Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

ĐẠO đức NHO GIÁO TRONG TRIẾT học TRUNG HOA và ẢNH HƯỞNG của nó đến VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.16 KB, 16 trang )

Giá trị đạo đức của nho giáo trong triết học Trung
Hoa và sự ảnh hởng của nó đối với việt nam hiện nay
I. Giá trị đạo đức của Nho giáo trong triết học Trung Hoa
Có thể nói cùng với ấn độ, Trung Hoa cũng là cái nôi của nền văn minh
phơng Đông nói riêng và của nhân loại nói chung. Với những phát minh vĩ đại
trên mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, Trung Hoa cũng là quê hơng của những hệ
thống triết học lớn. Trải qua gần 40 thể kỷ phát triển liên tục, lịch sử triết học
Trung Hoa bao hàm nội dung cực kỳ phong phú với những hệ thống triết học đồ
sộ và sâu sắc. Trong đó có trờng phái triết học Nho gia (Nho giáo). Nho giáo là
trờng phái lớn nhất trong lịch sử t tởng Trung Quốc. Ngời khởi đầu và đặt nền
móng cũng là đại biểu vĩ đại nhất của Nho giáo là Khổng Tử. Từ khi ra đời đến
nay, t tởng Nho giáo đã trải qua bao thăng trầm, có lúc tởng nh không tồn tại
nổi bởi các cuộc bài Nho. Nhng đến nay t tởng Nho giáo vẫn tồn tại. Điều đó
chứng tỏ rằng sức sống mãnh liệt và ảnh hởng sâu rộng của t tởng Nho giáo. T
tởng Nho giáo đề cập đến nhiều mặt nh triết học, đạo đức, giáo dục... nhng t tởng về triết học, chính trị- đạo đức có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong đó nổi
bật hơn cả là quan niệm về tu thân đối với các bậc đế vơng, hiền tài. Vì vậy
nghiên cứu về nó có ý nghĩa to lớn trong nhận thức và cải tạo xã hội ở Việt
Nam hiện nay. Nh GS Vũ Khiêu viết: Giới khoa học Việt Nam sẽ tiếp tục
nghiên cứu thêm về Nho giáo, để có thái độ đúng đắn đối với một học thuyết có
ảnh hởng lớn đến t tởng, tình cảm và sinh hoạt ở nhiều nớc châu á ngày nay,
trong đó có Việt Nam1.
Trong trờng phái triết học Nho giáo (còn gọi là Khổng giáo), đề cập
nhiều vấn đề triết học, đạo đức chính trị- xã hội, đây là học thuyết về đạo xử
thế của ngời quân tử: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. T tởng Nho giáo
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử t tởng Trung Hoa. Nó có ảnh hởng sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tuy nhiên căn cứ vào nội dung
của học thuyết, ngời ta thờng chia quá trình phát triển t tởng Nho giáo làm ba
giai đoạn đó là Nho Tiên Tần, Hán Nho và Tống Nho.
Để thấy đợc giá trị trong các học thuyết triết học về chính trị- đạo đức
của triết học Trung Hoa cổ đại chúng ta điểm qua tình hình về đặc điểm kinh
tế chính trị- xã hội của thời kỳ đó.
Về địa thế, Trung Hoa lúc bấy giờ là một nớc lớn, dân số đông, với địa


hình phức tạp, một bên là biển cả, một bên là những dãy núi rất cao và một sa
1

Vũ Khiêu, Nho giáo và phát triển ở Việt nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1997, tr .196.

1


mạc rộng lớn bao bọc. Đất nớc Trung Hoa núi non hiểm trở, sông nớc mênh
mông, nắng sơng hoà hợp với nhau đã tô điểm nên thiên nhiên hùng vỹ. Ngời
Trung Hoa tự hào gọi quê hơng của mình là Trung Hoa quốc nghĩa là nớc ở
giữa, nớc tơi tốt, nở hoa.
Về chính trị- xã hội, thứ nhất là sự quá độ từ công xã nông thôn tiến tới
hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ, nh sự ra đời của nhà Hạ, nhà Ân,
nhà Thơng, nhà Chu. Thứ hai là, sự quá độ của các quốc gia chiếm hữu nô lệ
tiến tới hình thành các quốc gia phong kiến, tiêu biểu là Tần Thuỷ Hoàng
thống nhất giang sơn thu về một mối, xây dựng quốc gia phong kiến trung ơng
tập quyền đầu tiên của Trung Hoa.
Quá trình chuyển hoá từ công xã nông thôn tới việc hình thành các quốc
gia nô lệ kéo dài khoảng vài ba ngàn năm trớc Công Nguyên. Thời kỳ này có
những phát minh quan trọng, nh Toại Nhân tìm ra lửa để nấu chín thức ăn,
Phục Hy phát minh ra lới săn thú, kỹ thuật bắt cá, chăn nuôi thuần hoá gia
súc, Thần Nông phát hiện ra cánh đồng lúa nớc, làm ra lỡi cày, tổ chức ra chợ
cho dân buôn bán, tìm ra nhiều thứ cây để chữa trị bệnh... Những phát minh
quan trọng này đã đa sản xuất phát triển cao, làm xuất hiện chế độ t hữu về t
liệu sản xuất, dẫn tới việc phân hoá dân c và hình thành giai cấp. Đây là đặc
điểm rất có ý nghĩa cho việc hình thành các t tởng triết học.
Dân c Trung Hoa cổ đại lúc đó quy tụ trên ba khu vực chính: các chủng
tộc Hoa Bắc ở phía Tây Bắc thuộc các tỉnh Sơn Tây, Thiểm Tây với cuộc sống
du mục, săn bắn là chủ yếu. Họ sẵn sàng thôn tính các dân tộc kém phát triển

