Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

nho giáo trong văn học trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.06 KB, 26 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Nho giáo là học thuyết chính trị - đạo đức ra đờivà tồn tại đến nay đã hơn
2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có nhiều ảnh hưởng ở nhiều
nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Những nội dung đạo đức chủ yếu của
Nho giáo như tam cương (đạo đức xã hội gồm ba mối quan hệ cơ bản là vua – tôi,
cha – con, vợ - chồng), ngũ thường (gồm năm chuẩn muực đạo đức cá nhân bất di
bất dịch là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín) đã tạo tiền đề cho việc thực hiện thuyết chính
danh, làm cho xã hội được ổn định, trật tự. Tư tưởng lễ của Nho giáo đạt tới mức
độ sâu sắc, trở thành thước đo đánh giá phẩm hạnh con người.
Nho giáo đã du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kì phong kiến.
Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu
nhiều tư tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…và có thời kì Phật giáo giữ vai trò
chính yếu, nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành
công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại
lâu dài, do được các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích cho nên
Nho giáo có ảnh hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực và lĩnh vực chịu ảnh hưởng to
lớn nhất từ Nho giáo chính là văn học.
Tiếp xúc với những tác phẩm văn học trung đại chúng ta nhận thấy sự xuất
hiện đậm nét của yếu tố Nho giáo. Trong văn chương, xã hội không phải là hiện
thực khách quan sinh động mà là một thứ trật tự trên dưới. Con người trong đó là
đối tượng dùng để tượng trưng cho mẫu mự của đạo đức. Có lẽ vậy mà những nội
dung Nho giáo thể hiện phù hợp với quan niệm văn học trung đại lúc bấy giờ:
“văn dĩ tải đạo, thi ngôn chí”. Yếu tố Nho giáo trong văn học trung đại Việt Nam
đã giúp các nhà thơ, nhà văn thể hiện, giải bày tâm tư, tình cảm của mình trước vận
mệnh đất nước, cuộc sống xã hội đương thời.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nho giáo có tác động mạnh mẽ tới văn học nước ta vậy nên có rất nhiều
công trình nghiên cứu về sự xuất hiện, ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học Việt
Nam, đặc biệt là văn học trung đại.
Chỉ nói riêng trong phạm vi các công trình văn học sử Việt Nam, kể từ ngày


nó có mặt chính thức vào đầu những năm 40 của thế kỉ XX cho tới nay thì hầu như
không có công trình nào khi viết về lịch sử văn học Việt Nam thời trung cận đại
không nói tới ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt Nam.
Cuốn sách Văn học Việt Nam sử yếu của Dương Quảng Hàm từng được xem
là công trình mở đầu của Khoa văn học sử Việt Nam, trong chương thứ hai của
cuốn sách nói về "Văn chương cổ điển - những điều giản ước về sách giáo khoa cũ
để học chữ Nho" và chương thứ ba nói về "Công dụng của văn học Tàu xét qua bộ
Tứ thư" đã có đoạn viết: "… dân tộc Việt Nam ngay từ khi thành lập đã chịu ảnh
hưởng của văn hóa Tàu. Cái văn hóa ấy truyền sang nước ta có nhiều cách, nhưng
thứ nhất là do văn học, tức là nhờ sự học chữ nho và sách chữ nho của người Tàu
tràn sang. Chính cái văn học của người Tàu ấy đã chi phối tư tưởng, học thuật,
luân lý, chính trị, phong tục của dân tộc ta. Trong các trào lưu tư tưởng của người
Tàu tràn sang bên ta, có ảnh hưởng sâu sắc đến dân tộc ta, nhất là Nho giáo. Các
sách làm gốc cho Nho giáo là Tứ thư và Ngũ kinh. Các sách ấy vừa là kinh điển
của các môn về đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ ở nước Tàu".
Đúng là không một công trình văn học sử nào về văn học Việt Nam thời
trung cận đại không nói đến ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học nhưng nhìn
chung đều đang ngừng ở trạng thái nhìn xa, gián tiếp, chưa phải là nhìn gần, trực
tiếp. Nói một cách khác là nhìn từ góc độ văn hóa làm nền cho văn học, chứ chưa
trực tiếp chỉ ra ảnh hưởng cụ thể của Nho giáo đối với văn học là gì. Trừ những
công trình nghiên cứu thuộc phạm vi các tác giả, tác phẩm cụ thể. Trong phạm vi
nghiên cứu tác gia cụ thể, có lẽ công trình đầu tiên cho người đọc thấy rõ hơn về
ảnh hưởng của Nho giáo đối với cuộc đời và văn nghiệp một nhà văn là cuốn sách
"Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ" (1943) của Nguyễn Bách Khoa. Ở đây,
Nguyễn Bách Khoa, chính là người đầu tiên đã giới thuyết về khái niệm "Nhà nho
tài tử" để từ đó giải mã cuộc đời và văn chương Nguyễn Công Trứ. Năm 1974,
trong bài nói chuyện của giáo sư Đặng Thai Mai tại Viện Đông phương học thuộc
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô cũ, có nhan đề "Ảnh hưởng của Hán học đối với
văn học Việt Nam", đã cho người đọc thấy rõ thêm ít nhiều ảnh hưởng của Nho
giáo đối với văn học Việt Nam nhưng chủ yếu mới ngừng ở văn học Lý Trần. Phải

