vậy nghệ thuật cải tạo và giáo
dục con người bằng tình cảm và thông qua con đường tình cảm.
Trong quá trình tác động và cải biến con người văn học hiện ra không phải như
người thầy, người thuyết giáo mà như người đồng hành, người đối thoại với bạn đọc.
Đối thoại giữa mình với mình, giữa phần thiện và phần ác, lương tri và tội lỗi, giữa lí trí
cao cả và dục vọng thấp hèn. Nó là tấm gương để con người tự soi mình tự đối chiếu để
phán xét người khác và bản thân. Như vậy nghẹ thuật đã chuyển quá trình giáo dục
thành tự giáo dục. Giáo dục bằng nghệ thuật không có tính chất cưỡng bức mà là một
hoạt động tự giác ( Không ai bắt đọc truyện, đọcn sách và cũng không ai băt làm theo
những điều trong sách, người đọc tự nhận ra những điều hay dở nó thấm dần vào người
đọc và đến lúc làm theo lúc nào không hay ). Nghệ thuật để thực hiện tốt chức năng này
luôn có khuynh hướng khuếch đại cái tốt, phóng đại cái xấu để cái tốt trở nên đẹp đẽ,
lộng lẫy, hấp dẫn lôi cuốn và cái xấu thật đáng ghê tởm và tránh xa. Nghệ thuật dễ tác
động, cải biến được con người vì nó hấp dẫn và vui tươi; giáo dục – giải trí –vui chơi đi
liền với nhau từ đóchức năng giáo dục thấm dần mỗi ngày một ít. Tác động con người
dần dần, nó gieo vào con người ý thức về tội ác và lỗ lầm. Ý thức ấy sẽ ngăn ngừa hành
động xấu, hoặc giúp họ đấu tranh chống cái ác, cái xấu.
Do những vấn đề trên mà nghệ thuật được sử dụng như một thứ vũ khí đấu tranh
giai cấp và tuyên truyền giác ngộ cách mạng. Cả lực lượng tiến bộ và phản động đều
dùng văn học làm công cụ tuyên truyền, tập hợp quần chúng. Tác phẩm hay làm con
người trở nên cao thượng, vị tha; tác phẩm đồi bại, phản động làm người ta trở nên độc
ác và tha hóa. Vậy để văn học tác động tích cực vào quần chúng nhà văn cần ết sức
nâng cao chất lượng tư tưởng, của nghệ thuật. Mọi tác phẩm đơn thuần chỉ là thuyết lí
khô khan và vụng về, minh họa cho một chủ trương chính trị, một nguyên lí đạo đức nào
đó không những làm tăng khả năng giáo dục mà ngược lại làm giảm hiệu quả giáo dục,
hạn chế ý nghĩa xã hội của nó.
4. Chức năng giao tiếp

Nói đến giao tiếp là nói đến sự giao lưu, thông báo, trao đổi. Nghĩa là ở đây có vấn đề
người nói, người nghe, người gửi, người nhận và phương tiện để để liên hệ.
Ở khâu sáng tác người viết mỗi khi cầm bút là muốn giãy bày, chia sẻ, cần nói ra,
không nói ra không được. Sống cần phải giao tiếp nếu không giáo tiếp có nghĩa là
không sống. Vì thế con người sử dụng nghệ thuật như là một con đường quan trọng để
giao lưu với nhau chẳng khác nào như cây cối cần giao lưu với không khí và ánh sáng
mặt trời. Sáng tác đầu tiên là muốn giãi bày, mang những tâm tư trăn trở của nhà văn tác
động vào người khác. Ở mức độ thấp nó gợi sự chia sẻ, đồng cảm, ở mức độ cao hơn nó
trở thành “ tiếng nói đồng ý, đồng tình “ ( T. Hữu ), thành sợi dây liên két, tiếng kèn tập
hợp. Lúc đó nó không chỉ là hoạt động của một người hướng đến một người mà trở
thành hoạt động giao tiếp rộng rãi của mọi người.
Trong hoạt động giao tiếp này nhà văn không phải là người đưa tin truyền tin
một cách bình thường chỉ đơn giản là truyền tải thông tin. Vì tác phẩm văn học chứa
đựng tư tưởng tình cảm và mang khuynh hướng xã hội rõ nét. TPVH không đơn thauanf
là thông báo sự kiện, tri thức mà thể hiện thái độ của con người trước cuộc sống, những
suy nghĩ của con người trước cuộc sống. Như vậy tác phẩm vh đưa con người xích lại
gần nhau không phải bằng không gian, thời gian mà bằng tình cảm, tinh thần . “ Chừng
nào tâm hồn một con người cần đến với một tâm hồn khác, chừng đó tác phẩm nghệ
thuật còn cần thiết cho con người “. ( Dêgơcx ).
Cũng do nghệ thuật là tiếng nói của tâm hồn, nên trong tác phẩm tiếng nói đó
thường bao giờ cũng có tính chất đa thanh, đa giọng, phức tạp hơn trong các tác phẩm
chính luận và khoa học.
Giao tiếp trong văn học không phải là sự thông báo một chiều người nói/viets ->
nghe/đọc mà là sự trao đổi, tác động qua lại giữa nhà văn và công chúng độc giả. Mỗi
đối thoại và độc thoại trong tác phẩm – giữa các nhân vật với nhau, giữa nhà văn với
nhân vật đều là những hình thức khác nhau cảu sự đối thoại giữa nhà văn với độc giả.
Khi những kinh nghiệm của nhà văn trùng hợp với độc giả tạo nên trường hợp tri âm
giữa nhà văn và bạn đọc.
Tác phẩm nghệ thuật còn nối liền tác giả - người đọc – người đọc xích lại gần
nhau hơn: họ quen nhau, hiểu nhau qua giao tiếp bằng tác phẩm nghệ thuật . Với chức

năng giao tiếp như trên nghệ thuật trở thành một phương tiện liên kết xã hội. Đặc biệt
nhờ nghệ thuật con người có thể giao lưu cả quá khứ - hiện tại – tương lai, mang tiếng
nói của dân tộc này đến dân tộc khác, thế hệ trước đến thế hệ sau; nó khắc phục khoảng
cách về không gian và thời gian đem lại sự giao tiếp nhiều chiều, đem con người trở nên
gần nhau hơn.

×