hơn, đồng hoá hoặc du nhập các nền văn hoá. Các chủng tộc Tam Miêu sống ở
khu vực sông Hoàng Hà, Dơng tử, họ sống bằng nghề nông luôn luôn phải trị
thuỷ nên toán học rất phát triển. Còn các dân tộc Bách Việt sống ở lu vực phía
Nam sông Dơng Tử, họ đã tổ chức xã hội thành quốc gia riêng, yêu chuộng tự
do, kinh tế phát triển, biết dệt vải bông tơ lụa, có sản phẩm quý nh ngọc trai,
ngà voi...Văn minh Trung Hoa ảnh hởng rất nhiều đến nền văn minh này.
Cuộc sống du mục với điều kiện tác động cả thuận lợi và khắc nghiệt của tự
nhiên là điều kiện thuận lợi làm nảy sinh các t tởng triết học nh t tởng Ngũ
Hành...
Thời Xuân thu- Chiến quốc: bắt đầu từ sự suy tàn của nhà Chu cho đến
khi hình thành nhà Tần. Dới thời nhà Chu, sản xuất phát triển, chuyên môn
hoá cao, hình thành các thành thị phong kiến. Sự phân hoá về lợi ích trong giai
cấp chủ nô đã làm tan rã nhà Chu thành bảy nớc lớn đó là Tần, Sở, Tề, Nguỵ,
Hàn, Triệu, Yên. Xuân thu là thời chiến tranh liên miên giữa bảy nớc nhằm

2


chia lại đất đai và giành quyền bá chủ. Sau đó Tần diệt sáu nớc (năm 221 tr.
CN), chia Trung Hoa thành 36 quận. Nhà Tần chỉ tồn tại 15 năm thì bị nhà
Hán diệt, cũng trong thời kỳ này t tởng đợc giải phóng, tri thức đợc phổ cập, t
tởng triết học có hệ thống đợc hình thành. Lịch sử gọi thời kỳ này là: Bách
gia tranh minh. Chính trong thời kỳ này xuất hiện những nhà t tởng vĩ đại,
hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh, với những t tởng cơ
bản của nó, đã tồn tại trong suốt quá trình phát triển của lịch sử t tởng trung
Hoa. Trong đó có 5 trờng phái: Âm- Dơng Ngũ hành, Nho giáo, Đạo giáo,
Mặc gia và Pháp gia ảnh hởng lớn tới xã hội lúc bấy giờ. Trong đó Nho giáo
có ảnh hởng tơng đối đậm nét so với các trờng phái khác.
Nho giáo, cơ bản là một học thuyết về đạo xử thế của ngời quân tử: Tu
thân, Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ. T tởng Nho giáo chiếm vị trí đặc biệt

quan trọng trong lịch sử t tởng Trung Hoa. Nó có ảnh hởng sâu sắc đến mọi
mặt của đời sống xã hội. Căn cứ vào những biến đổi trong nội dung của học
thuyết, ngời ta thờng chia quá trình phát triển t tởng Nho giáo làm ba giai
đoạn: Nho Tiên Tần, Hán Nho và Tống Nho. Ta nghiên cứu Nho Tiên Tần, đặc
biệt là t tởng của Khổng Tử quan niệm triết học về đạo đức chính trị- xã hội và
ảnh hởng của nó đối với Việt Nam.
Khổng Tử, ngời sáng lập ra học thuyết Nho giáo, nhà t tởng vĩ đại của
Trung Hoa trong thời cổ đại. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc nhỏ đang
bị sa sút (khoảng năm 551 tr. CN và mất năm 479 tr. CN), ngời nớc Lỗ. T tởng
Nho giáo của Khổng Tử không những ảnh hởng sâu sắc đến đời sống xã hội
Trung Quốc mà còn ảnh hởng tới các nớc xung quanh trong đó có Việt Nam.
Tơng truyền lại ngay từ nhỏ, Khổng Tử đã có cá tính rất đặc biệt, rất
trọng lễ nghĩa, rất hiếu học và hiểu biết rộng. Ông học rộng, hiểu sâu, kiến
biết nhiều, biết thấu lẽ huyền diệu của tạo hóa. Vua nớc Lỗ nghe tiếng ông là
bậc hiền thánh nên dùng ông làm quan T khấu, khi can ngăn nhà vua từ bỏ
thói đam mê ham chơi trễ nải việc triều đình không đợc nên ông đã xin từ
chức. Từ đó ông đi chu du các nớc ch hầu để ai dùng thì theo, mang đạo học
của mình để cứu đời, nhng chẳng có vua nớc nào tin dùng. Đến khi 68 tuổi
ông về nớc Lỗ mở trờng dạy học và soạn sách...
Quan điểm triết học của Khổng Tử qua các tác phẩm do ông san định lại
nh: Kinh Dịch, Kinh Th, Kinh Thi, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu. Môn đệ của
ông chép lại những lời ông dạy thành bộ Luận Ngữ. T tởng triết lý của ông
thể hiện trên nhiều phơng diện nh bản thể luận, triết học chính trị xã hội, về
đạo đức, về giáo dục...trong những nội dung hết sức đặc sắc ấy thì t tởng tu

3


thân có ý nghĩa nhân văn, nhân bản xuyên suốt trong học thuyết đạo đức
chính trị- xã hội của ông.