đợi đến năm 1981 với tiểu luận "Nho giáo và văn học nghệ thuật", tiếp nữa vào
năm 1983, với tiểu luận "Về ảnh hưởng của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ
cận đại" của giáo sư Trần Đình Hượu - thì đầu tiên mới có được một sự giải mã về
ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt Nam trung cận đại mang tính hệ
thống với nhiều nhận định sâu sắc. Với Trần Đình Hượu, ngoài hai tiểu luận trên,
còn một loạt bài viết về tác giả, trong đó có nói tới ảnh hưởng của Nho giáo mà tất
cả đã được tập hợp, in chung thành sách "Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận
đại". Đúng là ở độ bao quát và mang tính hệ thống, cho đến nay, chưa ai ngang
tầm, không nói là vượt qua những gì giáo sư Trần Đình Hượu đã có. Dĩ nhiên,
riêng ở phương diện khảo sát sâu vào một loại hình nho sĩ - văn gia được mệnh
danh là "Nhà nho tài tử" thì không thể không ghi nhận những đóng góp mới của
người học trò ruột của giáo sư Trần Đình Hượu là phó giáo sư - tiến sĩ Trần Ngọc
Vương với công trình "Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam". Đây là một công
trình học thuật có nhiều đóng góp mới. Nhưng vấn đề ảnh hưởng của Nho giáo chủ
yếu chỉ mới được xem xét trong phạm vi loại hình nhà nho tài tử chưa phải với
toàn bộ nhà nho - văn gia của thời trung cận đại.
Gần đây nhất, GS. TSKH Phương Lựu với tham luận "Khái quát về quan
niệm văn học Nho giáo ở Việt Nam" tại Hội thảo quốc tế do Viện Hán Nôm Việt
Nam và Viện Harward - Yenching Hoa Kỳ tổ chức (2004) tại Hà Nội đã có những
đóng góp mới đáng ghi nhận trong việc nhận diện "ảnh hưởng của Nho giáo đối
với văn học Việt Nam trung cận đại" theo hướng miêu tả cụ thể điều mà học thuật
đang cần.
Việc nhận diện về ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn học Việt Nam trung
cận đại đã từng bước phát triển như trên vừa nói nhưng thiết tưởng vẫn đòi hỏi
những khám phá mới, những nhận thức mới. Đúng với bản chất của sự nghiên cứu
khoa học là Recherche trong tiếng Pháp, tức là tìm đi, tìm lại, đã tìm được còn phải
tìm thêm.
3. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài “Nho giáo trong văn học trung đại Việt Nam” nhằm thấy
được sự ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ của Nho giáo đối với văn học trung đại

Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là yếu tố Nho giáo trong văn học trung đại
Việt Nam.
Trong đề tài nghiên cứu của mình, tôi sử dụng giáo trình Văn học trung đại
Việt Nam của Nguyễn Đăng Na, Lã Nhâm Thìn, Đinh Thị Khang, NXB Đại học
Sư phạm, 2005 làm tài liệu tham khảo chính.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài “Yếu tố Nho giáo trong văn học trung đại”, tôi sử dụng
rất nhiều phương pháp khác nhau nhưng các phương pháp chính là thu thập tài
liệu, phân tích, tổng hợp, rút ra nhận xét ,đánh giá…
6. Cấu trúc tiểu luận.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung gồm có hai chương.
Chương 1. Khái quát nội dung tư tưởng, đạo đức Nho giáo
Chương 2. Ảnh hưởng của yếu tố Nho giáo trong văn học trung đại Việt
Nam
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Khái quát nội dung tư tưởng, đạo đức Nho giáo
1.1. Sự ra đời và nội dung tư tưởng của Nho giáo
Nho giáo là học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ trung đại . Nho
giáo do Khổng Tử sáng lập, xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI TCN, duới thời
Xuân Thu. Những tư tưởng của Nho giáo được thể hiện trong hai bộ sách kinh
điển: Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tứ Thư có: Trung dung, Đại học, Luận Ngữ, Mạnh tử.
Ngũ kinh có: thi, thư, lễ, dịch, xuân thu. Hệ thống kinh điển đó hầu như viết về
chính trị, xã hội, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã
hội, về chính trị đạo đức là những tưởng cốt lõi của Nho giáo.
Khổng Tử và các học trò của ông đã thấy được sức mạnh và vai trò to lớn
của đạo đức đối với xã hội. Theo Khổng Tử, đạo là năm mối quan hệ xã hội cơ bản
của con người được gọi là nhân luân, Mạnh Tử gọi là ngũ luân: vua – tôi, cha –
con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong đó, ba mối quan hệ cơ bản nhất, Đổng

