Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động dạy học ở các trường trung học phổ thông huyên Cần Đước, tỉnh Long An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




PHẠM VĂN KHẢO









Chuyên ngành : Quản Lý Giáo Dục
Mã số : 60 14 05




LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ HƯƠNG





Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn Trường
Ban Giám Hiệu trường Đại học Sư phạm, Phòng Khoa học Công nghệ -
Sau đại học, quý thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc TS.
Trần Thị Hương – người hướng dẫn khoa học đã tận tình gi
úp đỡ, chỉ
bảo trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn gia đình, những người bạn đã có nhiều
động viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành đề tài.
Do thời gian và năng lực có hạn, luận văn chắc chắn còn nhiều
thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của quý thầy cô và
các bạn đồng nghiệp.


Tác giả


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBQL : cán bộ quản lí
CNH–HĐH : công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CNTT : công nghệ thông tin
CSVC : cơ sở vật chất

CT : cần thiết
CCT : chưa cần thiết
ĐDDH : đồ dùng dạy học
GD&ĐT : giáo dục & đào tạo
GV : giáo viên
KT : khả thi
KKT : không khả thi
KTH : không thực hiện
KTX : không thường xuyên
HĐDH : Hoạt động dạy học
HĐGD : Hoạt động giảng dạy
HT : Hiệu trưởng
PHT : Phó Hiệu trưởng
PP
CT : phân phối chương trình
PPDH : phương pháp dạy học
QLGD : quản lí giáo dục
RKT : rất khả thi
RTX : rất thường xuyên
THPT : trung học phổ thông
THPT BC : trung học phổ thông bán công
TTCM : tổ trưởng chuyên môn
TX : thường xuyên
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, trí tuệ đang trở thành
động lực chính của sự tăng tốc phát triển. Hầu hết các quốc gia đều khẳng định
nguồn lực con người là quan trọng nhất và giáo dục là con đường cơ bản nhất để
phát huy nguồn lực con người, phục vụ cho sự phát triển nhanh và bền vững. Đặc
biệt, đối với các nước đang phát triển, bê

n cạnh những thời cơ và thuận lợi, phải đối
mặt với muôn vàn thách thức, khó khăn trong cuộc tìm kiếm các giải pháp cho phát
triển thì GD&ĐT được xem là nhân tố quyết định sự thành bại của mỗi quốc gia.
Trong báo cáo “Học tập: Một kho báu tiềm ẩn” gửi UNESCO của Ủy ban
quốc tế về giáo dục thế kỉ XXI có nêu: “Dưới áp lực của tiến bộ công nghệ và hiện
đại hoá, đòi hỏi đối với giáo dục cho các mục đích kinh tế cũng không ngừng tăng
lên ở hầu hết các nước trong s
uốt giai đoạn đang xem xét. Những so sánh quốc tế
đôi khi đã làm nổi bật tầm quan trọng đối với năng suất tăng lên của nguồn lực con
người, và từ đó, của sự đầu tư vào giáo dục”[39].
Tại Đại hội đại biểu t
oàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
CNH-HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản của sự
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[10]. Đây là yêu cầu cấp
bách đối với toàn xã hội, trong đó, ngà
nh giáo dục có nhiệm vụ “nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Chỉ thị 40 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã nêu: “Phát triển
GD&ĐT là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây
là trách nhiệm của toàn Đảng, t
oàn dân, trong đó nhà giáo và cán bộ quản lí giáo
dục là lực lượng nòng cốt, có vai trò quan trọng”[1].
Như vậy, phát triển GD&ĐT đã trở thành mục tiêu chiến lược của công c
uộc
đổi mới đất nước, được xem là cuộc cách mạng mang tính thời đại sâu sắc. Đội ngũ
nhà giáo và CBQL giáo dục là lực lượng cách mạng quan trọng, quyết định thắng
lợi sự nghiệp đổi mới giáo dục, góp phần phát triển đất nước.
Để đạt được mục tiêu này, vấn đề cấp thiết đặt ra cho giáo dục là phải “tiếp tục

nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và
học” và đồng thời đổi mới công tác quản lí để nhằm đáp ứng đòi hỏi ngà
y càng cao
về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội.
Trong xu thế toàn cầu hoá và việc Việt Nam đã là thành viên của WTO, chúng
ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Trong đó ngành giáo dục phải
không ngừng khẳng định vị thế của mình nhằm thể hiện vai trò, tạo bước đột phá
trong cuộc cách mạng trí tuệ đang hình thành và phát triển. Sự chuyển biến và phát
triển của nền kinh tế tri thức diễn ra ngày càng rộng lớn và mạnh mẽ trên qui mô toàn
cầu. Nền giáo dục cũng đã và đang định hình nhằm thực hiện chức năng trọng yếu là
động lực của mọi sự tiến bộ xã hội. Đứng trước tình hình ấy, Đại hội Đảng Cộng sản
Việt Nam
lần IX tiếp tục khẳng định: “Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất
lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo
viên đạt chuẩn quốc gia và tỉ lệ giáo viên so với yêu cầu học sinh từng cấp học”
[13
].
Dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường, đội ngũ GV là lực lượng
quyết định chất lượng dạy học. Nhiệm vụ của người GV là giáo dục, giảng dạy theo
mục tiêu, nguyên lí, chương trình giáo dục để giúp HS phát huy tính tích cực, chủ
động sáng tạo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn và hình thành những tình cảm đạo
đức tốt đẹp. Thời đại ngày nay, thời đại của thông tin và nền kinh tế tri thức thì sứ
mạng của người GV càng nặng nề hơn. N
gười thầy không chỉ chuyển tải thông tin
cho HS mà còn phải tổ chức, điều khiển, hướng dẫn HS chủ động chiếm lĩnh tri
thức. Vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ GV hết sức quan
trọng, có ý nghĩa quyết định chất lượng đào tạo.
Yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, đổi mới HĐGD đòi hỏi phải đổi mới
hoạt động quản lí. Đổi mới quản lí trường học trở th
ành đòi hỏi cấp bách, trong đó

quản lí của HT đối với HĐGD của GV là vấn đề cơ bản, có tác động trực tiếp nâng
cao chất lượng giáo dục. HĐGD của thầy giáo mang tính độc lập song không thể
thực hiện một cách đơn lẻ mà là sự hợp tác lao động trong đội ngũ GV. Để nâng cao
chất lượng, HT trường THPT phải có những giải pháp quản lí HĐDH ở nhà trường
phổ thông. Công tác quản lí HĐDH có ý nghĩa rất quan trọng vì nó là một trong
những nội dung cơ bản của quản lí trường học.
Hiện nay, các trường THPT trên địa bàn tỉnh Long An nói chung và địa bàn
huyện Cần Đước nói riêng, chất lượng dạy học có những chuyển biến tích cực
nhưng cũng còn nhiều hạn chế. HT các trường đã c
ó nhiều cố gắng song quản lí
HĐDH vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập. Điều này đặt ra vấn đề hết sức cấp thiết là
cần phải tăng cường công tác quản lí HĐDH để nâng cao chất lượng giáo dục của
nhà trường đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay của đất nước.
Với những cơ sở về lí luận và thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu:
“Thực trạng và giải pháp quản lí
hoạt động dạy học ở các trường trung học phổ
thông huyện Cần Đước, tỉnh Long An”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá đúng thực trạng quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần
Đước, tỉnh Long An, từ đó đề xuất một số giải phá
p nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác quản lí HĐDH của các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Hoạt động quản lí ở trường THPT.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và giải pháp quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần Đước,
tỉnh Long An.
4. Giả thuyết khoa học
Thực trạng về công tác quản lí HĐDH ở các trường TH