T tởng tu thân là một nội dung hàm chứa những giá trị mang tính toàn
nhân loại mà hiện nay chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu, kế thừa có chọn
lọc và phát triển t tởng đó.
Theo Khổng Tử, tu thân có nghĩa là tu chỉnh, rèn luyện đạo làm ngời;
hay nói cách khác, đó là vấn đề tu dỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, t cách
của mỗi ngời trong xã hội. Theo Khổng Tử tu thân có vị trí vai trò hết sức
quan trọng, là cơ sở để thực hiện chính danh ở mỗi con ngời. Có chính
danh thì xã hội mới có thể đổi loạn thành trị, xã hội mới có tôn tri trật tự.
Ông giải thích rằng chính danh là làm mọi việc cho ngay thẳng, ở thời đại
của Khổng Tử là thời đại danh và thực oán trách nhau. Vua không làm đúng
danh hiệu vua, tôi không làm đúng danh hiệu tôi... vì thế mà xã hội rối loạn.
Vì vậy chính danh thì ngời nào có địa vị, bổn phận chính đáng của ngời ấy,
trên dới, vua tôi, cha con... trật tự phải phân minh và muốn trị nớc trớc hết
phải sửa mình cho chính danh. Khổng Tử nói Nếu danh không chính thì ngôn
không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành, việc không thành thì lễ
nhạc không hng thịnh, lễ nhạc không hng thịnh thì hình phạt không đúng,
hình phạt không đúng thì dân không biết đặt tay làm, đặt chân đứng vào đâu,
do đó để thực hiện chính danh thì phải tu thân.
T tởng đạo đức về tu thân có nội dung hết sức phong phú và sâu sắc
biểu hiện trên những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đối với con ngời nói chung, Khổng Tử yêu cầu tu thân theo
ngũ luân, ngũ thờng.
Về ngũ luân, đây là năm mối quan hệ: Quân- Thần, Phụ- Tử, PhuPhụ, Huynh- Đệ, Bằng- Hữu, trong các mối quan hệ đó thì có ba mối quan hệ
rờng cột đó là Quân- Thần, Phụ- Tử, Phu- Phụ hay còn gọi là tam cơng. Các
mối quan hệ này là các mối quan hệ rất cơ bản trong xã hội, nếu các mối quan
hệ này mà kém hoặc bị phá vỡ thì xã hội sẽ bị tắc loạn. Tu thân theo ngũ
luân phải theo nguyên tắc: quân nhân- thần trung, phụ từ- tử hiếu, phu nghĩaphụ thính, huynh lơng- đệ đễ và bằng hữu phải thành tín2.
Quân nhân- thần trung: tức là vua phải là ngời có đức nhân thì thần dân ắt
sẽ trung thành và kính trọng vua.
Phụ tứ- tử hiếu: tức là ngời cha phải nhân từ thì con cái ắt sẽ hiếu thảo.

2

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 68

4


Phu nghĩa- phụ thính: tức là ngời chồng phải sống có tình, có nghĩa, có
trớc, có sau, thuỷ chung thì ngời vợ ắt sẽ theo chồng.
Huynh lơng- đệ đễ: tức là ngời anh phải là ngời lơng thiện, sống tốt thì
ngời em ắt sẽ phải lễ phép với anh; trởng huệ-ấu thuận ngời anh phải ân huệ,
đại lợng thì em ắt nghe theo.
Bằng hữu phải thành tín: tức là bạn bè phải đối sử với nhau một cách
chân thành để lại niềm tin yêu lẫn nhau.
Về ngũ thờng, Khổng Tử khuyên con ngời ta tu thân còn phải theo
ngũ thờng, đây là năm phẩm chất cơ bản nhất của con ngời, đó là nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín. Trong tu thân mỗi con ngời cần phải rèn luyện không ngừng,
giữ đợc phẩm giá đó là cả sự nghiệp tu thân.
Bàn đến việc trị nớc Khổng Tử đặc biệt coi trọng tu dỡng, rèn luyện và
giữ cho đợc đức nhân và lễ nghĩa, đây là hai phạm trù cơ bản để tu thân
của mỗi con ngời.
Trớc hết phạm trù nhân: là đức tính toàn thiện, là cái gốc đạo đức của
con ngời. Chữ nhân bao hàm nội dung hết sức rộng rãi. Theo ông: thơng
ngời là nhân; điều gì mà mình không muốn thì đừng đem áp dụng cho ngời
khác thế là nhân; Kỷ sở bất dục, vật thi nhân thế là nhân; mình muốn
lập thân, thì cũng giúp ngời lập thân, mình muốn thành đạt, thì cũng giúp ngời
thành đạt thế là nhân. Mặt khác có chỗ Khổng Tử cho rằng: nhân là thơng yêu ngời; nhân là tôn trọng ngời hiền; nhân là lòng ngời, nhân là
tình ngời, là quan hệ giữa ngời với ngời...Nh vậy nhân bao hàm nội dung rất
rộng, ở các mối quan hệ khác nhau thì nhân biểu hiện cũng khác nhau.Ông
nói Kẻ quân tử mà bất nhân thì cũng có nhng cha bao giờ kẻ tiểu nhân lại có

nhân cả (Luận ngữ).
Về phạm trù lễ: Khổng Tử cho rằng lễ là những phong tục, tập quán,
những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật nhà nớc nh sinh,
tang, tử, hôn, tế lễ, triều sinh, luật lệ, hình pháp v.v...nh vậy lễ bao hàm cũng
rất rộng, đó là các giáo lễ buộc mọi ngời tuân theo.
Theo Khổng Tử nhân và lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong
đó nhân là chất, là nội dung còn lễ là hình thức biểu hiện của nhân nh
thế nhân và lễ không thể tách rời nhau. Ông cho rằng con ngời ta muốn
đạt đợc nhân thì phải giữ lễ, ông nói chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều
trái lễ, chớ nói điều trái lễ và chớ làm điều trái lễ3.
3

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 69

5


Nho giáo còn đề cập đến nghĩa; nghĩa là điều nên nói, việc nên làm.
Nói điều gì đó, làm việc gì đó mà thấy hứng thú, thoải mái trong lơng tâm thì
điều nói đó, việc làm đó là việc nghĩa.
Khổng Tử cho rằng: có thể có ngời trí mà không nhân, nhng không
thể là nhân mà thiếu trí. Nh vậy trí là tri thức, là trí thông minh sáng
suốt, là sự hiểu biết sâu rộng của con ngời. Ông khẳng định rằng: con ngời ta
muốn đạt tới đức nhân thì phải là ngời có trí và dũng đó cũng là yêu cầu
của ngời đức nhân. Mặt khác Khổng Tử tin theo Thiên mệnh, nên trong
quan niệm về trí, một mặt cho rằng: con ngời sinh ra tự nhiên biết đợc đạo
lý, là hạng ngời cao thợng; mặt khác ông lại quan niệm rằng trí không phải
ngẫu nhiên mà có, nó chỉ đợc hình thành khi ngời ta trải qua quá trình học tập
tu dỡng; ông nói: đối với dân, việc gì cần làm thì cứ sai khiến ngời ta làm,
không nên giảng giải vì dân không có khả năng hiểu đợc nghĩa lý sâu xa...4.