Trọng Thư gọi là tam cương – ba sợi dây ràng buộc con người từ trong quan hệ gia
đình đến ngoài xã hội. Đức chính là phẩm chất quan trọng nhất mà con người cần
phải có để thực hiện tốt các mối quan hệ cơ bản trên.
Cương – thường là nội dung cơ bản trong đạo làm người của Nho giáo, là
nguyên tắc chi phối mọi suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng,thước ngọc để đánh
giá phẩm hạnh của con người. Một mặt, đạo cương – thường góp phần điều chỉnh
hành vi của con người, đưa con người vào khuôn phép theo chế độ lễ pháp của nhà
Chu trước đây và các triều đại phong kiến sau này đặt ra. Cương – thường là nhân
tố quan trọng làm cho xã hội ổn định theo thứ bậc, là cơ sở đảm bảo quyền thống
trị của thiên tử.
Năm phạm trù đạo đức mà Nho giáo đề cập đến là: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Những phạm trù này đều là đạođánh g đức làm người, là thước đo đánh giá phẩm
hạnh của con người.
1.2. Quá trình du nhập của Nho giáo ở Việt Nam
Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào nước ta thế kỷ
I TCN khi ở Trung Quốc nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu
và giành lấy quyền thống trị và cho lập ba quận tại Bắc Bộ, tuy nhiên tầm ảnh
hưởng Nho giáo còn rất hạn chế, song song đó Nho giáo là công cụ thống trị của
chính quyền đô hộ và phục vụ cho chính quyền đô hộ, Nho giáo còn được xem để
du nhập chữ Hán vào Việt Nam và dần Hán hóa ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam
tạo ra về mặt kỹ thuật với một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nền
văn học, sử học, triết học, thiên văn học và y học được tiếp thu từ người Trung Hoa
cổ đại.
Đến thế kỷ IX, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân
tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng
nền văn minh Đại Việt trong khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ
tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại
và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể đến là muốn tồn tại thì
phải truyền bá Nho giáo đến người dân, củng cố quyền lực phong kiến lớn mạnh
và không bị giặc ngoài tấn công.

Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của
Nho giáo cần được tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý –
Trần, trung với vua không tách rời trung với nước, vì đó là những ông vua thực sự
điều hành cuộc chiến tranh giữ nước của dân tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Ở Việt
Nam, “trung” thường gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách nhiệm của con người
đối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm. Cũng chính vì thế, trong Hịch tướng sĩ,
Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung” với “nghĩa”. Hơn nữa, nếu nhà nước phong
kiến tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì phải quan tâm đến con người, đến
nhân dân và do đó, “nghĩa” không tách rời “nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa là để
“yên dân”, để giải phóng nhân dân khỏi áp bức của quân xâm lược.
Thời kỳ khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không
ngừng củng cố và phát triển cho đến vào giữa thế kỷ XIX, yêu cầu tất yếu này dần
như bị suy sụp và dần nhạt phai khi sự du nhập mạnh mẽ của phương Tây của thực
dân Pháp, tuy nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh hưởng đối với những nhà yêu
nước cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ Chí Minh,
Chương 2. Ảnh hưởng của yếu tố Nho giáo trong văn học trung đại Việt
Nam
2.1. Học thuyết thiên mệnh
Người Việt Nam chúng ta trước đây bị ảnh hưởng rất sâu đậm thuyết thiên
mệnh của Khổng Tử. Theo thuyết này thì việc thành bại của mọi hoạt động con
người là do mệnh Trời. Đẳng cấp cao, thấp trong xã hội, sống, chết, số phận giàu
nghèo của con người cũng do Trời, thậm chí trai gái thành vợ, thành chồng, có
được hạnh phúc hay không cũng do Trời định đoạt.
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam. Khi tiếp nhận tác phẩm
này rất nhiều nhà nghiên cứu đề cao giá trị nhân văn của tác phẩm: Nguyễn Du đã
vượt qua những ràng buộc của Nho giáo để ngợi ca tình yêu tự do, ngợi ca hạnh
phúc riêng tư của con người. Tất nhiên đó là những kết luận không thể phủ nhận
được. Nhưng là một sản phẩm của ý thức hệ phong kiến, sinh ra trong gia đình có
truyền thống nho học, bản thân lại từng làm quan cho triều đình nhà Nguyễn,
Nguyễn Du không thể không ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo. Sự ảnh hưởng ấy

được ông thể hiện khá rõ trong việc lí giải số phận của nhân vật chính - Thúy Kiều
bằng thuyết thiên mệnh. Nguyễn Du cho rằng mọi khổ đau tủi nhục của Kiều đều
do Trời định. Nhà thơ đã nhiều lần nói đến Trời, đến thiên mệnh như các nhà kinh
điển của nho gia. Trong Truyện Kiều tư tưởng thiên mệnh ấy được tác giả thể hiện
dưới dạng"tài mệnh tương đố'', "hồng nhan bạc mệnh".
Trong Truyện Kiều mâu thuẫn giữa tài và mệnh tập trung ở nhân vật nàng
Kiều. Để hiểu được mâu thuẫn này thì phải nhận thức được thế nào là tài, thế nào
là mệnh. Tài là tài năng, nhan sắc, là những gì tốt đẹp của con người. Tài là một
giá trị thực tại. Số mệnh là một thực thể siêu hình, nó không tồn tại và không có
hiệu lực thực tại nhưng ở Truyện Kiều mệnh có một vai trò to lớn: "Chữ tài chữ
mệnh khéo là ghét nhau".
Tác giả đã nhận thức nỗi khổ của Thúy Kiều với một ý nghĩa siêu hình, bản
chất số phận của nàng là mâu thuẫn giữa tài và mệnh. "Tài mệnh tương đố" là niềm
tin của tác giả. Những lực lượng tàn phá cái hay, cái đẹp đều được nhà văn khái
quát thành số mệnh. Bởi theo thuyết thiên mệnh của Nho giáo, người ta giàu nghèo
sướng khổ là do Trời định trước: "tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên". Người ta
bằng kinh nghiệm ở đời, theo hướng duy tâm thần bí để suy ra rằng, sở dĩ có điều
bất bình là đạo trời vốn ghét cái trọn vẹn:
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quyen thói má hồng đánh ghen
Tài hoa thì bạc mệnh! Đó là mệnh đề mà tác giả đã chứng minh bằng cuộc
đời của Thúy Kiều. Kiều được miêu tả như một người đẹp toàn diện. Sắc đẹp ấy,
tài năng ấy đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió bởi: "Rằng hồng nhan tự thủa
nào/ Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu''. Hay ẩn trong "tài" chính là "họa":"chữ
tài liền với chữ tai một vần".
Thúy Kiều đã dự cảm được vận mệnh không ra gì từ lúc còn nhỏ, rồi khi bán
mình, nàng thấy sự hi sinh và nghĩa vụ của nàng phù hợp với số mệnh. Có lúc nàng
chống lại số mệnh: “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” nhưng không
thành đành phải ẩn nhẫn: “Kiếp này nợ trả chưa xong/ Làm chi thêm một nợ chồng
kiếp sau” hay “Kiếp xưa đã vụng đường tu/ Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi”.

