Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận về môn đường lối : “ Nguồn nhân lực của Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiên đại hóa đất nước”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.7 KB, 31 trang )

Đề tài: “ Nguồn nhân lực của Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiên
đại hóa đất nước”.
Lời mở đầu
Trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa , nguồn nhân lực là yếu tố
quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước. Điều kiện để nâng cao
năng suất lao động, tăng trưởng và phát triển kinh tế không chỉ cần có các
phương tiện công nghệ hiện đại mà quan trọng nhất là có nguồn nhân lực tương
xứng đủ lực để sử dụng các phương tiện đó.
Việt Nam được thế giới đánh giá có lợi thế dân số đông, đang trong thời
kì “dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào.Đây là nguồn
lực quan trọng để nước ta thực hiên thành công Chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng XI thông qua ngày
16/2/2011.Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay chất lượng nguồn nhân lực chưa được
quan tâm đúng mức và còn tồn tại nhiều yếu kém, hạn chế.
Trong thời kì hội nhập và xu thế toàn cầu hóa tạo ra rất nhiều cơ hội
nhưng kèm theo đó là những thách thức lớn.Dân tộc ta từ xưa đã khẳng định :”
Hiền tài là nguyên khí quốc gia “- phát triển nguồn nhân lực là yếu tố mang tính
quyết định đến sự thành bại và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nắm bắt
được tầm quan trọng đó nhóm 10 đã lựa chọn đề tài “ Nguồn nhân lực của Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước “ để có thể tìm
hiểu và có cái nhìn thực tế về nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay với đường
lối phát triển của Đảng.
Tuy đã hoàn thành bài thảo luận nhưng đề tài của nhóm không thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định, mong cô xem xét và bổ sung thêm để đề
tài của nhóm 10 được hoàn thiện hơn. Chúng em xin trân thành cảm ơn cô!
Nội dung bao gồm:
Chương 1: Con người và sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Chương 2: Liên hệ thực tế ở Việt Nam
Chương 1
Con người và sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện
đại hóa


I .LÝ LUẬN CHUNG.
1.1 Khái niệm.
• Nguồn nhân lực: Theo định nghĩa liên hợp quốc : Nguồn nhân lực là
trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người
hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế- xã hội trong một cộng
đồng.
Nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp và để có thể lượng hóa được trong công
tác kế hoạch hóa ở nước ta được quy định là một bộ phận của dân số bao gồm
những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động theo quy định của Bộ
luật lao động Việt Nam ( Nam đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi ,nữ đủ 15 tuổi đến hết
55 tuổi )
Trên cơ sở đó một số nhà khoa học Việt Nam đã xác định nguồn nhân
lực hay nguồn lực con người bao gồm lực lượng lao động và lao động dự trữ.
Trong đó lực lượng lao động được xác định là người lao động làm việc và người
trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp).
Lao động dự trữ bao gồm học sinh trong độ tuổi lao động.
• Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa là quá trình chuyền đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
với công nghệ, phương tiện với phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát
triển công nghiệp và tiến bộ khoa học, công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
1.2. Con người là mục tiêu của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:"Muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện
được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển
hết khả năng của mình". Đó chính là mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội hướng tới:
giải phóng con người nhằm phát triển mọi tiềm năng, giá trị nhân cách của con
người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước Đảng Cộng Sản Việt Nam xác
định:"Phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của

cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước". Đây cũng là mục tiêu nhân văn
của nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:"Nội dung cốt lõi là lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong
phú, tự do, toàn diện của con người”.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh và của Đảng ta không
phải là con người trừu tượng mà là những cá nhân, những tập thể, những tầng
lớp người cụ thể. Vì hạnh phúc của mỗi người"dân" của "đồng bào" và của cả
dân tộc Việt nam là mục tiêu phấn đấu của Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Ngay trong thời kỳ cách mạng giành độc lập cho dân tộc, Hồ Chí
Minh đã nói:"Tôi chỉ có một sự ham muốn,ham muốn tột bậc, là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Ngày nay trong sự nghiệp Công
nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước để đi lên Chủ Nghĩa Cộng Sản, mục tiêu xây
dựng con người được đặt ra một cách thiết thực, trực tiếp.
Vấn đề con người là mục tiêu của sự nghiệp phát triển kinh tế, xã
hội ở nước ta là một vấn đề có tính chiến lược. Đại hội của Đảng đã đề ra đường
lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội:
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước
trong thời kỳ mới, đường lối kinh tế của Đảng ta được xác định là đẩy mạnh
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta
thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất phù hợp theo
định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, phát huy cao nội lực đồng thời tranh thủ nguồn
lực từ bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh có hiệu quả và
bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện
cơ sở vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường
quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội.
Đây là con đường phát triển bền vững đất nước ta nhằm mục tiêu: "Dân
giàu, xã hội công bằng, dân chủ , văn minh". Hãy nói cách khác là con đường