Thứ hai, đối với các bậc đế vơng, hiền thần, việc tu thân của các bậc đế
vơng, hiền tài luôn đợc Nho giáo đặc biệt quan tâm, bởi vì theo Khổng Tử đế
vơng là ngời quán tam tài, nối kết giữa trời, đất và ngời. ảnh hởng của bậc đế
vơng sẽ qua các trung gian hiền thần mà thấu đến bách tính. Bách tính hấp thụ
đợc ảnh hởng ấy sẽ đợc giáo hoá, sẽ đợc hoàn cải.
Theo Nho giáo, đế vơng và hiền thần là những ngời làm chính trị, những
ngời này cần phải đạt đợc cửu trù và cửu kính.
Về cửu trù:
1.

Ngũ hành, tức là phải am hiểu địa lý.

2. Ngu sự, phải biết phơng pháp tu chỉnh bản thân mình, đi lại, nói năng,
xem xét tờng minh, nghe ngóng tinh tế, suy nghĩ đến nơi đến chốn.
3. Phải biết thực hiện bát chính (tám điều phải lo cho dân), phải biết lo cho
dân đợc no ấm, đủ đầy, sung túc, có lễ nghi tế tự, có nhà cửa đất đai, không bị
gian tà quấy nhiễu...
4. Phải biết đến ngũ kỷ, phải am tờng ý nghĩa của năm, tháng, ngày, biết
lịch số và sự vận động của nhật nguyệt.
5. Hoàng cực, là ngời thay trời trị dân nên cần phải có đức hạnh cao.
6. Có tam đức, đó là chính trực, cơng và nhu (là ngời bảo vệ cái đúng nhng
cần phải tuỳ thời mà cơng hay nhu).

4

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 69

6



7. Kê nghi, tức là biết bàn bạc, biết hỏi han khi gặp những trờng hợp nan
giải khó khăn phức tạp (tức là phải có quân s trợ giúp).
8. Thứ trng, phải biết thông qua quan sát điềm trời mà xem xét lại cách cai
trị của mình nh thế nào cho đúng, cho thuận.
9. Ngũ phúc, lục cực, nếu tổ chức tốt thì dân số đợc hởng ngũ phúc còn
không thì dân sẽ gặp phải lục cực.
Về cửu kính:
1. Kính hiền tài;
2. Yêu thơng họ hàng;
3. Kính đại thần;
4. Thơng dân nh con;
5. Khuyến khích hiền tài;
6. Khuếch trơng bách nghệ;
7. Tiếp đón ngời viễn xứ;
8. Bảo vệ ngời trong xứ;
9. Che trở ch hầu.
Thứ ba, đối với ngời quân tử, theo Khổng tử quân tử là những trí thức
nho học, thuộc tầng lớp trên của xã hội. Theo Nho giáo mẫu ngời lý tởng, cao
quý nhất là ngời quân tử.
Nho giáo đề cao vai trò của đạo đức nên phẩm chất cao quý nhất của
quân tử phải là đức hạnh. Nh vậy đạo của ngời quân tử là mài dũa, rèn
luyện cái đức sáng của mình, truyền bá cho nhân dân noi theo, khiến cho bản
thân và ai nấy ngày một mới hơn, tốt đẹp hơn và đạt tới chỗ đứng vững chắc ở
nơi chí thiện. Theo Nho giáo đứng vững chắc ở nơi chí thiện có nghĩa là làm
vua đứng ở điều nhân, làm tôi đứng ở điều kính, làm cha đứng ở điều từ, làm
con đứng ở điều hiếu, giao tiếp với ngời trong nớc đứng ở đức tin.
Con đờng thực hiện đạo quân tử, Nho giáo chỉ ra ba điểm nh sau:
- Thứ nhất là, phải tu dỡng cả trí lẫn đức;
- Thứ hai là, trí là yếu tố mở đầu cho cả quá trình tu dỡng và thực hiện
đạo quân tử, do đó rất đợc coi trọng, nhng đức mới là cái gốc, mới là cái

đích cuối cùng của quá trình ấy;

7


- Ba là, tu thân là yêu cầu nghiêm ngặt có ý nghĩa quyết định đối với
việc hình thành và hoàn thiện các phẩm chất trí tuệ và đạo đức của ngời quân
tử. Nó là mắt khâu then chốt trong toàn bộ quá trình tu dỡng và thực hiện đạo
quân tử.
Thứ t là, đối với ngời phụ nữ:
Nho giáo yêu cầu ngời phụ nữ phải thực hiện tam tòng và tứ đức;
T tởng tam tòng đó là tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng
tử có nghĩa là khi ở với cha mẹ ngời phụ nữ phải theo cha, khi đi lấy chồng
thì phải theo chồng, khi ngời chồng qua đời thì phải theo con trai. Đó là
nguyên tắc bất di bất dịch đòi hỏi ngời phụ nữ phải thực hiện.
T tởng tứ đức đó là bốn đức tính ngời phụ nữ phải có: công, dung,
ngôn, hạnh.
- Công: ngời phụ nữ trong công việc phải đảm đang, làm tốt mọi công
việc từ việc gia đình đến công việc của xã hội.
- Dung: Ngời phụ nữ phải có nhan sắc, biết giữ gìn và tu chỉnh sắc đẹp
của bản thân mình.
- Ngôn: ngời phụ nữ nói năng phải đúng mực, dịu dàng, lễ phép.
- Hạnh: ngời phụ nữ phải có đạo đức tốt, hiếu thảo với cha mẹ, chung
thuỷ với chồng, yêu thơng con cái hết mực.
Tóm lại, quan niệm của Nho giáo về tu thân có nội dung hết sức phong
phú và cụ thể. Quan niệm đó hàm chứa cả những mặt tích cực và những mặt
tiêu cực.
Về mặt tích cực:
- T tởng của Nho giáo về tu thân có nội dung tơng đối toàn diện, đã xãc
định rõ những yêu cầu, chuẩn mực, những nguyên tắc và con đờng tu thân

cho từng đối tợng cụ thể trong xã hội.
- Nho giáo đã đề cao việc tu dỡng rèn luyện đạo đức ở từng cá nhân và đã
nhìn thấy đợc vai trò to lớn của đạo đức con ngời trong đời sống xã hội. Theo
Nho giáo, đạo đức là cái đích cuối cùng của quá trình tu dỡng rèn luyện bản
thân mình, đạo đức là nhân tố quyết định cho việc đổi loạn thành trị, làm cho
đất nớc hng thịnh. Đề cao lòng nhân ái vị tha trong quan hệ với mọi ngời,
chứa chan tình ngời, chia ngọt sẻ bùi với nhau, quan tâm giúp đỡ nhau. Mỗi

