Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Một vài biện pháp chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi môn giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.82 KB, 29 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
SƠ YẾU LÍ LỊCH
Họ và tên: Lê Thị Kim Dung
Ngày tháng năm sinh: 18-11-1976
Năm vào ngành: 1998
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng
Trường THCS Tân Ước
Trình độ chuyên môn: Đại học Văn
Bộ môn giảng dạy: Ngữ văn
Khen thưởng (ghi hình thức cao nhất): Danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ
sở.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
1
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
MỤC LỤC
STT Nội dung Trang
1 Sơ yếu lí lịch 1
2 Mục lục 2
3
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 3
Lý do chọn đề tài 3
I. Cơ sở và đặt vấn đề 4
II. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và phương pháp nghiên cứu. 4
1. Mục đích nghiên cứu 4
2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
3. Phạm vi nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 5
4
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 6
A.Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bồi dưỡng HSG. 6
B. Quá trình thực hiện. 6


I. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện. 6
1. Tình trạng. 6-8
2. Số liệu điều tra. 8
II. Một số hình thức chỉ đạo. 8-24
III. Kết quả thực hiện. 25
PHẦN III: KẾT LUẬN 26
I. Kết luận chung 26
II. Những kiến nghị đề nghị. 26-27
5 Tài liệu tham khảo 29
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
2
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Tên đề tài:
“Một số biện pháp chỉ đạo công tác bồi dưỡng HSG môn GDCD
ở trường THCS Tân Ước”
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới – thời kỳ phát triển về khoa học,
công nghệ, đòi hỏi con người phải có sự nỗ lực để theo kịp sự phát triển nhanh
chóng của thời đại. Muốn xã hội ngày càng phát triển thì đòi hỏi phải có sự phát
triển của con người. Việc phát triển giáo dục đào tạo là chìa khóa để đi đến
tương lai.
Ngành giáo dục Việt Nam đã được Đảng và Bác Hồ rất quan tâm.Từ ngày
đầu cách mạng thành công, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú ý đến công tác
giáo dục và đào tạo.
Nằm trong chương trình các môn học ở bậc phổ thông, bộ môn Giáo dục
công dân (GDCD) trong những năm vừa qua đã được sự quan tâm, chỉ đạo sát
sao, đánh giá đúng tầm quan trọng của bộ môn trong hệ thống giáo dục, nhất là
giáo dục tư cách, đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, đội ngũ giáo viên
đã và đang nỗ lực không ngừng trong quá trình công tác nhằm nâng cao chất

lượng bộ môn, nâng cao tỷ lệ học sinh khá, giỏi.
Trong giai đoạn đổi mới của đất nước, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn
nữa công tác giáo dục, và coi đây là một trong những yếu tố đầu tiên, yếu tố
quan trọng góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu của giáo dục là: “Nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”.
Bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là một trong những nhiệm vụ của ngành
giáo dục, xem trọng “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” và công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi ở các trường THCS hiện nay đang được coi trọng và tổ
chức thực hiện trong nhưng năm qua.
Đối với phòng giáo dục và đào tạo huyện Thanh Oai trong những năm
gần đầy với mục tiêu nâng cao chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn. Vì
vậy mà công tác Bồi dưỡng học sinh giỏi trở thành nhiệm vụ trọng tâm của năm
học.
Trường THCS Tân Ước nhận thức được chất lượng học sinh giỏi là tiêu
chí để đánh giá chất lượng giáo dục của nhà trường, để đánh giá thi đua, là mong
mỏi của nhân dân và cũng là mục tiêu chung của toàn ngành. Vì thế ngay từ đầu
năm nhà trường đã xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi ở 9 môn văn hóa.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
3
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Tuy nhiên đối với bộ môn GDCD cũng gặp nhiều khó khăn. Học sinh và phụ
huynh luôn cho đó là bộ môn phụ trong nhà trường không thi thì không học.
Là giáo viên đã và đang làm nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi tôi hiểu
rằng: Đối với mỗi thầy cô giáo thì ai cũng muốn “sản phẩm” của mình đạt chất
lượng cao, ai cũng muốn có học sinh giỏi, đặc biệt là với những người tâm huyết
nghề nghiệp, họ luôn dồn hết sức lực và trí tuệ của mình để đạt được những
mong muốn đó. Tuy nhiên, muốn có được như thế đòi hỏi sự nỗ lực từ nhiều
phía chứ không chỉ phía người dạy. Do đó mong muốn chính đáng của người
thầy giáo không chỉ dựa vào sự nỗ lực của chủ quan mà thành hiện thực được và
giáo viên được phân công giảng dạy bộ môn GDCD cũng không phải là ngoại

lệ, đó là chưa nói đến để có được học sinh giỏi GDCD có nhiều cái khó hơn các
môn khác
Vậy làm thế nào để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt được kết quả cao?
Đây là một công việc khó khăn đối với giáo viên dạy ở trường THCS đặc biệt là
giáo viên dạy bộ môn GDCD. Là một cán bộ quản lí - là giáo viên đã nhiều năm
tham gia công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, tôi nhận thấy cần quan tâm tới công tác
bồi dưỡng học sinh giỏi, đặc biệt là với bộ môn GDCD. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài
để nghiên cứu.
- Phạm vi thực hiện đề tài: Năm học 2013- 2014
II- Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và phương phápnghiên cứu.
1 Mục đích nghiên cứu:
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một công tác rất khó khăn và phức tạp.
nhưng lại có ý nghĩa lớn lao. Vì vậy, tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích tìm
ra những biện pháp chỉ đạo, hình thức bồi dưỡng nhằm đạt hiệu quả cao. Tôi
đặc biệt quan tâm tới bộ môn GDCD vì đây là bộ môn có ý nghĩa lớn trong việc
giáo dục đạo đức học sinh. Đồng thời cũng nâng cao chất lượng giảng dạy, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Làm tốt cụng tác này sẽ kích thích
mạnh mẽ ý thức tự giác, say mê và ý chí vươn lên trong học tập, tu dưỡng của
học sinh nói chung .
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài này có ba nhiệm vụ sau :
* Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu ý nghĩa, tầm quan trọng và những nguyên tắc
của việc bồi dưỡng học sinh giỏi .
* Nhiệm vụ 2: Tình hình bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THCS Tân
Ước.
* Nhiệm vụ 3: Một số biện pháp và hình thức tổ chức .

Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
4
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014

3. Phạm vi nghiên cứu:
* Bồi dưỡng học sinh giỏi là một việc làm cần thiết đối với tất cả các
bộ môn, các khối lớp trong nhà trường THCS, ở đây tôi chỉ nghiên cứu trong
phạm vi hẹp. Đó là bàn về một số biện pháp, hình thức bồi dưỡng học sinh
giỏi, cụ thể là bồi dưỡng học sinh giỏi khối 9 môn Giáo dục công dân ở
trường THCS Tân Ước.
* Đối tượng bồi dưỡng ở đây không phải là học sinh lớp chuyên, trường
chuyên mà là học sinh ở các trường đại trà .
4. Phương pháp nghiên cứu :
Phương pháp chủ yếu khảo sát, nắm bắt tình hình thực tiễn, đúc rút kinh
nghiệm thực tiễn chỉ đạo và giảng dạy hàng năm để tìm ra giải pháp chung .

Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
5
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
A- Ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi .
Như đã nói ở trên, môn GDCD là một trong những môn học có vai trò, vị
trí hết sức quan trọng trong trường Trung học cơ sở .Vì sao lại như vậy? Môn
GDCD cung cấp khá nhiều kiến thức cho các em học sinh trên nhiều lĩnh vực. Ở
chương trình giáo dục công dân chia làm hai phần.
Phần 1: Giáo dục đạo đức: Học sinh được tìm hiểu về những chuẩn mực
vốn có của người Việt Nam để từ đó nhận thức nâng lên thành những giá trị đạo
đức, tư tưởng, chính trị, lối sống của con người Việt nam trong thời kỳ CNH-
HĐH đất nước.
Phần 2: Giáo dục pháp luật: Cung cấp những hiểu biết cơ bản về bản
chất, vai trò và vị trí của pháp luật nhằm giúp học sinh có thể chủ động, tự giác
điều chỉnh hành vi của cá nhân và đánh giá được hành vi của người khác theo
quyền hạn và nghĩa vụ của công dân trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Với tầm quan trọng như vậy thì môn GDCD không thể xem là môn phụ
bởi đây chính là môn học “ Dạy làm người” đặc biệt là ở lứa tuổi này thì lại vô
cùng cần thiết và rất quan trọng. Thông qua việc hình thành nhân cách, các em
có ý thức cao hơn và có được hành vi chuẩn mực hơn, từ đó giảm thiểu bạo lực
học đường , “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.Và chắc chắn
khẩu hiệu: “ Tiên học lễ, hậu học văn” sẽ được thực hiện tốt hơn.Vì vậy, bồi
dưỡng học sinh giỏi là việc làm đúng đắn, cần thiết có tầm quan trọng trong các
nhà trường THCS.
B- Quá trình thực hiện đề tài
I. Tình trạng thực tế khi chưa thực hiện.
1. Thuận lợi.
- Nhà trường luôn coi trọng việc bồi dưỡng học sinh giỏi và lấy kết quả
làm tiêu chí đánh giá thi đua. Đồng thời nhà trường có những biện pháp chỉ đạo,
có kế hoạch rất cụ thể và thường xuyên động viên, nhắc nhở giáo viên làm
nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi. Chính điều đó đã tác động đến tư tưởng, tình
cảm và là nguồn động lực để giáo viên cố gắng thực hiện.
- Nhà trường có trang bị một số tài liệu, trang thiết bị, tranh ảnh đặc biệt là
phòng bộ môn giúp cho việc giảng dạy có hiệu quả cao.
- Nhà trường sắp xếp phòng học phục vụ cho công việc bồi dưỡng học
sinh giỏi được thực hiện đúng kế hoạch.
2. Khó khăn.
- Nguyên nhân khách quan:
Sự quan tâm của phụ huynh học sinh và chính quyền địa phương còn hạn
chế.
- Nguyên nhân chủ quan:
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
6
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
+ Hiện nay, phần lớn học sinh đều cho Môn GDCD là môn phụ, không
quan trọng, không phải thi nên thường học qua loa, đối phó, không nắm được

nội dung bài học, không nhận thức được vấn đề hữu ích trong cuộc sống, không
học thuộc bài, không làm bài tập. thậm chí có những học sinh không ghi bài và
không nhớ rằng đã được học. Chính vì vậy ngày càng có nhiều học sinh chưa
ngoan, không biết hành vi của mình là vi phạm chuẩn mực đạo đức và vi phạm
pháp luật.
+ Việc bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc diễn ra thường xuyên hàng
năm, là một công tác trọng tâm ở các nhà trường. Song một khó khăn lớn đối
với các nhà trường là tất cả những học sinh có năng khiếu đều thích thi môn tự
nhiên, các môn học mà các em cho là chính như: Toán, Lý, Hóa, Văn…số còn
lại phần nhiều là học sinh trung bình, học sinh khá còn rất ít. Và với một trường
nhỏ, số lượng học sinh ít như trường THCS Tân Ước thì việc chon học sinh dự
thi HSG môn GDCD càng khó khăn vì phải chọn học sinh cho 9 đội tuyển nên
khó có học sinh khá cho môn GDCD.
+ Mặt khác, do nhận thức của một số phụ huynh lại không muốn cho con
em mình tham gia đội tuyển GDCD cho nên thường thì những học sinh có năng
khiếu cả về tự nhiên và xã hội thì các em lại muốn thử sức ở các bộ môn khác
mà không yêu thích và ham mê học GDCD. Điều này có ảnh hưởng không ít
đến chất lượng của đội tuyển GDCD.
- Một khó khăn nữa của giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi đó là vấn đề
tài liệu, nhất là phương pháp, hình thức bồi dưỡng. Các đồng chí được phân
công dạy môn GDCD ở trường THCS Tân Ước thường là các đồng chí được
đào tạo môn 2, là giáo viên hợp đồng, mới ra trường kinh nhiệm thì chưa có là
bao mà những bài viết, những chuyên đề về vấn đề này còn qúa ít. Chính từ
những lý do này mà các đồng chí giáo viên rất lo lắng khi được phân công bồi
dưỡng. Đây là tình hình thực tế mà tôi nắm bắt được thông qua trao đổi, gặp gỡ
trực tiếp với một số giáo viên bồi dưỡng đội tuyển ở trường.Thực tế trên đã giúp
tôi nhận thức sâu sắc hơn về công tác này.
+ Người dạy GDCD chưa có phương pháp phù hợp, khai thác bài học
chưa hiệu quả để học sinh nhận thức được môn GDCD không chỉ là một môn
học mà nó còn rất thiết thực trong cuộc sống.

+ Chưa trang bị những kiến thức cơ bản về khái niệm, biểu hiện, ý nghĩa,
trách nhiệm của công dân trong các bài học cũng như chưa tổ chức cho học sinh
làm bài tập một cách triệt để trong sách giáo khoa, chưa sử dụng tốt các phương
pháp dạy học phù hợp nên chất lượng bộ môn còn nhiều hạn chế.
+ Nhiều giáo viên chưa có kinh nghiệm chọn học sinh, bồi dưỡng học
sinh, chưa có kinh nghiệm trong việc ôn và hướng dẫn cho học sinh kỹ năng
làm bài thi. Giáo viên nghĩ rằng học sinh chữ đẹp, viết tốt, diễn đạt tốt là sẽ có
hiệu quả, điều đó chưa hoàn toàn đúng vì với bộ môn GDCD kiến thức đòi hỏi
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
7
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
phải chính xác, chắc chắn. Nếu học sinh diễn đạt hay như văn hoặc viết dài
nhưng không đúng cũng không có kết quả
+ Giáo viên ôn đội tuyển vẫn chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
Bồi dưỡng học sinh giỏi, chưa có tâm huyết với công việc, việc ôn tập cho học
sinh chỉ là tranh thủ ma chưa lên kế hoạch bồi dưỡng cụ thể Vì thế chất
lượng thi hàng năm không cao dẫn đến giáo viên và học sinh đều nản không có
hứng thú.
Tất cả những lý do trên đây đã làm cho học sinh thích học GDCD ngày
càng ít đi, khó chọn học sinh thi GDCD, chất lượng đội tuyển thấp và ảnh hưởng
tới chất lượng mũi nhọn chung của toàn trường. Từ thực tế trên, qua những việc
đã làm của bản thân, tôi muốn được cùng các đồng nghiệp chia sẻ, trao đổi để
ngày càng có nhiều học sinh giỏi hơn, nhiều học sinh giỏi môn GDCD hơn, học
sinh chắc chắn ngoan hơn, không còn tệ nạn xã hội có những nhười vi phạm
chuẩn mực đạo đức và pháp luật, xã hội ngày càng phát triển mạnh vì có những
con người đủ đức và tài. Từ đó, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mà bản
thân tôi đã làm trong thời gian qua .
II. Số liệu điều tra trước khi thực hiện:
Khi chưa thực hiện đề tài học sinh chưa có hứng thú học tập, giáo viên
chưa có kinh nghiệm chọn và bồi dưỡng do đó kết quả còn hạn chế, cụ thể là:

Năm học Số HS thi Đạt cấp Huyện Vào vòng 2 Thithành phố
2010-2011 5 3 1 0
2011- 2012 5 3 1 0
2012- 2013 4 0 0 0
III. Một số biện pháp chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9 môn GDCD.
1.Biện pháp 1:Chỉ đạo giáo viên thực hiện một số yêu cầu có tính
nguyên tắc trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn GDCD
1.1: Giáo viên phải nắm chắc kiến thức, nội dung chương trình và nội
dung thi.
* Trước hết giáo viên dạy bộ môn phải nắm vững chương trình, nội dung
sách giáo khoa, trọng tâm và yêu cầu trong giờ dạy.
- Về chương trình: 35 tiết/ năm học; 26 tiết lý thuyết, 4 tiết kiểm tra, 2 tiết
ôn tập, 3 tiết ngoại khóa/ mỗi khối lớp. Với dung lượng 1 tiết/ 1 tuần ở các lớp
6, 7,8, 9.
- Về nội dung: Ở lớp 6: Nội dung giảng dạy gồm 2 phần (Đạo đức và pháp
luật)
Ở lớp 7: Nội dung giảng dạy gồm 2 phần ( Đạo đức và pháp luật)
Ở lớp 8,9: Nội dung giảng dạy gồm 2 phần ( Đạo đức và pháp luật).
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
8
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
- Mỗi bài dạy gồm 3 phần:
+ Đặt vấn đề
+ Nội dung bài học.
+ Bài tập.
* Đối với những bài học đạo đức cần thực hiện 4 yêu cầu trong giờ dạy
- Cung cấp kiến thức: khái niệm, những biểu hiện đúng, biểu hiện trái với
đạo đức, ý nghĩa, trách nhiệm của nhà nước và công dân.
- Bồi dưỡng ý thức và đạo đức cho học sinh.
- Hình thành tình cảm, đạo đức cho học sinh.

