Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔTHÔNG ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA Ở TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 129 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH


Lã Thị Oanh





CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ ĐỘI NGŨ GIÁO
VIÊN CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG ĐẠT CHUẨN QUỐC GIA Ở
TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU



Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 05


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ VĂN LIÊN





Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2007
2
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đại Hội Đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quốc lần thứ IX đã đề ra mục tiêu tổng
quát của chiến lược phát triển kinh tế 10 năm từ 2001 - 2010 là : “Đưa đất nước ra
khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao chất lượng rõ rệt đời sống vật chất, văn
hóa tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp CNH,HĐH mà Đảng đề ra chính là
nguồn lực con người, bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển. Vì vậy, muốn tiến hành CNH,HĐH thành công tất yếu phải thúc đẩy phát triển
sự nghiệp giáo dục thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài.
Đối với công tác GD&ĐT thì ĐNGV đóng vai trò cực kỳ quan trọng, điều này
đã được Luật Giáo Dục khẳng định : “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc
đảm bảo chất lượng giáo dục” (27). Đội ngũ giáo viên là nhân tố quyết định của
giáo dục. Chính vì vậy việc phát triển và nâng cao chất lượng ĐNGV là nhiệm vụ
cấp thiết của toàn ngành giáo dục. Thực tế hiện nay, chất lượng giáo dục còn nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước là do nhiều nguyên nhân, trong đó
có các nguyên nhân cơ bản : Đội ngũ giáo viên vừa thiếu, vừa yếu, CSVC chưa đáp
ứng được yêu cầu phục vụ cho công tác GD&ĐT, chưa quan tâm đúng mức đến vấn
đề giáo dục toàn diện, chưa đầu tư thỏa đáng đúng với tinh thần “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu” “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”.
Việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia nhằm có những chuyển biến
thực sự về chất lượng giáo dục đào tạo là một trong những yêu cầu cấp thiết và
đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác quản lý đối với ngành Giáo dục & Đào tạo
cũng như các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương. Ngày 05/07/2001. Bộ trưởng
Bộ GD&ĐT đã ra Quyết định số 27/2001 - QĐ- BGD&ĐT về việc “Ban hành Quy

chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 đến 2010”, song
đến nay việc tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều lúng túng, còn nhiều vấn đề cần được
3
quan tâm, tìm ra các giải pháp cho phù hợp để có thể vừa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra của ngành, vừa đáp ứng được yêu cầu thực tế của địa phương.
Một trong những vấn đề đó chính là ĐNGV, mặc dù đã đạt được tiêu chí theo
quy định của Bộ GD&ĐT, nhưng ĐNGV vẫn còn nhiều bất cập…tỷ lệ phần trăm
giáo viên giỏi phải được duy trì bền vững, số giáo viên còn lại phải luôn được bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phải có kế hoạch đào tạo trên
chuẩn như thạc sĩ, tiến sĩ cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên giỏi.
Tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu có 27 trường THPT, đến nay đã có 10 trường được
công nhận đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu đến năm 2010 - 100% các trường THPT
trong tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia. Xuất phát từ những yêu cầu và thực tiễn của
ngành GD&ĐT tỉnh nhà. Với cương vị là một người làm công tác quản lý của
trường THPT chuẩn quốc gia đầu tiên của tỉnh được công nhận ngày 25/08/2005
theo Quyết định số 364/QĐ-UB của UBND tỉnh BR-VT, tôi đã chọn đề tài.
“Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường THPT đạt
chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu”
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng đề xuất các biện pháp quản lý
nhằm nâng cao chất lượng ĐNGV của hiệu trưởng các trường THPT đạt chuẩn quốc
gia ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác QL ĐNGV ở các trường THPT đạt chuẩn quốc gia của tỉnh BR-VT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý ĐNGV của hiệu trưởng trường THPT chuẩn quốc gia ở
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Giả thuyết nghiên cứu
ĐNGV ở các trường THPT chuẩn quốc gia tỉnh BR-VT còn có những hạn chế:

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện
nay. Việc thực hiện các chức năng quản lý giáo dục như: hoạch định, tổ chức, chỉ
đạo, kiểm tra của hiệu trưởng chưa được quan tâm đúng mức. Nếu khảo sát toàn
diện thực trạng quản lý ĐNGV thì có thể đề xuất được các biện pháp quản lý của
4
hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng ĐNGV ở các trường THPT đạt chuẩn quốc
gia ở tỉnh BR-VT
5. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đội ngũ giáo viên của trường
THPT chuẩn quốc gia.
+ Khảo sát thực trạng công tác quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng các
trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
+ Đề xuất những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên của hiệu trưởng các trường THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
6. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu ở các trường THPT đạt chuẩn quốc gia của tỉnh BR-VT giai đoạn
từ 2004 – 2006 (10 trường). Vì thời gian hạn chế nên luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu công tác quản lý ĐNGV với hoạt động dạy học, không nghiên cứu hoạt động
giáo dục ( theo nghĩa hẹp).
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
• Phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại tài liệu, thông tin.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
• Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến cán bộ quản lý và giáo viên.
• Tổng kết kinh nghiệm quản lý giáo dục của hiệu trưởng
• Lấy ý kiến chuyên gia
7.3. Các phương pháp bổ trợ
• Quan sát, trao đổi, phỏng vấn
7.4. Phương pháp xử lý số liệu bằng toán thống kê