PT huyện Cần Đước,
tỉnh Long An tuy đã đạt được những kết quả nhất định nhưng vẫn có nhiều bất cập,
chưa đáp ứng đuợc yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lí ở trường THPT. Nếu
đánh giá đúng thực trạng công tác quản lí HĐDH ở các trường THPT huyện Cần
Đước sẽ có cơ sở thực tiễn để đề xuất các giải pháp quản lí đối với HĐDH nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của HĐDH ở trường THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lí luận về quản lí HĐDH ở trường THPT
5.2 Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về quản lí HĐDH ở các trường
THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long A
n.
5.3 Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lí HĐDH ở các trường
THPT.
6. Giới hạn đề tài
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp quản lí hoạt động dạy của GV ở
các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp luận
- Tiếp cận hệ thống - cấu trúc: Là cách thức nghiên cứu đối tượng như một
hệ thống t
oàn vẹn, phát triển động, tự hình thành và phát triển thông qua việc giải
quyết mâu thuẫn nội tại do sự tương tác hợp quy luật của các thành tố tạo ra. Qua đó
phát hiện các yếu số sinh thành, yếu tố bản chất và lôgic phát triển của đối tượng trở
thành hệ toàn vẹn, tích hợp mang chất lượng mới.
- Tiếp cận quan điểm lịch sử: Khi xem xét sự vật hay một hiện tượng, chúng
ta thường xem
xét quá trình lịch sử của nó. Từ đó thấy được mối quan hệ giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai của đối tượng nghiên cứu.
- Tiếp cận quan điểm thực tiễn: Việc đề ra các biện pháp nhằm góp phần nâng
cao hiệu quả công tác quản lý giảng dạy của hiệu trưởng các trường THPT dựa trên

việc khảo s
át thực trạng quản lý giảng dạy của hiệu trưởng. Qua khảo sát, phát hiện
những mặt mạnh, mặt yếu, những nguyên nhân hạn chế, từ đó đề ra các biện pháp
mang tính khả thi hơn .
7.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1 Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận
Bằng việc tổng hợp, nghiên cứu, khai thác những cơ sở lí luận đã có trong các
công trình khoa học, trong văn kiện của Đảng, chủ trương c
hính sách pháp luật của
nhà nước, của ngành giáo dục, sách, tạp chí chuyên ngành,… nhằm xác lập cơ sở lí
luận của đề tài nghiên cứu.
7.2.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2.2.1 Phương pháp điều tra giáo dục
- Điều tra bằng Anket
Phương pháp này nhằm mục đích khảo sát các nhóm đối tượng là CBQL, GV.
Các tài liệu điều tra được sẽ là những thông tin quan trọng cần cho quá trình nghiên
cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp khoa học.
- Điều tra bằng phỏng vấn, trao đổi
7.2.
2.2 Phương pháp quan sát sư phạm
Nhằm thu thập thông tin qua việc quan sát hoạt động quản lí dạy học của HT ở
các trường THPT huyện Cần Đước, tỉnh Long An.
7.2.2.3 Phương pháp chuyên gia
Chúng tôi xin ý kiến của một số nhà QLGD có kinh nghiệm, lãnh đạo và
chuyên viên, nhằm hiểu rõ thực trạng và có một số đề xuất hợp lí.
7.2.2.4 Phương
pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Qua nghiên cứu các sản phẩm của HĐGD cũng như kết quả học tập của HS sẽ
có cơ sở đề ra những giải pháp quản lí dạy học tốt hơn.
7.2.3 Phương pháp toán thống kê

Sau khi thu thập các phiếu thăm dò ý kiến, dựa vào kết quả điều tra, tác giả sử
dụng phần mềm SPSS for Windows để xử lí số liệu, tí
nh tần số xuất hiện và tỉ lệ
phần trăm các nội dung trong phiếu hỏi nhằm đánh giá thực trạng và định hướng
nâng cao hiệu quả công tác quản lí HĐGD trong các trường

THPT huyện Cần
Đước.
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC Ở
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

1.
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Thế giới
Ngay từ thời cổ đại, vấn đề dạy học đã được nhiều nhà triết học đồng thời là
nhà giáo dục ở cả phương Đông và phương Tây đề cập đến. Có thể kể đến các tư
tưởng và công trình chủ yếu dưới đây:
Ở phương Tây, từ trước công nguyên, Xôcrat (469 - 339) đã quan niệm g
iáo dục
phải giúp con người tìm thấy và tự khẳng định chính bản thân mình. Ông cho rằng để
nâng cao hiệu quả dạy học cần có phương pháp giúp thế hệ trẻ từng bước tự khẳng
định, tự phát hiện tri thức mới mẻ, phù hợp với chân lí. Platon (429 - 347 trước CN)
xác nhận vai trò tất yếu của giáo dục trong xã hội, tính quyết định của chính trị đối
với giáo dục.
Ở Phương Đông, nhà giáo dục học vĩ đại người Trung Hoa – Khổng Tử (551-
479 TCN) rất coi trọng mặt suy nghĩ tích cực của người học, qua
n niệm PPDH là
dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, nhưng vẫn đòi hỏi
người học phải tích cực suy nghĩ, phải hình thành nề nếp, thói quen trong học tập.
Ông nói: “Không giận vì muốn biết thì không gợi mở cho, không bực vì không rõ