- Hình thành ở học sinh ý chí đạo đức.
Cần tận dụng những tri thức đã có ở học sinh, sau đó giáo viên hệ thống
củng cố, lý giải và nâng cao ( Lưu ý: kết quả bài dạy đạo đức thể hiện ở hành vi
đạo đức của học sinh)
* Đối với những bài giảng dạy về pháp luật: cần chỉ rã đau là nội dung và
đâu là hình thức của pháp luật. Cần lưu ý 3 yêu cầu trong giờ dạy:
- Cung cấp, củng cố kiến thức pháp luật cho học sinh.
- Bồi dưỡng tình cảm pháp luật cho học sinh.
- Rèn kỹ năng, thói quen chấp hành pháp luật ở học sinh. Vì Thực hiện
mục điwchs dạy pháp luật là dạy hiến pháp để nâng cao hiểu biết, ý thức thực
hiện pháp luật của công dân, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền. Mọi
người sống và làm việc theo pháp luật, đảm bảo kỷ cương, trật tự xã hội, tiến tới
gia đình hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh.
* Giảng dạy bộ môn GDCD phải làm rõ mối quan hệ qua lại giữ đạo đức
và pháp luật. Đạo đức là cơ sở, tiền đề cho học sinh nắm bắt pháp luật, còn pháp
luật nhằm củng cố, bảo vệ và làm rõ thêm các chuẩn mực đạo đức.
* Xác định được nội dung thi học sinh giỏi.
Theo quy định của sở Giáo dục và Đào tạo hà nội hàng năm vẫn triển khai
nhiệm vụ năm học và nhiệm vụ môn học trong năm thì nội dung thi học sinh
giỏi môn GDCD lớp 9 là chương trình học kỳ II lớp 8 và chương trình lớp 9 đến
thời điểm thi. Giáo viên cần năm chắc nội dung này để có kế hoạch dạy trên lớp
cũng như bồi dưỡng học sinh giỏi.
1.2: Giáo viên cần tạo hứng thú học tập cho học sinh trong giờ GDCD.
GDCD không phải là bộ môn học sinh quan tâm. Nên theo tôi điều đầu
tiên khi bước vào lớp học chúng ta phải tạo cho các em một sự thoải mái, vui
tươi. Có thể đó là một nụ cười đầy thân thiện cho buổi đầu tiên gặp mặt và cũng
có thể là những câu chuyện vui tươi hóm hỉnh hay những lời nói từ tốn nhẹ
nhàng đầy cuốn hút. Trên bục giảng người giáo viên còn là một diễn viên, một
nhà tâm lý chúng ta phải chịu khó lắng nghe các em nói, tìm hiểu những điều

các em đang muốn, giải thích những vướng mắc của các em, tạo nên sự gần gũi
thân thiết với các em .Đây là lứa tuổi đang phát triển nhân cách các em đang
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
9
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
ngày càng hoàn thiện bản thân mình. Các em sẽ thần tượng một ai đó có thể là
giáo viên, trên thực tế có nhiều em không thích học môn học ấy nhưng vì em rất
ấn tượng giáo viên dạy môn đó nên em đã cố gắng học tập thật tốt. Có thể các
em thần tượng giáo viên mình ở một khía cạnh nào đó như khả năng giảng bài
cuốn hút, sự hiểu biết uyên bác hay luôn lắng nghe và thấu hiểu tâm tư học sinh,
luôn giúp đỡ học sinh lúc gặp khó khăn hay một tài năng nào đó chẳng hạn.
Chính vì lẽ ấy ấn tượng ban đầu của học sinh đối với người giáo viên cũng rất
quan trọng ảnh hưởng đến quá trình học tập của các em. Tại sao em lại thích học
bộ môn này? Tại vì em thích giáo viên dạy môn này cô ấy rất vui, học giờ của
cô em không thấy chán và lớp em cũng vậy rất thích tiết học do cô dạy!
Qua những lời tâm sự của học sinh phần nào thấy được vai trò của việc
tạo hứng thú trong tiết học có sức ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh.
Chính vì vậy người giáo viên phải tạo được tình cảm, ấn tượng cho học sinh và
từ đó tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học.
1.3 Yêu cầu giáo viên kết hợp tốt các phương pháp để học sinh có hứng
thú và nắm chắc kiến thức môn học.
Trước kia hầu như nhiệm vụ của người giáo viên trong tiết học là cung
cấp và giảng giải cho học sinh hiểu những kiến thức của bài học. Sau đó học
sinh sẽ ghi chép theo sự hướng dẫn của giáo viên mà đa số là giáo viên đọc cho
học sinh ghi chép. Lớp học hầu như rất trầm lặng chỉ có tiếng giảng bài của giáo
viên, học sinh ngồi lắng nghe và ghi chép. Do đó mà kết qủa giảng dạy không
cao. Đối với môn GDCD là bộ môn mà kiến thức của nó liên quan tới cuộc
sống, hành vi, suy nghĩ hàng ngày của học sinh. Vì thế việc giảng dạy như trước
kia là không còn phù hợp nữa. Điều đó sẽ tạo nên sự nhàm chán, học sinh dễ
ngủ gật trong tiết học.

Để tạo nên sự hứng thú cho học sinh và cũng đồng thời phát huy tính tích
cực của học sinh, các em phải chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, ở đây
người giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn. Chúng ta có thể sử dụng hàng loạt
các phương pháp như thảo luận nhóm, giải quyết vấn đề, đóng vai, động não,
vấn đáp, nghiên cứu trường hợp điển hình (phương pháp tình huống), dự án.
Trong bài 1- Bài Chí công vô tư. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp
vấn đáp, nghiên cứu trường hợp điển hình khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần
đặt vấn đề để rút ra nội dung bài học qua hệ thống câu hỏi.
Trong bài 12: Quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân. Giáo
viên dùng phương pháp thảo luận nhóm, với những câu chuyện phù hợp, hấp
dẫn, lôi cuốn sự tập trung của học sinh. Thông qua những câu chuyện, tác động
trực tiếp tới suy nghĩ, cảm xúc của học sinh. Qua đó giúp học sinh hình thành
nội dung kiến thức về quyền và nghĩa vụ của công dân trong hôn nhân.
Ví dụ: Khi dạy để học sinh hiểu hôn nhân dược xây dựng trên cơ sở của
tình yêu chân chính? Giáo viên có thể đưa ra các mẫu chuyện sau đây:
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
10
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Mẫu chuyện 1: Trong một buổi giao lưu Hồng đã gặp Sơn và đã thầm yêu
Sơn - một người chiến sỹ biên phòng. Gia đình và bạn bè chê bai Hồng vì sao
không yêu những chàng trai có địa vị xã hội, có học vấn, có tiền của lại yêu
một người lính.
Mẫu chuyện 2: Hùng và Hòa học với nhau một lớp từ phổ thông. Hai
người thường xuyên giúp đỡ nhau trong cuộc sống và học tập. Cả hai đều đậu
vào Đại học và đến năm cuối Đại học họ đã công bố cho gia đình và bạn bè về
tình yêu của họ.
Mẫu chuyện 3: Ông An và ông Hoàng là chỗ bạn bè thân thiết. Thủy con
gái ông An một người con gái giỏi giang, xinh đẹp Hai ông muốn làm thông
gia với nhau nên đã cùng với con trai ông Hoàng tìm mọi cách để có được tình
cảm của Thủy.