5

8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 phần : Mở đầu - Nội dung - Kết luận và kiến nghị
Mở đầu : Một số vấn đề chung
Nội dung : Gồm 3 chương
Chương 1 : Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2 : Thực trạng ĐNGV và việc quản lý ĐNGV của hiệu trưởng các
trường THPT chuẩn quốc gia ở tỉnh BRVT.
Chương 3 : Các biện pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường
THPT đạt chuẩn quốc gia ở tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu.
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo.
Phụ lục
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam ngay từ thời xưa, ông cha ta đã rất coi trọng vai trò người thầy
giáo “không thầy đố mày làm nên”, không có thầy sẽ không có giáo dục. Điều đó
nhắc nhở mọi người phải quan tâm mọi mặt đến giáo dục, đến đội ngũ giáo viên.
Vấn đề phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế
tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân, do đó các ngành, các cấp,
Đảng, chính quyền và chính quyền địa phương phải thực sự quan tâm đến sự nghiệp
này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những
bước phát triển mới”. “Cán bộ và giáo viên phải tiến bộ cho kịp thời đại mới làm
được nhiệm vụ, chớ tự túc, tự mãn cho là giỏi rồi thì dừng lại”. [29].
Nghị quyết TW khóa VIII đã nêu : “Khâu then chốt để thực hiện chiến lược
phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và chuẩn hóa ĐNGV
cũng như cán bộ QLGD”. Trong chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 của
Chính phủ cũng nêu rõ : “Phát triển đội ngũ nhà giáo đảm bảo đủ về số lượng, hợp
lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng yêu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục” [9]. Những năm gần đây Đảng, Nhà nước còn có
nhiều các Chỉ thị, Nghị quyết, các chế độ chính sách để quan tâm tới đội ngũ giáo
viên. Điều mong muốn là đất nước ta trở thành một xã hội học tập, trong đó đội ngũ
thầy cô giáo có năng lực, trình độ ngang tầm với sự phát triển của thời đại.
Xuất phát từ những tư tưởng có định hướng đó, nhiều công trình nghiên cứu về
ĐNGV đã được triển khai và gần đây cũng đã có một số đề tài khoa học nghiên cứu
về việc xây dựng, phát triển và nâng cao chất lượng ĐNGV của các trường và các cơ
sở giáo dục như các luận văn Thạc sĩ quản lý giáo dục của các tác giả sau :
- Lê Thị Hoan : “Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất
lượng dạy học ở trường PTTH tỉnh Thanh Hóa” - Năm 1999.
7
- Nguyễn Xuân Hường : “Một số giải pháp quản lý phát triển đội ngũ giáo viên
Trường trung học Phòng Không” - Năm 2000.
- Lê Thị Lan Phương : “Một số biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng
cao năng lực chuyên môn cho ĐNGV ở trường Tiểu học tỉnh Phú Thọ” - Năm 2001.
- Đỗ Ngọc Mỹ - TP.Hồ Chí Minh : “Một số giải pháp phát triển đội ngũ giáo
viên” - Năm 2002.
- Đoàn Thị Bẩy : “Quản lý hoạt động dạy học của hiệu trưởng trường THPT
thành phố Cà Mau tỉnh Cà Mau. Thực trạng và giải pháp”- Năm 2003.

- Nguyễn Thị Hồng Hoa : “Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên của Hiệu
trưởng trường Tiểu học ở thành phố Hồ Chí Minh và một số biện pháp nâng cao
chất lượng quản lý đó” - Năm 2005.
Các đề tài nói trên đã nghiên cứu rất nhiều khía cạnh khác nhau trong công tác
quản lý cũng như phát triển ĐNGV nói chung. Tuy nhiên chưa có những nghiên cứu
sâu về thực trạng công tác quản lý ĐNGV của hiệu trưởng các trường THPT chuẩn
quốc gia từ đó đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng ĐNGV đáp ứng yêu cầu
của trường THPT chuẩn quốc gia hiện nay. Vì vậy đề tài luận văn thạc sĩ “Các biện
pháp quản lý đội ngũ giáo viên của hiệu trưởng trường THPT đạt chuẩn quốc gia
ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”, sẽ có những nét riêng phù hợp với địa phương nhằm
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường THPT đạt chuẩn quốc gia
của tỉnh.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, hoạt động quản lý đã xuất hiện
từ rất sớm. Từ khi con người biết tập hợp nhau lại, tập trung sức để tự vệ hoặc lao
động kiếm sống thì bên cạnh lao động chung của mọi người đã xuất hiện những hoạt
động có tổ chức, phối hợp, điều khiển đối với họ. Những hoạt động đó xuất hiện, tồn
tại và phát triển như một tất yếu khách quan, là cơ sở đảm bảo cho các hoạt động
chung của con người đạt được kết quả mong muốn. Đó chính là những dấu ấn đầu
tiên của hoạt động quản lí.
Khi nghiên cứu về cơ sở khoa học quản lý, C.Mác đã khẳng định : “Tất cả mọi
lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít
8
nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực
hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất,
khác với sự vận động của những khách quan độc lập của nó” [11]. Như vậy, đã xuất
hiện một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức, điều khiển các hoạt động của
con người theo những yêu cầu nhất định - được gọi là hoạt động quản lí. Từ đó, có
thể hiểu lao động xã hội và quản lý không tách rời nhau, quản lý là hoạt động điều

khiển lao động chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản xuất, thì trình độ
tổ chức, điều hành tất yếu cũng được nâng lên, phát triển theo với những đòi hỏi
ngày càng cao hơn. Khi lao động xã hội đạt tới một trình độ và quy mô phát triển
nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ dẫn đến việc tách quản lý thành một
hoạt động đặc biệt, sẽ hình thành bộ phận lao động trực tiếp và bộ phận chuyên hoạt
động quản lý, tạo thành các mối quan hệ trong quản lí. Cùng với sự phát triển của xã
hội loài người, quản lý đã trở thành một khoa học và ngày càng phát triển toàn diện.
Khái niệm quản lý đã được nhiều tác giả đề cập với những cách tiếp cận khác
nhau. “Quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với những bản chất
khác nhau (như kỹ thuật, sinh vật, xã hội), thực hiện những chương trình, mục đích
hoạt động” [14]. Theo tác giả Nguyễn Minh Đạo nghiên cứu từ góc độ xã hội thì
quản lý “là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên
khách thể quản lý về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế…bằng một hệ thống
các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể
nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng” [14]. Đối với
hoạt động của một đơn vị, một tổ chức, tác giả Nguyễn Ngọc Quang xác định, quản
lý “là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu
dự kiến” [30].
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu :
• Quản lý là các hoạt động thực hiện nhằm đảo bảo hoàn thành công việc qua
những nỗ lực của mọi người trong tổ chức.
• Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả hoạt động của những người cộng
sự khác nhau cùng chung một tổ chức.
9
• Quản lý là những tác động có mục đích lên những tập thể người, thành tố
cơ bản của hệ thống xã hội.
• Quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.
• Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lí
lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của

