Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh từ các lực lượng giáo dục của hiệu trưởng các trường trung học cơ sở tại quận 11 - thành phố Hồ chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (990.95 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH
___________________


Trần Thò Mỹ Hạnh






Chuyên ngành : Quản lý Giáo dục
Mã số : 60 14 05


LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS-TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU













Thành phố Hồ Chí Minh - 2010



LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên : TRẦN THỊ MỸ HẠNH, học viên cao học, chuyên ngành Quản lý giáo dục,
khóa 17 (2006-2009) tại Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin cam đoan trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận văn này
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đoàn Văn Điều thì kết quả nghiên cứu đạt được
trong luận văn là do chính bản thân tôi thực hiện và chưa có ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.

Người cam đoan
TRẦN THỊ MỸ HẠNH



LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến:
 Ban giám hiệu Trường Đại học Sư Phạm TPHCM.
 Quý Thầy Cô Phòng Khoa Học Công Nghệ & Sau Đại Học Trường Đại học Sư
Phạm TPHCM.
 Ban chủ nhiệm Khoa Tâm Lý Giáo Dục Trường ĐHSP TPHCM.
 Quý Thầy Cô giảng dạy lớp Cao học Quản lý giáo dục khóa 17.
 Ban lãnh đạo Phòng giáo dục và đào tạo Quận 11 TPHCM.

 Ban giám hiệu, quý Thầy Cô, quý phụ huynh và các em học sinh tại các trường
trung học cơ sở Lê Quý Đôn, Chu Văn An, Lê Anh Xuân, Lữ Gia, Hậu Giang, Phú
Thọ thuộc Quận 11 TPHCM đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ tác giả trong suốt quá trình
thu thập thông tin, số liệu nhằm hoàn thành tốt luận văn này.
 Đặc biệt cảm ơn PGS.TS Đoàn Văn Điều đã hướng dẫn tận tình và hết lòng giúp đỡ
để tác giả hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Mặc dù đã rất cố gắng song luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả
rất mong Quý Thầy, Cô và các bạn đồng nghiệp chân tình góp ý thêm.

TRẦN THỊ MỸ HẠNH

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
- Con người ngoài là một thực thể sinh lý còn là một thực thể mang bản chất tâm lý-xã hội
bao gồm những phẩm chất, những thuộc tính tâm lý có ý nghĩa xã hội được hình thành do kết quả
tác động qua lại giữa họ với nhau, giữa họ với các sự vật, hiện tượng xung quanh trong từng hoạt
động. Con người càng hoạt động thì càng có cơ hội khám phá, hiểu biết và phát triển. Vì thế, họ cần
phải có kiến thức, kỹ năng và thái độ để có thể giúp họ tự kiểm soát được hành vi của bản thân và
kiểm soát được môi trường xung quanh một cách thành công. Nói cách khác, để sống tốt và hoạt
động hiệu quả, con người cần phải có những kỹ năng sống. Kỹ năng sống có thể được hình thành
một cách tự nhiên qua trãi nghiệm hoặc có thể thông qua giáo dục-học tập, rèn luyện.
- Việc giáo dục kỹ năng sống ở trường học sẽ giúp thúc đẩy những hành vi mang tính xã hội
tích cực cho người học; đồng thời tạo những tác động tốt đối với các mối quan hệ giữa thầy và trò,
giữa các học sinh, bạn bè với nhau; giúp tạo nên sự hứng thú học tập cho trẻ đồng thời giúp hoàn
thành nhiệm vụ của người giáo viên một cách đầy đủ hơn và đề cao các chuẩn mực đạo đức, góp
phần nâng cao vị trí của nhà trường trong xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự
mở cửa, hội nhập quốc tế về quan hệ kinh tế, giao lưu văn hóa,… của đất nước một số thanh thiếu
niên học sinh thiếu hiểu biết về thực tế cuộc sống, chưa được rèn dạy kỹ năng sống, có khi lại sớm
phải tự mình đương đầu với nhiều vấn đề tâm lý xã hội phức tạp, đã bị lôi cuốn vào lối sống thực

dụng, đua đòi, không đủ bản lĩnh nói “không” với cái xấu.
- Trong những giai đoạn phát triển của con người thì lứa tuổi thiếu niên tức lứa tuổi học sinh
bậc trung học cơ sở (từ 11, 12 tuổi đến 14, 15 thậm chí 16, 17 tuổi nếu trẻ học trễ) là lứa tuổi đang ở
thời kỳ phát triển phức tạp nhất, nhiều biến động nhất nhưng cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng
nhất cho những bước trưởng thành sau này của trẻ. Các em cần được quan tâm giáo dục, rèn luyện
nhiều hơn những kỹ năng cần thiết trong học tập, trong quan hệ giao tiếp, trong xử trí, ứng phó
trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống.
1.2. Tính khả thi của đề tài
- Căn cứ chỉ thị 40/2008/ CT – BGDĐT ngày 22/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo và kế hoạch số 1842/GDĐT – TrH ngày 29/8/2008 của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ
Chí Minh về “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai
đoạn 2008 – 2013 và kế hoạch số 606/KH – GDĐT ngày 16/9/2008 của Phòng giáo dục và đào tạo
Quận 11 thì rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh bậc trung học cơ sở là một trong 5 nội dung thiết
thực để xây dựng trường học thân thiện. Đây là cơ sở pháp lý để việc giáo dục kỹ năng sống và
công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc trung học cơ sở được quan tâm nhiều hơn
từ trước tới nay.
- Bản thân tác giả hiện đang công tác tại một trường trung học cơ sở của Quận 11, có một số
điều kiện tối thiểu để tìm hiểu thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc học này.
Từ một số lý do trên, đề tài: “Thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh từ
các lực lượng giáo dục của Hiệu trưởng các trường trung học cơ sở tại Quận 11- Thành phố Hồ
Chí Minh” được thực hiện.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng quản lý của Hiệu trưởng về giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh các trường Trung học cơ sở tại Quận 11, Tp. Hồ Chí Minh, tìm ra các giải pháp để tiến hành
các hoạt động giáo dục kỹ năng sống nhằm chuẩn bị cho các em tham gia vào việc học tập và đời
sống một cách hiệu quả.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu

Công tác giáo dục kỹ năng sống bậc trung học cơ sở ở các trường tại Quận 11, Tp. Hồ Chí

Minh .

3.2. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh từ các lực lượng giáo dục của các
Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở.
4. Giả thuyết khoa học

Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường trung học cơ sở tại Quận 11, Tp. Hồ Chí
Minh là một việc làm cần thiết trong hỗ trợ việc học tập và vận dụng vào đời sống của các em.
Muốn việc giáo dục những kỹ năng này hiệu quả hơn cần có sự tham gia của các lực lượng giáo dục
dưới sự quản lý của Hiệu trưởng trong nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS
Phân tích, tổng hợp các tài liệu, sách báo, tham khảo các văn bản chỉ đạo của ngành, các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đề tài.

5.2. Nghiên cứu thực trạng quản lý công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS
Tìm hiểu thực trạng vấn đề quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS tại
Quận 11, Tp Hồ Chí Minh.
5.3. Đề xuất một số giải pháp quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc THCS.
6. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng :
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các tài liệu, hồ sơ, sách, tạp chí, công trình nghiên cứu để hình thành cơ sở lý
luận cho đề tài.

