Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ co2 của rừng vầu đắng (indosasa angustata mc. clure) thuần loài tại huyện na rì, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 78 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM




NGUYỄN VĂN KHÁNH



NGHIÊN CỨU SINH KHỐI VÀ KHẢ NĂNG
HẤP THỤ CO
2
CỦA RỪNG VẦU ĐẮNG
(INDOSASA ANGUSTATA MC. CLURE)
THUẦN LOÀI TẠI HUYỆN NA RÌ,
TỈNH BẮC KẠ
N

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60 62 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÂM HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Thu Hà




Thái Nguyên - 2014



i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu của riêng tôi, những số liệu
và kết quả trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa hề được sử dụng
để bảo vệ một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Tác giả


Nguyễn Văn Khánh

















ii

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện theo chương trình đào tạo Cao học Lâm nghiệp
của Trường Đại học Nông Lâm - Đại học Thái Nguyên (khóa 20, 2012 - 2014).
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được
sự quan tâm giúp đỡ của Khoa Sau đại học, Khoa Lâm nghiệp và các thầy cô
giáo của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thu Hà, người hướng
dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện
luận văn. Tác giả xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu nhà trường, Khoa Sau
đại học, Khoa Lâm nghiệp cùng các thầy cô giáo trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong quá trình học tập,
nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này.
Xin cám ơn cán bộ UBND các xã Quang Phong; Vũ Loan; Kim Lư;
UBND huyện Na Rì; Hạt Kiểm Lâm huyện Na Rì; một số hộ dân trên địa bàn
nghiên cứu đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong việc thu thập số liệu ngoại
nghiệp để thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, Ngày … Tháng…. năm 2014
Tác giả


Nguyễn Văn Khánh






iii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết 1
2.1. Mục tiêu chung 3
2.2. Mục tiêu cụ thể 3
3. Ý nghĩa của đề tài 3
Chương 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
1.1. Những nghiên cứu trên thế giới 4
1.1.1.Nghiên cứu về sinh khối 4
1.1.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của rừng 5
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước 7
1.2.1. Nghiên cứu về sinh khối 7
1.2.2.Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của rừng 9
1.3. Tổng quan cây vầu đắng: 11
1.4. Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu 14
1.4.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên 14
1.4.2. Các nguồn tài nguyên 15
1.4.3. Điều kiện kinh tế xã hội 17
Chương 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
2.1. Đối tượng nghiên cứu 20
2.2. Phạm vi nghiên cứu 20
2.3. Nội dung nghiên cứu 20

2.4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 21
2.4.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài 21
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 22
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Một số quy luật kết cấu lâm phần rừng vầu đắng thuần loài tại huyện
Na Rì, tỉnh Bắc Kạn 30

iv

3.1.1. Quy luật phân bố N/D 30
3.1.2. Quy luật phân bố N/H 31
3.1.3. Quy luật tương quan H-D 33
3.2. Đặc điểm sinh khối rừng vầu đắng thuần loài tại huyện Na Rì tỉnh
Bắc Kạn 33
3.2.1. Đặc điêm sinh khối tươi lâm phần vầu đắng thuần loài 33
3.2.2. Đặc điểm sinh khối khô lâm phần vầu đắng thuần loài 39
3.3. Lượng carbon tích lũy và lượng CO
2
hấp thụ của rừng vầu đắng
thuần loài tại huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn 44
3.3.1. Tỷ lệ % carbon tích lũy cây vầu đắng tiêu chuẩn Ci(%) 44
3.3.2. Lượng carbon tích lũy của lâm phần vầu đắng thuần loài 44
3.3.3. Lượng CO
2
hấp thụ của lâm phần vầu đắng thuần loài 50
3.4. Phân tích mối quan hệ giữa sinh khối, lượng CO
2
hấp thụ của rừng
vầu đắng thuần loài với các nhân tố điều tra 56
3.4.1. Mối quan hệ sinh khối tươi, sinh khối khô , lượng CO

2
hấp thụ
của cây cá lẻ với nhân tố điều tra D
1.3
. 56
3.4.2. Mối quan hệ sinh khối tươi, sinh khối khô , lượng CO
2
hấp thụ
của cây cá lẻ với nhân tố điều tra Hvn 57
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ 59
Kết luận 59
Quy luật kết cấu lâm phần rừng vầu đắng thuần loài 59
2. Tồn tại 60
3. Kiến nghị 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ của từ

CDM : Clean Development Mechanism
(Cơ chế phát triển sạch)
Cs : công sự
D
1.3
: Đường kính ngang ngực bình quân
D
1.3