phát triển nhắm tới một mục tiêu kép: vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển con
người và xã hội, vừa phấn đấu để dân giàu, nước mạnh, công bằng xã hội và dân
chủ, văn minh.
Lấy phát triển con người làm mục tiêu chiến lược, chúng ta cần chú ý đến
những vấn đề sau:
Cần quan tâm đến lợi ích của con người, gồm lợi ích vật chất và lợi ích
tinh thần, trước hết là lợi ích vật chất. Hồ Chí Minh cho rằng:"Không có chế độ
nào tôn trọng con người, chú ý xem xét lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho
nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa".
Cần bảo đảm và phát huy quyền dân chủ của nhân dân trong đời sống xã hội bắt
đầu từ cơ sở trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Đặc biệt phát huy tinh
thần làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá đất nước, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân".
Cần bảo đảm và thực hiện sự bình đẳng giữa những cá nhân, nhóm cộng
đồng về cơ hội phát triển, tạo điều kiện cho mọi người và các nhóm, cộng đồng
có điều kiện phát triển ngang nhau, được hưởng lợi ích công bằng phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn cụ thể.
Cần phát huy sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc,
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ
Tổ Quốc vì hạnh phúc của nhân dân.
1.3. Vai trò của con người trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá.
Từ cách tiếp cận mới, Đảng ta chỉ ra vai trò quyết định của con người
trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước. Con người không chỉ
là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là mục tiêu mà còn là
động lực và là nhân tố bảo đảm cho quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất
nước thành công.

Nói con người là động lực của sự phát triển là nói tới vai trò của nguồn
lực con người bao gồm các yếu tố tri thức, kỹ năng, ý chí, tình cảm, đạo đức…
của con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyết
của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp Hành TW khoá VIII đã chỉ rõ điều đó:"Đẩy
mạnh Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc vì:"dân giàu, nước mạnh, công bằng, văn
minh", là sự nghiệp xây dựng và sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng thời là
một quá trình cải biến của xã hội sâu sắc, đòi hỏi phát huy khả năng và trí tuệ ở
con người Việt Nam".
Để phát triển kinh tế xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
Xã Hội, chúng ta cần rất nhiều nguồn lực như: Nguồn lực khoa học và công
nghệ; nguồn lực tài chính; nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; nguồn lực lao
động… Trong các nguồn lực trên đều có vai trò của con người, con người với tư
cách là nhân tố liên kết tích hợp, tổng hợp các nguồn lực thành động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Hay có thể nói đó chính là nguồn lực con người
tham gia vào quá trình phát triển và đóng vai trò chủ đạo trong quá trình đó.
Yếu tố đầu tiên của nguồn lực con người là tri thức, kỹ năng nghề nghiệp
bí quyết hành nghề. Trong thời đại khoa hoc, công nghệ, tin học, con người tiến
lên không chỉ bằng sức mạnh cơ bắp mà bằng trí tuệ của mình là chủ yếu. Người
lao động có tri thức nghề nghiệp, kỹ năng lao động, có năng lực thích ứngvới sự
phát triển của khoa học, công nghệ và sự biến đổi liên tục của nền kinh tế thị
trường thì mới bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững và ổn định.
Ngày nay, trong nền kinh tế tri thức, khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp.Sản sinh, truyền bá và sử dụng tri thức là yếu tố quyết định nhất đối với
tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất, nâng cao chất lượng sống. Kinh tế
tri thức là giai đoạn phát triển mới của lực lượng sản xuất của loài người, từ chỗ
chủ yếu sử dụng nguồn lực vật chất sang nguồn lực trí tuệ. Tri thức là yếu tố
quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế, làm giàu của cải vật chất.
II. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM.
2.1 Chất lượng nguôn nhân lực tại Việt Nam.

 Ưu điểm
- Lực lượng lao động dồi dào:
Theo số liệu tính đến năm 2009 thì nước ta có khoảng 43.8 triệu người nằm
trong độ tuổi lao động tức chiếm khoảng 51.1% dân số. Mỗi năm có thêm
khoảng 1.8 triệu người bước thêm vào độ tuổi lao động(từ 15 trở lên) trong khi
đó số người ra khỏi độ tuổi lao động (từ 60 trở lên) chỉ là 0.35 triệu người, dự
tính trong các năm tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao động là khoảng
2.5%.Việt Nam đang ở trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng ”. Với một lực
lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là một lợi thế lớn, tiềm năng và thế
mạnh lớn để giúp cho phát triển kinh tế đối với một nước đang phát triển và
đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta .
- Tỷ trọng lao động trẻ cao, phần lớn có văn hoá phổ thông. Ở Việt Nam
mỗi năm số dân bước vào độ tuổi lao động là khá cao(1.8 triệu người), lực lượng
lao động trẻ dồi dào và có văn hoá phổ thông có nhiều lợi thế như là có sức
khoẻ, năng động, có khả năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp dễ dàng, ngay cả
đối với các
ngành mới và có nhiệt huyết với nghề nghiệp hơn. Một nền kinh tế trẻ,
năng động và phát triển .
- Lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài là khá lớn tập trung ở châu
Âu, châu Mỹ, các nước châu Á phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc) là những nơi có
nền kinh tế phát triển, có công nghệ khoa học và trình độ phát triển cao. Trong
đó tỉ lệ người có trình độ nghiệp vụ và chuyên môn cao là đáng kể (khoảng
300.000). Đây là một nguồn lực quan trọng góp phần phát triển đất nước, là cầu
nối giữa để chuyển giao các công nghệ, tri thức về trong nước và tạo dựng các
mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới .
- Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thông minh, cần cù lao động
và đoàn kết. Đó là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh
chóng những sáng tạo, những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục
vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý
thức trách nhiệm với cộng đồng được phát huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực

không chỉ cho việc truyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể
giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, giúp nhau về công ăn việc
làm. Đây là một trong những ưu điểm mạnh nhất của lạo động Việt Nam.
 Nhược điểm:
- Số lượng đông nhưng tỷ lệ qua đào tạo thấp. Hiện nay nước ta đang thiếu
nghiêm trọng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề,
có tay nghề cao.Theo kết quả điều tra lao động việc làm thì vẫn còn trên 15% số
lao động chưa tốt nghiệp tiểu học,trong đó chưa biết chữ chiếm gần 4% ,trong số
lao động trong nhóm tuổi 15-34 tuổi số người không có chuyên môn kĩ thuật
chiếm 84%. Thực tế cho thấy, hiện chỉ có khoảng 35% lao động VN được qua
đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%, 78% thanh
niên trong độ tuổi 20-24 khi tham gia vào thị trường lao động chưa được đào tạo
nghề hoặc có đào tạo nhưng vẫn bị hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Bên cạnh
đó, những lao động có trình độ cao đã được đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp ứng
được 15-20% yêu cầu của DN. Điều này dẫn đến việc nhiều DN đang thiếu lao
động kĩ thuật. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất khi tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
- Đội ngũ cán bộ khoa học trẻ chất lượng còn ít dẫn đến việc chuyển bị cho
thế hệ kế cận gặp nhiều khó khăn. Theo thống kê, hiện nay trong tổng số 61.000
giảng viên của các trường đại học, học viện, cao đẳng trong cả nước chỉ có 320
giảng viên có chức danh giáo sư. Trong số cán bộ khoa học đang làm việc tại
các trường có tới 75% đã quá tuổi 50, số cán bộ dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Hơn
60% số phó tiến sĩ và tiến sĩ, hơn 70% phó giáo sư và hơn 90% số giáo sư nằm
trong độ tuổi từ 55 đến 60. Điều này nói lên một thực trạng, đội ngũ cán bộ
nghiên cứu khoa học trong các trường đại học, cao đẳng, các cơ sở giáo dục đào
tạo đang già đi, trong khi đội ngũ kế cận lại có biểu hiện không muốn kế thừa
bởi nhiều nguyên nhân. Hiện tượng chảy máu chất xám hiện đang là thực trạng
chung mà cần phải có những biện pháp để giữ chân người tài .
- Cơ cấu, bố trí sử dụng nguồn nhân lực còn bất hợp lí: mất cân đối
tỷ lệ về trình độ nhân lực đã qua đào tạo .Theo thống kê ở nước ta cứ 1 cán bộ

tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ
thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn
dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100 .Đây chính là tình
trạng “thầy nhiều hơn thợ ”. Ngoài ra việc bố trí sử dụng cán bộ còn bất hợp lí
giữa các vùng miền, giữa các ngành. 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở
Hà Nội, ở TP.HCM chỉ có 12%. Bình quân chung của cả nước ta là 118 sinh
viên/1 vạn dân nhưng ở Tây Bắc và một số vùng miền núi khác chỉ là 17 sinh
viên/1 vạn dân. Hầu hết các nguồn lao động có chất lượng đều tập trung ở các
thành phố lớn, trong khí đó các vùng miền núi, nông thôn lại thiếu trầm trọng.
Cùng với đó là mất cân đối giữa các ngành đào tạo. Cụ thể, sinh viên nhóm
ngành kinh tế và quản lý chiếm tỷ trọng cao nhất với 29,86%; trong khi số SV
ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 15,29%. Ở hệ CĐ, SV nhóm ngành sư
phạm lên tới 40%; trong khi nhóm ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 17,63%.
Việc này đã gây ra hiện tượng thừa thiếu lao động giả tạo,gây ra nạn thất nghiệp
đặc biệt trong lao động tri thức.
- Thể chất, sức khoẻ lao động Việt Nam: chất lượng dân số thấp đang là
yếu tố cản trở sự phát triển của xã hội. Mặc dù thời gian qua, chỉ số phát triển
con người (HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện nhưng còn thấp hơn so
với nhu cầu phát triển của Việt Nam. Theo thống kê, có tới 1,5% dân số Việt
Nam bị thiểu năng về thể lực và trí tuệ, trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm
sinh do di truyền chiếm khoảng 1,5-3%. Đặc biệt, xu hướng này hiện có dấu
hiệu tiếp tục gia tăng do điều kiện sống, môi trường độc hại và không được phát
hiện, điều trị kịp thời. Nhiều nhất chính là số người bị tàn tật, khuyết tật, hiện
chiếm khoảng 6,3% dân số và đang được “bổ sung” mỗi ngày do tình trạng tai
nạn giao thông, tai nạn lao động liên tục gia tăng. Không chỉ kém về thể chất,
tầm vóc và thể lực của người Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực cũng
còn hạn chế. Thanh niên Việt Nam không chỉ thấp, bé, nhẹ cân mà còn yếu về
sức mạnh cơ bắp, sức dẻo dai và sức bền. Tuổi thọ bình quân khỏe mạnh của
Việt Nam chỉ đạt 60,2 tuổi, xếp thứ 116/174 nước trên thế giới. Tính trung bình,
mỗi người dân có tới 12 năm ốm đau so với 72,2 tuổi thọ bình quân. Đó là chưa