hệ thống để đạt mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
• Quản lý không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật.
• Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội.
• Quản lý là một hệ thống mở và bản chất của nó là phối hợp các nỗ lực của
con người thông qua việc thực hiện các chức năng quản lý.
1.2.2. Quản lý giáo dục
Cùng với sự đi lên của tổ chức xã hội, khoa học quản lý ngày càng phát triển
mạnh mẽ và có ý nghĩa quyết định trong mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Từ các
lĩnh vực kinh tế, quản lý hành chính Nhà nước, tới các lĩnh vực văn hóa - xã hội…
đều khai thác hiệu quả các thành tựu của khoa học quản lý. Ứng với mỗi lĩnh vực,
công tác quản lý đều đã phát triển thành một khoa học quản lý với những đặc thù
riêng. Khoa học quản lý giáo dục đã hình thành và phát triển khá sớm, trở thành yếu
tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Về mặt lịch sử, khoa học quản
lý giáo dục ra đời và phát triển sau khoa học quản lý kinh tế, vì vậy nó sử dụng được
những thành tựu tiến bộ của khoa học quản lý. Trên thế giới tồn tại hai xu hướng
phát triển về khoa học quản lý giáo dục. Xu hướng thứ nhất là thực hiện quá trình
quản lý giáo dục trên cơ sở của quản lý kinh tế, coi quản lý cơ sở giáo dục như một
loại “Xí nghiệp đặc biệt” [24]. Xu hướng thứ hai, quá trình quản lý giáo dục bắt
nguồn từ lý luận quản lý xã hội, xã hội được chia thành ba lĩnh vực là “chính trị - xã
hội”, “văn hóa - tư tưởng” và “kinh tế”, quản lý xã hội là quản lý ba lĩnh vực đó và
như vậy, quản lý giáo dục nằm trong lĩnh vực quản lý văn hóa - tư tưởng [13].
Quản lý giáo dục, theo nghĩa rộng là quản lý mọi hoạt động giáo dục trong xã
hội, quá trình đó bao gồm các hoạt động có tính giáo dục của bộ máy Nhà nước, của
các tổ chức xã hội, của hệ thống giáo dục quốc dân, của gia đình… Quản lý giáo
dục, theo nghĩa hẹp bao gồm : quản lý hệ thống giáo dục là quản lý các hoạt động
10
giáo dục đào tạo diễn ra trong các đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc) và
quản lý nhà trường.
“Một quy luật của tiến bộ xã hội là thế hệ đi sau phải lĩnh hội cả những kinh
nghiệm xã hội mà các thế hệ đi trước đã tích lũy và truyền lại, đồng thời phải làm

phong phú thêm những kinh nghiệm đó” [11]. Thực hiện quy luật này là chức năng
của giáo dục nói chung và quản lý giáo dục nói riêng. QLGD có hai chức năng là :
“ổn định duy trì quá trình đào tạo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội” và “đổi
mới, phát triển quá trình đào tạo đón đầu tiến bộ kinh tế xã hội”. Như vậy, “QIGD là
hoạt động điều hành các nhà trường để giáo dục, vừa là sức mạnh, vừa là mục tiêu
của nền kinh tế” [11]. Với các chức năng trên quản lý giáo dục có vị trí cao nhất
trong việc tạo điều kiện XHH cá nhân, hình thành và phát triển nhân cách, nhằm
giúp con người đảm nhận và gánh vác được những yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
1.2.3. Quản lý nhà trường
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được thành lập theo quy hoạch,
kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự nghiệp GD&ĐT. Trường học là một bộ
phận của hệ thống xã hội mà ở đó tiến hành quá trình giáo dục đào tạo, gọi chung là
“cơ sở giáo dục”. “Nhà trường là một thiết chế đặc biệt của xã hội, là nơi thực hiện
chức năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cho một nhóm dân cư được huy động
vào sự kiến tạo này một cách tối ưu theo quan niệm xã hội, thực hiện chức năng tạo
nguồn cho các yêu cầu của xã hội, đào tạo các công dân cho tương lai”. [24]
Trường học với tư cách là một tổ chức giáo dục cơ sở, vừa mang tính giáo dục,
vừa mang tính xã hội, trực tiếp đào tạo thế hệ trẻ, nó là tế bào chủ chốt của bất kỳ hệ
thống giáo dục nào từ trung ương đến địa phương. Như vậy “Quản lý nhà trường là
gì ? Theo GS.VS Phạm Minh Hạc “ Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối của
Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo
nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [19]. Ông cho rằng : “Việc quản lý nhà
trường phổ thông là quản lý hoạt động dạy học, tức là làm sao đưa hoạt động đó từ
trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” và “Quản
lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, thực hiện được các
tính chất của nhà trường phổ thông Việt Nam xã hội chủ nghĩa mới quản lý được
11
giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành
hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước” [19].

Có thể thấy, công tác quản lý trường học bao gồm sự quản lý các tác động qua
lại giữa trường học và xã hội, đồng thời quản lý chính nhà trường. Người ta có thể
phân tích quá trình giáo dục của nhà trường như một hệ thống gồm sáu thành tố :
Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục, thầy giáo, học sinh,
cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ giáo dục. Như vậy, các thành tố này được chia
làm ba loại : Thành tố con người, thành tố tinh thần và thành tố vật chất. Quản lý
nhà trường là quản lý hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt, hệ thống này đòi hỏi
những tác động có ý thức, có khoa học và có hướng của chủ thể quản lý trên tất cả
các mặt của đời sống nhà trường để đảm bảo sự vận hành tối ưu xã hội - kinh tế và
tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành
giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh. Người quản lý trường học là hiệu trưởng
của các nhà trường.
Vì vậy, quản lý trường học thực chất là quản lý quá trình lao động sư phạm
của thầy, hoạt động học tập tự giáo dục của trò, diễn ra chủ yếu trong quá trình dạy
học. Quản lý trường học là quản lý tập thể giáo viên và học sinh để chính họ lại quản
lý (đối với giáo viên) và tự quản lý (đối với học sinh) quá trình dạy - học, nhằm tạo
ra sản phẩm là nhân cách con người mới. Đồng thời, quản lý trường học còn bao
gồm quản lý các công việc khác có tính chất điều kiện như : Đội ngũ, tổ chức hoạt
động của các đoàn thể trong trường, quản lý cơ sở vật chất, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho cán bộ giáo viên, học sinh .v.v…
1.2.4. Giáo viên
Luật Giáo dục (2007) đã định rõ :
“Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường hoặc
các cơ sở giáo dục khác”.
“Nhà giáo dạy ở các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp, gọi là giáo viên”. [27]
Những tiêu chuẩn đối với nhà giáo là :
- Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt.
- Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ .
12

- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp .
- Lý lịch bản thân rõ ràng. [27]
Theo tiến sĩ Philip Jackson : “Giáo viên là người ra quyết định có hiểu biết,
hiểu được học sinh và có khả năng cấu trúc lại nội dung giảng dạy để học sinh có thể
tiếp thu được nội dung đó, đồng thời trong khi dạy biết khi nào phải dạy cái gì”.
Trong định nghĩa này Philip Jackson muốn nhấn mạnh phẩm chất năng lực và
phương pháp giảng dạy của người giáo viên.
-Nhà bác học AlberTeinstein cho rằng “Giáo viên là người có nghệ thuật tối
thượng là làm thức dậy những thú vui trong trí thức và tình cảm sáng tạo của người
học”.
* Yêu cầu về mặt phẩm chất đạo đức, tư tưởng của người giáo viên hiện nay
Đã là người cán bộ thì ở bất cứ lĩnh vực nào cũng cần phải có những phẩm
chất tốt. Nhưng không có lĩnh vực nào mà phẩm chất lại ảnh hưởng sâu sắc đến
người học như người giáo viên. Bởi vậy phẩm chất của người giáo viên vừa là điều
kiện, vừa là phương tiện để giáo dục học sinh .
Phẩm chất của người giáo viên được thể hiện chủ yếu ở các mặt sau đây:
- Có niềm tin cách mạng: Niềm tin cách mạng là cơ sở để người giáo viên gắn bó
cuộc đời mình với sự nghiệp cách mạng, của dân tộc, với sự nghiệp giáo dục là bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
- Có lý tưởng nghề nghiệp: Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện bằng lòng say mê nghề
nghiệp , lương tâm nghề nghiệp, lòng tận tụy, hy sinh vì công việc, tác phong làm
việc cần cù, có tinh thần trách nhiệm cao ...
- Có niềm tin sư phạm: Tin vào bản chất tốt đẹp của con người, tin vào khả năng
giáo dục, tin tưởng và tôn trọng nhân cách của người học.
- Có lòng yêu nghề, yêu trẻ: Lòng yêu nghề, yêu trẻ gắn bó chặt chẽ với nhau, yêu
người bao nhiêu, yêu nghề bấy nhiêu. Có yêu người mới có cơ sở để yêu nghề.
- Có tình cảm trong sáng và cao thượng: Tình cảm này thể hiện ở lòng yêu nghề,
yêu trẻ, hứng thú và nhu cầu làm việc với thế hệ trẻ, yêu thương và đùm bọc học
sinh, vui sướng với những tiến bộ của học sinh .
Ngoài ra người giáo viên còn phải có lòng nhân đạo, thái độ công bằng, thái độ

chính trực, giản dị, khiêm tốn, biết tự kiềm chế, kiên trì, tự tin ...
13
Tóm lại: Các phẩm chất của người giáo viên càng toàn diện thì càng đạt hiệu quả
giáo dục cao.
*Yêu cầu về năng lực của người giáo viên
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu
cầu của một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả.
Theo kiến nghị của hội nghị Hội đồng giáo dục Australia và các Bộ trưởng
Giáo dục Đào tạo và Việc làm tại Australia tháng 8 năm 1992 thì có 7 năng lực then
chốt được đề ra. Đây là những năng lực then chốt để tham gia có hiệu quả vào
những mô hình trội của lao động và tổ chức lao động, trong đó có lao động sư phạm:
a. Năng lực thu thập, phân tích và tổ chức thông tin trí thức.
b. Năng lực truyền bá ý tưởng thông tin trí thức.
c. Năng lực kế hoạch hóa và tổ chức các hoạt động.
d. Năng lực làm việc với người khác.
đ. Năng lực đánh giá ước lượng nhằm vào mục đích thực tế.
e. Năng lực giải quyết vấn đề.
f. Năng lực sử dụng công nghệ, những kỹ năng thể chất và cảm xúc cần thiết.
Theo tác giả Vũ Văn Tảo và Trần Văn Hà thì năng lực giải quyết vấn đề là
năng lực có ý nghĩa quan trọng. Biểu hiện mang tính bản chất của năng lực này là
một số khả năng sau:
- Làm rõ, khoanh vấn đề, chỉ rõ nguồn gốc nảy sinh vấn đề.
- Hoàn tất việc giải quyết thích hợp những vấn đề đã đặt ra.
- Thấy trước vấn đề và nghĩ ra những chiến lược đáp ứng thích hợp.
- Đánh giá kết quả, kiểm soát cả quá trình.
Theo quan điểm của nhóm tác giả cuốn “Tâm lý học” do Phạm Minh Hạc chủ
biên, đã phân chia những năng lực sư phạm riêng thành 3 nhóm.
Nhóm thứ nhất: Đó là lòng yêu trẻ (đây chính là cái trục cơ bản trong cấu trúc
của năng lực sư phạm nói chung), là năng lực kiềm chế, tự chủ, năng lực điều khiển
được các trạng thái tâm lý, tâm trạng của mình khi tiến hành các hoạt động sư phạm.

Nhóm thứ hai: Là các năng lực dạy học, năng lực truyền đạt thông tin đến
cho học sinh, đó là năng lực giải thích, năng lực khoa học, năng lực ngôn ngữ, năng
lực chuyên môn ...
14
Nhóm thứ ba: Là những năng lực tổ chức, giao tiếp trong quá trình dạy học
giáo dục. Năng lực này thể hiện ở hai mặt: Tổ chức tập thể học sinh và tổ chức công
việc của bản thân. Năng lực này được thể hiện ở tính cẩn thận và chính xác, ở kỹ
năng lập kế hoạch hoạt động và kỹ năng kiểm tra hoạt động. Ngoài ra còn là năng
lực giao tiếp, óc quan sát sư phạm, sự khéo léo sư phạm, năng lực ám thị, óc tưởng
tượng sư phạm, năng lực phân phối chú ý cho việc điều khiển và bảo quản lớp học.
Theo tác giả Hà Nhật Thăng, khi bàn về cấu trúc nhân cách của người giáo
viên chủ nhiệm, đã nhấn mạnh đến hệ thống các năng lực, kỹ năng sư phạm cần
thiết, đó là:
-Năng lực tiếp cận đối tượng (học sinh, phụ huynh, các đối tượng xã hội cần
giao tiếp) và khả năng đối xử cá biệt.
-Năng lực phán đoán về đối tượng, công việc, hiệu quả giao tiếp, hoạt động
giáo dục.
-Lập kế hoạch chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác chủ nhiệm, công tác GD.
-Năng lực cảm hoá, thuyết phục, xây đựng uy tín.
-Năng lực biểu lộ và kiềm chế tình cảm, chủ định.
-Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục.
-Năng lực sử dụng ngôn ngữ, giải quyết các tình huống sư phạm.
-Năng lực tích luỹ tri thức.
-Năng lực tạo ra hứng thú, động cơ hoạt động.
-Năng lực phân tích, tổng hợp và sự nhạy cảm sư phạm.
-Năng lực giảng dạy môn học phụ trách.
Hệ thống các năng lực trên thể hiện trong toàn bộ hoạt động giáo dục, chúng
hỗ trợ và chi phối lẫn nhau tạo ra bộ mặt nhân cách của người giáo viên.
Như vậy, năng lực sư phạm trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên
được biểu hiện ở ba nhóm:

- Năng lực dạy học.
- Năng lực giáo dục.
- Năng lực tự hoàn thiện.
Nhóm 1: Các năng lực dạy học được biểu hiện ở:
- Nắm vững, lựa chọn và tổ chức sắp xếp các trí thức.
- Lựa chọn, phân loại, phối hợp các phương thức dạy học.
15
- Nắm vững đối tuợng giảng dạy.
- Khả năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng diễn đạt ý tuởng.
- Linh hoạt sử dụng các phương tiện dạy học.
- Tổ chức, quản lý, điều khiển học sinh trong giờ học.
- Lôi cuốn, thuyết phục học sinh trong các hoạt động học tập.
- Biết ứng xử nhanh các tình huống có vấn đề trong lớp học, trong giờ học.
- Biết cách hướng dẫn có hiệu quả việc dạy các đối tuợng cá biệt.
Nhóm 2: Năng lực giáo dục được thể hiện qua các kỹ năng như:
- Xây dựng kế hoạch cho các hoạt động giáo dục.
- Tổ chức, chỉ đạo các hoạt động giáo dục.
- Nắm vững đối tượng giáo dục.
- Khả năng giáo dục học sinh cá biệt.
- Biết đánh giá các hoạt động giáo dục và điều chỉnh kịp thời để đạt hiệu quả
cao hơn, biết thuyết phục, cảm hoá HS để học sinh tự giác, tích cực tham gia
vào các hoạt động giáo dục. Người giáo viên phải biết bồi dưỡng đội ngũ tự
quản để HS tự điều hành các hoạt động giáo dục, ngoài ra người thầy còn
phải biết vận động, lôi cuốn quần chúng tham gia vào hoạt động giáo dục.
Nhóm 3: Năng lực tự hoàn thiện được thể hiện qua việc tự kiểm tra, đánh giá bản
thân để bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, nghề nghiệp. Ngoài ra còn phải biết tự học, tự
bồi dưỡng để bổ sung, hoàn thiện về tay nghề, nâng cao kiến thức, rèn luyện kỹ năng
và phương pháp. Một biểu hiện nữa của năng lực tự hoàn thiện là công tác nghiên
cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn.
Các hệ thống năng lực trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, luôn hỗ trợ

nhau, bổ sung cho nhau để tạo nên năng lực sư phạm.
Nhà giáo có những nhiệm vụ sau đây:
-Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiện đầy đủ và
có chất lượng chương trình giáo dục.
-Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều
lệ nhà trường.
-Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách của
người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng
của người học.
16
-Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, nêu gương tốt
cho người học.
-Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. [27]
Quyền của nhà giáo là:
-Được giảng dạy theo chuyên ngành đào tạo.
-Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
-Được hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học tại các trường, cơ sở giáo
dục khác và cơ sở nghiên cứu khoa học với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ
nhiệm vụ nơi mình công tác.
-Được bảo vệ nhân phẩm, danh dự.
-Được nghỉ hè, nghỉ Tết âm lịch, nghỉ học kỳ theo quy định của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo và các ngày nghỉ khác theo quy định của Bộ luật lao động.
Nhà giáo không được có các hành vi sau:
-Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể của người học.
-Gian lận trong tuyển sinh, thi cử, cố ý đánh giá sai kết quả học tập, rèn luyện
của người học.
-Xuyên tạc nội dung giáo dục.
-Ép buộc học sinh học thêm để thu tiền.
1.2.5. Đội ngũ

Theo từ điển Tiếng Việt - Nhà xuất bản Đà Nẵng - 1997 : “Đội ngũ là tập hợp
gồm một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp tạp thành một lực lượng”
[31]. Theo cách hiểu thuật ngữ quân sự về đội ngũ, “đó là một tổ chức gồm nhiều
người, tập hợp thành một lực lượng để chiến đấu hay bảo vệ”. Như vậy, có thể thống
nhất “Đội ngũ là một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để
thực hiện một hay nhiều chức năng, và đều cùng một mục đích nhất định”.
Ngày nay khái niệm đội ngũ được sử dụng rộng rãi cho tổ chức trong xã hội
như đội ngũ tri thức, đội ngũ công nhân viên chức…
1.2.6. Đội ngũ giáo viên
Khi đề cập đến khái niệm đội ngũ giáo viên, một số tác giả nước ngoài đã nêu
lên quan niệm : “Đội ngũ giáo viên là những chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, họ
17
nắm vững tri thức và hiểu biết dạy học và giáo dục như thế nào và có khả năng cống
hiến toàn bộ sức lực và tài năng của họ đối với giáo dục” [16].
Đối với các tác giả trong nước, vấn đề này được quan niệm như sau :
“Đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục là một tập thể người, bao gồm cán bộ
quản lý, giáo viên và nhân viên, nếu chỉ đề cập đến đặc điểm của ngành thì đội ngũ
đó chủ yếu là đội ngũ giáo viên và đội ngũ quản lý theo giáo dục” [16].
Từ những quan điểm đã nêu của các tác giả trong và ngoài nước, ta có thể hiểu
đội ngũ giáo viên như sau : Đội ngũ giáo viên là một tập hợp những người làm nghề
dạy học - giáo dục, được tổ chức thành một lực lượng (có tổ chức) cùng chung một
nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập thể đó, tổ chức đó. Họ
làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần
trong khuôn khổ quy định của pháp luật, thể chế xã hội. Họ chính là nguồn nhân lực
quan trọng trong lĩnh vực giáo dục.
Từ những khái niệm chung về đội ngũ giáo viên có thể quan niệm về đội ngũ
giáo viên THPT đó là : Những người làm công tác giảng dạy - giáo dục trong trường
THPT có cùng một nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện học sinh của trường giúp các em
hình thành và phát triển nhân cách để sau khi tốt nghiệp các em có đủ trình độ văn
hóa tiếp tục học lên bậc Cao đẳng Đại học, Trung học chuyên nghiệp đồng thời giúp

các em chọn đúng hướng đi phù hợp với năng lực sở trường và hoàn cảnh của mình.
1.2.7. Chất lượng
Chất lượng biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật chỉ rõ nó là cái gì,
tính ổn định tương đối của sư vật phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là mức
hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu hiệu đặc thù, các dữ
kiện, các thông số cơ bản của sản phẩm hoạt động thể hiện giá trị đích thực của nó,
là sự thỏa mãn những yêu cầu đặt ra.
Chất lượng giáo dục thể hiện ở nhân cách của người học đáp ứng được những
yêu cầu đề ra. Chất lượng GD phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài và bên trong,
như: người học với những đặc trưng cơ bản về thể chất, tâm lý và xã hội, các thành
tố của quá trình giáo dục (mục tiêu, chương trình, phương pháp, hình thức,điều kiện,
phương tiện, môi trường GD), chất lượng đội ngũ giáo viên. Việc đánh giá kết quả
GD cần phản ánh được chất lượng nhân cách có phù hợp hay không với yêu cầu của
18
cuộc sống. Cần phải xem xét chất lượng đầu vào, chất lượng của quá trình GD và
chất lượng đầu ra. Tham gia vào quá trình đánh giá chất lượng GD không chỉ là ý
kiến của thầy và trò mà còn cần có ý kiến của xã hội, đặc biệt là của người sử dụng
sản phẩm giáo dục.
Việc đánh giá chất lượng GD không chỉ thể hiện ở điểm số hay xếp loại mà
quan trọng hơn là thấy được những ưu điểm và hạn chế trong quá trình hình thành
và phát triển nhân cách , từ đó đề xuất những biện pháp phát huy và khắc phục.
1.2.8. Chất lượng đội ngũ giáo viên
Chất lượng ĐNGV được thể hiện ở 3 mặt : Phẩm chất-Trình độ-Năng lực.
+ Phẩm chất của người giáo viên được thể hiện ở đạo đức, tư tưởng tốt có
nhân cách xã hội chủ nghĩa, có tâm hồn cao thượng, thiết tha yêu nghề mến trẻ, có lý
tưởng nghề nghiệp, trung thành với Tổ quốc, trung thực, giản dị….
+ Về trình độ : Được đào tạo theo quy định chuẩn mà Luật Giáo dục đã đề ra.
+ Về năng lực : Năng lực của giáo viên được thể ở hiệu quả hoạt động dạy học
và giáo dục, khả năng thích ứng với thay đổi trong thực tiễn, khả năng giao tiếp, ứng
xử sư phạm…