: Đường kính ngang ngực
H
dc
: Chiều cao dưới cành
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
H
vn
: Chiều cao vứt ngọn bình quân
HĐND : Hội đồng nhân dân
IPCC : Intergovernmental Panel on Climate - Ủy ban
Quốc Tế về Biến đổi khí hậu
KH : Kế hoạch
N : Mật độ
ODB : Ô dạng bản
OTC : Ô tiêu chuẩn
PCCCR : Phòng cháy chữa cháy
SKK : Sinh khối khô
SKT : Sinh khối tươi
THCS : Trung học cơ sở
UBND : Ủy ban nhân dân

vi

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 3.1. Bảng tổng hợp phân bố N/D 30
Bảng 3.2. Bảng tổng hợp phân bố N/H 32
Bảng 3.3. Đặc điểm sinh khối tươi cây vầu đắng theo 3 cấp mật độ 33

Bảng 3.4. Đặc điểm sinh khối tươi cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng 35
Bảng 3.5. Tổng hợp đặc điểm sinh khối tươi lâm phần vầu đắng thuần loài 38
Bảng 3.6. Đặc điểm sinh khối khô cây vầu đắng theo 3 cấp mật độ 39
Bảng 3.7. Đặc điểm sinh khối khô cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng 40
Bảng 3.8. Đặc điểm sinh khối khô lâm phần vầu đắng thuần loài 43
Bảng 3.9. Tỷ lệ % carbon tích lũy Ci% cây vầu đắng tiêu chuẩn 44
Bảng 3.10. Lượng carbon tích lũy của rừng vầu đắng theo 3 cấp mật độ 45
Bảng 3.11. Lượng carbon tích lũy trong cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng 47
Bảng 3.12. Lượng carbon tích lũy của lâm phần vầu đắng thuần loài 49
Bảng 3.13. Lượng CO
2
hấp thụ

của cây vầu đắng thuần loài theo 3 cấp mật độ 50
Bảng 3.14. Lượng CO
2
hấp thụ trong cây bụi, thảm tươi và vật rơi rụng 52
Bảng 3.15. Lượng CO
2
hấp thụ của lâm phần vầu đắng thuần loài 54

vii

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1. Biểu đồ phân bố bình quân số cây vầu đắng theo cấp đường kính. 31
Hình 3.2. Biểu đồ phân bố bình quân số cây vầu đắng theo cấp chiều cao 32
Hình 3.3. Biểu đồ lượng sinh khối tươi cây vầu đắng theo 3 cấp mật độ 34
Hình 3.4. Biểu đồ lượng sinh khối tươi của cây bụi, thảm tươi 36
Hình 3.5. Biểu đồ lượng sinh khối tươi của vật rơi rụng 37

Hình 3.6. Biểu đồ sinh khối tươi lâm phần vầu đắng thuần loài 38
Hình 3.7. Biểu đồ lượng sinh khối khô cây vầu đắng 3 cấp mật độ 40
Hình 3.8. Biểu đồ lượng sinh khối khô của cây bụi, thảm tươi 41
Hình 3.9. Biểu đồ lượng sinh khối khô của vật rơi rụng 42
Hình 3.10. Biểu đồ sinh khối khô lâm phần vầu đắng thuần loài 44
Hình 3.11. Biểu đồ lượng carbon tích lũy của cây vầu đắng 3 cấp mật độ 46
Hình 3.12. Biểu đồ trữ lượng carbon tích lũy trong cây bụi, thảm tươi 47
Hình 3.13. Biểu đồ trữ lượng carbon tích lũy trong vật rơi rụng 48
Hình 3.14. Trữ lượng carbon tích lũy của lâm phần vầu đắng thuần loài 49
Hình 3.15. Lượng CO
2
hấp thụ

của cây vầu đắng thuần loài ba cấp mật độ 51
Hình 3.16. Lượng CO
2
hấp thụ trong cây bụi thảm tươi 53
Hình 3.17. Lượng CO
2
hấp thụ trong vật rơi rụng 54
Hình 3.18. Lượng CO
2
hấp thụ của lâm phần vầu đắng thuần loài 55



1

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết
Biến đổi khí hậu hiện nay đã không còn chỉ là mối quan tâm của một
quốc gia, một tổ chức nào đó mà là của toàn thế giới. Nguyên nhân chủ yếu
gây ra biến đổi khí hậu và sự nóng lên của bầu không khí là do nồng độ khí
nhà kính (chủ yếu là CO
2
) đang có xu hướng gia tăng rất nhanh. Ở giai đoạn
hiện nay, nồng độ khí CO
2
tăng khoảng 10% trong chu kỳ 20 năm. Theo dự
báo của các chuyên gia, nếu không có biện pháp hữu hiệu để giảm bớt khí thải
nhà kính, thì nhiệt độ mặt đất sẽ tăng lên 1,8
0
– 6,4
0
vào năm 2100, lượng
mưa sẽ tăng lên 5 – 10%, băng ở 2 cực và các vùng núi cao sẽ tan nhiều hơn,
mức nước biển sẽ dâng lên khoảng 70 – 100 cm và sẽ gây ra những hậu quả
hậu quả sẽ rất nặng nề cho con người (IPCC, 2005)[28].
Nhằm ngăn chặn những thảm họa do biến đổi khí hậu toàn cầu gây ra,
vấn đề “Giảm phát thải thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy thoái rừng
ở các quốc gia đang phát triển” (Reduced Emission from Deforestation and
Forest Degradation in Developping countries - REDD) đã được Papua New
Guinea và Costa Rica đưa vào chương trình nghị sự UNFCCC trong Hội nghị
các bên lần thứ 11 năm 2005. Đây là một công cụ vừa giúp giữ rừng vừa tạo
sinh kế cho người dân nghèo tại chỗ để khuyến khích họ bảo vệ rừng. Cũng
được xem là hướng đi quan trọng đối với những nước đang phát triển, trong
đó có Việt Nam trong việc tiến tới xóa đói, giảm nghèo phát triển kinh tế từ
những giá trị thu được từ dịch vụ môi trường rừng.
Lượng hấp thu CO