Câu hỏi: Trình bày quan điểm về các trường hợp trên?
Trong bài: Tệ nạn xã hội. Giáo viên có thể sử dụng phương pháp động
não, xử lý tình huống, phân tích thông tin, trình bày 1 phút
Khi dạy đén phần tác hại của tên nạn xã hội giáo viên cho trình chiếu các
đoạn băng hình hoặc giáo viên yêu cầu trình bày các sản phẩm tự sưu tầm được
(yêu cầu học sinh chuẩn bị trước) về tình hình tệ nạn xã hội ở địa phương va ở
Việt Nam.
Ví dụ 1: Phóng sự tệ nạn xã hội đã biến một làng văn hóa trở nên tiêu điều
bởi tệ nạn xã hội
Ví dụ 2: Video về những con nghiện
Ví dụ 3: Clip đau lòng và những điều bạn không muốn biết về HIV/AIDS
(ngày 01/12/2011)
Câu hỏi: Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và phát biểu các em biết gì
về những vấn đề này?
Ví dụ 4: Giáo viên yêu cầu đại diện các nhóm trình bày các sản phẩm tự
sưu tầm được về tình hình tệ nạn xã hội ở địa phương. Các nhóm khác chất vấn,
nhận xét, bổ sung, sau đó giáo viên kết luận.
Trong bài: Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là bài học hhướng dẫn học thêm song lại có ý
nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tư tưởng,đạo đức cho học sinh. Muốn bài dạy
có hiệu quả giáo viên dùng phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp động
não với phương pháp này giáo viên có thể tập hợp nhiều ý kiến khác nhau
trong một thời gian ngắn, tạo không khí học tập sôi nổi, học sinh sẽ chủ động,
tích cực, tự tin.
Khi dạy mục. Trách nhiệm của thanh niên? Giáo viên cho học sinh
nghiên cứu 2 mẫu chuyện sau đây để tích hợp vào bài:
Mẫu chuyện 1: Anh Lê Hồng Sơn – Sinh năm 1979, nhà ở vùng 3, xã Phú
Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, bị tật nguyền từ bé, cả hai tay anh đều
không vận động, cử động được. Với nghị lực vươn lên, anh đã tự chọn một nghề
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước

11
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
để làm nuôi sống mình và giúp thêm được cho gia đình – nghề mộc. Nghề này
đã khó với người bình thường có đủ chân tay, lại càng khó hơn cho người
khuyết tật. Hồng Sơn đã kiên trì tập nghề mộc hàng ngày, dùng đôi chân của
mình làm thay đôi tay để đục, cưa, xẻ, đóng. Từ những chiếc ghế đơn giản, cho
đến chiếc tủ, chiếc bàn uống nước, chiếc phản anh lần lượt làm được và làm
rất đẹp. Anh dùng hai chân đục, ghép mộng, ghép gỗ thành thạo, khéo léo như
đôi tay của người thợ cả. Sản phẩm của anh được nhiều bà con mua về dùng.
Nhưng cảm phục hơn, khi anh đã giỏi nghề và bán được nhiều sản phẩm, anh đã
tự mở một tổ sản xuất, sửa chữa đồ gỗ tại nhà, mời thêm nhiều người khuyết tật
trong xã về cùng làm nghề mộc. Việc làm của anh đã được Chủ tịch nước gửi
thư khen ngợi, được Bộ lao động – Thương binh và xã hội tặng bằng khen.
Mẫu chuyện 2: Anh Nguyễn Công Hùng – 24 tuổi, quê ở xã Nghi Diên,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, bị liệt và teo hai chân từ nhỏ, nhưng với nghị
lực vượt lên số phận, anh tự học tin học, trở thành thầy giáo dạy tin học ngay tại
nhà anh. Hiện nay cơ sở anh dạy tin học cho gần 200 cháu nhỏ, riêng những
cháu khuyết tật được anh dạy miễn phí. Công Hùng từ năm 2005 đến 2006 đã
nhận được nhiều giải thưởng như: "Hiệp sĩ công nghệ thông tin" – 2005, giải
thưởng “Ngày sáng tạo Việt Nam”, giải thưởng "Hội thi tin học không chuyên
toàn quốc lần thứ 11", và gần đây nhất – giải thưởng “Quỹ học bổng mãi mãi
tuổi 20″ (Quỹ liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm – tặng giải thưởng cho những gương mặt
thanh niên, sinh viên xuất sắc nhất toàn quốc – 2006).
Câu hỏi: Nêu suy nghĩ của bản thân về các nhân vật trên?
Việc giáo viên đưa ra tình huống, các mẫu chuyện, các trò chơi giúp
giảm lối học thụ động, sách vở, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào
thực tế, khuyến khích học sinh tích cực xem xét, thảo luận về một tình huống,
một câu chuyện, nhân vật có thật trong thực tế. Từ đó học sinh không chỉ có
hứng thú học tập mà giờ học diễn ra hết sức nhẹ nhàng nhưng hiệu quả lại cao
Trong một tiết dạy chúng ta không nên sử dụng một phương pháp duy

nhất nào mà phải biết linh hoạt phối hợp nhuần nhiễn các phương pháp với nhau
mới tạo nên sự hứng thú tiết học sẽ trở nên sinh động không bị nhàm chán.Cụ
thể như sau:
Khi sử dụng phương pháp dạy học cần phối hợp một cách linh hoạt, hợp
lý các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại phù hợp với đặc trng bộ
môn GDCD như thuyết trình, đàm thoại, thảo luận, phân tích xử lý tình huống,
giải quyết vấn đề, sắm vai, tổ chức trò chơi cụ thể. Làm được điều đó giờ học sẽ
sinh động, hấp dẫn giàu cảm xúc và hướng vào việc tổ chức cho học sinh hoạt
động, tích cực nhận thức và hành động, tự phát hiện và giải quyết vấn đề do bài
học đặt ra. Khắc phục tính chất áp đặt đơn điệu, thụ động, hình thức trong việc
vận dụng các phơng pháp dạy học.
Cần tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan, thiết bị dạy học như tranh
ảnh, băng hình,máychiếu. Cần khắc phục tình trạng thầy nói trò nghe, thầy đọc
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
12
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
trò chép. Phải tích cực phát huy tính độc lập suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện, khám
phá của học sinh trong mỗi giờ dạy.
Tóm lại, để đạt mục đích ấy, giáo viên phải chú trọng từ khâu soạn bài,
chuẩn bị bài ở nhà của học sinh. Nội dung chuẩn bị bài rất đa dạng: trả lời câu
hỏi hướng dẫn trong sách giáo khoa. Đến lớp, giáo viên phải dành thời gian,
tranh thủ kiểm tra sự chuẩn bị bài của các em. Trên cơ sở đó, học sinh sẽ có tâm
thế tốt hơn trong học tập. Đồng thời với đó là bài giảng của giáo viên với hệ
thống câu hỏi hợp lí, khoa học: phát hiện, gợi mở, phân tích. để đạt tới mục đích
cuối cùng là yêu cầu, hiệu quả của giờ dạy.
Giáoviên trong quá trình giảng dạy cần phải biết kết hợp hài hoà các
phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại. Sau mỗi giờ học cần làm chuyển
biến ở học sinh tình cảm
2.Biện pháp 2: Chỉ đạo và hướng dẫn giáo viên một số biện pháp bồi
dưỡng học sinh giỏi môn GDCD