6.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, thang đo
Thực hiện tại 6/9 trường THCS tại Quận 11 với các mẫu điều tra dự kiến dành cho các đối
tượng sau :

Cán bộ quản lý trường (Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Cán bộ Đoàn-Đội), Giáo viên, Học
sinh khối lớp 8, 9 để nắm được thực trạng giáo dục và quản lý giáo dục kỹ năng sống cho các em.
6.3. Phương pháp phỏng vấn
Phỏng vấn, trò chuyện với các Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, các Cán bộ đoàn thể, với các
giáo viên, với đại diện Hội Cha mẹ học sinh, một số học sinh đại diện các khối lớp, đại diện các Chi
đội, …
6.4. Phương pháp quan sát
Quan sát các hoạt động của nhà trường, của đoàn thể, của thầy và trò thông qua dự giờ một
số bộ môn (Văn học, Sinh vật, Giáo dục công dân, Thể dục, Mỹ thuật, …), thông qua các buổi Sinh
hoạt của Hội đồng giáo dục, các buổi Sinh hoạt dưới cờ, các buổi Sinh hoạt ngoại khóa, Sinh hoạt
Đội thiếu niên, các tiết Sinh hoạt chủ nhiệm, các tiết Hoạt động ngoài giờ lên lớp, các giờ chơi, nề
nếp đầu giờ và cuối buổi học, các buổi tham quan dã ngoại, …
6.5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Theo dõi các hoạt động học tập, sinh hoạt, vui chơi của học sinh nhằm tìm hiểu về các kỹ
năng được biểu hiện, vận dụng trong học tập, giao tiếp ứng xử của các em.
6.6. Phương pháp thống kê toán học
Lập bảng biểu, thống kê, phân tích, xử lý các số liệu của đề tài, giúp đánh giá vấn đề chính
xác, khoa học.
7. Giới hạn đề tài
Đề tài này được thực hiện tại 6/9 trường THCS công lập của Quận 11, TP. Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên, chỉ nghiên cứu trong giới hạn quản lý giáo dục một số kỹ năng sống đối với học sinh 2 khối
lớp 8 và 9 (chủ yếu là những kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp ứng xử trong các mối quan hệ thầy
trò, bạn bè,… trong xử trí, ứng phó trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống).

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 . Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20, tổ chức UNESCO đã vạch rõ ba thành tố của học vấn,
đó là : kiến thức, kỹ năng và thái độ, trong đó thái độ và kỹ năng đóng vai trò then chốt [36].

Chính

thái độ tích cực, năng động, dấn thân,... và những kỹ năng cần thiết trong học tập và làm việc, trong
quan hệ giao tiếp, trong xử trí, ứng phó trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống đã chủ yếu
giúp cho người học tự tin để vững bước tới một tương lai có định hướng. Riêng về

giáo dục kỹ năng
sống tuy chỉ mới xuất hiện từ những năm 1990 của thế kỷ trước song đã nhanh chóng lan rộng ra
khắp thế giới. Và có nơi, giáo dục kỹ năng sống không chỉ là một sinh hoạt ngoại khóa mà còn là
một môn học chính qui ở nhà trường.
Ở Việt Nam, dù giáo dục kỹ năng sống được du nhập vào ngay sau đó nhưng triết lý và
phương pháp giáo dục kỹ năng sống ít nhiều hãy còn lạ lẫm đối với xã hội ta nên chưa được sự quan
tâm đúng mức [21, tr.2]. Hơn nữa, giáo dục tại Việt Nam nhìn chung còn kém phát triển. Ngoại trừ
một số rất ít các trung tâm giáo dục phi chính quy như Trung tâm ABS Training, Trung tâm dạy
nghề GDVT Swisscontact, Công ty Tâm Việt ở Hà Nội, Công ty bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi Việt
Nam phối hợp với Báo Người lao động, Cung văn hóa Lao động Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà văn
hóa Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm hỗ trợ sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh,
Trung tâm học tập cộng đồng ở một số địa phương... hay một số trường giáo dục trẻ khuyết tật, một
số ít trường tiểu học trọng điểm ở Hà Nội,... có các chương trình giáo dục kỹ năng sống. Còn lại,
các trường phổ thông nhất là các trường từ bậc trung học cơ sở trở lên chưa quan tâm nhiều cũng
như chưa tạo ra được môi trường học tập trang bị đầy đủ kỹ năng sống cho thanh thiếu niên học
sinh. Cho nên giới trẻ Việt Nam nhìn chung còn kém so với thanh thiếu niên tại các nước phát triển.
Trong khi đó, bản lĩnh sống của thanh thiếu niên trong xã hội ngày càng chuyên môn hoá cao như
xã hội Việt Nam hiện nay không thể thiếu được và cần phải được nâng cao hơn ở hai mảng kỹ năng
đó là kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm mà có thể gọi chung là những kỹ năng cuộc sống [35].
Kể từ năm học 2008-2009, Bộ GD-ĐT nước ta đã phát động trong các trường phổ thông trên
toàn quốc phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" nhằm mang lại cho học
sinh cả nước một "môi trường giáo dục an toàn thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương
và đáp ứng nhu cầu xã hội". Hưởng ứng phong trào này, Trung tâm Giáo dục môi trường và các vấn
đề xã hội đã phối hợp với Ban dự án Phát triển giáo dục THPT nhanh chóng xây dựng kế hoạch tổ
chức hoạt động nhằm hỗ trợ triển khai đến cơ sở một số nội dung thiết thực. Một trong những hoạt
động đó là chương trình Tập huấn giáo dục kỹ năng sống và bình đẳng giới tổ chức tại Hà Nội vào 5

ngày đầu tháng 10/2008 cho các giáo viên cốt cán một số trường THPT của 11 tỉnh phía Bắc tham
gia. (Trong thời gian tới, nội dung hoạt động trên sẽ được Trung tâm triển khai tiếp tục cho các tỉnh
phía Nam). Qua đợt tập huấn này, giáo viên sẽ biết cách hình thành cho học sinh các kỹ năng tự
nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đặt mục tiêu, ... biết cách giúp các em hiểu kỹ hơn về giới và
bình đẳng giới cùng các tri thức thiết yếu để hiểu biết bản thân, tự bảo vệ mình và hòa nhập cộng
đồng. Đồng thời chính bản thân giáo viên được củng cố và phát triển nhiều kỹ năng khác như hoạt
động nhóm, xây dựng kế hoạch, xử lý tình huống, các cách giải quyết vấn đề,... mà các học sinh cần
được trang bị để tồn tại, đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống và phát triển tốt trong một xã hội đầy
biến động như hiện nay... Từ đó, tháng 11/2008 Phòng tư vấn và hỗ trợ đào tạo Trường THPT
Lương Thế Vinh ở Ba Vì, Hà Tây đã xây dựng môn học “Kỹ năng sống và học tập hiệu quả”
nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng sống, những công cụ học tập thích hợp nhằm đạt được
kết quả cao trong học tập cũng như có thái độ sống tích cực [35]. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, các
trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Trần Đại Nghĩa,... chỉ mới lồng ghép việc giáo dục kỹ năng
sống vào trong các buổi hội thảo chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ từng bộ môn. Bên cạnh đó, dần
dần cũng có một số ít cá nhân giáo viên có hứng thú nghiên cứu, vận dụng giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh trung học cơ sở một cách đơn lẻ, tự phát, sáng tạo.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng sống cũng như nghiên cứu thực trạng
quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc trung học cơ sở cả nước nói chung và
trên địa bàn Quận 11 - Tp. Hồ Chí Minh nói riêng từ trước đến nay thật sự còn lạ lẫm, chưa được
các đơn vị trường học cũng như các lực lượng giáo dục quan tâm thực hiện một cách có hệ thống.