2
của cây rừng sẽ góp phần làm giảm sự gia tăng phát
thải của các nước đang phát triển như Việt Nam do phát triển kinh tế, công
nghiệp và nông nghiệp – đồng thời là nguồn tiềm năng để tham gia cơ chế
phát triển sạch và nhận được tín dụng từ các quốc gia phát triển (Phan Minh
Sáng và Lưu Cảnh Trung, 2006)[16]. Do vậy, việc định lượng khả năng hấp
thụ CO
2
cũng như vai trò của rừng và các hệ sinh thái trong việc làm giảm sự
nóng lên toàn cầu, hạn chế biến đổi khí hậu đang được nhiều nhà khoa học
quan tâm.

2

Trên thực tế, lượng CO
2
hấp thụ phụ thuộc vào kiểu rừng, trạng thái
rừng, tuổi của lâm phần. Vấn đề đặt ra là phải xác định và dự báo được khả
năng hấp CO
2
của các loại rừng, các trạng thái rừng để từ đó đề xuất các
phương thức quản lý rừng làm cơ sở khuyến khích, xây dựng cơ chế chi trả
dịch vụ môi trường. Do đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu, đánh giá về khả
năng hấp thụ của từng kiểu thảm phủ cụ thể để làm cơ sở lượng hoá những
giá trị kinh tế mà rừng mang lại nhằm đưa ra chính sách chi trả cho các chủ
rừng và các cộng đồng rừng.
Vầu đắng là một loài lâm sản ngoài gỗ rất có giá trị hiện nay và được
phân bố rất phổ biến ở vùng Đông Bắc bộ. Giá trị kinh tế của vầu đắng không
chỉ thể hiện ở măng vầu đắng thơm ngon được người tiêu dùng ưa chuộng,
thân cây khí sinh của vầu đắng được dùng nhiều trong xây dựng, làm đồ thủ

công mỹ nghệ, vầu đắng còn góp phần quan trọng trong việc cảo tạo đất,
điều hòa tiểu khí hậu, chống xói mòn, rửa trôi, hạn chế lũ lụt, Tuy nhiên,
thực tế hiện nay cho thấy, giá trị của rừng vầu đắng mới chỉ được thừa nhận ở
những giá trị kinh tế của nó mang lại, những giá trị về bảo vệ môi trường, hấp
thụ CO
2
của rừng vầu đắng vẫn chưa được thừa nhận mặc dù về mặt nhận
thức chúng ta đều biết rừng nói chung trong đó có rừng vầu đắng nói riêng
đều góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu biến đổi khí hậu, có khả năng
hấp thụ và lưu giữ khí gây ra biến đổi khí hậu chủ yếu là CO
2
nhưng lại
không có đầy đủ cơ sở khoa học cũng như thực tiễn để lượng hóa chúng.
Na Rì là huyện ở phía đông của tỉnh Bắc Kạn có 80% diện tích là đồi
núi. Với tổng diện tích rừng tự nhiên là 56.805,83 ha chủ yếu là rừng thứ sinh
phân bố ở hầu hết các xã, thị trấn của huyện Na Rì. Trong đó rừng vầu đắng
có 756,03 ha chủ yếu tập trung tại các xã Vũ Loan, Quang Phong, Kim Lư.
Hiện nay rừng vầu đắng của huyện Na Rì cũng chỉ được thừa nhận về giá trị
kinh tế, phòng hộ về giá trị môi trường chưa có nghiên cứu đánh giá về khả
năng hấp thụ CO
2
để làm cơ sở cho việc chi trả dịch vụ môi trường rừng cũng
như xác định giá trị đích thực của rừng vầu đắng đem lại để có các giải pháp
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vầu đắng trong thời gian tới.