2.1 Phát hiện khả năng học sinh và tổ chức bồi dưỡng.
* Phát hiện khả năng:
Đây là công việc đầu tiên của người giáo viên dạy bồi dưỡng. Mỗi giáo
viên phải nắm được năng lực của từng học sinh trong đội tuyển: Tiếp thu bài và
vân dụng tốt, có trí nhớ tốt, học thuộc bài, nắm chắc kiến thức bài học, năng lực
diễn đạt, Công việc này được tiến hành bằng cách giáo viên tổ chức cho học
sinh làm bài kiểm tra tại lớp. Sau khi đã có bài giáo viên chấm chữa bài cho học
sinh lấy kết quả, phân loại chất lượng học sinh để có kế hoạch bồi dưỡng. Trong
quá trình giảng dạy người thầy phải quan tâm theo dõi để nắm được sự cố gắng
và sự phát triển đặc biệt của học sinh. Từ đó có biện pháp động viên, khuyến
khích để học sinh phát huy năng lực cá nhân; sau đó lựa chọn những học sinh có
năng lực để bồi dưỡng. Cụ thể là ngoài bài tập sách giáo khoa thì sau mỗi bài
dạy giáo viên giao thêm cho học sinh những bài tập có nâng cao. Bên cạnh đó
phải tăng cường kiểm tra, đánh giá, động viên, khích lệ học sinh.
Sau khi phát hiện được những học sinh có khả năng lập danh sách các đội
tuyển. Từ đó xây dựng kế hoạch giảng dạy.
* Lập kế hoạch giảng dạy và bồi dưỡng:
- Đầu năm trên cơ sở kế hoach nhà trường, giáo viên xây dựng kế hoạch
chuyên môn của cả năm, cụ thể hóa từng tháng, từng tuần. Giáo viên xây dựng
kế hoạch cá nhân với các chỉ tiêu cụ thể, kế hoạch giảng dạy và kế hoạch bồi
dưỡng học sinh giỏi, kế hoạch thi chọn đổi tuyển.
2.2 Tiến hành bồi dưỡng.
Như đã nói ở trên khó khăn lớn nhất của các giáo viên dạy bồi dưỡng học
sinh giỏi là tài liệu, sách tham khảo còn quá nghèo nàn, vì vậy mà các giáo viên
phải mày mò sáng tạo ra những phương pháp cho phù hợp với từng bộ môn.
Qua nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo, kết hợp với một số anh chị em đồng nghiệp tôi
mạnh dạn đưa ra những hình thức bồi dưỡng sau:
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
13
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014

2.2.1 Kiểm tra khả năng nắm kiến thức cơ bản của học sinh.
Sở dĩ phải có bước này bởi một yêu cầu đối với học sinh giỏi là phải nắm
vững kiến thức cơ bản cái gọi là phần nền, rồi mới mở rộng kiến thức và những
hiểu biết ngoài xã hội. Đây là biện pháp có tính phương pháp, thậm chí gần như
một nguyên tắc trong dạy học cho học sinh giỏi. Muốn kiểm tra, đánh giá việc
nắm bắt kiến thức cơ bản của học sinh, giáo viên thông qua kiểm tra miệng,
kiểm tra củng cố sau khi kết thúc bài; thông qua việc làm bài tập trong sách giáo
khoa và các bài tập tinh huống giáo viên sưu tầm phục vụ cho bài dạy.
VD: Sau khi học bài “ chí công vô tư” giáo viên có thể kiểm tra việc nắm
bắt kiến thúc của học sinh qua các câu hỏi sau:
Câu 1. Thế nào là chí công vô tư? Hãy nêu ví dụ về một việc làm thể hiện
chí công vô tư.
Trả lời
- Chí công vô tư là phẩm chất đạo đức của con người, thể hiện ở sự công
bằng, không thiên vị, giải quyết công việc theo lẽ phải, xuất phát từ lợi ích
chung và đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân.
- Nêu một ví dụ, có thể là: Một người cán bộ lãnh đạo biết lắng nghe và
tiếp thu ý kiến phê bình của cán bộ cấp dưới để cải tiến công tác lãnh đạo được
tốt hơn; một học sinh không vì cảm tình riêng mà bỏ qua hoặc che dấu khuyết
điểm cho bạn; một người dân hiến đất của gia đình để xây trường học cho trẻ
em;
Câu 2. Chí công vô tư có ý nghĩa như thế nào đối với mỗi cá nhân, cộng
đồng, xã hội ?
Trả lời
- Người chí công vô tư sẽ luôn sống thanh thản, được mọi người vị nể,
kính trọng.
- Đem lại lợi ích cho tập thể, cộng đồng, xã hội, đất nước.
Câu 3. Có ý kiến cho rằng chỉ người lớn, nhất là những người có chức có
quyền mới phải rèn luyện phẩm chất chí công vô tư, học sinh còn nhỏ không có
điều kiện để rèn luyện phẩm chất đó.

Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
Trả lời
Không tán thành ý kiến đó, vì phẩm chất chí công vô tư thể hiện trong cuộc
sống hằng ngày và ai cũng phải rèn luyện và thực hiện. Học sinh có thể thực
hiện như: tích cực tham gia các hoạt động của tập thể, không bao che cho những
việc làm sai trái, bảo vệ lẽ phải, công bằng khi nhận xét, đánh giá người khác
Câu 4. Lan và Hoà là đôi bạn thân. Hôm nay Lan là cờ đỏ, Lan đi kiểm
tra sự chuẩn bị bài tập của các bạn. Hoà làm thiếu bài tập, nhưng Lan lại báo cáo
với lớp là Hoà làm bài đủ.
Em hãy nhận xét hành vi của Lan.
Nếu là Lan, em sẽ cư xử như thế nào?
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
14
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Trả lời
- Hành vi của Lan là thiếu trung thực và không chí công vô tư vì chỉ xuất
phát từ tình cảm riêng, không vì lợi ích chung của cả lớp. Việc làm đó là thiên
vị, không công bằng, không tôn trọng lẽ phải.
- Nêu cách ứng xử: Nếu ở địa vị Lan, em sẽ báo cáo trung thực về thiếu
sót của Hoà và sau đó sẽ gặp Hoà để tìm hiểu nguyên nhân, giải thích lý do vì
sao em phải báo cáo đúng sự thật để Hoà hiểu và thông cảm, góp ý và động viên
Hoà cố gắng sửa chữa thiếu sót.
Câu 5. Hành vi nào dưới đây thể hiện chí công vô tư ?
A. Trong các cuộc bình bầu, Hậu hay bỏ phiếu cho những bạn chơi thân
với mình.
B. Hiền chỉ chăm lo việc học của mình, còn các công việc của lớp thì
không quan tâm.
C. Hôm nay đến lớp thấy đã muộn mà chưa có ai làm vệ sinh lớp học, An
tự quét dọn lớp để kịp giờ vào học.
D. Vinh hay bao che khuyết điểm cho Nhân vì Nhân hay cho Vinh nhìn

bài khi kiểm tra.
Câu 6. Những biểu hiện dưới đây là chí công vô tư hay không chí công
vô tư ? (đánh dấu X vào ô tương ứng)
Biểu hiện Chí công
vô tư
Không chí
công vô tư
A. Không vì tình cảm riêng hoặc vì danh lợi mà đối xử
thiên lệch.
B. Có thái độ vô tư, khách quan khi đánh giá người khác.
C. Ba phải, ai nói thế nào, làm thế nào cũng cho là đúng,
là được.
D. Đấu tranh chống những biểu hiện cá nhân, thu vén cho
riêng mình.
E. Lợi dụng chức quyền để thu lợi cho cá nhân mình.
G. Coi trọng lợi ích chung hơn lợi ích cá nhân mình.
H. Bỏ qua cho những việc làm sai trái để được lợi.
ĐÁP ÁN:
- Chí công vô tư: A, B, D, G
- Không chí công vô tư: C, E, H
Trên đây là những câu hỏi kiểm tra, đánh giá học sinh ở các mức độ: nhận
biết; thông hiểu; vận dung; phân tích, đánh giá nếu học sinh trả lời tốt các câu
hỏi như trên thì có thể đánh giá học sinh có kiến thức cơ bản và có khả năng để
thi học sinh giỏi bộ môn GDCD
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
15
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
2.2.2 Cung cấp những kiến thức về pháp luật và hiểu biết xã hội.
* Kiến thức về pháp luật.
Qua một số năm giảng dạy, tôi nhận thấy, ở lớp 8 và lớp 9 học sinh được