được thì k
hông bày vẽ cho. Vật có bốn góc, bảo cho biết ba góc mà không suy nghĩ
ra góc kia thì không dạy nữa” [39].
Đến cuối thế kỉ XVI, khi mà chủ nghĩa tư bản bắt đầu xuất hiện, vấn đề dạy
học và quản lí dạy học đã được nhiều nhà gi
áo dục thực sự quan tâm, nổi bật nhất là
Cômenxki (1952 - 1670). Ông đã đưa ra các nguyên tắc dạy học như: nguyên tắc
trực quan, nguyên tắc nhất quán, nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính hệ
thống; đồng thời đã khẳng định hiệu quả dạy học
có liên quan đến chất lượng người
dạy thông qua việc vận dụng có hiệu quả các nguyên tắc dạy học. Trong hệ thống
các nguyên tắc dạy học của Nhà giáo dục Tiệp Khắc này đã có những biện pháp dạy
học nhằm làm cho HS phải tìm tòi, suy nghĩ để tự nắm được bản chất của sự vật
hiện tượng.
Nguyên tắc giáo dục của John Locke (1632-1704) là: “Không được nhồi nhét
điều gì vào trí nhớ của trẻ mà vốn chúng không thích thú. Thầy giáo cần khơi dậy ở
trẻ lòng ham mê say sưa của trẻ, qua đó hướng trẻ đến với tri thức. Phải phát triển
khả năng độc lập suy nghĩ và chủ động trong học tập ở trẻ” [39].
J.J Ruxô (
1712-1778) cũng cho rằng phải hướng HS tích cực tự giành kiến
thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Đó chính là những PPDH tích cực
nhằm biến hoạt động của thầy thành hoạt động của trò và sau khi tích cực hoạt động
thì trò nhận thức được các qui luật của tự nhiên. [39]
Vào cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, khoa học giáo dục thực sự có sự biến đổi
về lượng và chất. Trên cơ sở lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà nghiên cứu
giáo dục đã đi sâu nghiên cứu về vai trò và trách nhiệm của đội ngũ CBQL trong việc
quản lí HĐDH trong nhà trườn
g. V.A.Xukhomlinxki, V.P. Xtrezicondin, Jaxapob đã
nghiên cứu và đề ra một số vấn đề quản lí của HT ở trường phổ thông như vấn đề
phâ

n công nhiệm vụ giữa HT và PHT. Các tác giả đã thống nhất và khẳng định HT
phải là người lãnh đạo toàn diện và chịu trách nhiệm trong công tác quản lí nhà
trường. P.V. Zimin, M.I.Konđakôp, N.I.Saxerđôtôp đã đi sâu nghiên cứu công tác
lãnh đạo HĐGD, giáo dục trong nhà trường và xem đây là khâu then chốt trong
công tác quản lí của HT [33].
Đối với công tác xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ G
V, các nhà nghiên cứu đều
cho rằng trong những nhiệm vụ của HT thì nhiệm vụ hết sức quan trọng là xây dựng
và bồi dưỡng đội ngũ GV. HT phải biết lựa chọn đội ngũ GV bằng nhiều nguồn
khác nhau và bồi dưỡng họ trở thành những GV tốt theo tiêu chuẩn nhất định bằng
những biện pháp khác nhau.
Đối với việc tổ chức dự giờ và phân tích sư phạm bài dạy của GV, tác giả
V.A.X
ukhomlinxki đã thừa nhận tầm quan trọng của biện pháp này và chỉ rõ thực
trạng yếu kém của việc phân tích sư phạm bài dạy, cho dù hoạt động dự giờ và góp
ý với GV sau giờ dự của HT diễn ra thường xuyên. Từ thực trạng đó, tác giả đã đưa
ra nhiều cách phân tích sư phạm bài dạy của GV.
1.1.2 Việt Nam
Trước hết phải nói đến quan điểm về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1890 - 1969). Bằng việc kế thừa những tinh hoa của các tư tưởng giáo dục tiên tiến
và vận dụng sáng tạo phương pháp luận của triết học Mác - Lêni
n, Người đã để lại
cho chúng ta những nền tảng lí luận về vai trò giáo dục, định hướng phát triển giáo
dục, mục đích dạy học, các nguyên lí dạy học, các phương thức dạy học, vai trò của
quản lí và cán bộ QLGD, phương pháp lãnh đạo và quản lí. Hệ thống các tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục có giá trị cao trong quá trình phát triển lí
luận dạy học, lí luận giáo dục của nền giáo dục cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở lí luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Ch
í Minh, đã có
nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục Việt Nam nghiên cứu về quản lí nhà trường. Thủ

tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu: “Ngành giáo dục và đào tạo phải vũ trang cho
mình phương pháp giảng dạy, phát huy vai trò chủ động của người học, giải đáp tốt
bốn câu hỏi: dạy ai, dạy cái gì, dạy như thế nào, dạy để làm gì ?” [13]. Vào những
năm
1995 – 1996, trong ngành Giáo dục đã xuất hiện mệnh đề “Phương pháp giáo
dục lấy người học làm trung tâm” và đã có nhiều công trình nghiên cứu về PPDH
tích cực này như các tác phẩm: “Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm
trung tâm”, “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học” của tác giả Nguyễn
Kỳ, “Học và dạy cách học” của các tác giả Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên), Nguyễn
Kỳ, Lê K
hánh Bằng, Vũ Văn Tảo; “Những vấn đề cơ bản Giáo dục học hiện đại”
của tác giả Thái Duy Tuyên, “Bản chất của việc dạy học lấy học sinh làm trung
tâm” của tác giả Trần Bá Hoành. Các tác giả Nguyễn Ngọc Quang, Hoàng Chúng,
Hà Sĩ Hồ, Nguyễn Văn Lê, Hoàng Tâm Sơn, Nguyễn Văn Tường,… đi sâu vào
những bình diện khác nhau của HĐDH nhưng tất cả đều hướng đến việc giải quyết
mối qua
n hệ giữa GV và nhà quản lí, những nội dung quản lí HĐDH của người HT.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang xác định: “Dạy học và giáo dục trong sự thống nhất
là hoạt động trung tâm của nhà trường, quản lí nhà trường thực chất là quản lí quá
trình lao động sư phạm của người thầy” [35]. Tác giả Hà Sĩ Hồ và Lê Tuấn khi
nghiên cứu về mục tiêu, nội dung, biện pháp quản lí nhà trường cũng đã khẳng
định: “Việc quản lí hoạt động dạy và học (hiểu theo nghĩa rộng) là nhiệm vụ quản lí
trung tâm của nhà trường” và “Người hiệu trưởng phải luôn luôn kết hợp một cách
hữu cơ quá trình dạy và học” [38].
Tác giả H
oàng Tâm Sơn thì quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động khoa học
cho GV để phát huy yếu tố nội lực của chính đội ngũ [39]. Tác giả Nguyễn Văn Lê

tập trung nghiên cứu công tác bồi dưỡng đội ngũ GV về tư tưởng chính trị, về
chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao năng lực giảng dạy cho họ [46].