3

Xuất phát từ những yêu cầu đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu sinh khối và khả năng hấp thụ CO
2

của rừng vầu đắng (Indosasa
angustata Mc. Clure) thuần loài tại huyện Na Rì- tỉnh Bắc Kạn”
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Cung cấp cơ sở khoa học cũng như thực tiễn trong việc xác định được
sinh khối, lượng CO
2
hấp thụ của trạng thái rừng vầu đắng thuần loài tại Na
Rì - Bắc Kạn nhằm góp phần làm cơ sở cho việc thực hiện chính sách chi trả
dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân tích được một số quy luật kết cấu lâm phần của rừng vầu đắng
thuần loài tại huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn.
- Xác định được đặc điểm sinh khối và lượng CO
2
hấp thụ của rừng vầu
đắng thuần loài tại huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn.
- Phân tích được mối quan hệ giữa sinh khối, lượng CO
2
hấp thụ của
rừng vầu đắng thuần loài với các nhân tố điều tra.
3. Ý nghĩa của đề tài
Xây dựng cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu xác định sinh khối và
lượng CO2 hấp thụ của rừng vầu đắng thuần loài tại khu vực nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tư liêu tham khảo cho các cấp,
các nghành trong việc chi trả dịch vụ môi trường rừng, cho chủ rừng trong
thực tiễn sản xuất rừng vầu đắng tại địa phương nói riêng và cho tất cả các địa
phương có rừng vầu đắng nói chung.

4


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.Nghiên cứu về sinh khối
"Sinh khối là tổng trọng lượng của sinh vật sống trong sinh quyển hoặc
số lượng sinh vật sống trên một đơn vị diện tích, thể tích vùng”. Sinh khối là
một chỉ tiêu quan trọng thể hiện năng suất của rừng, sinh khối được dùng để
nghiên cứu một số chỉ tiêu khác như dinh dưỡng hoặc các chỉ tiêu về môi
trường rừng. Khi cơ chế phát triển sạch (CDM) xuất hiện, nghiên cứu sinh
khối giữ vai trò quan trọng hơn, được dùng để xác định lượng carbon hấp thụ
bởi thực vật rừng, góp phần định lượng giá trị môi trường do rừng mang lại.
Các nhà sinh thái rừng đã dành sự quan tâm đặc biệt đến nghiên cứu sự
khác nhau về sinh khối rừng ở các vùng sinh thái, trên cơ sở đó nhằm xác
định, lượng hóa được khả năng hấp thụ CO
2
tại các trạng thái rừng đó. Tuy
nhiên, việc xác định đầy đủ sinh khối rừng không dễ dàng, đặc biệt là sinh
khối của hệ rễ, trong đất rừng, nên việc làm sáng tỏ vấn đề trên đòi hỏi nhiều
nỗ lực hơn nữa mới đưa ra được những dẫn liệu mang tính thực tiễn và có sức
thuyết phục cao. Hệ thống lại có 3 cách tiếp cận để xác định sinh khối rừng
như sau:
- Tiếp cận thứ nhất dựa vào mối liên hệ giữa sinh khối rừng với kích
thước của cây hoặc của từng bộ phận cây theo dạng hàm toán học nào đó.
Hướng tiếp cận này được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và châu Âu (Whittaker,
1966 [34]; Smith và Brand, 1983 [32]).
- Tiếp cận thứ hai để xác định sinh khối rừng là đo trực tiếp quá trình
sinh lý điều khiển cân bằng Carbon trong hệ sinh thái. Cách này bao gồm việc
đo cường độ quang hợp và hô hấp cho từng thành phần trong hệ sinh thái

rừng (lá, cành, thân, rễ), sau đó suy ra lượng CO
2
tích luỹ trong toàn bộ hệ
sinh thái (Woodwell và Botkin, 1970) [35]).

5

- Tiếp cận thứ ba được phát triển trong những năm gần đây với sự hỗ trợ
của kỹ thuật vi khí tượng học (micrometeological techniques). Phương pháp
phân tích hiệp phương sai dòng xoáy đã cho phép định lượng sự thay đổi của
lượng CO
2
theo mặt phẳng đứng của tán rừng. Căn cứ vào tốc độ gió, hướng
gió, nhiệt độ, số liệu CO
2
theo mặt phẳng đứng sẽ được sử dụng để dự đoán
lượng Carbon đi vào và đi ra khỏi hệ sinh thái rừng theo định kỳ từng giờ, từng
ngày, từng năm. Kỹ thuật này đã áp dụng thành công ở rừng thứ sinh Harward -
Massachusetts. Tổng lượng Carbon tích luỹ dự đoán theo phương pháp phân
tích hiệp phương sai dòng xoáy là 3,7 megagram/ha/năm. Tổng lượng Carbon
hô hấp của toàn bộ hệ sinh thái vào ban đêm là 7,4 megagram/ha/năm, nói lên
rằng tổng lượng Carbon đi vào hệ sinh thái là 11,1 megagram/ha/năm (Wofsy
và cs, 1993) [36].
Lieth (1964) đã thể hiện năng suất trên toàn thế giới bằng bản đồ năng
suất [37], đồng thời với sự ra đời của chương trình sinh học quốc tế “IBP”
(1964) và chương trình sinh quyển con người “MAB” (1971) đã tác động
mạnh mẽ tới việc nghiên cứu sinh khối. Những nghiên cứu trong giai đoạn
này tập trung vào các đối tượng đồng cỏ, savan, rừng rụng lá, rừng mưa
thường xanh.
Canell (1982) đã cho ra đời cuốn sách “Sinh khối và năng suất sơ cấp