kể đến số khá đông thanh niên đang trong độ tuổi lao động nhưng thất nghiệp
hoặc mắc vào vòng nghiện ngập, mang trong mình căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS .Vì vậymặc dù đang được coi là nằm trong thời kỳ cơ cấu dân số
vàng nhưng chất lượng dân số của Việt Nam hiện được coi là thấp, đặc biệt là
chất lượng thể chất và thể lực.
- Nguồn lao động Việt Nam chưa có nếp sống lao động công nghiệp: tác
phong công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá năng
lực và hiểu biết về nguồn nhân lực. Tuy nhiên khái niệm “tác phong công
nghiệp” dường như vẫn xa lạ với số đông người Việt. Sự chậm chạp và lề mề
trong công việc vốn đã trở thành vết hằn ăn sâu vào máu thịt của từng người và
chính vì thế, ở mọi lứa tuổi, mọi cấp bậc, địa vị trong xã hội lúc này hay lúc
khác, sự trễ nải, lỡ hẹn là không tránh khỏi. Việc chưa am hiểu tác phong công
nghiệp của người lao động thể hiện: chậm thích ứng với môi trường có sự giám
sát chuyên nghiệp, ít quan tâm các nội quy và chế độ an toàn lao động. Đây là
yếu tố làm giảm rất lớn chất lượng lao động Việt Nam nhất là trong xu thế hội
nhập ngày nay sẽ tạo nên một cái nhìn phản cảm trong con mắt của bạn bè quốc
tế.
2.2. Nguyên nhân của các mặt hạn chế .
 Nguyên nhân:
*Cơ cấu chất lượng giáo dục đào tạo chưa hợp lý:
Cơ cấu giáo dục giữa các cấp bậc ,các ngành học, khối ngành học trong cả
nước nói chung và từng khu vực nói chung còn nhiều bất cập. Mà nguyên nhân
chủ yếu là do sự điều tiết của Nhà Nước về giáo dục còn chưa hiệu quả. Chương
trình đào tạo chưa bám sát vào yêu cầu thực tiễn do chất lượng đào tạo và huấn
luyện chưa bám sát vào nhu cầu xã hội và yêu cầu của người sử dụng lao động.
Quy trình đào tạo, huấn luyện tồn tại nhiều bất hợp lý, lỗi thời, chưa gắn lý luận
với thực tiễn.Đặc biệt đối với các trường ngành kỹ thuật cơ sở vật chất còn thiếu
thốn dẫn đến tình trạng sinh viên được tiếp cận với thực tế vẫn còn rất hạn chế
ảnh hưởng đến chất lượng đầu ra. Học viên học một cách thụ động do thiếu
thông tin và nhận thức mang tính hướng nghiệp. Nhà trường, cơ sở dạy nghề chỉ