Gần đây nhất, vào năm
2001, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam đã cho xuất
bản tuyển tập “Giáo dục học - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” của cố giáo sư Hà
Thế Ngữ (1929 - 1990). Trong công trình này, thông qua việc trình bày về đối
tượng nghiên cứu và cấu trúc của khoa học QLGD, các khái niệm cơ bản của lí luận
QLGD, những nguyên tắc QLGD và những qui luật giáo dục, tác giả đã giới thiệu
nhiều tri thức về phương pháp luận nghiên cứu hiệu quả giáo dục và dạy học.
Ngoài ra, qua nghiên cứu ở các bộ phận lưu trữ của trường Cán bộ QL
GD
thuộc Bộ GD&ĐT và Trường Đại học Sư phạm Tp Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận
thấy có một số tác giả đã chọn vấn đề nghiên cứu gần với đề tài chúng tôi nghiên
cứu để làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành QLGD. Trong các đề tài này,
các nhà nghiên cứu quan tâm
đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ quản
lí cho đội ngũ CBQL các trường phổ thông, dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao
đẳng và đưa ra các biện pháp chung nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
ở các trường.
Đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo là mục tiêu phải đạt được của HĐDH
và quản lí HĐDH. Trong nhà trường THPT, đây là công việc chiếm một thời gian
lớn và khó khăn nhất của người HT. Thời gian vừa qua, nhiều nhà QLGD đã nghiên
cứu về quản lí trường học, chủ yếu là công tác quản lí của HT ở trường TH
PT, để
tìm ra các biện pháp quản lí đạt hiệu quả. Các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến việc
nâng cao trình độ nghiệp vụ quản lí của HT, CBQL và đưa ra các giải pháp chung
nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường THPT.
Một số luận văn thạc sĩ quan tâm đến đề tài quản lí của HT nhằm nâng cao
chất lượng dạy học ở các trường THPT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà
Lạt, Tiền Giang, Cà Mau,… Trong các công trình trên đây, các tác giả đã nêu lên
vai trò của GV trong thời kì CNH-HĐH đất nước và đối với sự nghiệp phát triển
GD&ĐT nói riêng. Hơn nữa một số tác giả trực tiếp đề cập tới nội dung quản lí đội

ngũ GV. Tất cả các công trình đã công bố đư
ợc tiếp cận dưới những góc độ khác
nhau trên bình diện rộng. Trên bình diện hẹp, quản lí HĐDH ở huyện Cần Đước,
tỉnh Long An chưa có tác giả nào đề cập tới. Vì vậy, đề tài chúng tôi tập trung
nghiên cứu thực trạng quản lí HĐDH ở huyện Cần Đước, tỉnh Long A
n và từ đó đề
xuất những giải pháp quản lí phù hợp mang tính khả thi để góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học trong nhà trường THPT.
1.2 Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
1.2.1 Giáo dục THPT trong xu thế phát triển của thế giới hiện nay
Sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật, của CNTT đã dẫn tới sự xuất
hiện nha
nh nhiều tri thức, kĩ năng và các lĩnh vực nghiên cứu mới; đồng thời những
tri thức cũ, lỗi thời đang dần dần mất tác dụng. Trong thực tiễn hiện nay, nội dung
dạy học đã đặt ra những yêu cầu cần đổi mới. Hiện nay các quốc gia trên thế giới
vẫn không ngừng phát triển cho sự nghiệp giáo dục của m
ình. Họ không chỉ thay
đổi chính sách, nội dung mà cả phương pháp giáo dục.
Tại Scotland, Chánh thanh tra giáo dục Graham Donaldson nói: “Tất cả lớp
trẻ của chúng ta cần hiểu biết sâu về khoa học và kĩ thuật nếu họ muốn cống hiến
đầy đủ cho một Scotland hiện đại. Trường học của chúng ta tiếp tục đào tạo một số
nhà khoa học trẻ, có khả năng. Tuy nhiên, quá nhiều em rời trường kiến t
hức ít ỏi
về khoa học và không đủ để kiếm sống. Có nhiều việc cần làm để khiến lớp trẻ thích
học khoa học và bảo đảm cập nhật hoá để phản ánh kịp thời những phát triển và
khám phá mới nhất. Kiến thức và kĩ thuật của thầy cô giáo cũng cần thường xuyên
đổi mới để mang lại hiệu quả trong việc dạy và học”.
[28
]
Các nhà giáo dục Phần Lan có một triết lí khá đơn giản, càng mở rộng cánh cửa

giáo dục để mọi người đều có cơ hội, càng phát hiện được nhiều tài năng hơn. Bộ
trưởng Giáo dục Hatainen giải thích: “Giáo dục cũng giống như môn khúc côn cầu.
Chúng tôi để cho cho tất cả các em được chơi, không chỉ những em xuất sắc. Trong
cuộc chơi công bằng này (được hưởng một nền giáo dục ngang nhau), các em có cơ
hội để bộc lộ khả năng và chúng tôi sẽ phát hiện được nhiều nhân tài.”; “Cơ sở của
nền giáo dục Phần Lan là các em đều được học một cách công bằng. C
ùng một
trường với môi trường giống nhau còn giúp các em cảm thấy an toàn hơn.”
[28
]
Một trong số những điều ấn tượng nhất trong giáo giục Thụy Điển là sự linh
hoạt ở mức tối đa của chương trình học. Xét về mặt nào đó, đây thực sự là cách
giảng dạy đầy tính nhân văn, tôn trọng HS. Thực tế, không phải trường học nào
cũng đưa ra được chương trình học phù hợp với nhu cầu và sự quan tâm của mọi
HS trong trường. Với những H
S cảm thấy chương trình học có yêu cầu quá cao, nhà
trường có thể sắp xếp để điều chỉnh hoặc giảm bớt các khoá học. Điều này cũng
đồng nghĩa với việc giảm bớt thời gian học, thay thế các bài tập thực hành bắt buộc.
Tuy nhiên, những HS giảm bớt môn học sẽ không được nhận bảng điểm đầy đủ
nhưng vẫn có thể được các trường TH
PT chấp nhận vào học.
Các nước châu Á đang có những động thái tích cực để tạo ra một môi trường
giáo dục mới phù hợp và ưu việt hơn. Trước đây, khi nói về giáo dục ở châu Á,
nhiều người thường cho rằng, HS ở đây luôn là những người siêng năng, cần cù và
chăm chú trong giờ giảng, trong khi đó các HS phương Tây lại luôn tìm đến những
trò nghịch ngợm hay gây lộn trong trường. chuẩn bị về phong cách và lực học của
các học trò phương Đông từng là tiêu chí để các thầy giáo phương Tâ
y hướng tới
cho các học trò của mình. Tuy nhiên, với những chương trình giảng dạy được dựa
trên những chuẩn mực cũ đã làm cho HS châu Á mất dần đi khả năng sáng tạo và