của rừng thế giới", cho đến nay nó vẫn là tác phẩm quy mô nhất. Tác phẩm đã
tổng hợp 600 công trình nghiên cứu được tóm tắt xuất bản về sinh khối khô,
thân, cành, lá và một số thành phần sản phẩm sơ cấp của hơn 1.200 lâm phần
thuộc 46 nước trên thế giới [26].
Theo Rodel (2002), mặc dù rừng chỉ che phủ 21% diện tích bề mặt trái
đất, nhưng sinh khối thực vật của nó chiếm đến 75% so với tổng sinh khối
thực vật trên cạn và lượng tăng trưởng sinh khối hàng năm chiếm 37% [31].
1.1.2. Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của rừng
Trong vài thập kỷ trở lại đây vấn đề nóng lên của khí hậu toàn cầu đang
được quan tâm của toàn thế giới. Nó đang từng bước tác động tiêu cực đến

6

sinh vật và môi trường trên trái đất. Quá trình nóng lên của trái đất đã làm cho
tất cả các thành phần của môi trường bị biến đổi tiêu cực, nước biển dâng cao,
hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra. Sự biến đổi môi trường sống đang tác
động rất xấu đến đời sống con người và tất cả các sinh vật khác trên trái đất.
Hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu là không thể tránh khỏi. Hầu hết
các nhà khoa học môi trường cho rằng sự gia tăng đáng kể nồng độ các khí
nhà kính mà chủ yếu là khí CO
2
trong khí quyển là nguyên nhân gây ra hiện
tượng nóng lên toàn cầu.
Rừng trao đổi carbon với môi trường không khí thông qua quá trình
quang hợp và hô hấp. Rừng ảnh hưởng đến lượng khí nhà kính theo 4 con
đường: carbon dự trữ trong sinh khối và đất, carbon trong các sản phẩm gỗ,
chất đốt sử dụng thay thế nguyên liệu hóa thạch (IPCC, 2000) [28]. Theo ước
tính, hoạt động trồng rừng và tái trồng rừng trên thế giới có tỷ lệ hấp thu CO

2

ở sinh khối trên mặt đất và dưới mặt đất là 0,4 - 1,2 tấn/ha/năm ở vùng cực
bắc, 1,5 - 4,5 tấn/ha/năm ở vùng ôn đới và 4-8 tấn/ha/năm ở các vùng nhiệt
đới (Dixon et al., 1994; IPCC, 2000)[27], [28]. Brown et al. (1996) đã ước
lượng, tổng lượng cácbon mà hoạt động trồng rừng trên thế giới có thể hấp
thu tối đa trong vòng 55 năm (1995 - 2050) là vào khoảng 60 - 87 Gt ( Giga
tấn) C, với 70% ở rừng nhiệt đới, 25% ở rừng ôn đới [23]. và 5% ở rừng cực
bắc (Cairns et al., 1997) [ 25]. Tính tổng lại, rừng, trồng rừng có thể hấp thu
được 11 - 15% tổng lượng CO
2
phát thải từ nguyên liệu hóa thạch trong thời
gian tương đương (Brown, 1997) [24].
Một nghiên cứu của Joyotee Smith và Sara J.Scherr (2002) đã định
lượng được lượng carbon lưu giữ trong các kiểu rừng nhiệt đới và trong các
loại hình sử dụng đất ở Brazil, Indonesia và Cameroon, bao gồm trong sinh
khối thực vật và dưới mặt đất từ 0 - 20 cm. Kết quả nghiên cứu cho thấy
lượng carbon lưu trữ trong thực vật giảm dần từ kiểu rừng nguyên sinh đến
rừng phục hồi sau nương rẫy và giảm mạnh đối với các loại đất nông nghiệp.

7

Trong khi đó phần dưới mặt đất lượng carbon ít biến động hơn, nhưng cũng
có xu hướng giảm dần từ rừng tự nhiên đến đất không có rừng (Joyotee Smith
và cs, 2002) [29]
Lasco (1999) rừng tự nhiên thứ sinh ở Philippine có 86-201tấn C/ha trong
phần sinh khối trên mặt đất, ở rừng già là 370-520 tấn sinh khối /ha (tương
đương 185-260 tấn C/ha, lượng carbon ước tính 50% sinh khối) [31].
Abu Bakar (2000) Rừng Malaysia lượng carbon biến động từ 100-160
tấn/ha nếu tính cả sinh khối trong đất là 90 - 780 tấn/ha [22].