Tuy nhiên để đảm bảo chất lượng thì ĐNGV phải được bồi dưỡng thường
xuyên, liên tục về chính trị tư tưởng đạo đức trình độ cũng như năng lực chuyên
môn. Bởi lẽ trong bối cảnh xã hội trong nước và quốc tế đầy biến động như hiện nay
sự bùng nổ thông tin, xu hướng toàn cầu hóa, các thành tựu khoa học kỹ thuật…đòi
hỏi ĐNGV phải luôn học tập BDTX, bổ xung tri thức đáp ứng nhu cầu mới.
1.2.9. Trường trung học phổ thông
Trường THPT là cấp học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là bậc học hoàn
thiện kiến thức phổ thông cho học sinh, có mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo
dục mang tính phổ thông cơ bản, toàn diện nhằm thực hiện nhiệm vụ :
1. Hoàn chỉnh học vấn phổ thông nhằm phát triển nhân cách người lao động
mới, năng động, sáng tạo, tạo nguồn cho các yêu cầu đào tạo của xã hội, đồng thời
chuẩn bị tích cực cho học sinh bước vào cuộc sống xã hội, lao động sản xuất, làm
nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
19
2. Chuẩn bị cho một bộ phận tiếp tục học lên bậc học cao hơn đáp ứng yêu cầu
tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề và trí thức xã hội chủ
nghĩa.
3. Tiếp tục phát hiện bồi dưỡng học sinh có năng khiếu nhằm góp phần đào tạo
nhân tài cho đất nước.
4. Bảo đảm số lượng, chất lượng và hiệu quả đào tạo học sinh THPT phù hợp
với nhu cầu và khả năng phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
5. Phát huy tác dụng về mặt văn hóa, tư tưởng , khoa học kỹ thuật ở địa
phương.
Vào những năm đầu của quá trình đổi mới đất nước, với sự nghiệp CNH-
HĐH, việc xây dựng cơ sở vật chất ở nước ta được tiến hành trong điều kiện tồn tại
nhiều hình thức sở hữu thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao
động được mở rộng, nhu cầu đào tạo tăng lên, tạo điều kiện cho GD&ĐT phát triển.
Mặt khác kinh tế thị trường làm thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh hưởng đến động
cơ học tập, việc lựa chọn ngành nghề, tác động đến các quan hệ trong nhà trường và

ngoài xã hội. Trước sự phát triển phong phú đa dạng của nền kinh tế tri thức, sự
phân hóa trong xã hội cần hình thành hai xu hướng: Một là, những em có điều kiện
đều có nguyện vọng học lên tiếp hoàn chỉnh học vấn theo ngành nghề. Hai là, một
số em không có điều kiện hoặc do năng lực bản thân, hoặc do thi không được vào
các trường Đại học thì tiếp tục vào học các trường trung học chuyên nghiệp - dạy
nghề hoặc hòa nhập vào thị trường lao động, chờ đón cơ hội để học thêm.
Như vậy bậc giáo dục THPT có “mục tiêu kép” là : Vừa chuẩn bị cho học sinh
vào đại học, vừa chuẩn bị học sinh vào đời. Do đó, trong nhà trường THPT ngoài
trang bị kiến thức còn phải hình thành được cho học sinh một số năng lực chủ yếu
như : Năng lực thích ứng với mọi thay đổi của thực tiễn để chủ động, tự chủ trong
lao động, trong cuộc sống và hòa nhập vào môi trường nghề nghiệp. Định hướng
chiến lược phát triển giáo dục của Đảng ta đã chỉ ra đặc điểm chủ yếu các nhiệm vụ
cơ bản và các đặc trưng về mục tiêu quản lý về nhà trường THPT [3].


20
1.2.10. Trường THPT chuẩn quốc gia
Về cơ bản trường THPT chuẩn quốc gia cũng có đặc điểm giống như trường
THPT nhưng trong thực tế, chất lượng giáo dục và đào tạo còn hạn chế, chưa đáp
ứng được yêu cầu là do nhiều nguyên nhân, như do “Đội ngũ giáo viên vừa thiếu,
vừa yếu”, “cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ cho công tác giáo dục
và đào tạo”. Việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia nhằm tạo những chuyển
biến thực sự về chất lượng Giáo dục & Đào tạo, là một trong những yêu cầu cấp
thiết và đang đặt ra nhiều vấn đề về công tác quản lý đối với ngành GD&ĐT cũng
như các cấp ủy Đảng, Chính quyền địa phương. Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết
định về tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia đối với cấp tiểu học cách đây trên bảy
năm, song cũng còn nhiều điều bất cập trong việc tổ chức thực hiện. Ngày 05/7/2001
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ra Quyết định số 27/2001- QĐ – BGD & ĐT “V/v: Ban
hành Qui chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia (Giai đoạn 2001 đến
2010) “[6], song đến nay việc tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều lúng túng, còn nhiều