8


ngời đều phải tận tâm, tận lực đối với công việc, vững vàng trớc những cám
dỗ, có trách nhiệm, nghĩa vụ với gia đình, xã hội.
- Nho giáo đã khuyến khích việc học hành của từng cá nhân, nhất là đối
với cấc bậc đế vơng hiền thần. Nho giáo xác định trí là yếu tố mở đầu cho cả
quá trình tu dỡng và khẳng định rằng: ngời muốn đạt đợc đức nhân phải là ngời có trí và dũng; có thể có ngời trí mà không nhân, nhng không thể
là nhân mà thiếu trí.
- Nho giáo còn chỉ ra vai trò trách nhiệm vô cùng to lớn của các bậc đế vơng, hiền thần, đó là phải chăm lo mọi mặt cho dân; Nho giáo đa ra bát
chính- tám điều mà ngời trị dân phải lo cho dân. Những ngời cán bộ phải
mẫu mực, có trách nhiệm với các thành viên của xã hội, coi trọng điều hơn,
điều lợi. Coi trọng xây dựng tổ ấm gia đình, làng xóm, xã hội theo một trật tự,
không bị rối loạn, có luân thờng đạo lý. Con cái hiếu thảo với cha mẹ, anh em
thơng yêu lẫn nhau, đùm bọc nhau, dân phải trung với nớc.
Về mặt tiêu cực:
Do hạn chế bởi điều kiện lịch sử và lợi ích giai cấp, cho nên t tởng Nho
giáo về tu thân còn chứa đựng những mặt tiêu cực đó là sự phân biệt đẳng
cấp, sự ràng buộc con ngời trong một trật tự xã hội có lợi cho giai cấp thống
trị đã kìm hãm sự phát triển cá nhân, làm cho con ngời trở nên cam chịu,
không dám đứng lên đấu tranh, dẫn đến một kết cục là kìm hãm sự phát triển
của xã hội. Học thuyết của Khổng Tử luôn chứa đựng những mâu thuẫn, giằng

co, đan xen giữa những yếu tố duy vật, vô thần và những yếu tố duy tâm, giữa
những t tởng tiến bộ với những quan điểm bảo thủ, phản ánh tâm trạng của
ông trớc biến chuyển của thời cuộc. Biểu hiện trên các khía cạnh sau:
- Việc tu thân chỉ chú trọng đến học hành thi cử, không coi trọng lao
động sản xuất làm ra của cải vật chất cho xã hội.
- Thủ tiêu đấu tranh, cam chịu sự áp bức, nghèo nàn và cực khổ.
- Tuyệt đối hoá chế độ đẳng cấp, những ngời ở đẳng cấp dới phục tùng vô
điều kiện những ngời ở đẳng cấp trên.
-T tởng quan liêu, gia trởng độc đoán, một ngời làm quan cả họ đợc nhờ,
cuộc sống luôn chịu sự thụ động, thiếu năng động của bản thân.
- Trong quan hệ xã hội lấy đạo đức thay cho luật pháp.
- T tởng trọng nam khinh nữ...
II. Sự ảnh hởng của Nho giáo đối với Việt Nam

9


Việt Nam là một nớc láng giềng của Trung Quốc, suốt trong chiều đai
lịch sử tồn tại phát triển của mình, Việt Nam đã từng bị Trung Quốc xâm
chiếm và đô hộ nhiều lần và kéo dài hàng ngàn năm. Trong những lần đô hộ
đó, bọn phong kiến Trung Quốc đã có mu đồ đồng hoá nền văn hoá Việt với
nền văn hoá Hán của họ. Nhng với truyền thống tự lực, tự cờng của dân tộc
Việt Nam bọn chúng không thực hiện đợc mu đồ đó, ngợc lại các t tởng của
văn hoá Trung Hoa đã bị Việt Nam hoá.
Tuy nhiên, nền văn hoá Hán nhất là Nho giáo có ảnh hởng nhất định đến
đời sống, con ngời và xã hội Việt Nam. Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ
những năm đầu công nguyên, dần dần ảnh hởng đến mọi lĩnh vực trong đời
sống tinh thần của nhân dân ta. Quá trình củng cố quyền thống trị của mình và
xây dựng đất nớc, các triều đại đã tìm thấy ở đạo Nho những yếu tố hợp lý
(cùng với đạo Phật, đạo Lão...). Tuy nhiên Nho giáo vào Việt Nam đã bị Việt

Nam hoá, vì vậy các quan điểm mà các nhà t tởng, các nhà yêu nớc khi sử
dụng các khái niệm, phạm trù... không còn giữ nguyên t tởng nh Nho giáo
gốc.
Sự ảnh hởng của Nho giáo tới Việt Nam cũng nằm trong diễn tiến văn
hoá đó, trong đó t tởng về tu thân cũng là một trong những nội dung có ảnh
hởng tơng đối sâu sắc đến đời sống xã hội Việt Nam.
Một là, t tởng về mẫu ngời lý tởng:
Chúng ta không thể phủ nhận rằng, từ khi bắt đầu giành đợc độc lập, cha
ông ta đã chú trọng đến việc xây dựng những con ngời theo tiêu chuẩn Nho
giáo. Trong đó t tởng trung nghĩa đợc đề cao cho phù hợp với lợi ích của vơng triều thống trị, nhng trong khái niệm này đã có những nội dung mới.
Trần Hng Đạo quan niệm trung nghĩa tuy vẫn kiểu nh Nho giáo, tức là
trung với vua nhng trong đó đã bao hàm nội dung yêu nớc; vì lúc đó quyền lợi
của vua gắn liền với quyền lợi của dân tộc. Đằng sau khái niệm trung quân
đã bao hàm cả sự trung thành với lợi ích của dân tộc.
Đến Nguyễn Trãi, khái niệm trung nghĩa đã đợc nâng lên với nội dung
mới, ở đây không chỉ trung với vua, mà đợc hiểu là trung với nớc...ở ông, nhân
nghĩa trớc hết là một đờng lối chính trị, một chính sách cứu nớc. Nhân nghĩa ở
Nguyễn Trãi có phạm vi rộng hơn, vợt ra ngoài chủ trơng, đờng lối và ở mức
độ cao hơn, vợt lên trên những vấn đề cụ thể trở thành cơ sở của đờng lối và
chuẩn mực của đối xử, nguyên tắc trong giải quyết sự việc. Nhân nghĩa đó
thực sự đã đạt tới một nền tảng phơng pháp luận của suy nghĩ và hành động.