Theo MC Kenzie (2001) Carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung
ở 4 bộ phận chính: Thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây
và đất rừng. Việc xác định lượng carbon trong rừng thường được thực hiện
thông qua xác định sinh khối rừng [30].
Vấn đề giá trị thương mại cacbon cũng đã có một số nghiên cứu. Theo
ngân hàng thế giới (1998) [33], các nhà khoa học đã ước lượng giá trị dịch vụ
do hệ sinh thái rừng trên toàn thế giới đạt khoảng 33.000 tỷ USD/năm trong
đó giá trị mang lại từ giá trị thương mại CO
2
là rất lớn.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1. Nghiên cứu về sinh khối
Ở Việt Nam, mặc dù là người đi sau trong lĩnh vực nghiên cứu về sinh khối
và khả năng tích lũy carbon nhưng chúng ta đã có những thành công nhất định.
Với quan điểm kế thừa có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu của các nhà khoa
học đi trước chúng ta đã vận dụng linh hoạt những phương pháp nghiên cứu đó
vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Một số nghiên cứu điển hình gồm:
Sử dụng phương pháp “cây mẫu” của Newboul D.J (1967), Hà Văn Tuế
(1994) đã nghiên cứu năng suất, sinh khối một số quần xã rừng trồng nguyên
liệu giấy tại vùng trung du Vĩnh Phúc [20]. Lê Hồng Phúc (1996), khi Đánh
giá sinh trưởng, tăng trưởng, sinh khối và năng suất rừng Thông ba lá (Pinus
keysia Royle ex Gordon) vùng Đà Lạt - Lâm Đồng đã tìm ra quy luật tăng

8

trưởng sinh khối, cấu trúc thành phần tăng trưởng sinh khối thân cây, tỷ lệ
sinh khối tươi/khô của các bộ phận thân, cành, lá, rễ, lượng rơi rụng, tổng
sinh khối cá thể và quần thể rừng Thông ba lá [12].
Vũ Văn Thông (1998) đã nghiên cứu cơ sở xác định sinh khối cây cá thể

và lâm phần Keo lá tràm (Acacia auriculiformis Cunn) tại tỉnh Thái Nguyên
thông qua viêc lập các bảng tra sinh khối tạm thời phục vụ cho công tác điều
tra kinh doanh rừng [17].
Theo Hoàng Xuân Tý (2004) [21], nếu tăng trưởng rừng đạt 15 m
3
/ha/
năm, tổng sinh khối tươi và chất hữu cơ của rừng sẽ đạt được xấp xỉ 10
tấn/ha/năm tương đương 15 tấn CO
2
/ha/năm.
Kết quả nghiên cứu Nguyễn Tuấn Dũng (2005), khi tiến hành nghiên
cứu sinh khối lâm phần Thông mã vĩ và lâm phần Keo lá tràm trồng thuần
loài tại Hà Tây đã cho thấy: Thông mã vĩ ở tuổi 20 có tổng sinh khối khô là
173,4 - 266,2 tấn và rừng Keo lá tràm trồng thuần loài 15 tuổi có tổng sinh
khối khô là 132,2 – 223,4 tấn/ha [4].
Công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Lung, Nguyễn Tường
Vân (2004) [11] đã sử dụng biểu quá trình sinh trưởng và biểu sinh khối
(Biomass) để tính toán sinh khối cho một số loại rừng.
Nguyễn Duy Kiên (2007) [10], khi nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
rừng
trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) tại Tuyên Quang đã cho thấy sinh khối
tươi trong các bộ phận lâm phần Keo tai tượng có tỷ lệ khá ổn định, sinh khối tươi
tầng cây cao chiếm tỷ trọng lớn nhất từ 75-79%; sinh khối cây bụi thảm tươi
chiếm tỷ trọng 17- 20 %; sinh khối vật rơi rụng chiếm tỷ trọng 4-5%.
Kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu ”Nghiên cứu sinh khối và khả năng
cố định carbon của rừng Mỡ (Manglietia conifera Dandy) trồng tại Tuyên
Quang và Phú Thọ” cho thấy, cấu trúc sinh khối cây cá thể Mỡ gồm 4 phần
thân, cành, lá và rễ, trong đó sinh khối tươi lần lượt là 60%, 8%, 7% và 24%;
tổng sinh khối tươi của một ha rừng trồng mỡ dao động trong khoảng từ 53,4