học những kiến thức về pháp luật. trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp huyện và
thành phố thì kiến thức về pháp luật cũng chiếm số điểm khá nhiều trong bài thi.
Đặc biệt năm học 2013- 2014 tôi đã được tiếp thu chuyên đề “ Lồng nghép pháp
luật trong môn GDCD”. Nếu học sinh chỉ nắm kiến thức trong sách giáo khoa
không thì chưa đủ. Giáo viên cần cung cấp, mở rộng cho học sinh như Hiến
pháp và những Điều luật mới được bổ sung.
* Những hiểu biết xã hội.
Vấn đề xã hội cũng không thể thiếu trong quá trình giảng dạy GDCD và
đối với việc bồi dưỡng học sinh giỏi. Đây chính là sự mở rộng kiến thức từ bàì
học và sự liên hệ ngoài xã hội của học sinh. Vấn đề xã hội thì nhiều nhưng giáo
viên phải biết chọn lựa những vấn đề mang tính thời sự mà cả xã hội đang quan
tâm như: Vấn đề an toàn giao thông, môi trường, văn hóa, tệ nạn xã hội, phòng
chống cháy nổ và các chất độc hại…Hầu như năm học nào cũng vậy các đề thi
đều có một phần kiến thức về hiểu biết xã hôi. Năm học 2010-2011 đề thi thành
phố hỏi về giáo thông cụ thể là cách đi trên đường có vòng xuyến. Năm học
2011- 2012 đề thi hỏi về di sản văn hóa và những di sản phi vật thể, năm học
2012- 2013 đề thi có hỏi về việc sửa đổi Hiến pháp. Tôi thấy những vấn đề trên
được hỏi trong đề thi đều mang tính thời sự ở thời điểm đó. Chính vì vậy giáo
viên dạy cần nắm chắc điều này, thường xuyên cập nhật những thông tin, kiến
thức xã hội để bổ sung cho bài dạy của mình. Việc làm này không chỉ phục vụ
cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà nó còn là việc làm cần thiết cho giờ
học GDCD
2.2.3 - Hướng dẫn học sinh phương pháp, kỹ năng làm bài.
Sau khi cung cấp những kiến thức cơ bản và kiến tức mở rộng, giáo viên
tiến hành hướng dẫn học sinh kỹ năng phương pháp làm bài. Giáo viên cần
hướng dẫn cụ thể từng bước cho học sinh bởi tuy là học sinh giỏi nhưng ngay cả
những cách trình bày kiến thức học sinh cũng còn có nhiều vướng mắc. Một số
giáo viên và học sinh vẫn nhầm tưởng việc trình bày giống như môn Ngữ văn.
Bài viết của các em có bố cục: mở bài, thân bài, kết luận, diễn đạt bằng những
lời văn hoa mĩ mà quên đi việc trình bày ý. Chính vì thế mà nhiều em học sinh

có khả năng viết tốt, nhưng không có kỹ năng làm bài thi theo đặc trưng bộ môn
nên bài làm mất nhiều thời gian, viết dài mà không hiệu quả. Vì vậy mà giáo
viên phải dành một khoảng thời gian nhất định hướng dẫn học sinh cách làm bài.
VD trong đề thi hỏi câu hỏi: Thế nào là tệ nạn xã hội? Chúng có tác hại
như thế nào? Theo em những nguyên nhân nào khiến con người sa vào tệ nạn xã
hội? Hãy nêu những quy định cơ bản của pháp luật về phòng chống tệ nạn xã
hội?
Học sinh chỉ cần trả lời đầy đủ các ý sau:
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
16
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
* Tệ nạn xã hội:
Là hiện tượng xã hội bao gồm những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội,
vi phạm đạo đức và pháp luật, gây hậu quả xấu đến mọi mặt đối với đời sống xã
hội.
* Tác hại:
- Làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tinh thần và đạo đức con người.
- Làm tan vỡ hạnh phúc gia đình.
- Gây rối loạn trật tự xã hội, suy thoái giống nòi dân tộc.
- Là nguyên nhân dẫn tới căn bệnh thế kỉ HIV/ AIDS.
* Nguyên nhân:
- Chủ quan:
+ Lười lao động, ham chơi, đua đòi với bạn bè xấu.
+ Do tò mò, thiếu hiểu biết về tác hại của tệ nạn xã hội.
- Khách quan:
+ Do hoàn cảnh éo le, cha mẹ nuông chiều, buông lỏng việc giáo dục con
cái.
+ Do các tiêu cực trong xã hội, bị dụ dỗ, bị ép buộc hoặc khống chế.
+ Do bị bạn bè xấu lôi kéo, rủ rê mà không biết tự chủ.
* Những qui định của pháp luật:

- Cám đánh bạc dưới mọi hình thức nào, nghiêm cấm tổ chức đánh bạc.
- Nghiêm cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng, tổ chức
sử dụng, cưỡng bức, lôi kéo sử dụng trái phép chất ma túy. Người nghiện ma
túy bắt buộc phải đi cai nghiện.
- Nghiêm cấm hành vi mại dâm, dụ dỗ hoặc dẫn dắt mại dâm…
- Trẻ em không được đánh bạc, uống rượu, hút thuốc và dùng các chất
kích thích có hại cho sức khỏe.
- Nghiêm cấm dụ dỗ, dẫn dắt trẻ em mại dâm, bán hoặc cho trẻ em sử
dụng
Học sinh trả lời câu hỏi theo yêu cầu, chính xá là các em sẽ có điểm tối đa.
2.2.4 - Tìm hiểu các dạng đề và rèn kỹ năng phân tích đề.
Để việc ôn luyện học sinh giỏi ở bất kỳ bộ môn nào nói chung và bộ môn
GDCD nói riêng thì việc giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu các dạng đề và kỹ
năng làm từng dạng đề là khâu đặc biệt quan trọng. Vì học sinh có thể chắc kiến
thức nhưng không có kỹ năng làm bài theo từng dạng đề thì cũng khó có thể
thành công. Trong quá trình ôn luyện, sau khi hướng dẫn học sinh kiến thức cơ
bản, kiến thức mở rộng thì giáo viên luyện cho học sinh kỹ năng làm bài ở kháp
các dạng đề. Việc làm đó giúp cho học sinh có kỹ năng làm bài và đương nhiên
bài làm sẽ có kết quả cao.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
17
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
* Các dạng đề thi học sinh giỏi có thể tham khảo và hướng dẫn học sinh làm
* Đề hỏi về kiến thức cơ bản và vận dụng:
VD:
+ Quyền tự do ngôn luận là gì? Công dân thực hiện tự do ngôn luận của
mình như thế nào? Để sử dụng quyền tự do ngôn luận có hiệu quả, công dân phải
làm gì?
+ Bảo vệ hòa bình là gì? Vì sao chúng ta phải bảo vệ hòa bình? Để bảo vệ
hòa bình, chúng ta phải làm gì?

+ Quyền khiếu nại, tố cáo là gì ? Em sẽ làm gì khi biết bạn em bị bọn
người xấu dụ dỗ, ép buộc ăn trộm tiền của bố mẹ, để theo chúng ăn chơi, cờ bạc ?
+ Hợp tác là gì? Trong cuộc sống, hợp tác có lợi như thế nào? Trong giờ
kiểm tra, do ngồi cạnh nhau nên Tùng và Tú đã giúp đỡ, hỗ trợ nhau hết mình
để hoàn thành đề bài. Theo em, điều đó có được coi là hợp tác hay không? Tại
sao?
* Dạng bài tập tình huống
VD:
+ Khi phát hiện thấy Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ra Quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đối với chị Lam vượt quá thẩm quyền, ông Lân (hàng
xóm nhà chị Lam) đã viết đơn khiếu nại Quyết định trên của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện.
a. Theo em trong trường hợp trên ông Lân khiếu nại là đúng hay sai? Vì
sao?
b. Em hãy cho biết thế nào là quyền khiếu nại, quyền tố cáo?
+ Hậu lười học nên thường xuyên bị điểm kém. Mỗi lần nhận bài kiểm tra,
cậu ta lại tỏ ý bực tức và oán trách cô giáo quá khắt khe. Thấy vậy, bạn Lan
cùng tổ nói: “Cậu hãy chú ý nghe cô giáo giảng và chăm chỉ làm bài tập, cô sẽ
cho cậu điểm tốt ngay thôi. Cô nghiêm khắc thì cậu mới tiến bộ được chứ!”
Hỏi:
a. Em hãy nhận xét thái độ và việc làm của Hậu ?
b. Em có tán thành ý kiến của Lan không? Vì sao?
* Dạng bài tập điền khuyết
Hãy điền từ thích hợp vào chỗ trống dưới đây:
Hiến pháp năm 1992:
Điều 54: “Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,
tín ngưỡng, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ… trở lên đều có
quyền……và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền……vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân theo quy định của……”
* Dạng bài phân tích, chứng minh