Cuộc đời nàng như trò đùa dai của số mệnh, trước sau chỉ: “…nhắm mắt đưa chân/
Mà xem con tạo xoay vần đến đâu?”
Mệnh đề ấy còn được Nguyễn Du cụ thể hóa ở nhân vật Đạm Tiên. Đạm
Tiên cũng là người con gái đẹp, tài năng "nổi danh tài sắc một thì" nhưng:
Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
Nhìn chung, Nguyễn Du cắt nghĩa cái đau khổ của Thúy Kiều hay cái đau
khổ của cuộc đời nói chung thông qua nàng Kiều là do mâu thuẫn giữa tài và
mệnh. Tư tưởng ấy dường như quán xuyến từ đầu đến cuối tác phẩm và được tác
giả khái quát ở phần cuối tác phẩm:
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt nhầm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao được mới phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào.
Không chỉ Nguyễn Du đề cập đến thuyết thiên mệnh mà Lý Thường Kiệt
cũng dựa trên thuyết này để đánh cho lũ giặc tơi bời:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Mở đầu bài thơ tác giả đã hùng hồn tuyên bố trước lũ giặc ngang ngược rằng
núi sông nước Nam, đất nước Việt Nam là nơi vua Nam ở. Hai chữ Nam đế đối
sánh với Bắc đế; Nam đế hùng cư một phương chứ không phải chư hầu của Thiên
triều. Vua Nam là đại diện cho uy quyền và quyền lợi tối cao cho Đại Việt, cho
nhân dân ta. Núi sông nước Nam đã được “định phận”, đã được hgi rõ ở sách
Trời, đã được “sách Trời chia xứ sở”, nghĩa là có lãnh thổ riêng, biên giới, bờ cõi
riêng. Vậy nên hành động xâm lược của lũ giặc là làm trái ý Trời, đã xúc phạm tới
dân tộc ta và lẽ tất yếu là “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” (Chúng bay sẽ bị
đánh cho tơi bời). Không một ai có được kết quả tốt đẹp khi làm trái mệnh Trời.

2.2. Học thuyết nhân nghĩa của Nho giáo tới tư tưởng nhân nghĩa trong văn
học trung đại
Học thuyết nhân nghĩa là một trong những nội dung được Nho giáo coi
trọng. Theo Khổng Tử, “Nhân” là yêu người. Nhưng để yêu người thực sự bằng
lòng “Nhân” thì phải hiểu người. Do đó, “Nhân” và “Nghĩa” lại có nội dung gần
nhau vì “Nghĩa” được nhấn mạnh là sự “cư xử cho thích hợp”. Chính với những
quan điểm cơ bản phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với
cộng đồng, và cả hai mối quan hệ đó lại đều xuất phát từ lòng nhân và sự hiểu biết
về sự đối xử phải theo đúng lòng nhân hợp với mệnh Trời, thì đây lại chính là cơ
sở của sự công bằng – thể hiện ở điều nghĩa. Học thuyết nhân nghĩa của Nho giáo
đã ảnh hưởng lớn tới nước ta bởi đây là những khuôn thước để hoàn thiện con
người, lành mạnh hóa xã hội và ổn định cuộc sống. Trong truyền thống tư tưởng
của người Việt Nam, tư tưởng nhân nghĩa là một trong những tư tưởng cốt lõi phản
ánh vào đó một hệ thống các quan điểm về triết lí nhân sinh, triết lí xã hội, triết lí
chính trị, quân sự, ngoại giao… Và văn học trung đại chính là mảnh đất màu mỡ để
cho các thi sĩ, văn nhân gieo hạt nhân nghĩa truyền thống của dân tộc lên đấy. Tư
tưởng nhân nghĩa của văn học trung đại bao gồm những nguyên tắc đạo lí làm
người, những thái độ đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với
nhau, những khát vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng cảm
thương cho mọi kiếp người đau khổ đặc biệt là với trẻ em, với phụ nữ và những
người lương thiện bị hãm hại, những người hồng nhan mà bạc mệnh, tài hoa mà
lận đận…
Trong thơ trung đại Việt Nam có thể kể ra rất nhiều những tác phẩm mang
nội dung nhân đạo như: Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của
Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của NguyễnGia Thiều, Chinh phụ ngâm của
Đặng Trần Côn, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,
Trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với
tư tưởng yêu nước và độc lập tự do của Tổ quốc:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhà nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Trước hết đó là tấm lòng cảm thông của tác giả dành cho những con người
nhỏ bé bất hạnh trong xã hội đã bị bọn giặc ngoại xâm đàn áp dã man:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyền Gia Thiều
đó là việc lên án chế độphong kiến chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ, lên
những số phận tài hoa. Xã hội đó đã tước đoạt đi những quyền sống thiêng liêng
mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người
phụ nữ những người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các
tác giả còn cất lên tiếng nói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa
đã cướp đoạt đi những quyền sống thiêngliêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt
các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ nhữngngười chịu nhiều thiệt
thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các
tác giả còn cất lên tiếng nói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh phi nghĩa
đã cướp đi biết bao nhiêu cảnh sống yên vui, chia lìa bao nhiêu đôi lứa. Qua lời của
người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm, ĐặngTrần Côn muốn lên án
cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa:
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo éc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Nỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Những cuộc chiến tranh này thực chất chỉ là việc tranh quyền đoạt lợi của
các tập đoàn phong kiến và phủ lên nó là một bầu trời đầy tang thương. Trong xã