9

- 309 tấn/ha, trong đó: 86% là sinh khối tầng cây gỗ, 6% là sinh khối cây bụi
thảm tươi và 8% là sinh khối của vật rơi rụng (Lý Thu Quỳnh, 2007) [15].
Võ Đại Hải và các cộng sự (2009) [8] khi nghiên cứu về sinh khối 4 loại
rừng trồng cho kết quả: Rừng trồng Thông mã vĩ từ 5 - 30 tuổi sinh khối từ
21,12 - 315,05 tấn/ha; rừng trồng Thông nhựa từ 5 - 45 tuổi có sinh khối từ
20,79 - 174,72 tấn/ha; rừng trồng Keo lai từ 1 - 7 tuổi có sinh khối từ 4,09 -
138,13 tấn/ha; rừng trồng Bạch đàn urophylla từ 1-7 tuổi có sinh khối từ 5,67
- 117,92 tấn/ha; rừng trồng Mỡ từ 6-18 tuổi có sinh khối từ 35,08 - 110,44
tấn/ha; rừng trồng Keo lá tràm từ 2 - 12 tuổi có sinh khối từ 7,29 - 113,56
tấn/ha. Bên cạnh đó tác giả thiết lâp các phương trình tương quan giữa sinh
khối với các nhân tố điều tra lâm phần: đường kính D
1.3
, H
vn
, N/ha, tuổi lâm
phần, mối quan hệ giữa sinh khối tươi và sinh khối khô, sinh khối trên mặt đất
và dưới mặt đất theo các cấp đất.
1.2.2.Nghiên cứu khả năng hấp thụ CO
2
của rừng
Vấn đề nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ CO
2
của rừng ở Việt
Nam được nghiên cứu khá muộn so với thế giới; Tuy nhiên, đây là lĩnh vực
đã được sự quan tâm lớn của xã hội và bước đầu đạt được những kết quả
khích lệ trong công tác xã hội hóa nghề rừng, làm cơ sở cho việc lượng hóa
khả năng tích lũy Carbon, xác định giá trị môi trường từ rừng đem lại.

Mặc dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong quá trình nghiên cứu
nhưng tới thời điểm hiện tại, ở Việt Nam đã có khá nhiều công trình nghiên
cứu điển hình về sinh khối và khả năng hấp thụ CO
2
đối với rừng trồng và
rừng tự nhiên:
Nghiên cứu khả năng tích lũy carbon của một số loại rừng trồng keo (keo
tai tượng, keo lá tràm,…). Rừng keo lai 3 - 12 tuổi (mật độ 800 - 1350 cây/ha)
có lượng hấp thụ tương ứng là 60 – 407,37 tấn/ha. Rừng keo lá tràm có khả
năng hấp thụ 66,2 – 292,39 tấn/ha tương ứng với các tuổi từ 5 - 2 tuổi (mật độ
1033 - 1517 cây/ha). Đối với rừng Thông nhựa tuổi 5 - 21 tuổi có khả năng

10

hấp thụ 18,18 – 467,69 tấn/ha. Rừng trồng bạch đàn Urophylla 3 - 12 tuổi với
mật độ trung bình từ 1200 - 1800 cây/ha. Các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở
đối tượng rừng trồng thuần loài và tập trung vào một số loài cây nhất định
(Ngô Đình Quế và cs, 2006) [14].
Vũ Tấn Phương (2006) đã nghiên cứu trữ lượng carbon theo các trạng
thái rừng cho biết: Rừng giàu có tổng trữ lượng CO
2
là 694,9 – 733,9 tấn
CO
2
/ha; rừng trung bình là 539,6-577,8 tấn CO
2
/ha; rừng nghèo 387,0-478,9 tấn
CO
2
/ha; rừng phục hồi 164,9 - 330,5 tấn CO

2
/ha; rừng tre nứa là 116,5 - 277,1 tấn
CO
2
/ha [13].
Phạm Tuấn Anh (2007) khi nghiên cứu năng lực hấp thụ CO
2
của rừng
tự nhiên lá rộng thường xanh tại Tuy Đức - Đăk Nông đã tiếp cận theo từng
loài cây trong rừng tự nhiên như Chò xót, Trâm, Kết quả cho thấy tỷ lệ
carbon tích lũy trong thân cây so với khối lượng tươi dao động từ 14,1% -
31,8%. Nghiên cứu cũng đã xây dựng mối quan hệ giữa lượng CO
2
hấp thụ
với các nhân tố điều tra cây cá thể làm cơ sở dự báo lượng CO
2
tích lũy theo
các chỉ tiêu lâm phần. Tác giả cũng đã lượng giá hấp thụ CO
2
theo lâm phần:
trạng thái rừng IIAB 303.811 đồng/năm; rừng IIIA
1
là 607.622 đồng/năm;
trạng thái IIIA
2
là 911.434 đồng/năm [1].
Bảo Huy (2009) đã sử dụng phương pháp chặt hạ để đo đếm sinh khối và
thiết lập mô hình toán cho ước tính sinh khối và trữ lượng carbon của rừng lá
rộng thường xanh theo các trạngthái: non, nghèo, trung bình và giàu ở Tây
Nguyên. Đây là nghiên cứu về rừng tự nhiên đầu tiên tại Việt Nam. Tuy nhiên

nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xác lập các mô hình tính toán sinh khối và
trữ lượng carbon phần trên mặt đất. Các bể chứa carbon khác như trong đất,
thảm mục và cây chết, tầng thảm tươi cây bụi không được đề cập trong
nghiên cứu [9].
Đặng Thịnh Triều (2010) trong đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu khả năng
cố định carbon của rừng trồng Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lambert) và