1.2 . Cơ sở thực tiễn của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các trường trung học
cơ sở tại Quận 11
1.2.1. Khái quát về địa bàn Quận 11
Quận 11 chính thức có tên trên bản đồ Sài Gòn-Gia Định từ ngày 01/07/1969 theo sắc luật số
73 của chính quyền Sài Gòn cũ. Ban đầu gồm 4 phường được tách ra từ Quận 5 và Quận 6: Phường
Phú Thọ (Quận 5 cũ), Phường Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thọ Hòa (Quận 6 cũ). Sau đó lập thêm 2
phường là Bình Thạnh và Phú Thạnh.


(Bản đồ địa giới Quận 11- Nguồn : Ủy ban nhân dân Quận 11-Năm 2008)

Sau ngày giải phóng 30/04/1975, địa bàn Quận 11 được giữ nguyên với 6 phường và 47
khóm. Đến ngày 01/06/1976 được phân chia lại thành 21 phường. Sau nhiều lần điều chỉnh địa giới,
đến nay Quận 11 có 16 phường.
Quận 11 có tổng diện tích 513,58 ha, nằm ở Tây Nam thành phố. Giáp quận Tân Bình ở phía
Bắc và Tây Bắc; phía Đông giáp Quận 5, Quận 10; phía Nam và Tây Nam giáp ranh Quận 6. Tính
đến cuối năm 2007, quận 11 có dân số là 230.014 người, có 120.562 nữ (tỷ lệ 52,41%). Người Hoa
có 108.003 người (tỷ lệ 46,95%), mật độ dân số trung bình là 44.540 người/km
2
.

Hơn 30 năm qua, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân quận 11 đã ra sức phấn đấu phát huy
các nhân tố thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn thử thách thực hiện công cuộc đổi mới đất nước và
các mục tiêu nhiệm vụ của các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận đề ra trong từng thời kỳ. Đến nay
kinh tế - xã hội của quận có những nét chuyển biến tích cực như sau :
 Về kinh tế : - Giá trị sản lượng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 1986-2000 tăng bình
quân là 11%, giai đoạn 2001-2004 tăng bình quân 10,2%. Doanh thu thương mại - dịch vụ giai
đoạn 1986-2000 tăng bình quân 18%, giai đoạn 2001-2004 tăng bình quân 16%.
- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng thương mại dịch vụ - sản xuất CN-
TTCN. Cơ cấu thành phần kinh tế có bước chuyển đổi theo chủ trương phát triển kinh tế nhiều
thành phần của Đảng và Nhà nước. Tính đến nay, có hơn 900 doanh nghiệp dân doanh và hơn
10.000 cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn quận, đã đóng góp đáng kể vào nguồn
thu ngân sách Nhà nước, nhiều sản phẩm được người tiêu dùng bình chọn là hàng Việt Nam chất
lượng cao, hình thành các khu vực chuyên doanh cung cấp hành hóa cho các tỉnh và cả nước.
- Công viên Văn hoá Đầm Sen không ngừng đầu tư phát triển, mở rộng nhiều loại
hình dịch vụ phong phú, hiện đại đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng tăng của nhân dân, góp
phần vào sự phát triển chung của quận.
 Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội phục vụ đời sống, sinh hoạt của nhân dân : luôn được Đảng
bộ, Chính quyền quận quan tâm đầu tư. Đến nay toàn bộ các hẻm trong quận đã được xi măng

hoá; nhiều tuyến đường lớn được mở rộng, nhiều khu nhà ở, cơ sở vật chất cho giáo dục, y tế,
thể dục thể thao được xây dựng... Đặc biệt trong năm 2003 - 2004 cùng với việc triển khai thực
hiện các dự án lớn, các công trình trọng điểm, quận đã hoàn thành công tác giải toả di dời và tái
định cư hơn 1.600 hộ dân khu vực Trường đua Phú Thọ, đã góp phần làm thay đổi diện mạo đô
thị của quận ngày càng khang trang, sạch đẹp hơn, thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống
nhân dân.
 Hoạt động văn hoá xã hội : luôn được đẩy mạnh nhằm phát huy truyền thống yêu nước, cách
mạng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Cơ sở vật chất phục vụ các hoạt động văn hoá - thể thao
được đầu tư mới và nâng cấp trở thành nơi vui chơi, giải trí, sinh hoạt văn hoá lành mạnh trong
nhân dân.
- Song song với việc phát triển các loại hình văn hoá văn nghệ, các phong trào rèn
luyện thân thể theo chủ trương xã hội hoá, nhiều phong trào thi đua xây dựng các thiết chế văn
hoá như : gương người tốt việc tốt, gia đình văn hoá, cuộc vận động toàn dân xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở, ... đã bắt rễ sâu rộng, được đông đảo các ngành, các giới và quần chúng nhân
dân đồng tình hưởng ứng.
- Bên cạnh việc thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo,
thúc đẩy xã hội hoá các hoạt động văn hoá - giáo dục - y tế - thể dục thể thao, nâng cao đời sống
nhân dân, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân quận luôn ra sức chăm lo sự nghiệp phát triển giáo
dục. Hàng năm tỷ lệ trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% trở lên; trẻ 5 tuổi vào mẫu giáo đạt 98% trở lên.
Quận đã hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập tiểu học và trung học cơ sở.
 Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội : tiếp tục được giữ vững và ổn định. Hiện nay
trên địa bàn quận cơ bản không còn tệ nạn ma túy.
 Sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền quận 11 : Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển, cơ
cấu tổ chức chính quyền Quận 11 có nhiều thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện, chuyên
môn hóa. Hiện nay, bộ máy chính quyền Quận 11 chia thành các phòng ban hành chính và cấp
phường. Mỗi phòng ban đảm nhận một chức năng riêng, luôn đảm bảo hoạt động tốt để phục vụ
nhân dân.





SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN QUẬN 11















1.2.2. Khái quát về Phòng giáo dục và đào tạo Quận 11
 Phòng giáo dục và đào tạo quận 11 : là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND Quận, chịu sự
lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của UBND Quận, đồng thời chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn về
chuyên môn nghiệp vụ của Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố; có chức năng giúp UBND Quận
quản lý nhà nước đúng chủ trương chính sách đối với toàn bộ hoạt động có liên quan đến lĩnh
vực giáo dục và đào tạo theo thẩm quyền được UBND thành phố phân cấp. Phòng giáo dục và
đào tạo có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch dài hạn và hàng năm về Giáo dục và Đào tạo tại địa
phương, tổ chức chỉ đạo việc thực hiện các chỉ tiêu, kế hoạch do Sở Giáo dục - Đào tạo giao sau
khi Sở đã thống nhất với UBND Quận giúp UBND Quận tổ chức thực hiện các Nghị quyết, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trên các mặt công tác có liên quan đến lĩnh vực giáo
dục, đào tạo; thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các trường lớp, cơ sở giáo dục dạy
nghề tập thể, tư nhân đóng trên địa bàn quận theo sự phân cấp của UBND Thành phố.