dạy và đào tạo những gì mình có, chưa thực sự quan tâm đến việc trang bị cho
người lao động những kỹ năng, kiến thức về xã hội. Từ đó dẫn đến tính kỷ luật
của người lao động còn yếu và ở nhiều ngành nghề còn chưa đáp ứng đúng nhu
cầu thực tiễn. Hầu hết người lao động sau khi được đào tạo đều bỡ ngỡ khi bước
vào môi trường làm việc thực sự, nhiều doanh nghiệp cho rằng hầu hết phải đào
tạo bổ sung hoặc đào tạo lại sau khi tuyển dụng.
- Lực lượng và cở sở trang thiết bị để chăm sóc, cải thiện sức khoẻ người
dân vẫn còn quá thiếu thốn (đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng sa) dẫn đến
thể trạng và sức khoẻ lao động vẫn dậm chân tại chỗ. Đa số cơ sở sản xuất kinh
doanh chưa có cán bộ y tế, việc thực hiện đo môi trường lao động và khám sức
khỏe định kỳ cho người lao động chưa thường xuyên; việc phối hợp trong công
tác kiểm tra, giám sát về công tác bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao
động và chăm sóc sức khoẻ cho người lao động còn hạn chế.
- Chưa đầu tư thích đáng cho giáo dục, dạy nghề và hướng nghiệp. Trong
hệ thống các trường chuyên nghiệp hiện nay có rất ít trường có cơ sở vật chất và
trang thiết bị dạy học đủ hấp dẫn và thuyết phục người học, đa số còn yếu kém
thiếu thốn nên chưa thật sự đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội. Điều kiện về cơ
sở vật chất, thiết bị kỹ thuật hiện đại để đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực công
nghệ cao như điện tử - tin học, viễn thông… để đáp ứng nhu cầu phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước còn chưa đáp ứng được. Cùng với đó vấn
đề định hướng nghề nghiệp cũng không được chú trọng nhiều .
- Một bộ phận nhỏ lao động chưa nhận thức đầy đủ về việc phải nâng cao
trình độ văn hoá, tay nghề, còn thờ ơ với nếp sống lao động công nghiệp .Mặc
dù đã tăng cường công tác tuyên truyền về học nghề, dạy nghề, nhưng một bộ
phận lớn người dân vẫn chưa nhận thức đúng mức về vai trò của đào tạo nghề;
một số cấp, ngành, địa phương chưa có phương án chuẩn bị nguồn nhân lực kỹ
thuật, phục vụ phát triển bền vững KT-XH của địa phương. Một bộ phận lớn học
sinh tốt nghiệp THCS, THPT, thanh niên chưa hiểu đúng và lựa chọn học nghề
là con đường lập thân, lập nghiệp phù hợp với khả năng, điều kiện của mình .
2.3.Giải pháp.

Để khắc phục những hạn chế của nguồn nhân lực nước ta, tạo ra sự thay
đổi căn bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần có hàng loạt những
giải pháp thích ứng tạo ra những sự chuyển biến căn bản, toàn diện nhằm phát
triển tốt yếu tố con người, nguồn nhân lực. Nhân tố quyết định sự phát triển của
đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước.
- Điều đầu tiên quan trọng nhất là phải xác định rõ nguồn nhân lực là tài
nguyên quý giá nhất trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Phải xác
định rõ như vậy thì mới có được những chính sách, chiến lược phát triển đầu tư
cho nguồn nhân lực một cách thích đáng, trọng tâm, trọng điểm.
- Nâng cao, đổi mới chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng lao động: phải
tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục sao cho
có hiệu quả hơn, tăng cường các trang thiết bị học tập cần thiết phục vụ cho giáo
dục. Đồng thời phải đầu tư, mở rộng quy mô giáo dục để đáp ứng kịp nhu cầu
phát triển của đất nước. Cùng với đó, đào tạo nguồn lao động có những kiến
thức cơ bản, làm chủ kĩ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên. Đào tạo nghề từ
sơ cấp đến các cấp bậc cao hơn. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các
chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa. Vấn đề đặt ra cần phải tập trung và
chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát huy sức mạnh của con người Việt Nam thành
lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc
hợp tác cạnh tranh trong kinh tế thị trường mở cửa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung
vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến.Phải mau
chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển
khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân lực
cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt chú ý tới
mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài ,mau chóng
tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ nhân làm
các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và đào tạo

kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp xứng
đáng vào phát huy nguồn lực con người. Tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con
người cần phải hoàn thiện đó là cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn
lực con người.
- Để tránh tình trạng thầy nhiều hơn thợ, ngành, nơi này thừa lao động
ngành kia lại thiếu, thiếu hụt lớp lao động kế cận thì cần phải có những điều
chỉnh cơ cấu lao động phải hợp lí hơn giữa trình độ, nghành nghề, độ tuổi. Cùng
với đó phải có những kế hoạch, chính sách phân bố lao động phải hợp lí hơn
giữa các vùng miền, khu vực để tránh tình trạng những thành phố lớn phát triển
dư thừa nhân lực trong khi các vùng miền núi, nông thôn kém phát triển lại thiếu
những nguồn lao động. Dẫn đến sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền
trong cả nước. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc họ, cơ cấu nghành, nghề, cơ cấu
vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân
dân, yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú trọng
giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công
nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát triển và
nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, tập trung xây dựng một số
trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc
tế.Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà nước dành ngân sách
đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển, khuyến khích tạo thuận lợi cho
việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay
nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân
lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao động,
một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc
nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số .
- Phải có những chính về sức khoẻ và y tế để cải thiện thể trạng và sức
khoẻ lao động. Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng
và phát triển nhân tố con người. Cần phải có những đầu tư thích đáng về y tế,
trang thiết bị phục vụ cho y tế tới các vùng miền sâu sa (những nơi thường thiếu
thốn các cơ sở y tế, trang thiết bị dẫn đến tình trạng sức khoẻ kém, thường