hội trung đại, thế lực đồngtiền cũng rất đáng lên án vì nó đã vùi lấp và nhấn chìm
đi biết bao những con người tài hoa, những con người có khát vọng hoài bão lớn
muốn đem sức lực nhỏ bé của mình cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc.
Văn học trung đại đã chứng minh cho tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt
Nam. Đó là một dân tộc có những truyền thống tốt đẹp. Quay trở lại với bài Đại
cáo bình Ngô, sau khi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, quân và dân ta đã mở
đường hiếu sinh cho kẻ thù chứ không phải đuổi cùng giết tận, việc làm nhân đạo
đó chẳng những đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc mà còn thể hiện
niềm khát vọng được sống trong hòa bình của nhân dân.
Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể hiện
qua những nét chủ yếu sau:
Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình cảm của tác giả dành cho
những con người nhỏ bé chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, qua đó mà đòi quyền
sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tình cảm như vậy, các tác giả thơ thời kì
này mới viết được những dòng thơ, trang thơ xúc động đến như thế.
Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con người với con
người, đề cao tình bạn, tình anh em, tình cha con, thể hiện mong muốn được sống
trong hòa bình.
Tiếp thu học thuyết nhân nghĩa của Nho giáo, kế thừa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, các thi sĩ, văn nhân đã đưa cảm hứng nhân đạo vào văn học trung đại
làm cảm hứng chủ đạo qua đó mà làm tiền đề cho sự phát triển văn học các thời kì
tiếp theo.
2.3. Tư tưởng trung quân ái quốc trong văn học trung đại
Tìm hiểu đặc điểm của Nho giáo, ta thấy Nho giáo đặc biệt đề cao chữ
“Trung”, chính vì vậy Nho giáo được các ông vua thời phong kiến coi trọng. Chữ
“Trung” của Nho giáo đã ngấm sâu vào đời sống con người thời bấy giờ và đi vào
văn học như một lẽ tất yếu mà ta thấy xuất hiện rõ nhất ở đa số các tác phẩm của
văn học trung đại là tư tưởng trung quân ái quốc.
Trong điều kiện “đất nước hoà bình” thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ
trong thơ văn thường là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc; là niềm khát vọng xây

dựng đất nước hoà bình hạnh phúc; là yêu giống nòi, tiếng nói, cảnh trí của non
sông gấm vóc và yêu cả nền văn hoá của dân tộc. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận “Vô
vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh” khi trả lời vua Lê Đại Hành đã chứng tỏ niềm
tin vào vận mệnh đất nước. Bài Thiên đô chiếu thể hiện sự nhìn xa trông rộng của
Lý Thái Tổ về tương lai đất nước, vì Thăng Long không chỉ đẹp ở thế đất “rồng
cuộn hổ ngồi” mà còn là nơi trung tâm để có thể “mưu toan việc lớn, tính kế lâu
dài cho con cháu đời sau”, điều mà cố đô Hoa Lư không còn phù hợp với yêu cầu
của thời đại lịch sử bấy giờ. Bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu không
chỉ đưa lại cho người đọc một tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non
sông gấm vóc, mà còn đem đến một niềm tự hào lớn về truyền thống anh hùng, bất
khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã so
sánh bài phú này với bài Xích Bích phú của Tô Đông Pha (đời Tống – Trung Quốc)
rồi ngợi khen “văn thể phú triều Trần phần lớn khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ,
âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”.
Cũng là con sông Bạch Đằng lẫy lừng chiến tích, nửa thế kỷ sau cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), thứ ba (1287), Trần
Minh Tông và Trương Hán Siêu cùng cảm nhận một màu máu tanh hôi trên dòng
sông: “Ngỡ rằng máu giặc hãy còn đây”, dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng
dấu vết, chiến tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại mãi. Thật tự hào biết bao! Cũng với
cảm hứng ấy, Phạm Sư Mạnh khi nhìn dòng sông cuộn sóng, cảm thấy lòng bồi hồi
tưởng nhớ chiến tích oai hùng năm xưa của Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán
trên dòng Bạch Đằng giang:
Hung hăng Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.79)
Dịch:
Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,
Tưởng thuyền chiến Ngô Vương.
Để hơn trăm năm sau, thi hào Nguyễn Trãi khi đến dòng sông này cũng đã
có cảm xúc và niềm tự hào như thế trong bài thơ Bạch Đằng hải khẩu.