 Khối các trường trung học cơ sở thuộc Phòng giáo dục và đào tạo quận 11:
Trường THCS

Trường THCS

Trường THCS

Nguyễn Văn Phú
– Phường 3
Lê Quý Đôn
– Phường 5

Nguyễn Huệ
– Phường 5
Nguyễn Minh Hoàng
– Phường 7
Chu Văn An
– Phường 8

Lê Anh Xuân
– Phường 10

Phú Thọ
– Phường 12
Lữ Gia
– Phường 15
Hậu Giang
– Phường 16
(Nguồn : Ủy ban nhân dân Quận 11- Năm 2008)
Tính đến cuối năm học 2008 -2009, quận 11 có 09 trường trung học cơ sở trong đó có 03 trường

công lập chuyên, đạt chuẩn quốc gia (Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Phú), 04 trường
công lập (Lữ Gia, Hậu Giang, Lê Anh Xuân, Nguyễn Minh Hoàng), 02 trường gốc bán công
nhiều năm liền mới chuyển sang công lập (Phú Thọ và Nguyễn Huệ).
 Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của CBQL các trường trung học cơ sở thuộc Quận 11 :
Bảng 1.1 : Cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý bậc THCS Q11 về trình độ tay nghề
Trường THCS
CBQL Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Tổng Nữ
Sau ĐH ĐH CĐ NVQL
TS Nữ TS Nữ TS Nữ TS Nữ
Lê Quý Đôn 4 3 4 3 3 2
Hậu Giang 4 2 1 3 2 3 1
Nguyễn Huệ 2 1 2 1 2 1
Lữ Gia 3 1 3 1 3 1
Lê Anh Xuân 3 1 3 1 3 1
Chu Văn An 3 1 3 1 3 1
Nguyễn Minh Hoàng 2 2 2
Phú Thọ 3 2 3 2 2 2
Nguyễn Văn Phú 3 2 1 1 3 2 2 1
Tổng 27 13 2 1 25 12 23 10
Tỉ lệ % 7,4 92,6 85,2
(Nguồn : Trường Bồi dưỡng giáo viên Quận 11-Năm 2008)

Nhìn chung đội ngũ CBQL các trường THCS ở Quận 11 có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và
trên chuẩn (100%). Tỉ lệ CBQL đã qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý giáo dục chiếm 85,2% số còn
lại đều là các Phó Hiệu trưởng các trường sẽ và đang theo các khóa đào tạo về nghiệp vụ quản lý
giáo dục bằng hình thức học tại chức.
 Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên các trường trung học cơ sở thuộc quận 11 :

Bảng 1.2 : Cơ cấu đội ngũ giáo viên THCS Q11 về trình độ chuyên môn


Trường THCS
GV Trình độ chuyên môn
Tổng Nữ
Sau ĐH ĐH CĐ
dưới chuẩn
TS Nữ TS Nữ TS Nữ TS Nữ
Lê Quý Đôn 70 57 54 47 16 10
Hậu Giang 91 67 63 49 24 17 4 1
Nguyễn Huệ 36 28 21 17 14 10 1 1
Lữ Gia 74 43 49 29 24 14 1
Lê Anh Xuân 41 31 24 18 17 13
Chu Văn An 80 51 50 31 30 20
Ng Minh Hoàng 37 27 1 1 27 19 9 7
Phú Thọ 61 48 30 23 31 25
Ng Văn Phú 69 52 54 42 15 10
Tổng 559 404 1 1 372 275 180 126 6 2
Tỉ lệ % 72,3 0,2 66,5 32,2 1,1

(Nguồn : Trường Bồi dưỡng giáo viên Quận 11-Năm 2008)
Từ bảng số liệu khảo sát tình hình đội ngũ giáo viên các trường THCS thuộc Quận 11 trên ta
thấy về tổng thể, so với nhiều địa phương trong cả nước và so với một số quận huyện trong
Tp.HCM thì lực lượng giáo viên bậc THCS của Quận 11 có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và trên
chuẩn cao (chiếm 98,9% ), chỉ còn 1,1% giáo viên chưa đạt chuẩn do sắp đến tuổi nghỉ hưu nên
ngại khó không tham gia học nâng chuẩn, do phần lớn thời gian học bồi dưỡng nâng cao là ngoài
giờ và số giáo viên này lại ngại mình lớn tuổi tiếp thu bài vở có hạn chế.
 Thâm niên công tác của đội ngũ cán bộ-giáo viên các trường trung học cơ sở thuộc quận 11 :
Bảng 1.3 : Cơ cấu đội ngũ cán bộ giáo viên THCS Q11 về thâm niên nghề
Trường THCS
CB-GV Thâm niên công tác

Tổng Nữ
Dưới 5
năm
Từ 6 – 15
năm
Từ 16 –
25 năm
Trên
25 năm
TS Nữ TS Nữ TS Nữ TS Nữ
Lê Quý Đôn 74 60 36 29 25 22 7 5 6 4
Hậu Giang 95 69 23 15 27 24 25 16 20 14
Nguyễn Huệ 38 29 10 8 7 6 14 10 7 5
Lữ Gia 77 44 24 14 18 11 19 10 16 9
Lê Anh Xuân 44 32 9 7 12 8 14 12 9 5
Chu Văn An 83 52 14 8 28 18 23 14 18 12
Ng Minh Hoàng 39 27 11 9 18 13 6 3 4 2
Phú Thọ 64 50 23 18 16 14 13 10 12 8
Ng Văn Phú 72 54 18 14 22 17 21 16 11 7
Tổng 586 417 168 122 173 133 142 96 103 66
Tỉ lệ % 71,2 28,7 29,5 24,2 17,6
(Nguồn : Phòng giáo dục và đào tạo Quận 11- Quý 1 Năm 2009)
Bảng số liệu này cho thấy hơn một nửa đội ngũ CBGV Quận 11 (chiếm 58.2%) có thâm niên
dưới 15 năm nghĩa là có tuổi nghề trẻ nên có thể thể hiện tốt sự năng động sáng tạo phù hợp với xu
thế phát triển và hội nhập thế giới, dễ dàng nắm bắt và thực hiện chủ trương đổi mới của giáo dục
theo nhu cầu chung hiện nay.
Bên cạnh đó, còn gần một nửa lực lượng có thâm niên từ 16 năm trở lên thể hiện được sự dày
dạn kinh nghiệm chuyên môn. Lực lượng này có tuổi nghề cao, tay nghề vững có thể rèn dạy các
phẩm chất đạo đức, hình thành nhân cách tốt cho học sinh, giúp các em trở nên người hữu dụng cho
xã hội.

Tuy nhiên, thông qua quan sát thực tiễn số CBGV cao tuổi nghề này thường dựa vào kinh
nghiệm, thiếu sự năng động trong việc tiếp nhận, chọn lọc những tri thức mới, năng lực tự học, tự
bồi dưỡng chưa cao, chưa nhạy bén, linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động theo hướng tích cực
hóa. Nhìn chung số CBGV này còn khá lúng túng, thụ động đối với việc tổ chức các hình thức rèn
dạy kỹ năng sống cho học sinh theo yêu cầu đổi mới giáo dục.
1.3 . Cơ sở lý luận
1.3.1
. Một số khái niệm
1.3.1.1. Quản lý
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý, cụ thể như sau :
- Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có ghi : “Quản lý là phụ trách
việc chăm nom và sắp đặt công việc trong một tổ chức” [16, tr.555].
- Còn theo Nguyễn Ngọc Quang (1989), nhà sư phạm, người góp phần đổi mới lý luận dạy
học, đã nêu về khái niệm quản lý trong tập bài giảng “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục”
như sau : “Quản lý là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những
người lao động gọi chung là khách thể quản lý, nhằm thực hiện các hoạt động để đạt được mục tiêu
dự kiến” [22, tr.130].
- Trần Kiểm (1997), trong giáo trình “Quản lý giáo dục và trường học” dùng cho học viên cao
học chuyên ngành Giáo dục học đã viết : “Quản lý là nhằm phối hợp nỗ lực của nhiều người, sao
cho mục tiêu của từng cá nhân biến thành những thành tựu của xã hội” [15, tr. 15].
- Và cũng chính Nguyễn Ngọc Quang (1989), trong tác phẩm của mình đã nêu: “Quản lý là
những tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý trong tổ
chức để vận hành tổ chức, nhằm đạt mục đích nhất định” [22, tr. 131].
- Còn Nguyễn Bá Sơn (2000), trong tác phẩm “Một số vấn đề cơ bản về khoa học quản lý” đã
viết : “Quản lý là tác động có mục đích đến tập thể những con người để tổ chức và phối hợp hoạt
động của họ trong quá trình lao động” [23, tr.15]. Như vậy, có thể nói : Quản lý là những tác động
của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các
nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu
nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất.
Tóm lại, quản lý là một khoa học vì nó nghiên cứu, phân tích về công việc quản lý, các quan