+ Trong bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước những vấn đề bức xúc
có tính toàn cầu không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự mình giải quyết,
thì sự hợp tác quốc tế là một vấn đề quan trọng và tất yếu….”
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
18
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Bằng hiểu biết của mình em hãy làm rõ nhận định trên?
+ Có ý kiến cho rằng người có tính tự chủ phải là người luôn luôn hành
động theo ý mình, không cần quan tâm đến hoàn cảnh và mọi người xung
quanh.
Em có tán thành ý kiến đó không? Vì sao?
* Dạng bài trắc nghiệm
Em hãy đánh dấu Đ vào phương án mà em cho là đúng trong các phương
án sau:
1. Trên đường có dải phân cách, người đi bộ được vượt qua dải phân cách.
2. Trên đường có dải phân cách, người đi bộ không được vượt qua dải
phân cách
3. Trên đường có dải phân cách, người đi bộ được vượt qua dải phân cách
ở những nơi ít phương tiện qua lại.
Em đồng ý với ý kiến nào sau
+ Kết hôn khi nam 20 tuổi nữ 18 tuổi trở lên
+ Không nên yêu sớm vì có thể sẽ dẫn đến kết hôn sớm
+ Gia đình chỉ có hạnh phúc khi xây dựng trên cơ sở tình yêu chân thành
+ Nếu vợ chồng bình đẳng thì sẽ không có trật tự gia đình
6b. Các hành vi vi phạm pháp luật sau sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lí
nào?
+ Em tán thành hay không tán thành những quan niệm dưới đây ? (đánh
dấu X vào ô tương ứng)
Quan niệm Tán
thành

Không tán
thành
A. Lao động là một sự bắt buộc và nhàm chán.
B. Không có công việc nào là thấp hèn, chỉ những
người lười nhác, không chịu lao động mới đáng
xấu hổ.
C. Lao động chân tay thì không có gì đáng tự hào.
D. Người ta không thể sống mà không có lao
động.
E. Nên chọn hình thức lao động nào nhàn hạ mà
có thu nhập cao.
G. Trẻ em có quyền học tập, vui chơi, không phải
lao động.
H. Trẻ em con nhà nghèo mới phải lao động.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
19
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
* Dạng bài chọn và nối cột A- B
Hãy chọn nội dung ở cột A tương ứng với cột B.
A B
A.Dù ai nói ngã nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
1. Dân chủ
B. Bề trên ở chẳng kỉ cương
Để cho kẻ dưới lập đường mây
mưa.
2. Chí công vô tư
C. Quan sơn muôn dặm một nhà
Bốn phương vô sản đều là anh em
3. Tình hữu nghị và hợp tác

D. Trống chùa ai vỗ thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng nên
riêng
4. Tự chủ

Như vậy qua một số dạng đề bài trên ta có thể thấy rằng, đề thi học sinh
giỏi môn GDCD có ở tất cả các mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, đáng
giá, phân tích và sáng tạo. Vì vậy giáo viên yêu cầu học sinh khi làm bài phải
tuyệt đối theo yêu cầu của đề ra. Học sinh phải đọc thật kỹ đề để có một cái nhìn
khái quát nhất . Chú ý không để sót một chữ nào một chi tiết nào. Tránh hiểu sai
đề dẫn đến làm lac đề Khi đọc xong phải gạch chân những từ, những chỗ quan
trọng.
Ví dụ như ở bài tập tình huống học sinh rất hay nhầm cách trả lời như: sau
khi đưa ra tình huống câu hỏi là: việc làm của nhân vật đó đúng hay sai? Nhưng
cũng có đề hỏi: Em có nhận xét gì về suy nghĩ và việc làm của nhân vật trên? Với
cách hỏi thứ nhất giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời đúng hoặc sai rồi mới đi lí
giải vì sao. Còn ở cách hỏi thứ 2 giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhận xét về
nhân vật bám vào chủ đề đã học sau đó mới đi lí giải tại sao.
- Phân tích đề : Một đề ra cho học sinh là đặt học sinh trước một tì nh huống có
vấn đề. Nghĩa là phát hiện ra được vấn đề cần được giải quyết nằm trong đề bài.
2.2.5- Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập để rèn luyện kỹ năng.
Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập để rèn luyện kỹ năng cho học sinh là
một công việc cần thiết. Song, giáo viên phải xây dựng có hệ thống,phân chia
theo mảng, chuyên đề, chủ đề không được dạy tràn lan, chung chung, thích chỗ
nào dạy chỗ ấy. Dĩ nhiên hệ thống câu hỏi phải bám sát chương trình nội dung
kiến thức mà các em đã được học.
VD Câu hỏi về đạo đức
Câu hỏi về quyền của công dân
Câu hỏi về nghĩa vụ của công dân
Câu hỏi về Hiến pháp, pháp luật

- Giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành theo chuyên đề, hệ thống câu
hỏi.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
20
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Từ những chuyên đề, chủ đề trên giáo viên tổ chức cho học sinh thực
hành dưới hình thức ra đề bài yêu cầu học sinh thực hành, sau đó chấm chữa,
nhận xét, đánh giá những ưu khuyết điểm của từng học sinh, giúp học sinh nhận
ra được những lỗi sai của mình, những thiếu sót phải bổ sung. Đồng thời hướng
dẫn học sinh cách làm bài một cách tỉ mỉ .
Lưu ý khi ra đề ôn tập cũng như thi chọn, giáo viên phải ra theo ma trận
để học sinh có kỹ năng làm các dạng bài cũng như kiểm tra, đánh giá chính xác
khả năng học sinh và việc chọn học sinh đi thi cũng chắc chắn hơn.

Ma trận
KHUNG MA TRẬN ĐỀ THI HSG CẤP HUYỆN
MÔN: GDCD 9
Thời gian: 150 phút

Nội dung
kiến
thức
Mức độ nhận thức
Cộng
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng
T
N
TL TN TL TN TL
Nội dung
1: pháp

luật lớp 8
Hiểu biết
những
kiến thức
trọng tâm
Làm bài
tập, giải
quyết tình
huống
Số câu: 2
Số điểm:
7
Số câu: 1
Sốđiểm: 4
Số câu: 1
Sốđiểm: 3
Tỉ lệ
Số
câu:2
Sốđiể
m: 7đ
Nội dung
2: Đạo
đức lớp 9
Biếtkhái
niệm, ý
nghĩa và
các biểu
hiện đúng,
sai…

Hiểu biết
những kiến
thức cơ
bản, phân
tích qua
một nhân
vật cụ thể
hoặc ở địa
phương
-Vận dụng
trong thực
tế.
- Làm bài
tập, giải
quyết tình
huống
Số câu:
Số điểm:
Số câu: 1
Số điểm:

Số câu:1
Số điểm: 4
đ
Số câu: 1
Số điểm:

Số
câu: 3
Số

điểm:
11đ
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
21
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
Nội dung
3:
Hiểu biết
xã hội
Vận
dụng
kiến
thức,
hiểu
biết
xã hội
làm
bài
tập
Số câu:1
Số
điểm:2
Số
câu: 1
Số
điểm:

Số
câu: 1
Số

điểm:
2
Tổng số
câu: 6
Tổngsốđi
ểm:20
0
1

0 2

1
2d
2

6
20đ
0
Tổngsố
điểm các
mức độ
nhận thức
4đ 8đ 8đ 20đ

* Lưu ý: Vì thời gian thi cấp huyện chương trình mới dạy ở học kỳ I lớp
9 nên đề thi chỉ ra ở kiến thức học kỳ II lớp 8 và học kỳ I lớp 9. Còn đề thi thành
phố sẽ có cả kiến thức học kỳ II lớp 9 ( khoảng 2 câu như vậy phần luật lớp 8 và
đạo đức lớp 9 mỗi phần bớt 1 câu)
2.2.6 Thảo luận trao đổi, giải đáp thắc mắc
Sau khi đã sử dụng các hình thức trên, giáo viên dành một thời gian nhất