Có thể nói, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam thể hiện sâu
sắc ở lòng tự hào dân tộc. Chúng ta đã từng thấy dõng dạc vang lên trong bài thơ
thần của Lý Thường Kiệt là tiếng nói đầu tiên như âm vang từ khí thiêng sông núi
dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm chủ. Nước là của vua, vua là tượng
trưng cho chủ quyền đất nước:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hưs
Đọc Nam quốc sơn hà, người đọc không khỏi ngỡ ngàng bởi đây tựa như
một công trình nhỏ bé, bền chắc và tài hoa. Bài thơ hoàn toàn không có vũ khí binh
đao mà kì lạ thay ta vẫn nhận ra tiếng quân reo, ngựa hí… Sự liên tưởng nhiều tầng
ấy phải chăng được gợi lên từ tiếng nói tự hào dân tộc của một con người giàu lòng
yêu nước và tinh thần tự chủ.
Trong thơ trung đại, tư tưởng trung quân ái quốc còn thể hiện ở tinh thần
quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược. Chính tư tưởng này đã tạo ra hào khí
Đông A trong lịch sử chống quân xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy vang lên hùng
tráng mà tha thiết qua khúc ca khải hoàn Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang
Khải:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san
Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm với
ngựa thét quân reo ngất trời tráng khí. Một trong hai trận ấy do đích thân Trần
Quang Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tử nằm trong hệ thống chiến thắng mở
màn có ý nghĩa chiến lược cho cuộc phản công thắng lợi, mạnh và nhanh, cường
độ lớn và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng tráng, thiêng liêng. Yêu
nước, căm thù giặc tất yếu phải chiến đấu đến cùng cho lí tưởng ấy. Trong thơ
trung đại Việt Nam dường như vẫn còn văng vẳng tiếng mài giáo dưới ánh trăng

của Đặng Dung – Cảm hoài, cái múa giáo đầy thách thức của Phạm Ngũ Lão. Sự
mất còn của non sông đặt gánh nặng lên vai con người thời cuộc với thử thách
nặng nề: giết giặc cứu nước. Vậy nên trong Thuật hoài Phạm Ngũ Lão đã xây dựng
hình tượng một con người tràn đầy khí thế, tầm vóc. Ở đó có cả sức mạnh của
tướng sĩ ba quân trong cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên, đồng thời
đó cũng là sức mạnh của cả dân tộc.
Đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của con người
Việt Nam lại bật lên mạnh mẽ. Không thể cầm gươm tham gia giết giặc như các sĩ
phu yêu nước khác, Nguyễn Đình Chiểu đã đánh giặc bằng chính ngòi bút của
mình:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên sâu
sắc hơn. Cảm hứng bao trùm bài Chạy giặc là nỗi bàng hoàng, lo lắng cho vận
nước, nạn dân:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Trong văn học trung đại ta nhận thấy dường như còn có những nỗi buồn sâu
kín của con người trước sự đổi thay của đất nước, những cảnh trớ trêu trong xã hội,
nạn chiến tranh, cát cứ, xâm lược. Nhà thơ Tú Xương khi nghe tiếng ếch vẳng bên
tai đã giật mình đau xót trước hiện thực phũ phàng:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Sông Lấp)
Còn với Nguyễn Khuyến thì sao? Ông xót xa trước những trò lố lăng, xúc
phạm đến danh dự của dân tộc do thực dân Pháp bày ra:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu

Không chỉ có vậy, tư tưởng trung quân ái quốc trong văn học trung đại còn
thể hiện ở việc các nhà thơ ca ngợi cảnh đẹp của quê hương đất nước:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về
(Quy hứng)
Kể cả một chiếc lá đỏ thưa, một cánh cò chao liệng, một tiếng chuông vẳng
trong trời mây cũng được các nhà thơ thi vị hóa:
Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến đậu
Trăng rơi đầy nước, móc rơi đầy sông.
Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật đầy âm
thanh, màu sắc. Xuân về mang theo sự tươi tốt với những làn mưa làm cho cỏ xanh
như màu khói bao la, bát ngát:
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỡ trời
(Bến đò xuân trở lại)
Như vậy, tư tưởng trung quân ái quốc của Nho giáo được thể hiện trong văn
học trung đại ở nhiều khía cạnh phong phú và sâu sắc. Đất nước, dân tộc là niềm
khắc khoải khôn nguôi trong tâm hồn con người Việt Nam nói chung và các nhà
thơ, nhà văn nói riêng. Vậy nên, ở mỗi người lại có cách khai thác, cảm nhận khác
nhau song lại vẫn là sự thống nhất và làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính
cảm hứng ấy đã làm nên cái độc đáo riêng và giá trị của văn học Việt Nam thời
trung đại.
2.4. Ảnh hưởng của quan niệm “Thi dĩ ngôn chí” đối với văn học trung đại
“Thi dĩ ngôn chí” là một quan niệm thơ ca cổ điển của Nho gia Trung Quốc,
gây ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều thế hệ nhà thơ phong kiến kể cả ở Việt Nam. Có
căn cứ nói vua Đại Thuấn 4000 năm trước đã nêu ra công thức này. Nhưng đáng tin
cậy nhất là thời Chiến Quốc (475 – 221TCN), sách Tả truyện có ghi rõ: "Thi dĩ ngôn
chí” – để nói chí, như thế là thiên về mặt biểu đạt thế giới chủ quan của thi nhân.