hệ quản lý trong các tổ chức. Nó tổng quát hóa các kinh nghiệm tốt thành các nguyên tắc và lý
thuyết áp dụng cho mọi hình thức quản lý tương tự. Nó cung cấp khái niệm cơ bản làm nền tảng cho
việc nghiên cứu các môn học về quản lý.
Để quản lý có hiệu quả, nhà quản lý phải linh hoạt vận dụng các lý thuyết vào những tình
huống cụ thể. Nó đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế cao để đạt tới mục tiêu. Nghệ thuật này chủ yếu
phải được học ngay trong thực tiễn.
1.3.1.2. Giáo dục
- Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có nêu : “Giáo dục là quá trình
hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người học những
phẩm chất đạo đức và tri thức cần thiết để họ có khả năng tham gia mọi mặt đời sống của xã hội”
[16, tr.269].
- Trong Giáo dục học : Giáo dục là quá trình toàn vẹn tác động đến thế hệ trẻ về đạo đức, tư
tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ và những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội [14,
tr.52].
- Theo tinh thần nghị quyết TW2 Khóa 8 của Đảng ta về giáo dục đào tạo thì nhà trường phải
đào tạo ra những con người có đủ tri thức và kỹ xảo, năng lực và phẩm chất với tinh thần trách
nhiệm đầy đủ của người công dân tham gia vào cuộc sống lao động xã hội, tham gia vào cuộc Cách
mạng trí tuệ, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển; nhà trường phải đào tạo những con người học được
cách chung sống, hợp tác với nhau, cùng nhau giải quyết những vấn đề chung của dân tộc, của quốc
gia, của toàn cầu, của thời đại [6, 11].
Do đó giáo dục ngày nay không phải chỉ là tích tụ tri thức mà còn thức tỉnh tiềm năng sáng
tạo to lớn trong mỗi con người.

1.3.1.3. Quản lý giáo dục
- Theo tác giả Hồ văn Liên, trong tập bài giảng về “Tổ chức và quản lý giáo dục trường học”
thì : “Quản lý giáo dục là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý giáo dục đến
khách thể quản lý trong một tổ chức, làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của tổ
chức” [17, tr.9].
- Cụ thể hơn : “Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ
thể quản lý (người quản lý hay tổ chức quản lý) lên đối tượng giáo dục và khách thể quản lý giáo

dục về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế, ... bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách,
các nguyên tắc, các phương pháp, các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự
phát triển của đối tượng” [8, tr.7].
Như vậy, quản lý giáo dục là một loại hình quản lý được hiểu là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết
quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất. Trong tác động của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý
có sự tác động của người đến người. Đó là sự tác động qua lại tạo thành một loại quan hệ xã hội đặc
biệt là quan hệ quản lý.
Tóm lại, quản lý giáo dục là một loại lao động điều khiển lao động. Quản lý giáo dục trong
xã hội ta hiện nay là hướng tới việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài [7,
tr.21].
Ở cấp độ nhân cách, quản lý giáo dục là quản lý sự hình thành và phát triển nhân cách.
Bản chất của quản lý giáo dục được biểu hiện ở các chức năng quản lý. Các công trình
nghiên cứu về khoa học quản lý trong những năm gần đây đã đưa đến một kết luận tương đối thống
nhất về 5 chức năng cơ bản của quản lý, đó là:
* Kế hoạch hóa tức là lập kế hoạch, phổ biến kế hoạch hoạt động.
* Tổ chức gồm tổ chức triển khai hoạt động, tổ chức nhân sự, phân công trách nhiệm trong
thực hiện kế hoạch hoạt động.
* Kích thích nghĩa là khuyến khích, tạo động cơ hoạt động.
* Kiểm tra gồm theo dõi thực hiện, kiểm soát, kiểm kê, hạch toán, phân tích quá trình thực
hiện.
* Và Điều phối nghĩa là phối hợp, điều chỉnh công tác.
Tổ hợp tất cả các chức năng quản lý nêu trên tạo nên nội dung của quá trình quản lý, nội
dung làm việc của chủ thể quản lý, phương pháp quản lý và là cơ sở để phân công lao động quản lý.
Vậy : “Quản lý giáo dục là quá trình đạt đến mục tiêu giáo dục của hệ thống giáo dục bằng cách vận
dụng các chức năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra,…” [17, tr.9].
1.3.1.4. Quản lý trường học : Trường học (hay nhà trường) là tổ chức cơ sở của hệ thống
giáo dục quốc dân Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện công tác đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ.
Khái niệm quản lý trường học đã được các nhà lý luận quản lý giáo dục giải thích như sau :
- Theo nhà giáo Phạm Minh Hạc : “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của

Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục
để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”
[10, tr.13].
- Phạm Viết Vượng đã nêu : “Quản lý nhà trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm
tập hợp và tổ chức các hoạt động của giáo viên, học sinh và các lực lượng giáo dục khác, huy động
tối đa các nguồn lực giáo dục để nâng cao giáo dục và đào tạo trong nhà trường” [34, tr.26].
- Hoặc “Quản lý trường học chính là những công việc của nhà trường mà người cán bộ quản
lý trường học thực hiện những chức năng quản lý để thực hiện các nhiệm vụ công tác của mình. Đó
chính là những hoạt động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý tác động tới các
hoạt động của nhà trường nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ mà tiêu điểm là quá trình dạy và
học” [19, tr.8].
Từ đó có thể nói : “Quản lý trường học được hiểu là một hệ thống những tác động sư phạm
hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội
trong và ngoài trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của
nhà trường, hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu đã đề ra” [19, tr. 10].
1.3.1.5. Kỹ năng
Trong Từ điển Từ và ngữ Hán Việt của tác giả Nguyễn Lân (1989) có ghi : “Kỹ năng là khả
năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn” [16, tr.390].
Còn trong Tâm lý học, kỹ năng được hiểu là khả năng thực hiện những thao tác được hình
thành và củng cố qua quá trình thực hành và trãi nghiệm của bản thân. Kỹ năng chính là công cụ để
gia tăng giá trị cho kiến thức của bản thân.
1.3.1.6. Kỹ năng sống
- Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục kỹ năng sống của Vụ giáo dục thể chất mà chủ biên
là Nguyễn Võ Kỳ Anh thì : “Kỹ năng sống là khả năng có được những hành vi thích nghi và tích
cực, cho phép chúng ta xử trí một cách có hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường
ngày” [1, tr.3].
- Định nghĩa vừa nêu trên cũng trùng lặp với định nghĩa về kỹ năng sống của Tổ chức Y tế
thế giới WHO : “Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và những hành vi tích cực để cá nhân có thể
đáp ứng hiệu quả những yêu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày” [37].
Như vậy, kỹ năng sống khuyến khích thái độ tích cực, phòng ngừa và giảm thiểu các hành vi

nguy cơ. Nó giúp con người phát huy sức mạnh nội lực để có thể làm chủ được cuộc sống của mình
và sống khỏe mạnh, hạnh phúc, có mục đích, có ý nghĩa.
- Còn theo UNICEF : “Kỹ năng sống là tập hợp nhiều kỹ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá
nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát
triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu
quả. Từ kỹ năng sống có thể được thể hiện thành những hành động cá nhân và những hành động đó
sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như dẫn đến những hành động nhằm thay
đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên lành mạnh” [33].