định một đến hai buổi học cho học sinh thảo luận những kiến thức đã được
học .Tập hợp những ý kiến thắc mắc, băn khoăn, vướng mắc để giải đáp bổ sung
củng cố lại giúp các em có một lượng kiến thức vững vàng trước kỳ thi .
3. Biện pháp 3: Công tác quản lý chỉ đạo
3.1 Xây dựng kế hoạch:
- Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch năm học, kế hoạch chuyên môn, kế
hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi, kế hoạch thi chọn học sinh giỏi ngay từ đầu năm
và tổ chức họp công khai kế hoạch.
- Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch với chỉ tiêu cụ thể, bám sát chỉ tiêu
chung nhà trường. Ban giám hiệu kiểm tra, duyệt kế hoạch.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
22
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
3.2 Công tác tư tưởng
- Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh về công
tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
+ Đối với giáo viên: Vận động những giáo viên giỏi có năng lực bồi
dưỡng học sinh giỏi nhận phân công bồi dưỡng, trong điều kiện kkó khăn về
CSVC, các điều kiện như tài liệu, chương trình bồi dưỡng, kinh phí hỗ trợ cho
nguồn bồi dưỡng chưa có nguồn đầu tư
+ Đối với học sinh có khả năng, được tuyển chọn bên cạnh giờ dạy chính
khoá, nâng cao vai trò tự học, tự bồi dưỡng, phát huy tối đa khả năng tiềm ẩn ở
mỗi học sinh. Động viên, khích lệ các em nhiệt tình tham gia.
+ Hiện nay các bậc phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc rèn cho con
mình trở thành học sinh gioỉ để sau này trở thành những người lao động có tri
thức khoa học, năng động và sáng tạo góp phần xây dựng quê hương, đất nước
giàu đẹp. Vì vậy sau khi phát hiện các em có khả năng nhà trường họp với cha
mẹ học sinh phân tích rõ yêu cầu và kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi. Nhà
trường cần làm cho phụ huynh học sinh hiểu về cách thức bồi dưỡng, về chương
trình học, sau đó bàn biện pháp bồi dưỡng. Khi quan điểm đã thống nhất thì sẽ

được phụ huynh ủng hộ một cách nhiệt tình, nhà trường sẽ có thêm động lực để
tổ chức công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả cao.
3.3 Các điều kiện bổ trợ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi .
- Tài liệu học tập: Các em trong đội tuyển học sinh giỏi có thẻ thư viện
đặc biệt ưu tiên; có thể mượn tài liệu học tập và tham khảo ở thư viện theo
hướng dẫn của giáo viên bồi dưỡng về nhà để tự học.
- Cơ sở vật chất: Để đáp ứng phòng học cho các đội tuyển ôn tập. Nhà
trường có lịch bồi dưỡng cụ thể cho các bộ môn. Các đội tuyển ôn tập theo lịch
và có sự kiểm tra, giám sát của nhà trường.
- Tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho học sinh giỏi. Kế hoạch của nhà
trường: mỗi năm học tổ chức hai buổi ngoại khoá cho học sinh. Hoạt động ngoại
khoá trong trường học là cánh tay nối dài của chính khoá, phải có tính định
hướng rõ và cao. Với suy nghĩ như vậy, chúng tôi đã tổ chức đố vui để học; hoạt
động ngoại khoá, tham gia các cuộc thi tìm hiểu với cách ấy, học sinh yêu thích
học bộ môn bồi dưỡng hơn.
- Tổ chức chuyên đề - hội thảo về phương pháp giảng dạy.
+ Để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả đầu năm học nhà
trường giao chỉ tiêu cho từng tổ bộ môn và từng nhóm lại giao chỉ tiêu cho từng
cá nhân trong nhóm.
+ Tổ chức các đợt thao giảng sau mỗi giờ dạy tổ bộ môn rút kinh nghiệm
chỉ rõ những ưu nhược điểm để cùng nhau học tập và khắc phục.
+Tổ chức các chuyên đề, các buổi hội thảo ở từng tổ chuyên môn, những
đồng chí có kinh nghiệm bồi dưỡng sẽ báo cáo trình bày những sáng kiến kinh
nghiệm, đưa ra những vấn đề cụ thể để cùng trao đổi và học tập lẫn nhau.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
23
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
3.4 Tổ chức bồi dưỡng:
Căn cứ vào điều kiện, cơ sở vật chất của nhà trường. Căn cứ vào nội
dung, khối lượng kiến thức của từng bộ môn nhà trường bố trí thời gian học cho

từng đội tuyển .
Lên lịch bồi dưỡng và phân công cụ thể tới từng giáo viên.
3.5 Nội dung giảng dạy:
Ở từng đội tuyển đưa ra những bài tập nâng cao song song với chương
trình học ở lớp học đến đâu rèn luyện kỹ năng cho học sinh đến đó, coi trọng kỹ
năng sử dụng ngôn ngữ đúng, chính xác trong tư duy.
3.6 Kiểm tra đánh giá:
- Chỉ đạo giáo viên thường xuyên kiểm tra đánh gía mức độ nhận thức của
học sinh để điều chỉnh nội dung, kế hoạch giảng dạy đối với từng đội tuyển. Để
có những học sinh giỏi phải có sự kiểm tra, đánh giá một cách khách quan, chân
thực tôn trọng những suy nghĩ và thành tích của các em, có như vậy mới khuyến
khích được học sinh. Sau khi kiểm tra phải chấm, chữa tỉ mỉ để rút kinh nghiệm
về cách tư duy, lập luận và trình bày.
3.7 Động viên khen thưởng kịp thời:
- Sau mỗi kỳ thi nhà trường kết hợp với phụ huynh học sinh đề nghị chính
quyền địa phương hỗ trợ kinh phí khen thưởng kịp thời các thầy cô giáo và học
sinh đạt thành tích cao.
- Khi xét thưởng ban thi đua phân loại mức thưởng theo các thành tích đã đạt.
Cụ thể:
- Đối với học sinh
+ Học sinh được công nhận là học sinh giỏi cấp trường thưởng: 2 quyển vở
+ Học sinh được công nhận là học sinh giỏi cấp huyện thưởng: 50.000 đ
+ Học sinh đạt giải ba cấp huyện thưởng: 60.000 đ
+ Học sinh đạt giải nhì cấp huyện thưởng: 70.000 đ
+ Học sinh đạt giải nhất cấp huyện thưởng: 80.000 đ
+ Học sinh dự thi cấp huyện và thành phố, hỗ trợ 30.000 đ/ 1 em
- Đối với giáo viên:
+ Giáo viên ôn được bồi dưỡng 500.000 đ/ 1 đội tuyển
+ Có học sinh giỏi thưởng 50.000/ 1 em
Ngoài ra nhà trường cần tuyên truyền, nêu gương tốt, biểu dương cá nhân có

thành tích ( Giáo viên, học sinh) trước toàn trường và đưa về Hội khuyến học
các thôn.
Việc động viên khen thưởng kịp thời sẽ có ảnh hưởng tốt đến tâm lý, do đó giáo
viên và học sinh ngày càng cố gắng vươn lên.
Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước
24
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học: 2013 – 2014
III - KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ SO SÁNH ĐỐI CHỨNG
Khi chưa thực hiện đề tài học sinh còn lười học, giáo viên chưa đầu tư
thời gian cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, chính quyền địa phương và phụ
huynh chưa quan tâm giúp đỡ do đó kết quả còn hạn chế.
Từ khi thực hiện đề tài giáo viên đã đầu tư nhiều thời gian cho công tác
giảng dạy và bồi dưỡng học sinh. Nhiều khi giáo viên còn dạy bồi dưỡng cho
học sinh cả ngày chủ nhật. Ban giám hiệu nhà trường lên lịch bồi dưỡng cụ thể
cho từng bộ môn và giao khoán chỉ tiêu cho từng tổ bộ môn. Bên cạnh đó lại
được chính quyền địa phương và phụ huynh học sinh quan tâm giúp đỡ. Vì vậy
năm học 2013-2014 số học sinh giỏi tăng lên cả về số lượng và chất lượng cụ
thể là:
Năm học Số HS thi Đạt cấp Huyện Vào vòng 2 Đạtthành phố
2011-2012 5 3 1 0
2012- 2013 4 0 0 0
2013- 2014 11 11 9 1

Vì điều kiện ở xa, phương tiện khó khăn, một số em do sức khỏe yếu nên
chỉ có 1 em đi học đội tuyển vòng 2. Một em được tham dự học sinh giỏi thành
phố và một em đạt học sinh giỏi thành phố.
Như vậy, qua kết quả trên có thể thấy rất rõ số học sinh đạt học sinh giỏi
các môn, đặc biệt là môn GDCD, ngày càng tăng.

Người thực hiện: Lê Thị Kim Dung Trường THCS Tân Ước

25

×