trở nên thụ động. Ông Hiroshi Yoshimoto- một quan chức làm việc tại Ban cải cách
Giáo dục Nhật Bản cho biết: “Có
một cái gì đó rất sai lầm đang xảy ra trong các
trường học của chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết rằng, chúng ta cần phải cải cách
những gì thuộc về ngày hôm qua”. Cho đến nay, nhiều nước châu Á đang tiến hành
những cải cách quan trọng trong hệ thống giáo dục của mình. Ông LeeKe Woo- một
quan chức chuyên trách về cải cách giáo dục ở Hàn Quốc – cho rằng: “Chúng ta
nên dạy cho học sinh phương pháp thu nạp tri thức chứ không phải là những bài
học thuộc lòng”.
[28
]
Phương châm chiến lược phát triển giáo dục Trung Quốc đó là: Giáo dục
hướng về hiện đại, Giáo dục hướng tới tương lai và Giáo dục hướng ra thế giới. Đây
là tư tưởng xác lập vị trí chiến lược của giáo dục trong nỗ lực xây dựng đất nước
phát triển, nhất là nhằm tăng cường hội nhập quốc tế. Sau khi gia nhập WTO, Trung
Quốc chủ trương bồi dưỡng, giáo dục nhâ
n tài theo ba hướng này.
Hướng về hiện đại hoá tức là xây dựng mối quan hệ giữa GV với phát triển
kinh tế, gắn giáo dục với việc thực hiện các nhiệm vụ chung của đất nước. Hướng ra
thế giới là mối quan hệ giữa giáo dục và thế giới, vừa tuân theo những đặc trưng
giáo dục Trung Quốc vừa chú ý đến xu thế phát triển của khoa học, kĩ thuật và giáo
dục các nước khác trên thế giới nhằm có
biện pháp, chính sách, chủ trương đúng
đắn cho giáo dục. Hướng tới tương lai là xác định mối quan hệ giữa giáo dục và
tương lai, nhấn mạnh nhiệm vụ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá.
Mục tiêu của cải cách giáo dục THPT Trung Quốc là làm cho HS nắm được
kiến thức phổ thông cơ bản, có lòng yêu nước và quí trọng văn hoá dân tộc, tinh
thần trách nhiệm với xã hội, có tinh thần nhân văn, có tâm
hồn và thể chất khỏe
mạnh. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo đội ngũ chuyên gia tài năng, đáp ứng các nhu

cầu phong phú của xã hội; đồng thời quan tâm thỏa mãn nhu cầu phát triển từng cá
nhân. Sự phát triển kinh tế xã hội của Trung Quốc hiện nay đã đến giai đoạn phải
chuyển hướng đòi hỏi đối với giáo dục, từ chỗ trước đây
đặt trọng tâm chú ý nhiều
đến giáo dục nền tảng, đại chúng thì nay phải chuyển trọng tâm chú ý sang GD&ĐT
đội ngũ nhân tài đặc biệt cho mọi lĩnh vực đời sống, kinh tế, xã hội của đất nước.
Đồng thời sự bùng nổ của CNTT nói riêng và khoa học công nghệ nói chung
đang tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của tất cả các ngành trong đời sống xã
hội. Để việc dạy học theo kịp cuộc sống, giáo dục THPT nhất thiết phải cải cách

PPDH theo hướng vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại phát huy mạnh
mẽ tư duy sáng tạo, kĩ năng thực hành và hứng thú học tập của HS để nâng cao chất
lượng đào tạo. Yêu cầu đối với GV phải biết soạn giáo án điện tử và trình diễn giờ
dạy theo phương pháp hiện đại.
Trước những yêu cầu của xã hội về sự nghiệp giáo dục, nhất là trong giai đoạn
hiện nay, cả nước đang đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và phân ban đại
trà vào năm học 2006-2007 đòi hỏi ngành giáo dục phải có đư
ợc đội ngũ CBQL trẻ,
năng lực giỏi đáp ứng tốt công tác quản lí trường học.
1.2.2 Vị trí, nhiệm vụ và mục tiêu đào tạo của trường THPT Việt Nam
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục THPT được xem là nền tảng và
có ý nghĩa quan trọng đối với nguồn nhân lực của đất nước; bởi lẽ giáo dục THPT
là nhằm
giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục trung học cơ sở,
hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động. Để giáo dục THPT thực sự có
chất lượng và chất lượng cao
phải đảm bảo đồng bộ về các điều kiện như chương trình giáo khoa, CSVC; đồng
thời phải kể đến vai trò nòng cốt của đội ngũ GV và CBQL trường học.

Điều lệ trường THPT qui định “Trường trung học là cơ sở giáo dục ở bậc
trung học, nối tiếp bậc THCS của hệ thống giáo dục quốc dân nhằm hoàn chỉnh học
vấn tr
ung học; trường THPT có tư cách pháp nhân và có con dấu riêng”. Giáo dục
THPT nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân “được thực hiện trong ba năm học, từ
lớp mười đến lớp mười hai. HS vào học lớp mười phải có bằng tốt nghiệp THCS, có
tuổi là mười lăm tuổi”. Luật giáo dục đã qui định rõ mục tiêu của giáo dục THPT là
“Nhằm giúp học sinh cũng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn
thiện học vấn phổ t
hông và những hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng
nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề, đi sâu
vào cuộc sống lao động”.[2]
TH
PT là bậc học cuối cùng của giáo dục phổ thông, là giai đoạn hết sức quan
trọng mà HS cần phải tích luỹ đầy đủ kiến thức phổ thông và giá trị về nhân cách để
chuẩn bị cho một bậc học mới hoặc bước vào cuộc sống lao động. “Giáo dục trung
học phổ thông nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo
dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và những hiểu biết thông thường
về kĩ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động” (Điều 23, mục 2, chương II của
Luật Giáo dục).
Học xong THPT, HS cần đạt được yêu cầu c
hủ yếu sau:
 Hình thành và củng cố các giá trị về tư tưởng, đạo đức, lối sống phù hợp với
mục tiêu chung của giáo dục phổ thông, mục tiêu giáo dục của cấp học và
thích hợp với trình độ, lứa tuổi HS THPT. Đó là tình yêu gia đình, quê hương,
đất nước, tinh thần tự tôn dân tộc; ý thức giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hoá, tr
uyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; trung thành với
lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng bảo vệ tổ