1.3.1.7. Giáo dục kỹ năng sống
- Giáo dục kỹ năng sống là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm
giúp học sinh có những kiến thức về cuộc sống, có những thao tác, hành vi ứng xử đúng mực trong
các mối quan hệ xã hội như quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân
với mọi người chung quanh và của cá nhân với chính mình, giúp cho nhân cách mỗi học sinh được
phát triển đúng đắn đồng thời thích ứng tốt nhất với môi trường sống.
Việc giáo dục những kỹ năng cuộc sống chính là sự bổ sung về kiến thức và năng lực cần
thiết cho các cá nhân thanh thiếu niên học sinh để họ có thể hoạt động độc lập và giúp họ chủ động
tránh được những khó khăn trong thực tế đời sống.
- Đối với học sinh, nhất là học sinh bậc trung học cơ sở, giáo dục kỹ năng sống là môn học
trang bị những tri thức giúp học sinh hình thành những kỹ năng sống cần thiết, phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của con người với môi trường sống. Thông qua hoạt động Giáo dục kỹ năng
sống sẽ trang bị thêm cho học sinh những kỹ năng tự chủ, kỹ năng nói không, khả năng tự đưa ra
quyết định và thích nghi, biết chấp nhận, hóa giải được những tác động tiêu cực trong cuộc sống
chung quanh [1, tr.6].
- Giáo dục kỹ năng sống là hoạt động giúp cho người học có khả năng về mặt tâm lý xã hội
để phán đoán và ra quyết định tích cực, nghĩa là để “nói không với cái xấu” [21, 4]. Nhưng giáo dục
kỹ năng sống cho trẻ không phải là đưa ra những lời giải đơn giản cho những câu hỏi thông thường
mà giáo dục kỹ năng sống phải nhằm hướng đến thay đổi hành vi.
Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh chỉ đạt được kết quả tốt khi nó có sự tác động
đồng thời của các lực lượng giáo dục : Nhà trường, gia đình và các lực lượng xã hội.


1.3.2
. Lý thuyết về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học cơ sở
1
.
3.2.1. Đặc điểm tâm-sinh lý lứa tuổi của học sinh THCS
Lứa tuổi học sinh trung học cơ sở từ lớp 6 đến lớp 9 (còn gọi là lứa tuổi thiếu niên) là giai
đoạn phát triển của trẻ từ 11 đến 15, 16 tuổi. Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng
trong thời kỳ phát triển của trẻ em vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và
được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ”, “tuổi khó bảo”, “tuổi khủng
hoảng”, “tuổi bất trị”.
Đây là lứa tuổi có bước phát triển nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần
khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn (người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ
bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển: thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức… của thời kỳ này
[4, tr.20].
Ở lứa tuổi này có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính người lớn”, điều này phụ
thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự phát dục, điều kiện sống và hoạt động… của các em.
Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát triển các khía cạnh khác
nhau của tính người lớn - điều này do hoàn cảnh sống, hoạt động khác nhau của các em tạo nên.
Hoàn cảnh đó có cả hai mặt:
- Mặt thứ nhất: Những điểm yếu của hoàn cảnh kiềm hãm sự phát triển tính người lớn: đó là
trẻ chỉ bận tâm vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc cha mẹ có xu thế không
để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác nhau của gia đình, của xã hội.
- Mặt thứ hai: Những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn: đó là sự gia
tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp khó khăn trong đời sống, đòi
hỏi trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn.
Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra theo các hướng sau:
- Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biết nhiều, nhưng còn nhiều mặt
khác nhau trong đời sống thì các em hiểu biết rất ít.
- Có những em ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường, mà chỉ quan tâm đến những vấn đề

làm thế nào cho phù hợp với “mốt”, coi trọng việc giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn
bạc, trao đổi với họ về các vấn đề trong cuộc sống để tỏ ra mình cũng như người lớn.
- Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng thực tế đang cố gắng
rèn luyện mình có những đức tính của người lớn như : dũng cảm, tự chủ, độc lập, e ấp, dịu dàng, …
không còn quan hệ với bạn khác phái như trẻ con.
Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ: trong thời kỳ này những cơ sở, phương hướng chung
của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức của nhân cách được hình thành, chúng sẽ được tiếp
tục phát triển trong tuổi thanh niên.
Hiểu rõ vị trí, ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên sẽ giúp ta có cách đối xử
đúng đắn và giáo dục để các em có một nhân cách toàn diện.
1
.
3.2.2. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Giáo dục kỹ năng sống ở bậc trung học cơ sở nhằm thực hiện mục tiêu sau:
Chuyển dịch kiến thức (cái chúng ta biết), thái độ và giá trị (cái chúng ta nghĩ, cảm thấy hoặc
tin tưởng) thành thao tác, hành động và thực hiện thuần thục các thao tác, hành động đó như khả
năng thực tế (cái cần làm và cách thức cần làm nó) theo xu hướng tích cực và mang tính chất xây
dựng [1, tr.4].
1
.
3.2.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS [1, tr.6]
Với ý nghĩa kỹ năng sống là những kỹ năng mang tính cá nhân và xã hội cần thiết đối với
thanh thiếu niên giúp họ có khả năng học tập tốt hơn, ứng xử một cách tự tin đồng thời là một
phương sách để hoàn thiện bản thân mình trước mọi người và cộng đồng thì kỹ năng sống cần thiết
cho học sinh THCS, theo WHO, gồm các nhóm kỹ năng chính sau đây, cần được giảng dạy và tổ
chức cho các em thực hành :
* Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình :
- Kỹ năng tự nhận thức : là kỹ năng mà mỗi con người, trước hết, cần phải tự nhận biết và
hiểu rõ bản thân, hiểu rõ những tiềm năng, tình cảm, những xúc cảm cũng như vị trí của mình trong
cuộc sống và xã hội, cả những mặt mạnh và mặt yếu của họ nữa. Khi các cá nhân càng nhận thức