vấn đề cần được quan tâm tìm ra các giải pháp cho phù hợp để có thể vừa đáp ứng
được yêu cầu đạt ra của ngành, vừa đáp ứng được yêu cầu thực tế của địa phương.
1.3. Trường THPT chuẩn quốc gia và đội ngũ giáo viên trường THPT chuẩn
quốc gia
1.3.1. Vai trò của trường THPT chuẩn quốc gia trong sự nghiệp phát triển hiện
nay
a) Ở các nước phát triển
Do có nền đại công nghiệp và đã có những bước phát triển dài, nên ở các nước
này đã giành được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, đồng thời có những bài
học có giá trị về nghiên cứu giáo dục. Ở các nước này đã xây dựng được hệ thống,
cơ cấu giáo dục thống nhất, ổn định có tiêu chuẩn hóa cao, phù hợp với điều kiện và
nhu cầu xã hội nên không đặt ra vấn đề xây dựng trường chuẩn. Điều thường được
đặt ra đối với các nước này là đổi mới về nội dung và phương pháp giáo dục.
b) Ở các nước đang phát triển
Do chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân, nên ở các nước này, sau khi giành
được độc lập bắt tay vào xây dựng một nền giáo dục mới, giáo dục được ưu tiên phát
21
triển với một tốc độ rất nhanh. Song bên cạnh những thành tựu hết sức to lớn về giáo
dục, ở các nước này đều bộc lộ những mặt hạn chế cơ bản. Đó là :
• Do phát triển giáo dục với tốc độ nhanh nên buộc phải sử dụng đội ngũ
giáo viên có chất lượng thấp, không chỉ yếu về kiến thức mà còn yếu về phương
pháp, điều đó dẫn đến sự xuống cấp giáo dục ngày càng lớn. Đồng thời do dân số
bùng nổ, qui mô trường lớp có tốc độ tăng càng nhanh, dẫn đến đầu tư tài chính còn
thiếu quá xa so với yêu cầu tối thiểu, CSVC nghèo nàn yếu kém.
• Do trình độ quản lý, trình độ dân trí còn thấp nên sự đầu tư cho giáo dục
còn hạn chế, chưa được quan tâm đúng mức và chưa đầy đủ.
Xây dựng trường chuẩn là quá trình chuẩn hóa các nhà trường và là điều tất
yếu phải đặt ra dưới hình thức này hoặc hình thức khác của mỗi quốc gia.
c) Ở Việt Nam
Tham khảo theo tài liệu “Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI”-

NXB Chính trị quốc gia của tác giả GS.VS Phạm Minh Hạc [17] rút ra được một số
nhận xét như sau :
1. Giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, thời Pháp thuộc được xây
dựng theo tư tưởng chỉ đạo là chỉ phát triển giáo dục theo chiều nằm chứ không theo
chiều đứng. Nhưng từ sau Cách mạng tháng Tám, Đảng và Nhà nước ta đã có những
sự quan tâm phát triển giáo dục và đã liên tục có những cuộc cải cách giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đó là :
• Đề án cải cách giáo dục được Hội đồng Bộ trưởng thông qua vào tháng
7/1950 được coi là “Cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất”. Từ đây nền giáo dục nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được chính thức tuyên bố là nền giáo dục của dân, do
dân và vì dân.
• Tháng 8/1956, Chính phủ ban hành “Chính sách giáo dục phổ thông của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” - Đây là cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai, với
mục tiêu là “Đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành những
người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những
người lao động tốt, cán bộ tốt của nước nhà, có tài, có đức…”. Phương châm giáo
dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn nhà trường với đời sống xã hội. Nội dung
giáo dục gồm bốn mặt:đức - trí - thể - mỹ. Về phương pháp có chú ý tăng cường
22
thực hành, tăng cường lao động sản xuất, chú ý nhiều hơn đến ứng dụng tri thức vào
đời sống. Như vậy, nội dung giáo dục có tính chất toàn diện hơn.
• Quyết định 14/1979 của Bộ Chính trị BCHTW Đảng cộng sản Việt Nam
được coi là “Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba”. Nội dung và mục tiêu cơ bản là :
Coi giáo dục là một bộ phận của cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, Giáo dục & Đào
tạo là nhân tố có tính chất quyết định đối với việc đào tạo nhân tài, đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ lao động mới có đạo đức, có kiến thức khoa học và kỹ thuật, có kỹ
năng, có sức khỏe… Cuộc cách mạng này được diễn ra chủ yếu từ năm 1981 và đã
xây dựng được một nền giáo dục quốc dân hoàn chỉnh.
Qua ba cuộc cải cách, bên cạnh những thành tựu đạt được, còn bộc lộ nhiều
những thiếu sót, tồn tại lớn về nội dung, chương trình và phương pháp, về đầu tư cơ

sở vật chất và đầu tư ngân sách cho giáo dục, về cách tổ chức quản lý giáo dục, ít có
trường đạt chuẩn về cơ sở vật chất và vệ sinh học đường, điều kiện về đội ngũ và cơ
sở vật chất để thực hiện giáo dục toàn diện hầu như chưa có, ngân sách giáo dục của
Nhà nước còn thấp, các nguồn khác còn hạn hẹp, nhiều năm chưa thực hiện đủ ngân
sách mà Quốc hội và Chính phủ đã quyết định dành cho Giáo dục & Đào tạo.
2. Trong nhiều năm qua việc xây dựng các trường điển hình tiên tiến chủ yếu
tập trung vào đánh giá ở phong trào thi đua, ở kết quả chung về GD&ĐT và công tác
XHH giáo dục, chưa thật chú trọng đến một số tiêu chuẩn như cơ cấu tổ chức nhà
trường, tiêu chuẩn về đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên , nhân viên và đặc biệt là
chưa chú ý đánh giá về CSVC, trang thiết bị trường học. Dẫn đến có nhiều trường
điển hình tiên tiến không duy trì thành tích được khi chuyển sang cơ chế mới.
3. Hội nghị BCHTW lần thứ tư - khóa VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
tiếp tục đổi mới sự nghiệp GD&ĐT đã nêu quan điểm chỉ đạo : GD là quốc sách
hàng đầu và đầu tư cho GD là một hướng chính đầu tư cho sự phát triển. Mục tiêu
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con
người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp…Gắn chặt yêu cầu
phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại, đa dạng hóa các hình
thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong GD [13] tiếp theo là Nghị quyết số
40/2000/QH được Quốc hội thông qua ngày 9/12/2000 về đổi mới chương trình giáo
23
dục phổ thông, NQ-TW II-Khóa VIII và các NQ-TW khóa IX của BCHTW Đảng
Cộng Sản Việt Nam đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển GD nước nhà [13].
Như vậy, cuộc cải cách giáo dục lần ba đã chuyển sang điều chỉnh cải cách và
đổi mới GD. Cuộc điều chỉnh đã chỉ rõ phải xây dựng nề nếp, kỉ cương, kỉ luật trong
dạy và học, trong trường lớp, trong quản lý giáo dục, chú trọng chất lượng và hiệu
quả trước mắt và lâu dài, kịp thời và đón đầu, thầy ra thầy trò ra trò, dạy ra dạy và
học ra học, trường ra trường và lớp ra lớp…GD&ĐT đã xây dựng chương trình các
bộ môn ở các cấp học nhằm phát triển toàn diện đức- trí -thể -mỹ - nghề để phục vụ
phát triển nguồn nhân lực, cần tập chung vào mục tiêu chất lượng GD&ĐT. Đây là
những tiền đề cho việc xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia.