10


Ông nói: đạo làm tớng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của; phàm mu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm
đầu (th trả lời Phơng Chính). Trong t tởng cứu nớc của Nguyễn Trãi, cứu nớc
trớc hết phải cứu dân đó là nét nổi bật trong t tởng nhân nghĩa của ông. Ông
viết: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân (Đại cáo Bình Ngô)...
Trong Nho giáo quan niệm về tam cơng, ngũ thờng tạo cho xã hội

một ý thức tuân thủ trật tự kỷ cơng, phù hợp với chế độ phong kiến. Con đờng
danh lợi của Nho giáo là học hành, khoa bảng, làm quan, phò vua, đem lại ơn
huệ cho dân. Kẻ sĩ thờng chọn con đờng của đạo Nho. Nhng các nhà yêu nớc
và nhân đạo của Việt Nam thì thờng phát huy những khái niệm nào đó của đạo
Nho có sức diễn đạt đợc nội dung yêu nớc, yêu dân, yêu con ngời và tin ở
năng lực con ngời... Nh Nguyễn Trãi trong ngũ luân ông chỉ coi trọng hai
mối quan hệ vua- tôi và bạn- hữu. Trong quan hệ vua- tôi, quan niệm về
trung của ông cũng không hẳn giống nh của đạo Nho. Nguyễn Trãi cho rằng
trung thần là ngời biết chọn vua thánh để thờ, biết làm cho vua có tài, có đức,
biết giúp vua đa đất nớc đến chỗ thái bình thịnh trị. Mặt khác ông quan niệm
về những đức tính của con ngời phải có là: nhân, trí và dũng, coi đó là yêu cầu
đối với mỗi con ngời. Đồng thời Nguyễn Trãi cũng chỉ ra con đờng để có đợc
nhân, trí, dũng là phải học tập, tham gia hoạt động thực tiễn, phục vụ cho yêu
cầu của thực tiễn và phải đấu tranh chống tham tàn bạo ngợc. Theo Nguyễn
Trãi nhân không phải là lòng thơng ngời chung chung mà là hớng vào
những ngời nghèo khổ; trí không chỉ là sự hiểu biết những giáo điều đạo
đức mà chủ yếu là nắm đợc kiến thức các loại cần có cho cuộc sống của con
ngời.
Thời nhà Lê trở về sau, việc xây dựng con ngời theo những tiêu chuẩn
của Nho giáo đã trở thành một hành động có chủ trơng cụ thể và có tổ chức
của nhà nớc. Triều đình phong kiến và cả một đội ngũ quan lại nho sỹ đã tìm
mọi cách làm cho khuôn mẫu về con ngời của Nho giáo trở thành hiện thực
trong nhân dân. Nhà vua ban ra những quy định về lễ nghi để phổ biến Nho
giáo vào tận thôn xóm. Ngời nào làm trái với quy định về lễ nghi của nhà nớc
sẽ bị khiển trách và chịu tội. Còn những ngời con hiếu đễ, những ngời vợ goá
ở vậy thờ chồng...đều đợc biểu dơng và coi đó là những tấm gơng tốt về đạo
đức.
Tiếp thu có chọn lọc và Việt Nam hoá một số t tởng của Nho giáo,
Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng nội dung của đạo ngời là trung chính tức là
thiện, là nhân, là cứu giúp ngời. Ông giải thích trung tức là đứng giữa


11


không thiên lệch, giữ vẹn đợc điều thiện...Nh trung với vua, hiếu với cha mẹ,
thuận giữa anh em, hoà giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, thấy của phi nghĩa
đừng có lòng tham, vui khi làm điều thiện, có độ lợng bao dung ngời khác,
suy lòng chí thành để đối đãi với mọi ngời đó là trung. Đây là nội dung cơ
bản trong quan niệm về mẫu ngời, về đạo làm ngời của Nguyễn Bỉnh Khiêm
trong xã hội lúc đó.
T tởng của Ngô Thì Nhậm quan niệm đạo làm ngời trớc hết phải có
hạnh, đức hạnh theo ông gồm: ăn, ở, đối xử và nghĩa vụ trong các mối quan
hệ đó. Ông nói: Thờ thần minh không lỗi đạo thành kính, thờ vua cha không
lỗi đạo trung hiếu; ở gia đình thì làm ngời lơng thiện, ở làng xóm thì làm ngời
nết na; thẳng thắn nhng không tranh giành nhau, hoà nhã để c xử với nhau5.
Theo ông trung hiếu phải thể hiện thành hành động, không thể nói suông,
không thể lấy trung hiếu làm chiêu bài để thực hiện một âm mu khác. Trung
hiếu phải thể hiện ở lòng dũng cảm, kiên cờng, có khí hạo nhiên đối với nghĩa
vụ. Nh vậy t tởng về trung hiếu- đạo làm ngời của Ngô Thì Nhậm không
còn nguyên bản của Nho gốc mà ông đã có quan niệm mới khác về chất về
đạo đức, nhân nghĩa trong đạo làm ngời.
Nh vậy, mẫu ngời lý tởng của Nho giáo có ảnh hởng không nhỏ đến việc
xây dựng những ngời anh hùng của dân tộc Việt Nam. Nhng có thể khẳng
định rằng, nếu chỉ có phẩm chất nh ngời quân tử của Nho giáo thì cha đủ để
đào tạo nên những anh hùng dân tộc. Phẩm chất đầu tiên mà ngời anh hùng
dân tộc Việt Nam cần có không chỉ là trung quân mà còn là yêu nớc, lấy
hy sinh vì lợi ích dân tộc làm lý tởng cao nhất của con ngời.
Hai là, đạo làm vua:
Minh Mệnh chính yếu là tác phẩm cơ bản của hệ t tởng triều Nguyễn
mà nho giáo đóng vai trò nòng cốt của hệ t tởng này. Trong tác phẩm, Minh