được khả năng của mình, họ càng có khả năng sử dụng các kỹ năng sống khác một cách có hiệu quả
và càng có khả năng lựa chọn những gì phù hợp với các điều kiện sẵn có với bản thân, với xã hội
mà họ sống và với khả năng của bản thân họ nữa. Họ cũng cần có sự hiểu biết rõ ràng về bản sắc
dân tộc và nền văn hóa mà từ đó họ đã được sinh ra và cũng chính nền văn hóa đó đã tạo nên con
người họ.
- Lòng tự trọng : Sự tự nhận thức đưa đến sự tự trọng. Khi mỗi người tự nhận thức được năng
lực tiềm tàng của bản thân và vị trí của mình trong cộng đồng thì lòng tự trọng được mô tả như là
”sự nhận thức những điều tốt đẹp của bản thân”. Nó còn đề cập đến việc mỗi người cảm nhận như
thế nào những khía cạnh mang tính cá nhân như diện mạo, khả năng và hành vi, … và họ sẽ phát
triển như thế nào trên cơ sở những kinh nghiệm bản thân để trở nên thành thạo và thành công khi
làm những điều mà họ dự định.
Tuy nhiên, lòng tự trọng bị ảnh hưởng một cách mạnh mẽ bởi mối quan hệ của một cá nhân
với những người khác. Những người lớn tuổi có ảnh hưởng đến trẻ như bố mẹ, các thành viên trong
gia đình, thầy cô giáo và cả bạn bè đồng lứa có thể hoặc trợ giúp nhằm phát triển hoặc làm mất sự tự
trọng của một cá nhân qua những quan hệ, tiếp xúc của họ đối với cá nhân đó.
- Sự kiên quyết : Sự kiên quyết hay tính kiên định có nghĩa là nhận biết được những gì bản
thân mình muốn và tại sao lại muốn đồng thời là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được
những gì bản thân mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể bao gồm một loạt các tình huống khác
nhau như : từ chối sự tán tỉnh, cám dỗ; thuyết phục người khác đồng thuận theo mình; nêu gương,
kêu gọi, hướng dẫn mọi người làm những việc có lợi cho cộng đồng,… Tuy nhiên, cách thể hiện
tính kiên định có liên quan đến văn hóa và việc lắng nghe, đánh giá những điều người khác cảm
nhận và mong muốn bởi vì kiên định là biết được nhu cầu và quyền của mình, cũng như điều mình
mong muốn và thực hiện những điều đó có xét tới nhu cầu, quyền và mong muốn của người khác.
- Đương đầu với cảm xúc : Xúc cảm là sự phản ánh rõ nét bản chất của mỗi người. Những
cảm xúc như sợ hãi, yêu thích, e thẹn, phẫn nộ, mong muốn được thừa nhận,… hoàn toàn mang tính
chủ quan và thường có là do đáp ứng một cách tức thời đối với tình huống. Vì thế mà chúng không
thể đoán trước được và có thể dễ dàng đưa con người ta đến những hành vi mà sau này họ sẽ phải
hối tiếc.
Do vậy, việc xác định và sau đó là đối phó với những cảm xúc là khả năng cho thấy rằng con
người ta có thể nhận thấy và phải tính đến những xúc cảm của mình cùng nguyên nhân cụ thể của

chúng để có những quyết định chế ngự, không để cho những cảm xúc của bản thân chi phối.
- Đương đầu với căng thẳng (kỹ năng ứng phó với stress) : Căng thẳng là một phần hiển
nhiên của cuộc sống. Những vấn đề trắc trở của bản thân, của bạn bè thân thiết, của các thành viên
trong gia đình; những mối quan hệ bị đổ vỡ, … là những minh họa các tình huống gây căng thẳng
trong cuộc sống con người. Trong những mức độ hữu hạn, khi một cá nhân có khả năng đương đầu
với sự căng thẳng thì căng thẳng lại có thể là một nhân tố tích cực bởi vì chính những sức ép của sự
căng thẳng đó buộc cá nhân phải tập trung vào công việc của mình và hưởng ứng một cách thích
hợp. Tuy nhiên, sự căng thẳng còn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu sự căng thẳng
đó quá lớn và không giải tỏa nổi. Do đó, cũng như kỹ năng đối phó với cảm xúc, thanh thiếu niên
học sinh cần phải có khả năng nhận biết sự căng thẳng, nguyên nhân và hậu quả cũng như biết cách
khắc phục nó.
** Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác :
- Mối quan hệ giữa các cá nhân : Các mối quan hệ là bản chất của cuộc sống. Chúng có hình
thái và quy mô khác nhau. Khi đứa trẻ lớn lên, trẻ phải phát triển các mối quan hệ với những người
lớn có vai trò quan trọng trong cuộc sống của trẻ như bố mẹ, họ hàng, láng giềng, thầy cô giáo,...
với những con người mà trẻ gặp gỡ trong cuộc sống như bạn bè của bố mẹ, những người bán hàng,
những nhà lãnh đạo địa phương,... với bạn bè đồng lứa trong và ngoài trường lớp. Tuy nhiên, không
phải ai cũng có thể là bạn bè tốt, thân thiết, ngang hàng được. Trẻ cần phải biết cách đối xử một
cách phù hợp trong từng mối quan hệ để chúng có thể phát triển tối đa tiềm năng sẵn có trong môi
trường của chúng.
- Kỹ năng thiết lập tình bạn : Một cá nhân cần có nhiều bạn để cùng chia sẻ các hoạt động,
niềm hy vọng, sự sợ hãi, chia sẻ cuộc sống và cả tham vọng. Việc thiết lập tình bạn bắt đầu từ giai
đoạn sớm nhất của cuộc đời. Vì vậy, trẻ cần phải nhận biết rằng tình bạn được hình thành như thế
nào và phải thiết lập, phát triển tình bạn ra sao để cả hai bên cùng đạt được những lợi ích chân
chính.
Trẻ cần phải có khả năng nhận biết, để khi cần thiết, mạnh dạn khước từ kiểu tình bạn có thể
đưa trẻ đến những hành vi nguy hiểm hoặc phạm tội như hành vi sử dụng ma túy, trộm cắp,...
- Sự cảm thông (kỹ năng thấu cảm) : là khả năng tự đặt mình vào vị trí của người khác khi họ
phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng do hoàn cảnh hoặc do những hành động của chính
bản thân họ gây ra để hiểu được tình cảnh của họ và tìm ra cách giảm bớt gánh nặng bằng sự chia sẻ

chân tình với người đó thay vì lên án, thương hại hoặc coi khinh họ với bất kỳ lý do nào. Cảm thông
cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự quyết định và đứng vững trên đôi chân của
họ một cách nhanh chóng nhất.
- Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè : Đối với thanh thiếu niên, sức ép để bản thân được
giống như các thành viên khác trong nhóm bạn là rất lớn. Vì vậy, đứng vững trước sự lôi kéo của
bạn bè cùng lứa là một kỹ năng rất quan trọng. Nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những
việc làm trái ngược của bạn bè cùng lứa khi họ gây ảnh hưởng và thói quen xấu thì bản thân cần
phải dũng cảm khước từ, phản đối, dừng ngay những đề xuất không thể chấp nhận được đó, kiên
quyết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân cho dù có thể bị chế nhạo, đe dọa hoặc ghẻ lạnh
từ nhóm bạn đó.
- Kỹ năng thương lượng : là một kỹ năng quan trọng trong mối quan hệ giữa các cá nhân với
nhau. Kỹ năng này có liên quan đến tính kiên định, sự cảm thông và mối quan hệ giữa cá nhân với
cá nhân cũng như khả năng thỏa hiệp những vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân. Kỹ năng
thương lượng còn liên quan đến khả năng đương đầu với những áp lực, sự đe dọa của hoàn cảnh,
những rủi ro tiềm tàng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau kể cả sức ép của bạn bè.
Cần phải nhận định rõ vị trí của cá nhân và thiết lập kỹ sự hiểu biết lẫn nhau trong các mối quan hệ
để có kỹ năng thương lượng tốt.
- Kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực : là kỹ năng có liên quan đến mối quan hệ
giữa các cá nhân với nhau, đến kỹ năng thương lượng và các kỹ năng đương đầu với xúc cảm, với
căng thẳng, lo âu. Xung đột là điều không thể tránh khỏi và đôi khi lại là điều cần thiết song kỹ
năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực sẽ giúp cho những xung đột trở nên có tính xây dựng.
- Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả : Giao tiếp là bản chất của các mối quan hệ của con người.
Do vậy, một trong những kỹ năng sống quan trọng nhất là khả năng giao tiếp một cách có hiệu quả
với mọi người. Khả năng này bao gồm cả kỹ năng lắng nghe và hiểu được người khác thực hiện
việc giao tiếp của họ như thế nào cũng như nhận biết được nhiều cách giao tiếp của họ khác nhau ra
sao.
*** Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả :
- Tư duy phê phán : Như đã nêu, giới trẻ lớn lên trong thế giới ngày nay phải đối đầu với
nhiều vấn đề, sự mong đợi, những đòi hỏi đa dạng, phức tạp và trái ngược của bố mẹ, thầy cô, bạn
bè,... phải tiếp nhận, đáp ứng nhiều thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng, của các