quốc; có chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn; có lòng nhân ái,
ứng xử hợp đạo lí, có văn hoá trong quan hệ gia đình, bạn bè, xã hội; sống
lành mạnh, tự tin, giản dị, tiết kiệm; hiểu biết, tôn trọng và chấp hành pháp
luật; qua
n tâm đến những vấn đề cấp bách của đất nước, của toàn cầu.
 Củng cố, phát triển những nội dung đã học ở trung học cơ sở, gồm những
kiến thức cơ bản về tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa
học xã hội, khoa học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu
biết cần t
hiết về kĩ thuật và hướng nghiệp, đảm bảo hoàn thành nội dung học
vấn phổ thông về tự nhiên, xã hội và con người, gắn với cuộc sống cộng đồng
và thực tiễn địa phương.
 Được tiếp tục phát triển và nâng cao các kĩ năng học tập chung và kĩ năng học
tập bộ môn, đặc biệt là kĩ năng vận dụng kiến thức vào các tình huống học tập
mới, vào t
hực tiễn sản xuất và đời sống; được củng cố thói quen và phương
pháp tự học, năng lực thu thập, xử lí và truyền đạt thông tin, khả năng phát
hiện và giải quyết vấn đề, độc lập suy nghĩ, sáng tạo trong tư duy và hành
động; có khả năng sử dụng một ngoại ngữ trong giao tiếp thông thường và
khả năng ứng dụng một số thành tựu của CNTT ở trình độ phổ thông trong
giải quyết công việc; có hiểu biết và kĩ năng cần thiết về kĩ thuật tổng hợp và
hướng nghiệp để có thể vận dụng trong cuộc sống lao động, trong việc lựa
chọn hướng phát triển phù hợp với năng lực của bản thân.
 Hiểu biết và có thói quen rèn luyện thân thể thường xuyên, đạt tiêu chuẩn rèn
luyện theo lứa tuổi; giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường; sử dụng thời gian
hợp lí, biết cách làm việc và nghỉ ngơi khoa học.
 Hiểu biết v
à có khả năng cảm thụ, đánh giá cái đẹp trong cuộc sống và văn học,
nghệ thuật, có nhu cầu sáng tạo cái đẹp; sống hoà hợp với thiên nhiên và xã
hội.

Điều lệ trường Trung học qui định nhiệm vụ và quyền hạn của trường THPT
như sau:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo chương
trình do Bộ GD&ĐT ban hà
nh.
- Tiếp nhận HS, vận động HS bỏ học đến trường, thực hiện kế hoạch phổ cập
giáo dục THPT trong phạm vi cộng đồng theo qui định của Nhà nước.
- Quản lí GV, nhân viên và HS; Quản lí, sử dụng đất đai, trường sở, trang
thiết bị và tài chính theo qui định của pháp luật.
- Phối hợp với gia đình HS, tổ chức, cá nhân trong cộng đồng thực hiện các
hoạt động giáo dục.
- Tổ chức cho GV, nhân viên và HS tham gia các hoạt động xã hội trong
phạm v
i cộng đồng.
- Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo qui định của pháp luật.
* Nhiệm vụ của người HT trường THPT:
- Tổ chức bộ máy nhà trường.
- Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm học;
- Quản lí G
V, nhân viên, HS; quản lí chuyên môn; phân công công tác; kiểm
tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của GV, nhân viên;
- Quản lí và tổ chức giáo dục HS;
- Quản lí hành chính, tài chính, tài sản nhà trường;
- Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với GV, nhân viên, học
sinh; tổ chức thực hiện qui chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường;
-
Được theo học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ và các chế độ hiện hành;

* Nhiệm vụ của người PHT trường THPT:
- PHT là người giúp việc cho HT, là người được tín nhiệm về chính trị, đạo

đức, chuyên môn, có năng lực quản lí trường học và có sức khoẻ.
- PHT có những nhiệm vụ, quyền hạn cơ bản theo qui định của Điều lệ
trường Trung học:
- Thực hiện và chịu trách nhiệm trước HT về những việc được phân công.
- Cùng với HT chịu trá
ch nhiệm trước cấp trên về các hoạt động có liên quan
của nhà trường.
- Thay mặt HT điều hành hoạt động của nhà trường khi được ủy quyền.
- Được dự các lớp bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ quản lí
trường học, được hưởng các quyền lợi khác theo qui định.
Đội ngũ CBQL trường THPT là HT và các PHT đang làm nhiệm vụ quản lí
hoạt động dạy và học tại các trường TH
PT, xây dựng đội ngũ CBQL trường THPT
là làm cho đội ngũ này mạnh về chất, đủ về lượng, đồng bộ về cơ cấu nhằm phát
huy có hiệu quả công tác quản lí trường học trong từng giai đoạn phát triển của xã
hội, góp phần thực hiện mục tiêu “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài” mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
1.3 Lí luận về hoạt động
dạy học
1.3.1 Khái niệm về hoạt động dạy học
1.3.1.1 Hoạt động dạy
“Dạy là sự truyền lại của thế hệ trước cho thế hệ sau những kinh nghiệm mà
xã hội đã sáng tạo và tích lũy được qua các thế hệ”. “Hoạt động dạy là sự truyền thụ
những tri thức khoa học, những kĩ năng và phương pháp hành động”
[31].
Mục đích của hoạt động dạy là giúp người học lĩnh hội nền văn hoá xã hội,
phát triển t
âm lí, hình thành nhân cách. Bản thân người học không thể biến năng lực
của loài người thành năng lực của bản thân và nhất thiết người học ở những mức độ
khác nhau phải dựa vào sự giúp đỡ của người dạy. Như vậy, người học lĩnh hội nền

văn hoá xã hội một cách gián tiếp thông qua người dạy. Sự giúp đỡ của người dạy
để người học lĩnh hội nền văn hoá xã hội, thúc đẩy sự phát triển tâm lí, tạo ra những
cơ sở trọng yếu để hình thành nhân cách của người học là mục đích của dạy học.
Hoạt động dạy được h
iểu là quá trình người GV truyền thụ tri thức, kinh
nghiệm cho người học, là hoạt động tổ chức điều khiển của GV đối với hoạt động
nhận thức của HS nhằm hình thành trong mỗi HS tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ,
hành vi. Đồng thời, hoạt động dạy của GV còn giữ vai trò tổ chức, lãnh đạo, điều
khiển quá trình dạy học, mọi HĐGD, tổ chức, điều khiển của GV đều nhằm mục
đích duy nhất là thúc đẩy sự nhận thức của người học. Vì vậy, người GV phải nắm
vững kiến thức một cách khoa học và hệ thống, phải am hiểu và tinh thông kiến
thức thực tiễn cùng với v
iệc sử dụng phương pháp giảng dạy hợp lí, khoa học.
Cùng với hoạt động học tập, hoạt động dạy là hoạt động trung tâm và đặc
trưng nhất ở trường phổ thông. Hoạt động dạy được tiến hành với mục đích tổ chức
- điều khiển nhằm tối ưu hoá hoạt động học, giúp người học chiếm lĩnh tri thức
khoa học và qua đó hình t
hành nhân cách.
Từ cách hiểu đó, hoạt động dạy có những nhiệm vụ cơ bản sau:
 Giúp HS nắm vững tri thức khoa học một cách có hệ thống, cơ bản, có những
kĩ năng, kĩ xảo cần t
hiết trong học tập, trong lao động và trong cuộc sống.
 Phát triển trí tuệ của HS, trước hết là phát triển tư duy độc lập, sáng tạo, hình
thành năng lực nhận thức và hành động. Dạy học phải đi trước sự phát triển.
Dạy học đồng t
hời là dạy cách tự học, tự hoàn thiện nhân cách.
 Dạy kiến thức văn hoá phải đi đôi với việc hình thành thế giới quan khoa học,
lòng yêu nước, chí tự cường, sống lành mạnh, giàu lòng nhân ái, có trách
nhiệm, biết hợp tác và thích nghi.
 Phương pháp của hoạt động dạy bao gồm những cách thức tổ chức, tác động