d) Phương hướng của giáo dục Việt Nam bước vào thế kỷ XXI
NQ Đại hội lần thứ IX của Đảng nêu rõ : “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học…, thực hiện “chuẩn hóa,
hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học
sinh, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề. Thực hiện phương
châm “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn
liền với đời sống xã hội”. Coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh
trung học chuẩn bị đi vào lao động nghề nghiệp” [13]
Chuẩn hóa
Chúng ta đã có một hệ thống GD tương đối hoàn chỉnh, một nền quốc học
nhân dân, đủ sức để chuẩn hóa tất cả các trường, hoạt động dạy và hoạt động học,
các phương tiện GD đào tạo nhằm vào mục tiêu GD. Mọi thứ từng bước, từng phần,
từ thầy cô giáo, nội dung chương trình, đến CSVC - trang thiết bị dạy học và nhất là
trình độ phải đạt chuẩn, ban đầu đạt chuẩn quốc gia và dần đạt chuẩn quốc tế.
Hiện đại hóa
Phương pháp dạy học, nội dung chương trình, cơ sở vật chất trang thiết bị phải
hiện đại hóa. Ngày nay, nhiều nước coi cá thể hóa phương pháp dạy - học và phương
pháp “giải quyết vấn đề” là hướng chủ yếu hiện đại hóa giáo học pháp bộ môn, theo
nguyên lý giáo dục nhằm thức tỉnh tối đa tiềm năng của người học và hình thành ở
người học khả năng thích nghi tốt nhất, nhanh nhất, tinh thần phê phán khách quan,
khoa học và đầu óc sáng tạo.
24
Dân chủ hóa
Dân chủ hóa giáo dục trước hết là chống quan liêu, phiền hà, tham nhũng trong
ngành giáo dục, là công minh, công khai, công bằng trong thực hiện chính sách, chế
độ và mọi hoạt động trong nhà trường, trong ngành giáo dục, nhất là đối với các
khoản thu - chi và thi cử. Dân chủ hóa quản lý giáo dục còn thể hiện ở ý thức tôn
trọng các tổ chức chính trị của giáo giới, của người học và cơ chế phối hợp giữa
chính quyền và các tổ chức.
Xã hội hóa giáo dục

Sự nghiệp giáo dục không phải chỉ là của Nhà nước mà là của toàn xã hội. Mọi
người cùng làm giáo dục, nhà nước và xã hội, trung ương và địa phương cùng làm
giáo dục, tạo nên một cao trào học tập trong toàn dân. XHH là một trong những con
đường thực hiện dân chủ hóa giáo dục, trước hết là nâng cao trách nhiệm của mọi
người đối với thế hệ trẻ, tạo nên một môi trường giáo dục thống nhất tốt đẹp của xã
hội, gia đình, nhà trường. Động viên về tinh thần và vật chất, tạo thêm động lực cho
người dạy, người học, nhất là những người dạy giỏi, học giỏi, chăm học. XHH giáo
dục nhằm tăng thêm nhiều nguồn lực khác, nhất là nguồn lực tài chính - chính là gắn
liền với đa dạng hóa các nguồn lực cho giáo dục.
Tóm lại : Phương hướng tổng quát của Giáo dục & Đào tạo Việt Nam hiện
nay là xây dựng nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và
phát triển giáo dục toàn diện gồm đức -trí -thể -mỹ - nghề nhằm giáo dục con em
chúng ta thành người và làm người với những đức tính : Có tinh thần yêu nước, tự
cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, có ý chí vươn lên đưa đất
nước thoát khỏi nghèo nèn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Có ý thức tập thể
đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần
kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng
đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với
lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao, vì lợi ích của bản thân,
gia đình, tập thể và xã hội, thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, nâng cao trình
độ về chuyên môn, thẩm mỹ và thể lực. Đây là phương thức tất yếu phải thực hiện
trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập Quốc tế.
25
e) Chủ trương của Đảng, Nhà Nước, Bộ Giáo dục & Đào tạo về việc xây dựng
trường chuẩn quốc gia ở bậc THPT.
1. Hội nghị BCH TW lần thứ tư - khóa VII là một bước chuyển mới trong phát
triển giáo dục nước nhà. Lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra
một nghị quyết riêng về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục & đào tạo [13]. Đường
lối đổi mới đã đưa sự phát triển giáo dục đất nước đi vào một thời kỳ mới. Song vẫn

còn bảy vấn đề gay cấn được nêu ra trong kết luận của “Đề án nghiên cứu tổng thể
về giáo dục và nguồn nhân lực VIE - 9/022” do Chương trình phát triển Liên Hiệp
Quốc tài trợ, UNESCO phối hợp với Bộ GD&ĐT thực hiện, đó là : Công tác
GD&ĐT không phù hợp với xã hội trong giai đoạn chuyển tiếp, thiếu và kém hiệu
quả trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế cho GD&ĐT, giảm sút giữa số lượng
và chất lượng ở các cấp học, liên kết kém giữa giáo dục tay nghề với sản xuất và
việc làm, sự cung ứng không đầy đủ giáo dục đại học, còn nhiều nhược điểm và khó
khăn về đội ngũ giáo viên - nhân viên, hệ thống tổ chức, quản lý và pháp luật trong
GD& ĐT không phù hợp [17].
2. Hội nghị lần thứ hai BCH TW Đảng khóa VIII (12/1996) mở ra một thời kỳ
mới, chấn hưng nền GD nước nhà, tập trung vào 10 chữ : “Chấn chỉnh”, “sắp xếp”,
“củng cố”, “nâng cao”, và “phát triển” [13]. Tinh thần Nghị quyết TW II-Khóa VIII
tiếp tục được khẳng định trong Đại hội Đảng IX và trong NQ TW IV-Khóa IX [13].
Với định hướng chiến lược phát triển GD&ĐT, phương hướng tổng quát của GD
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI là : Chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội
hóa và đa dạng hóa công tác GD. Chuẩn hóa là tiêu chuẩn CNH, văn minh, hiện đại.
3. Bộ Giáo dục & Đào tạo đã có Quyết định số 27/2001 - QĐ – BGD & ĐT,
ngày 5 tháng 7 năm 2001 về việc ban hành qui chế công nhận trường trung học đạt
chuẩn quốc gia (giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010) và ban hành kèm theo Quyết
định này bản. “Qui chế công nhận trường trung học đạt chuẩn quốc gia (giai đoạn từ
năm 2001 đến năm 2010)”. [6]
1.3.2. Yêu cầu đối với trường THPT chuẩn quốc gia
a) Yêu cầu về tổ chức nhà trường
Trường có nhiều nhất là 45 lớp, mỗi lớp không quá 45 học sinh. Tổ chuyên
môn thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ

×