nhà lãnh đạo, của quảng cáo, cuả âm nhạc, tôn giáo,... Vì thế, trẻ cần phải có khả năng phân tích,
gạn lọc, phê phán để có được quyết định phù hợp.
- Tư duy sáng tạo : Trong cuộc sống, con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh
bất ngờ và bất thường. Do vậy, họ cần phải có tư duy sáng tạo nghĩa là có khả năng tiếp cận với sự
việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới để có thể có một hoặc nhiều
phương cách đáp ứng lại những hoàn cảnh đó một cách phù hợp.
- Kỹ năng ra quyết định : Mỗi ngày, mỗi người đều phải đứng trước những lựa chọn để ra
những quyết định. Có những quyết định tương đối đơn giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm
trọng đến định hướng cuộc sống nhưng cũng có những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối
quan hệ, đến tương lai cuộc đời. Do đó, khi không thể đáp ứng liền một lúc những nhu cầu đối lập
người ta cần có khả năng lựa chọn để ra một quyết định có hiệu quả đồng thời phải ý thức được các
tình huống có thể xảy ra, phải lường được những hậu quả trước khi ra quyết định từ sự lựa chọn của
mình.
- Kỹ năng giải quyết vấn đề : là khả năng xem xét tình hình một cách cẩn thận, phân tích
những vấn đề gì đang tồn tại và xác định các bước nhằm cải thiện tình hình. Đây là kỹ năng có liên
quan đến kỹ năng ra quyết định và nhiều kỹ năng khác. Chỉ khi trãi qua thực hành việc ra quyết định
và giải quyết vấn đề thì trẻ mới có thể xây dựng được những kỹ năng cần thiết để có thể có những
lựa chọn tốt nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà chúng phải đương đầu.
Tóm lại, trong cuộc sống, các kỹ năng sống thường không hoàn toàn tách rời nhau và để đạt
được hiệu quả mong muốn thì việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ không nên giảng dạy riêng biệt
mà phải được thực hiện như là một phần không thể tách rời của các chương trình giáo dục đa dạng
gồm giáo dục sức khỏe thể chất, giáo dục trách nhiệm công dân,...
1.3.2.3. Một số hình thức và phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Để tạo thuận lợi cho việc học tập kỹ năng sống của học sinh bậc trung học cơ sở, có thể kể
đến các phương pháp giáo dục cụ thể sau : [1, tr.14]
* Phương pháp động não : Động não là một kỹ thuật sáng tạo để làm nảy sinh ra các ý
tưởng và giả định về một vấn đề. Để nắm bắt được các ý tưởng của đối tượng về một chủ đề, ta có
thể đặt câu hỏi, nêu vấn đề, thăm dò đối tượng bằng phương pháp động não. Với phương pháp này,
ta yêu cầu đối tượng nói ra cái mà họ nghĩ về chủ đề được đặt ra để xem mức độ hiểu vấn đề và
cách mô tả vấn đề bằng thuật ngữ riêng của họ. Phương pháp này cho phép tạo cơ hội để ý tưởng

của mỗi người đều có giá trị và chấp nhận không cần phê phán đồng thời cũng là một cách rất hiệu
quả để nghe các ý tưởng từ các đối tượng trong một giai đoạn thời gian hạn chế.
* Phương pháp đóng vai : là phương pháp thể hiện hành động trong một trò giả định đối
tượng học sinh của ta là nhân vật của một kịch bản định sẵn đứng trước một tình huống đặt ra. Đây
là phương pháp quan trọng trong giảng dạy kỹ năng sống vì những học sinh tham gia có thể được
thử trãi qua việc sử dụng các kỹ năng đã học trong các tình huống khác nhau. Bên cạnh đó, người
học còn có thể tham quan, thực hành các cách xử trí trong một môi trường an toàn và được giám sát
trước khi chạm trán với các tình huống thực.
* Phương pháp học tập trên cơ sở tham gia : Học tập tham gia là trọng tâm của việc giảng
dạy kỹ năng sống, phương pháp này chủ yếu dựa vào việc học và làm việc theo nhóm để các thành
viên có thể học tập, chia sẻ kinh nghiệm và thực hành các kỹ năng cùng nhau. Tính ưu việt của
phương pháp học tập tham gia thể hiện ở chỗ làm tăng sự nhận thức của mỗi thành viên về bản thân
họ và về những người khác, tạo điều kiện cho các thành viên trong nhóm hiểu nhau tốt hơn, động
viên sự hợp tác, phát triển kỹ năng nghe và kỹ năng giao tiếp,...
* Phương pháp giải quyết vấn đề : là phương pháp sử dụng kỹ năng giải quyết vấn đề làm
kỹ năng cơ bản giúp học sinh hình thành các kỹ năng xác định (phát hiện) vấn đề; xem xét, phân
tích vấn đề; tiến hành thử nghiệm về những giải pháp khác nhau, lựa chọn giải pháp tốt nhất, xây
dựng kế hoạch tạo ra những thay đổi để cải thiện, kết thúc vấn đề.
* Phương pháp xây dựng đề án : là phương pháp hướng dẫn học sinh học tập thông qua
việc xây dựng kế hoạch hoạt động và tổ chức thực hiện hoạt động đó nhằm khắc sâu ý nghĩa thực
tiễn của tri thức khoa học. Phương pháp này giúp rèn các kỹ năng xác định vấn đề; xem xét, phân
tích vấn đề; giải quyết vấn đề, kỹ năng hoạt động nhóm,...
* Và một số hình thức, phương pháp giáo dục khác như kể chuyện, thảo luận nhóm, thực
nghiệm, chơi các trò chơi giáo dục minh họa,… thông thường là các phương pháp giáo dục mang
tính trãi nghiệm.
1.3.2.4. Các lực lượng tham gia giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Chủ yếu gồm đội ngũ thầy cô giáo (giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm), cán bộ đoàn thể
trường học, tổ chức đoàn thể địa phương,… và đặc biệt là gồm cả cha mẹ học sinh tại chính trong
gia đình các em. Cụ thể :
* Giáo viên bộ môn : là những người đã qua trường lớp sư phạm đào tạo để giảng dạy cho

học sinh các tri thức khoa học tự nhiên, xã hội được phân thành các bộ môn như Toán học, Vật lý,
Hóa học, Sinh học, Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc, Mỹ thuật,... Giáo viên bộ môn có những
nhiệm vụ sau đây : [2, tr.14]
a) Dạy học và giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục; soạn bài; dạy thực hành thí
nghiệm, kiểm tra, đánh giá theo quy định; vào sổ điểm, ghi học bạ đầy đủ, lên lớp đúng giờ,
quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ chức, tham gia các hoạt động
của tổ chuyên môn;
b) Tham gia công tác phổ cập giáo dục ở địa phương;
c) Rèn luyện đạo đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao chất
lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục;
d) Thực hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu trưởng, chịu sự kiểm tra của
Hiệu trưởng và các cấp quản lý giáo dục;
đ) Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo, gương mẫu trước học sinh, thương yêu, tôn
trọng học sinh, đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của học
sinh, đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp;

×