Mệnh đã đánh giá về vai trò của ngời làm vua, Ông viết: Ta là vua của một nớc, vẫn nghĩ sâu sắc rằng mình là gốc của phong hoá, phải làm gơng cho thiên
hạ. Không chỉ trau dồi về đạo đức, ông còn chủ trơng phải siêng năng với
công việc, vì ông hiểu rằng: Trẫm đang độ tuổi trẻ, có sáng suốt về tinh thần,
mạnh mẽ về sức lực, lên trẫm hằng chăm lo về triều chính. Phàm việc gì cũng
không muốn để chậm trễ, vì trễ trớc phải siêng năng sau mới đợc hởng thụ.
(Tập 2, tr 10 ).
Theo Minh Mệnh, đi liền với đức tính chuyên cần là tiết kiệm, nhất là
tiết kiệm của công cho công việc tiêu dùng cá nhân và cho việc ban thởng
5

Lịch sử triết học, Nxb QĐND, Hà Nội, 2003, tr. 176

12


những công thần. Ông nói: Vua chịu mệnh trời để trị thiên hạ, phải lo lắng
siêng năng, để vạn vật đợc ở nơi xứng đáng, chứ không phải thiên hạ đóng góp
để cung phụng một ngời.(Tập 3. tr 108). T tởng về kiệm đức của ông có
nghĩa là: kiệm là có lợi cho việc sinh kế của dân và có mục đích rất rõ ràng,
đó là vì dân.
Ba là, mối quan hệ giữa vua quan và dân:
Trong tác phẩm Minh Mệnh chính yếu cũng đề cập đến hàng loạt các
t tởng về mối quan hệ giữa vua quan và dân. Minh Mệnh cho rằng: sự thịnh
suy của ngôi vua phụ thuộc vào mối quan hệ của vua với dân, nếu vua yêu cái
dân yêu thì không việc gì không thành, nếu vua ghét cái dân ghét thì đánh đổ
mọi kẻ thù và trở ngại. Trong quan hệ với dân Minh Mệnh nói: vua đối với
dân, cũng nh cha hiền đối với con trẻ vậy, cha lạnh đã nghĩ đến áo mặc, cha
đói đã nhĩ đến cho ăn, hả đợi đến lúc khóc hu hu mới cho ăn hay sao (tập 2.
tr 42).
Minh Mệnh quan tâm đến mọi ngời dân, coi mọi ngời dân đều nh nhau.

Sự quan tâm đến dân không chỉ bằng lời nói mà còn bằng những việc làm hết
sức cụ thể để làm sao đảm bảo cuộc sống cho dân. Khi nghe tin Bắc kỳ bị
thiên tai lũ lụt, vua ra chỉ dụ: ...dân đang bị đắm đuối, trẫm là cha mẹ dân, lỡ
sao vui nơi yến tiệc. Bắt đầu từ hôm nay, dâng cảm ngự thiện, phải giảm một
nửa, bãi bỏ tất cả các việc ca nhạc... (tập 2. tr 69).
Nh vậy, t tởng triết lý Nho giáo nói chung và vấn đề tu thân nói riêng
đã có ảnh hởng rất lớn đến hệ t tởng của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Ngày nay chúng ta cũng không thể phủ nhận đợc tính tích cực trong quan
niệm về đạo làm ngời, đạo làm vua của Nho giáo, khuyến khích việc học hành
để ngày càng hoàn thiện bản thân và đề cao đạo lý của ngời làm vua là phải
quan tâm, lo lắng đến đời sống của dân. Điều đó đã góp phần bổ sung cho t tởng nhân ái vốn có của dân tộc ta. Về điểm này, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc
Viện đã nhận xét: Phân tích xã hội, để hiểu rõ lịch sử, xác định đờng lối thì
chủ nghĩa Mác hơn hẳn, nhng Mác trong đạo lý không đợc nổi bật và cụ thể
nh trong Nho giáo6
Tuy nhiên, Nho giáo vẫn còn bộc lộ những hạn chế là đã ràng buộc con
ngời trong những quy định bắt buộc, nó đã kìm hãm sự phát triển cá nhân, làm
cho con ngời trở nên lạc hậu trớc sự phát triển của xã hội.
Nho giáo đã đề cao việc tu dỡng rèn luyên đạo đức, khuyến khích việc
học hành của từng cá nhân đặc biệt là các bậc đế vơng hiền thần, đó là một t t6

Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà nội, 1993, tr. 64.

13


ởng tiến bộ và đến nay vẫn còn nguyên giá trị. T tởng đó chính là tinh hoa văn
hoá nhân loại mà Đảng ta và Bác Hồ đã kế thừa, vận dụng sáng tạo vào sự
nghiệp xây dựng con ngời mới xã hội chủ nghĩa, nhất là xây dựng đội ngũ cán
bộ đảng viên. Bàn về vấn đề này Chủ Tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tất cả cán
bộ từ chính phủ đến các làng bản đều là công bộc của dân...việc gì có lợi cho

dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Ngời cán
bộ, đảng viên phải luôn tự nhủ mình: phải xứng đáng là ngời lãnh đạo, là đầy
tớ thật trung thành của nhân dân; đó là con ngời vừa có đức vừa có tài, vừa
hồng vừa chuyên, trong đó đức là cái gốc của ngời cách mạng. Khi còn sống
Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ
cán bộ đảng viên. Theo Ngời: cán bộ đảng viên phải là ngời đầy tớ trung thành
của nhân dân, là công bộc của dân. Bác dạy ngời cán bộ phải cần, kiệm, liêm,
chính, chí công, vô t. Bác nhắc nhở Đảng ta là phải biết chăm lo cho nhân dân.
Điều mà Bác thờng mong muốn là: nhân dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng đợc học hành, mọi ngời dân đợc hởng cuộc sống ấm no hạnh phúc. Trọn
đời mình, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn suy nghĩ và hành động theo phơng
châm ấy.
Đối với ngời phụ nữ Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh luôn khen ngợi
và đã trao tặng tám chữ vàng: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, Bác dạy rằng: trung với Đảng,
hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vợt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng.
Nh vậy rất nhiều thuật ngữ, khái niệm...của Nho giáo đã đợc Ngời kế
thừa, sử dụng để diễn đạt t tởng của mình sau khi cải biên, bổ sung nội dung
và hình thức mới.
Ngày nay Đảng ta vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển t tởng của Bác Hồ.
Trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng lần thứ II khoá VIII đã
xác định: Phát triển con ngời Việt Nam một cách toàn diện, về thể chất và tinh
thần, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Với sự phân tích trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Nho giáo nói chung
và t tởng tu thân nói riêng vẫn hàm chứa những giá trị có lợi cho con ngời và
xã hội ngày nay. Khẳng định vấn đề này khi nghiên cứu về Nho giáo, GS
Nguyễn Tài Th đã viết: ...ngời ta thấy đợc Nho giáo học vẫn hàm chứa cái gì
đó có lợi cho con ngời và xã hội ngày nay. Trên thực tế những truyền thống tốt
đẹp của Nho học đã đợc hiểu trên lập trờng mới, lập trờng khoa học và cách


14


mạng, đây là những động lực thúc đẩy xã hội và con ngời Trung Quốc ngày
nay tiến lên con đờng công nghiệp hoá, hiện đại hoá7.
Tuy nhiên xét về tổng thể đạo Nho hiện nay vẫn là một lực cản trở cho sự
phát triển toàn diện của đời sống xã hội. Do vậy triết học Mác- Lênin là cơ sở
t tởng cho đờng lối chính trị của dân tộc, cho đối nhân xử thế mà Hồ Chí Minh
là ngời tìm ra và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam, cứu dân tộc Việt Nam thoát
khỏi ách thống trị hàng nghìn năm phong kiến, đấu tranh giải phóng dân tộc,
thu Giang sơn về một mối, cả nớc thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần kế thừa tinh hoa t tởng nhân loại chúng ta phải biết kế thừa
có chọn lọc những yếu tố tích cực hợp lý của t tởng Nho giáo, đồng thời khắc
phục những hạn chế, tiêu cực của nó trong đời sống xã hội cũng nh trong quân
đội ta hiện nay.
Phải có quan điểm và thái độ đúng đắn với t tởng Nho giáo: quan điểm
khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể. Đánh giá đúng đắn cả ảnh hởng tích cực
và tiêu cực đối với xã hội. Nói về quan điểm, phơng pháp xem xét đánh giá sự
vật hiện tợng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Phải xem xét toàn diện, xem xét quá khứ,
nhất là xem xét hiện tại để hiểu biết và suy đoán về tơng lai... có thế mới nhận
định tình hình, nhận xét sự việc đúng đắn8
Chống kế thừa tràn lan vô nguyên tắc, đồng thời chống thái độ phủ định
sạch trơn hoặc thổi phồng những ảnh hởng tiêu cực của Nho giáo. Nhà nghiên
cứu Nguyễn Đăng Thục viết: Nho giáo thuộc phạm trù truyền thống dân tộc
và nó phải đợc đối xử nh là truyền thống của dân tộc9.
Phát huy những giá trị hợp lý của t tởng Nho giáo trong điều kiện mới.
Đặc biệt là t tởng tu thân rèn luyện cho mỗi con ngời...
Khắc phục có hiệu quả, từng bớc xoá bỏ những ảnh hởng tiêu cực của t tởng Nho giáo đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên t tởng
Nho giáo nó đã in đậm dấu ấn trong đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân

dân nói chung và trong các tập thể quân nhân nói riêng, do vậy việc xoá bỏ
những ảnh hởng tiêu cực đó đòi hỏi phải có thời gian, không nóng vội chủ
quan đốt cháy giai đoạn, vì vậy phải căn cứ vào tình hình cụ thể, những quan
niệm, phong tục tập quán trong nhân dân để có những chủ trơng, chính sách,
những quy định... cho phù hợp, có nh thế thì những chủ trơng, chính sách,
những quy định...ấy mới dễ đi vào cuộc sống, đi vào lòng ngời và có tính khả
thi cao.
Nghiên cứu Trung Quốc, số 4, năm 1975, tr. 50.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, tr 264.
9 Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử t tởng Việt Nam, Tập 4, Nxb KHXH, Hà Nội, 1993, tr 29.
7
8

15


Nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ đảng viên đặc biệt là lực lợng
vũ trang trong nhận thức cũng nh trong hành động, trong mỗi việc làm.Trong
đó giáo dục lòng thơng yêu con ngời phải đợc nâng lên thành tình yêu đồng
chí đồng đội với nguyên tắc mình vì mọi ngời, mọi ngời vì mỗi ngời. Xây
dựng lòng trung hiếu nh trung thành với Đảng, với nớc, hiếu với dân với cha
mẹ và ngời thân trong gia đình...
Kế thừa có chọn lọc, Đảng ta đã xác định tiêu chuẩn ngời cán bộ trong
lực lợng vũ trang là: Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân
dân, sẵn sàng hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nớc, bảo vệ Đảng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Có tinh thần cảnh giác cách
mạng cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, giữ gìn bí mật quân sự, bí mật
quốc gia. Nắm vững và có khả năng vận dụng sáng tạoquan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí Minh, đờng lối của Đảng vào xây dựng
nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Nắm đợc những vấn đề cơ bản

về quản lý kinh tế xã hội10. Đó là những vấn đề hết sức cơ bản về tiêu chuẩn
ngời cán bộ trong lực lợng vũ trang mà mỗi chúng ta cần quán triệt và tự giác
thực hiện, có nh vậy Nghị quyết của Đảng mới đi vào cuộc sống và tiêu chuẩn
đố mới trở thành hiện thực.
Đấu tranh chống những biểu hiện gia trởng, độc đoán chuyên quyền
trong đơn vị, xây dựng bầu không khí dân chủ, tôn trọng con ngời, tôn trọng
kỷ luật và tôn trọng pháp luật.

10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ III BCHTƯ khoá VIII, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, tr. 81.

16



×