“Thi dĩ ngôn chí” không phải là nguyên lí về bản chất và chức năng xã hội chung
của thơ văn, mà chỉ là một mệnh đề về đặc trưng thể loại của thơ ca. "Văn" ở đây chỉ
là văn chính luận. "Đạo" là "lí học" của Tống Nho, kết tinh một cách hữu cơ những
mặt tiêu cực của Khổng giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Và văn chở cái đạo có sẵn như
xe chở vật, nghĩa là hoàn toàn tách rời giữa nội dung và hình thức. Tương ứng với
tinh thần "Văn dĩ tải đạo" trong lí luận thơ ca, là quan niệm của Hoàng Đình Kiên
đời Tống chịu nhiều ảnh hưởng trực tiếp của lí học Tống Nho, chủ trương thơ ca
phải "lấy lí làm chủ".
Quan niệm “Văn dĩ tải đạo, Thi ngôn chí” trong văn học trung đại ảnh hưởng
rất nhiều từ yếu tố Nho giáo, đây chính là sản phẩm của truyền thống văn hóa của
phương Đông, trong đó vai trò của Nho giáo rất to lớn. Với đặc trưng lấy đức trị làm
đầu, khác với phương Tây, coi pháp trị là chính. Có thể nói trong các học thuyết đã
có của nhân loại từ xưa tới nay, không một học thuyết nào xem trọng vấn đề đạo đức
cá nhân, coi trọng vấn đề thân bằng Nho giáo. Văn chương nói lên cái chí, nói cái
quan niệm của nhà Nho, thể hện cách hành xử của nhà Nho trước cuộc đời. “Ngôn
chí” cũng là hành vi lập ngôn của người quân tử.
Các bài thơ có nhan đề Thuật hoài, Cảm hoài trong văn học trung đại chính
là bài thơ tỏ chí, tỏ lòng quen thuộc.
Dưới đây là một bài tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu
(Thuật hoài – Phạm Ngũ Lão)
Thuật hoài là bài thơ của Phạm Ngũ Lão thể hiện niềm tự hào trước sức
mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại (Hào Khí Đông A) và nỗi niềm của tác giả cũng
là cái chí cái thẹn của người con trai thời Trần. Văn học trung đại không có không
ít các bài thơ ngôn chí như vậy. Ở sáng tác của Nguyễn Trãi, cái chí đó là nỗi lòng
yêu nước thương dân vô cùng của nhà Nho Nguyễn Trãi:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước Triều Đông.
Vua Tự Đức triều Nguyễn thường nói “văn của thánh nhân là để chở đạo,
văn của văn nhân dùng để bàn về đạo”. Trong lịch sử văn học Việt Nam, tập II
Nxb GD Hà Nội 1963 trang 46 có ghi lời của Phạm Văn Sĩ, khẳng định quan niệm
“ văn dĩ tải đạo” một đặc điểm của văn chương trung đại “ Các tác gia phong kiến
cho rằng văn chương không dùng để giải trí mà là để truyền thụ đạo lý thánh
hiền”(văn dĩ tải đạo) đó là tuyên ngôn của nhà Nho đối với nhiệm vụ và mục đích
của văn học.Bài viết “Thành Duy về tính dân tộc trong văn học”, NXB KHXH
1982, mở rộng thêm: “Từ quan niệm văn dĩ tải đạo cha ông ta biết tiếp thu mặt
tích cực của nó”. Đây là một điều đáng ghi nhận. Bỡi lẽ ta có thể nhận ra niềm yêu
mến và tự hào đối với nền văn hoá văn học của dân tộc qua thơ của Tự Đức - một
vị vua triều Nguyễn. Bài thơ có sự tự hào như ý thơ gần với thơ cuả Nguyễn Trãi
Nhớ nước Nam ta là nhớ văn hiến
Xưa nay một mực tính thuần
Từ Đinh Lý đến Trần Lê
Văn phong đã rạng rỡ
(Tự Đức có dư tự tính thi)
“Đạo” đến thời của Nguyễn Đình Chiểu không còn dừng lại ở đạo lý của
Nho giáo mà đạo đó là “cứu nước thương nòi” nói chung xa lạ với công thức “tải
đạo” thường lấy trong văn chương trung đại. Trong bài Đạo nghĩa của Nguyễn
Đình Chiểu có nói điều này:
Mến nghĩa sao đành làm hại nước
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà
Điều rõ ràng dễ nhận thấy của văn học phong kiến là người sáng tác rất coi
trọng chức năng xã hội của văn chương. Bên cạnh sứ mệnh trước tiên của tác phẩm
là gởi thông điệp về chí tu thân của nhà Nho, tác giả trung đại chủ trương bộc lộ
cái chí trị quốc, bình thiên hạ của họ.
2.5. Ý nghĩa của yếu tố Nho giáo trong văn học trung đại Việt Nam
Nho giáo góp phần hướng văn học vào cuộc sống. Có lẽ cho đến nay, trong
các học thuyết xã hội ít nhiều có tính chất triết học, thì Nho giáo và chủ nghĩa Mác