sư phạm và những công cụ, thiết bị, máy
móc hỗ trợ.
 Kết quả của HĐGD là chất lượng và trình độ mới về phẩm chất và năng lực
của HS, giúp HS có thể nhận thức và cải biến hiện thực, làm cho hiện thực trở
nên tốt đẹp hơn.
1.3.1.2 Hoạt động học
Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục
đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng kĩ xảo mới, những hình thức hành vi

và những dạng hoạt động nhất định. Đây là một dạng hoạt động chỉ có thể thực hiện
ở một trình độ khi mà con người có được khả năng điều chỉnh những hành động của
mình bởi một mục đích đã được ý thức. Chỉ có thông qua hoạt động học này mới
hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học cũng như cấu trúc tương ứng của hoạt
động tâm lí, sự phát triển toàn diện nhân các
h của người học. Thực chất hoạt động
học là quá trình người học lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của người dạy
nhằm biến đổi bản thân, để hình thành và hoàn thiện nhân cách của mình. Do đó,
người học phải xác định mục đích, động cơ, th
ái độ học tập, có sự tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo trong tiếp thu tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo.
Hoạt động học có những đặc điểm sau:
- Đối tượng của hoạt động học là tri thức và những kĩ năng kĩ xảo tương ứng
với nó. Có thể nói cái đích mà hoạt động học hướng tới là chiếm lĩnh tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo của xã hội thông qua
sự tái tạo của cá nhân. Việc tái tạo này sẽ không
thể thực hiện được nếu người học chỉ là khách thể bị động của những tác động sư
phạm, nếu những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo chỉ được truyền cho người học theo cơ
chế “máy phát” (người dạy), “máy nhận” (người học). Muốn học có kết quả người
học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng c
hính ý thức tự giác và năng

lực trí tuệ của bản thân mình.
-
Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính mình. Thông
thường các hoạt động khác hướng vào làm thay đổi khách thể (đối tượng của hoạt
động), trong khi đó hoạt động học lại làm cho chính chủ thể hoạt động này thay đổi
và phát triển. Như vậy tri thức mà loài người đã tích luỹ được là đối tượng của hoạt
động học. Nội dung của đối tượng này không hề thay đổi sau khi nó bị chủ thể hoạt
động học chiếm lĩnh. Chính nhờ có sự chiếm lĩnh này mà tâm lí của chủ thể mới
được thay đổi và phát triển. Người học càng được giác ngộ sâu sắc mục đích này
bao nhiêu thì sức mạnh vật chất và tinh thần của họ ngày càng được huy động bấy
nhiêu trong học tập và như vậy sự thay đổi và phát triển tâm lí của chính họ ngày
càng lớn lao và mạnh mẽ. Dĩ nhiên, hoạt động học cũng có thể làm thay đổi khác
h
thể. Tuy nhiên, việc làm thay đổi khách thể như thế không phải là mục đích tự thân
của hoạt động học mà chính là phương tiện không thể thiếu của hoạt động này nhằm
đạt được mục đích làm thay đổi chính chủ thể hoạt động. Chỉ có thông qua đó người
học mới dành được điều kiện khách quan để ngày càng tự hoàn thiện mình.

- Quá trình học tập là quá trình nhận thức đặc biệt để tiến tới nắm vững tri thức,
bảo lưu trong trí nhớ những chân lí sơ đẳng (sự kiện, qui tắc, số liệu, những đặc
trưng, những mối phụ thuộc, mối tương quan, những định nghĩa khác nhau) và từng
bước vận dụng trong cuộc sống, biết sử dụng chúng, tìm thấy chúng trong trí nhớ
của mình lúc cần thiết.
- Học là thừa hưởng những giá trị mà thế hệ trước để lại. Những gi
á trị đó là
nguyên liệu, người học phải chế biến những giá trị đó theo những qui trình nhất
định, biến nó thành tài sản cá nhân. Trong quá trình chế biến đó, nhân cách con
người đuợc hình thành và phát triển. Học tập ở HS phổ thông không phải là nhồi
nhét, phải làm sao việc học trở thành một bộ phận của đời sống tâm hồn phong p


của HS, là nhu cầu của chúng, có tác dụng thúc đẩy làm cho trí tuệ HS thêm giàu
có. “Học tốt” có nghĩa là biết tận dụng sự giảng dạy và hướng dẫn của thầy, coi như
một mô hình mẫu của việc xử lí đối tượng nghiên cứu, đồng thời bám chắc vào nội
dung trí dục từ đó mà tự lực tổ chức việc lĩnh hội của bản thân.
1.3.
1.3 Hoạt động dạy học
HĐDH là hoạt động chung của GV và HS, bao gồm hoạt động dạy của người
thầy và hoạt động học của HS. Hai hoạt động này có sự gắn bó chặt chẽ, mật thiết
với nhau, tồn tại cho nhau và vì nhau.
Như vậy, nội dung của HĐDH bao gồm các mặt: nội dung, tâm lí, xã hội và
nhân cách; việc thực hiện quá trình này đòi hỏi phải có sự thể hiện tích cực của các
chức năng tri giác, biểu cảm, giao tiếp, tổ chức và thiết kế của người dạy. Thực chất
của quá trình dạy học là giúp đỡ người học tự học, kĩ thuật nghiên cứu, tự điều
chỉnh và suy cho cùng, chính người thầy đã giúp trò tự hiểu bản thân mình và phấn
đấu để trò ngày càng tiến bộ.
1.3.2 Bản chất hoạt động dạy học
Bản chất của dạy học chính là gâ
y ảnh hưởng có chủ định đến hành vi học tập
và quá trình học tập của người khác, tạo ra môi trường và những điều kiện để người
học duy trì việc học, cải thiện hiệu quả, chất lượng học tập, kiểm soát quá trình và
kết quả học tập của mình [18]. Dạy học c
hính là cơ cấu và qui trình tác động đến
người học và quá trình học. Chủ thể là nhà giáo, thầy giáo, và bất kì người nào tiến
hành bảo ban người khác học tập. Vì thế, dạy học tức là dạy, bảo, chỉ dẫn người học
học. Nếu dạy trẻ học, điều đó có nghĩa là: dạy trẻ muốn học (có nhu cầu học tập);
dạy trẻ biết học (có kĩ năng và biện pháp học tập); dạy trẻ học lành
mạnh (có động
cơ học tập đúng đắn); dạy trẻ học bền bỉ (có ý chí học tập); dạy trẻ học thành công
(có kết quả và chất lượng); dạy trẻ học chủ động và độc lập (có khát vọng và ý thức
tự giác học tập). Nếu làm được như vậy thì thầy giáo mới thật sự là thầy và H