xuyên bệnh tật, trẻ em suy dinh dưỡng) nhằm cải thiện sức khoẻ và cần có
những chính sách để nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Đảm bảo cho họ
có sức khoẻ dồi dào, sức khoẻ minh mẫn. Phải thực hiện tốt công tác bảo hộ lao
động, cải thiện điều kiện lao động, ngăn ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, chăm sóc sức khỏe người lao động ngày một tốt hơn đòi hỏi cần có sự
chỉ đạo tập trung, thống nhất; tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các
ban/ngành trong việc xây dựng kế hoạch, kiểm tra, giám sát hoạt động về công
tác bảo hộ lao động, đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp có nhiều yếu tố
nguy hiểm, độc hại; tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động các doanh
nghiệp thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các văn bản pháp qui về an toàn lao động,
vệ sinh lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp có như vậy mới chăm sóc tốt
sức khỏe cho người lao động, hạn chế và đẩy lùi tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp.
- Các chính sách xã hội hoá việc làm cần phải được phát huy để tận dụng
được tối đa nguồn nhân lực .Khôi phục các làng nghề, phố nghề truyền thống để
huy động tổng lực các nguồn lực của các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội, mọi
người dân. Cơ sở kinh tế hộ gia đình, cơ sở doanh nghiệp ngành nghề ở nông
thôn, doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc
làm. Vì vậy, cần phải được tạo điều kiện phát triền. Đồng thời tổ chức các hội
chợ việc làm, các buổi thảo luận, hội nghị hướng nghiệp nhằm tạo điều kiện
giúp đỡ nguồn nhân lực có được công ăn việc làm, tránh tình trạng thất nghiệp.
Tổ chức và có những chính sách đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài và
thu hút các thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối
với việc việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học
và chuyên gia thật sự có tài năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa
tài thật và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các
cơ quan công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì
nhân tài của đất nước sẽ lại "rơi lả tả như lá mùa thu", "vàng thau lẫn lộn", làm
cho những người thật sự có tài năng không phát triển được, trong khi đó, những

người cơ hội, “ăn theo nói leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ quan công
quyền. Đồng thời, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ diễn ra
trong ngày một ngày hai mà là trong nhiều năm bởi vậy cần phải có những chính
sách, kế hoạch nhằm đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động kế cận. Bên cạnh
đó, cần phải bồi dưỡng cho lực lượng lao động về lối sống, đạo đức, chính trị-tư
tưởng, pháp luật. Tài phải đi đôi với đức .
Học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới và khu vực.
Con người là tài sản quý nhất của mỗi quốc gia, là nguồn lực quan
trọng nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia .Vì thế, trong chiến lược phát
triển của mình, nhiều nước đã đặt con người vào vị trí trung tâm , quan tâm đặc
biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác vào chính bản thân con
người .Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông Á là những cứ liệu lịch sử
xác thực cho nhận thức về vấn đề này.Sự thành công của những nước đó có
nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó nguyên nhân mang tính đặc trưng chung đó
là họ đã nhận thức đúng được vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu
tư thỏa đáng cho chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao
động, đặc biệt là các yếu tố văn hóa, kĩ thuật và kỉ luật, đi trước một bước về
giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khóa của sự tăng trưởng, là đảm bảo cho sự
thắng lợi của sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa. Chẳng hạn để chuẩn
bị cho Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Hàn Quốc đã có kế hoạch “ Trí tuệ toàn
dân ”. Còn Nhật Bản trong kế hoạch phát triển của mình đã đặt giáo dục vào hệ
thống 3 chiến lược “ Giáo dục –Khoa học và Mở cửa ”.Hay ở Đài Loan 30 năm
từ năm 1952 đến năm 1981 tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,43 lần nhưng
chi phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần …Có thể nói nền kinh tế của các quốc gia
này có sự phát triển nhanh chóng phần lớn phụ thuộc vào sự phát triển của
nguồn lực con người. Kinh nghiệm từ các nước này là bài học bổ ích cho Việt
Nam và các nước đang phát triển khác đang trong sự nghiệp Công nghiệp hóa –
Hiện đại hóa.

2.4. Những nhiệm vụ cơ bản xây dựng con người trong quá trình Công

nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng con người là mục tiêu của sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại
hoá đất nước nên nó phải là kết quả tổng hợp của tất cả những hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội và văn hóa của chúng ta. Song ở đây, chúng ta chỉ bàn đến
những nhiệm vụ cơ bản trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa tác động đến sự hình
thành con người trong quá trình Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước, cụ thể
như sau:
2.4.1. Xây dựng tư tưởng đạo đức và lối sống.
Nghị quyết hội nghị lần thứ V Ban Chấp Hành Trung Ương khóa VIII về
xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân ta đã chỉ rõ: “tư tưởng, đạo
đức, lối sống và đời sống văn hóa được coi là những lĩnh vực quan trọng nhất
hiện nay cần đặc biệt quan tâm”. Định hướng xây dựng con người, yếu tố tư
tưởng, đạo đức lối sống là yếu tố cơ bản nhẩt trong phẩm chất tinh thần của con
người Việt Nam hiện nay. Trong đó, “hệ tư tưởng là cốt lõi của văn hóa, là định
hướng cơ bản cho đời sống tinh thần xã hội”. Theo quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam đó là tư tưởng: độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội
dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu
tất cả vì con người vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú tự do toàn diện của
con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa cộng đồng và
tự nhiên. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra là:
Cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh
nước ta trong giai đoạn hiện nay và trước những biến đổi sâu rộng của thời đại
mới. Tuyên truyền giáo dục cho nhân dân hiểu biết đầy đủ sâu sắc chủ nghĩa
Mác-Lênin củng cố lòng tin của nhân dân và tư tưởng Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Khắc phục những biểu hiện dao động, hoài nghi về con đường đi lên Chủ
Nghĩa Xã Hội, phủ nhận những thành quả của Chủ Nghĩa Xã Hội hiện thực trên
thế giới, phủ nhận con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta, phủ nhận lịch
sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự mơ hồ, bàn quan mất cảnh giác
trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta của các thế lực thù địch.
Đồng thời đấu tranh phê phán chống lại những tư tưởng phản động, chống phá