là hai học thuyết có tính chất nhập thế sâu sắc nhất, tự giác nhất. Riêng Nho giáo
thì như mọi người đã thấy, với tính chất nhập thế này, nó có tuổi thọ hơn hai ngàn
năm tại các nước Đông Á, kể cả một phần thuộc Nam Á. Trên quê hương của
mình, Nho giáo từng kết duyên với chế độ phong kiến hơn hai ngàn năm. Qua thời
đại Mác xít, nó bị hắt hủi, nhưng nay đang là gì trên quê hương đó, ai có điều kiện
theo dõi sẽ thấy. Với Nhật Bản thì Nho giáo đã gắn bó từ xa xưa và luôn luôn được
bảo vệ, được lợi dụng và được coi là một trong bốn cây cột cái của cái gọi là "tinh
thần Nhật Bản" từ buổi đầu đón nhận "kỹ thuật phương Tây" để nhanh chóng trở
thành siêu cường, và đến nay có thể dõng dạc tuyên bố với thế giới: "tinh thần
Nhật Bản" và "kỹ thuật Nhật Bản". Rồi nữa, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore mấy
con rồng ấy đều là những xứ sở biết tận dụng khai thác tính chất nhập thế của Nho
giáo. Tính chất nhập thế của Nho giáo đã góp phần hướng văn học vào cuộc sống.
Ở phương diện này, Nho giáo có vai trò hơn Phật giáo vốn mang tính chất xuất thế,
hoặc nhập thế dưới hình thức xuất thế. Trần Đình Hượu trong tiểu luận "Nho giáo
và văn học nghệ thuật" có ý kiến cho rằng: Nho giáo, cụ thể là Khổng Tử, trong
quan niệm văn chương của mình, chỉ nói đến "thiện" và "mỹ" mà không nói đến
"chân". Và theo ông "Nho giáo đã đưa văn học nghệ thuật bỏ xa cuộc sống thực
tế, xa xúc cảm chân thực… ngăn cản văn học nghệ thuật phát triển theo hướng chủ
nghĩa hiện thực". Có thể nói Nho giáo chưa đủ khả năng đưa văn học Việt Nam
trung đại đi tới chủ nghĩa hiện thực nhưng nó góp phần không nhỏ vào việc tạo nên
tính chất hiện thực bên cạnh những tính chất khác của văn học Việt Nam trung đại
mà chúng ta từng nói tới.
Nho giáo góp phần tạo nên giá trị đạo đức vốn là một nét nổi trội của văn
học Việt Nam trung đại. Như trên đã nói, trong các học thuyết của loài người, cổ
kim Đông Tây, không một học thuyết nào coi trọng vấn đề đạo đức con người, vấn
đề tu thân bằng Nho giáo. Nho giáo chủ trương lý tưởng tôn quân, nhưng cũng có
tư tưởng thân dân khá đậm đà. Tiếc rằng, đời nay, trong bối cảnh khí quyển đạo lý
đã bị loãng đi quá đáng, lại có sự cắt đứt với quá khứ không ít nên không ít người
đã hiểu sai, thậm chí xuyên tạc Nho giáo, chỉ thấy phần hạn chế của nó mà bỏ quên
mất phần chân chính của nó trong việc chăm lo đạo lý cho con người. Thử hỏi

trong lịch sử Việt Nam ta, cho đến nay, về mặt đạo đức cá nhân, đã có mẫu người
nào vượt qua mẫu người chân quân tử vốn là mô hình nhân cách của Nho giáo, của
chân Nho.
Nói đến văn học Việt Nam trung đại, không thể không ghi nhận những giá
trị đạo đức cao đẹp, sâu đậm bao gồm cả tư đức và công đức trong đó có tư tưởng
thân dân, vốn đã không tồn tại dưới dạng nguyên lý khô cứng mà đã trở thành Tâm
huyết không dễ gì thấy lại ở loại văn chương thời hiện đại. Đặc biệt là thứ tâm
huyết gắn chặt với nghĩa khí thành nghĩa khí - tâm huyết đáng được coi là một
phạm trự mỹ học. Mà từ đó, lại không thể không nghĩ đến một phần cội nguồn của
nó là Nho giáo, chân Nho. Nho giáo có bao nhiêu danh ngôn để đời như: "Kiến
nghĩa bất vi vụ dũng giả", "Sát thân thủ nghĩa", "Xá thân thành nhân", "Phú quý
bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất", "Dân vi quý, xã tắc thứ
chi, quân vi khinh", "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân", "Thế thiên hành đạo", "Quân
tử thận kỳ độc", "Nhất nhật tam tỉnh ngô thõn", "Tiên thiên hạ ưu, hậu thiên hạ
lạc" …
PHẦN KẾT LUẬN
Nho giáo du nhập vào Việt Nam và có ảnh hưởng sâu đậm tới đời sống vật
chất cũng như tinh thần của nhân dân ta. Trong suốt chiều dài của lịch sử, đặc biệt
là thời phong kiến, học thuyết của Nho giáo đã trở thành khuôn mẫu để đánh giá
nhân phẩm của con người. Vậy nên khi Nho giáo xuất hiện trong văn học đã được
nhân dân tiếp nhận và hưởng ứng.
Học thuyết thiên mệnh, nhân nghĩa, tư tưởng trung quân ái quốc… của Nho
giáo bỗng nhiên trở thành những cảm hứng chủ đạo của văn học trung đạo với mục
đích đề cao tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, thể hiện tình thương yêu
con người, coi trọng đạo lí làm người.
Thử tưởng tượng, ở thời trung đại, trên đất nước ta, thiếu đi những ý tưởng
đó của Nho giáo, của chân nho, thì con người Việt Nam ta, và cũng là văn học Việt
Nam ta sẽ thế nào? Chắc chắn, không như những gì nó đã có và đã là nguồn tư
tưởng tình cảm nuôi dưỡng tinh thần nhân dân ta, làm đẹp con người Việt Nam ta,
văn học Việt Nam ta, ít ra là ở thời trung đại mà văn học là một trong các phương

tiện chuyển tải hữu hiệu.

×