S mới
thật sự là người học.
Bản chất của HĐDH là hoạt động nhận thức độc đáo của người học dưới vai
trò tổ chức nhận thức của GV nhằm thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường.
HĐDH có tính hai mặt:
Dạy và học là loại hình hoạt động hai chiều, nó đòi hỏi nhất thiết phải có
tác
động qua lại giữa GV và HS. Tác động này diễn ra trong những điều kiện nhất định
(điều kiện vật chất – học tập, điều kiện vệ sinh, điều kiện tâm lí, đạo đức, thẩm mĩ).
Dạy và học không thể thiếu hoạt động đồng thời của GV và HS, không thể thiếu tác
động qua lại biện chứng giữa đôi bên. Nếu sự tích cực truyền đạt của GV mà không
có sự tích cực tiếp thu kiến thức của HS, nếu G
V không bảo đảm động viên và tổ
chức hoạt động của HS thì quá trình dạy và học thực tế không diễn ra vì tác động
qua lại biện chứng không hề có. Tính hai chiều này phản ánh mối liên hệ tổ chức
hoạt động giữa thầy – trò.
Tác động qua lại giữa GV và HS có thể diễn ra dưới dạng trực tiếp hoặc gián
tiếp. Trực tiếp là khi GV và HS cùng thực hiện các nhiệm vụ dạy và học (trong bài
giảng, thực hành, thí nghiệm) ở trên lớp. Gián tiếp là khi HS thực hiện các nhiệm vụ
học tập và chỉ dẫn do GV đưa ra từ trước để tiến hành các hành động độc lập, tự
học, hoặc hơn thế nữa khi vắng mặt GV, HS tự nắm lấy các cách thức học tập mới,
tự giác giải quyết các nhiệm vụ sáng tạo m
à GV không ra bài tập và chỉ dẫn trước.
Quá trình dạy và học không phải là phép cộng máy móc hai quá trình giảng
dạy và học tập. Đây là một hiện tượng toàn vẹn, tính toàn vẹn của quá trình này
nằm ở mục đích chung của dạy và học, ở khả năng không thể tồn tại nếu chỉ có dạy
mà không có học.
Dạy học là hoạt động kép ba
o gồm dạy (do thầy đảm nhận) và học (do trò đảm
nhận) nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học. Trong đó, người GV đóng vai trò lãnh

đạo, tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức của người học và người học đóng vai
trò tự giác, tích cực, chủ động biết tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức -
học tập của
mình. GV giữ vai trò lãnh đạo, tổ chức, điều khiển hoạt động học của
HS.:
- Đề ra mục đích, yêu cầu nhận thức - học tập.
- Vạch ra kế hoạch hoạt động của mình.
- Tổ chức hoạt động dạy của mình và hoạt động học của người học.
- Kích thích tính tự giác, tính tích cực và chủ động của HS bằng cách tạo nê
n
nhu cầu, động cơ, khêu gợi tính tò mò, ham hiểu biết, hứng thú nhận thức của người
học, làm cho họ ý thức rõ ràng nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc học tập của
mình.
- Theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS, qua đó có mà có biện
pháp điều chỉnh và sửa chữa kịp thời những thiếu sót, sai lầm của họ cũng như cải
tiến công tác giảng dạy của m
ình.
Quá trình học của người học có thể diễn ra dưới sự tác động trực tiếp của
người GV như diễn ra trong tiết học trên lớp hoặc những hình thức tổ chức dạy học
khác và dưới sự gián tiếp của người GV như tự học ở nhà. HS giữ vai trò tự giác,
tích cực, chủ động tự tổ chức tự điều khiển hoạt động của bản thân. Thể hiện:
- Tiếp nhận những nhiệm vụ và kế hoạch học tập do GV đề ra.
- Thực hiện những hành động và những thao tác nhận thức học tập nhằm giải
quyết những nhiệm vụ đề ra.
- Tự điều chỉnh hoạt động nhận thức - học tập của m
ình dưới tac động kiểm tra
của của GV và sự tự kiểm tra của mình.
- Phân tích những kết quả hoạt động học tập dưới sự lãnh đạo của GV.
Trong quá trình hoạt động độc lập học tập thiếu sự lãnh đạo trực tiếp của GV
thì hoạt động của người học đư

ợc thể hiện như sau:
- Lập kế hoạch hoặc cụ thể hoá những nhiệm vụ hoạt động học tập của mình.
- Tự tổ chức hoạt động học tập bao gồm việc lựa chọn phương pháp, phương
tiện và những hình thức hoạt động học tập của mình.
- Tự kiểm tra và tự điều chỉnh trong tiến trình hoạt động học tập của m
ình.
- Tự phân tích những kết quả hoạt động học tập của mình.
Chất lượng dạy học sẽ đạt hiệu quả cao khi có sự kết hợp biện chứng giữa hoạt
động dạy của thầy và hoạt động học của trò; trong đó sự nỗ lực của GV được cộng
hưởng cùng một nhịp với sự tích cực của HS.
Dạy và học liên hệ, tác động lẫn nha
u, không thể thiếu nhau, nếu thiếu một
trong hai quá trình đó thì quá trình dạy học không diễn ra. Hoạt động của người học
phụ thuộc vào HĐDH (hoạt động sư phạm), HĐDH do nhà giáo và nhà trường tổ
chức và quyết định qui mô, chất lượng, tính chất sư phạm của nó. Đó là môi trường
hoạt động của HS, chứa đựng các công cụ, phương tiện của hoạt động mà trẻ tiến
hành. Vì là môi trường hoạt động của trẻ nên HĐDH là một trong những thành tố
trọng yếu nhất của quá trình dạy học.
Trong quá trình tác động qua lại, những mối liên hệ đa dạng giữa thầy và tr
ò
được thể hiện: mối liên hệ thông tin, mối liên hệ tổ chức hoạt động, mối liên hệ giao
tiếp và mối liên hệ quản lí và tự quản. Q
uá trình dạy và học gắn bó chặt chẽ với các
mối liên hệ này.

×