cách mạng nước ta và sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nhân dân ta dưới
sư lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng tinh thần yêu nước có ý chí xây dựng đất nước vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Biến tinh thần đấu tranh
giành độc lập dân tộc trước đây thành tinh thần phục hưng đất nước trong thời
kỳ Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước hiện nay. Quyết tâm xây dựng và
bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, của
dân tộc và của mỗi con người.
Xây dựng đạo đức và lối sống mới phấn đấu vì lợi ích con người với tư
cách là mỗi cá nhân và cả cộng đồng, gắn lợi ích của cá nhân với lợi ích của
cộng đồng, ở từng cơ sở, từng địa phương và trong cả nước. Hình thành lối sống
mới, lối sống văn minh tác phong công nghiệp, trật tự kỷ cương và trách nhiệm.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đẹp đẽ và “ những thuần
phong mỹ tục” của dân tộc, của từng địa phương. Phê phán lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền hay quan liêu, cửa quyền, cục bộ mà ở nhiều địa phương đã
trở thành hiện tượng nổi cộm trong đời sống xã hội hiện nay.
Cần nêu gương người tốt, việc tốt những cá nhân đơn vị, tập thể tiêu biểu có
những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam hiện nay. Cần phát huy sức
mạnh của dư luận và sức mạnh của luật pháp để lên án và trừng phạt thích đáng
những kẻ cố tình vi phạm pháp luật, quấy rối mất trật tự, an toàn xã hội, những
kẻ gây nên những tội ác, gieo rắc những tư tưởng xấu hay những tệ nạn xã hội…
Công tác tư tưởng phải tạo ra sự nhất trí về tinh thần, sự đoàn kết dân tộc, phấn
đâu cho sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá đất nước và hình thành những
con người hiện đại, con người Việt Nam với những phẩm chất mà Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã nêu ra.
2.4.2. Phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Để thực hiên chiến dịch con người và nguồn nhân lực, nhân tố quyết định
sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước
cần tạo sự chuyển hướng căn bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo. Chiến lược
phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 của Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển

sự nghiệp giáo dục và đào tạo như sau :
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự
tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật,
tinh thần hiếu học chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo
lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm
hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên vì khoa học và
công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa
học, nhà văn hóa,nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và
nhân tài phải tận dụng mọi nhân lực, phát huy mọi tài năng của các tập thể và cá
nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phát triển giáo dục mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước,
phần lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn, đồng
bằng được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo
nghề .Tạo mọi điều kiện cho mọi người ở mọi lứa tuổi được học tập thường
xuyên suốt đời.
Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc họ, cơ cấu nghành, nghề, cơ cấu vùng trong
hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và các mục tiêu của chiến lược. Chú trọng giáo dục
hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân ,
kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ.
Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học, tập
trung xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực,
tiến tới đạt trình độ quốc tế .Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ
xa.Nhà nước dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển,
khuyến khích tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi
trọng đào tạo đội ngủ công nhân tay nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh
doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông
thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng
cao chất lượng các trường dân tộc nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

dân tộc thiểu số .
Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực đào
tạo của người học, coi trọng thực hành thực nghiệm, ngoại khóa làm chủ kiến
thức tránh nhồi nhét , học vẹt, học chạy, đổi mới và thực hiện nghiêm chỉnh chế
độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của trường học. Phát triển đổi ngũ giáo viên, coi
trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ
bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo
yêu cầu của từng cấp học. Có cơ chế chính sách bảo đảm đủ giáo viên cho miền
núi, hải đảo.
Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường (lớp học,
sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm, thiết bị giảng dạy hiện đại, thư viện, kí túc
xá…). Phấn đấu đến năm 2010, phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện
cho học sinh học tập và hoạt đông cả ngày tại trường.
Tăng cường đầu tư cho ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo
dục, đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phấn kinh tế đầu tư phát triển
giáo dục ở tất cả các cấp học đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Ngân sách
nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông
thôn, miền núi cho đào tạo trình độ cao và những ngành khó thu hút đầu tư
ngoài ngân sách nhà nước; bảo đảm điều kiện học tập cho con em người có công
với cách mạng và gia đình nghèo. Tăng cường quản lý nhà nước đặc biệt là hệ
thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các hoạt động tiêu cực.
Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài.
2.4.3. Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế của xã hội. Nghị quyết hội nghị lần năm ban chấp hành Trung
Ương khóa VIII đã chỉ rõ vai trò của văn hóa nhiêm vụ xây dựng và phát triễn
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đạm đà bản sắc dân tộc: chăm lo văn hóa là
chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ,
lành mạnh không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế bền vững.

Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì con người phát
triển toàn diện.Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát
triển kinh tế.Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt
động trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỉ cương… biến
thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển đất nước.
Để phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội và con
người, Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng đã đặt ra các nhiệm vụ xây
dựng và phát triển môi trường văn hóa trong những năm tới:
Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động: “ toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, “xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa”.
Phong trào người tốt việc tốt làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư,
từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam, kế
thừa các giá trị văn hóa của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của loài người,
tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính văn hóa trong
mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân.
Chú trọng giữ gìn, phát triển các di sản văn hóa phi vật thể, tôn tạo và quản lý
tốt các di sản văn hóa vật thể, các di tích lịch sử; nâng cấp các bảo tàng. Phát
triển mạng lưới thư viện, lưu trữ. Xây dựng các công trình văn hóa, các khu vui
chơi công cộng.
Khuyến khích sáng tác những tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị theo
các chủ đề lớn về chiến tranh và cách mạng, về sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, về xã hội và con người Việt Nam. Nâng cao chất
lượng nền điện ảnh Việt Nam. Phấn đấu xây dựng nhiều bộ phim hay và tốt.
Chú trọng thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam trong các công trình xây dựng,
kiến trúc mới.
Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng
các sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản.
Đẩy mạnh hoạt động hoạt động thể dục thể thao, nâng cao thể trạng và
tầm vóc của người Việt Nam.Phát triển phong trào thể dục, thể thao quần chúng
với mạng lưới cơ sở rộng khắp. Đào tạo, bồi dưỡng vận động viên thể thao có

thành tích cao, đưa thể thao Việt Nam lên trình độ chung trong khu vưc Đông
Nam Á và có vị trí cao trong nhiều bộ môn. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích
nhân dân và các tổ chức tham gia thiết thực, có hiệu lực các hoạt động văn hóa
thể thao.Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và bảo trợ các hoạt động văn
hóa, thể thao.Phát triển thị trường sản phẩm về dịch vụ văn hóa, thể thao phong
phú, lành mạnh.
Tăng đầu tư ngân sách cho văn hóa tương ứng với tăng trưởng kinh tế, tập
trung xây dựng một số trung tâm văn hóa lớn gắn kết với văn hóa, thể thao, du
lịch như làng văn hóa các dân tộc việt Nam, trung tâm thể thao quốc gia và các
trung tâm đào tạo về văn hóa, thể thao ngang tầm khu vực.
Mở rộng giao lưu văn hóa, thể thao quốc tế. Đầu tư thích đáng cho việc truyền
bá ở trong các nước giá trị văn hóa của loài người và giới thiệu đất nước, văn
hóa con người Việt Nam với thế giới.
Xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa ở cơ sở. Nói đến môi trường
văn hóa là nói đến những quan hệ vô cùng rộng lớn của con người trong không
gian và thời gian, từ phạm vi vĩ mô đến vi mô của một cộng đồng ( từ cả nước,
địa phương đến từng cơ sở). Xây dựng môi trường văn hóa vì mục tiêu của sự
phát triển kinh tế xă hội vì con người như liên hợp quốc đã khuyến cáo: mục tiêu
tăng trưởng kinh tế mà không tính đến môi trường văn hóa thì kết quả thu được
sẽ khập khiễng, mất cân đối, cả về kinh tế và văn hóa, đồng thời tiềm năng sáng
tạo của mỗi dân tộc cũng sẽ suy giảm đi rất nhiều.
2.4.4. Xây dựng môi trường văn hoá.
Xây dựng môi trường văn hóa không chỉ xây dựng đời sống văn hóa ở sơ
sở mà còn xây dựng gia đình văn hóa, giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt đẹp
của gia đình Việt Nam, nêu cao vai trò gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi
trọng xây dựng gia đình văn hóa, xây dựng mối quan hệ khăng khít giữa gia
đình, nhà trường xã hội.
Gia dình là cái nôi nuôi dưỡng con người, thực hiện hai chức năng cơ bản là
duy trì nòi giống và văn hóa cá nhân để hình thành nhân cách … Gia đình là
cộng đồng tự nhiên, trao truyền nhân tính, trao truyền văn hóa cho con

người.Vinh dự và trách nhiệm của gia đình là cung cấp cho xã hội những công
nhân ưu tú về tài năng và đạo đúc, gia đình cần được xây dựng bền vững để trở
thành niềm vui và hành phúc của mỗi con người.
Vì vậy: “các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây dựng gia đình
no ấm, hòa thuận, tiến bộ, nâng cao ý thức vế nghĩa vụ gia đình đói với mọi lớp
người”. Thực hiện tốt chính sách xã hội nhằm tác động trực tiếp đến con người

×