11

Thông nhựa (Pinus merkusii Jungh et. de Vriese) làm cơ sở xác định giá trị môi
trường rừng theo cơ chế phát triển sạch ở Việt Nam” đã xác định được khả năng
tích lũy carbon ở cấp tuổi 6 của lâm phần Thông mã vĩ khoảng từ 115,21 -
178,68 tấn/ha, của lâm phần Thông nhựa khoảng 117,05 - 135,54 tấn/ha tùy
thuộc vào cấp đất, đồng thời tác giả cũng đã xây dựng được bảng tra khả năng
tích lũy carbon của cây cá thể cũng như lâm phần Thông mã vĩ và Thông nhựa
chung và riêng cho từng cấp đất, xác định được giá trị thương mại carbon của
rừng trồng Thông nhựa và Thông mã vĩ theo từng cấp đất [19].
Đỗ Hoàng Chung và cộng sự (2010) [3] đã đánh giá nhanh lượng Carbon
tích lũy trên mặt đất của một số trạng thái thảm thực vật tại Thái Nguyên, kết
quả cho thấy: Trạng thái thảm cỏ, trảng cây bụi và cây bụi xen cây gỗ tái sinh
lượng Carbon tích lũy đạt 1,78 – 13,67 tấn C/ha; Rừng trồng đạt 13,52 –
53,25 tấn C/ha; Rừng phục hồi tự nhiên đạt 19,08 – 35,27 tấn C/ha.
Nguyễn Thanh Tiến (2012) [18] trong nghiên cứu của mình đã xác định
được sinh khối khô rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên trạng thái IIb tại Thái
Nguyên là 76,46 tấn/ha trong đó: Sinh khối khô tầng cây gỗ trung bình 63,38
tấn/ha; Sinh khối tầng cây dưới tán (cây bụi thảm tươi, cây tái sinh) trung
bình 4,86 tấn/ha; Sinh khối khô vât rơi rụng trung bình 8,22 tấn/ha. Đồng
thời, tác giả cũng đã xác định được tổng lượng CO
2
hấp thụ của rừng IIb tại

Thái Nguyên dao động từ 383,68 - 505,87 tấn CO
2
/ha, trung bình 460,69 tấn
CO
2
/ha (trong đó lượng CO
2
hấp thụ tập trung chủ yếu ở tầng đất dưới tán
rừng là 322,83 tấn/ha, tầng cây cao 106,91 tấn/ha, tầng cây dưới tán 15,6
tấn/ha và vật rơi rụng là 15,34 tấn/ha).
1.3. Tổng quan cây vầu đắng:
Hiện nay cây vầu đắng đã có rất nhiều tài liệu được nghiên cứu về đặc
tính sinh vật học và kỹ thuật gây trồng. Tất cả những nghiên cứu trên đã góp
phần quan trọng trong sản xuất kinh doanh rừng vầu. Ở nước ta những nghiên
cứu về khả năng hấp thụ CO
2
của rừng vầu đắng đang rất hạn chế vì vậy việc

12

tìm hiểu những nghiên cứu trên giúp ta có thể đưa ra được phương pháp
nghiên cứu hợp lý nhất. sau đây là một số nghiên cứu cụ thể về cây vầu đắng:
* Phân loại:
Theo Lê Mộng Chân và Lê Thị Huyên (2000) [2] vầu đắng có tên khoa
học là Indosasa sinica C.D. Chu & C.S. Chao thuộc họ Hòa Thảo Poace
Barnh, phân họ Tre Bambusoideae và thuộc chi Vầu đắng Indosasa.
Vũ Dũng sau khi thu nhập mẫu mô tả, đối chiếu với tài liệu và trao đổi
với chuyên gia Trung Quốc đã đề nghị thống nhất và sửa lại tên là Indosasa
angustata McClure (2001) [5].
* Đặc điểm hình thái:

Vầu đắng là loài Tre mọc tản, thân ngầm lan rộng trong đất, đường kính
1 - 3 cm. Thân khí sinh cao 17 - 20m, đường kính 10 - 12cm; cây to nhất có
thể tới 20 cm; thân non màu lục nhạt, phủ lông mềm, thưa, màu trắng, sau
rụng đi; thân già màu lục xám. Chiều dài lóng giữa thân 30 - 50cm, dài nhất
đến 80cm, vòng thân hơi nổi lên, nhất là những lóng giữa thân trở lên; vòng
mo không có lông. Cây phân cành muộn, phần không có cành thường tròn
đều, vòng đốt không nổi rõ. Phần thân tre có cành, thường có vết lõm dọc
lóng, đốt phình to, gờ nổi cao. Cành thường 3, đôi khi 2 hay 1. Bẹ mo sớm
rụng, hình thang dài và hẹp, lúc non màu lục hồng sau khi khô màu nâu nhạt,
lưng có nhiều sọc dọc, giữa các sọc có lông cứng màu nâu, mép có lông mi
rõ; tai mo không phát triển, thay vào đó là 4 - 6 lông mi dài 7 - 15cm, đứng
thẳng; lưỡi mo nhỏ, cao 2 - 5 mm, đầu có lông mảnh; phiến mo hình lưỡi
mác, màu đỏ tím nhạt, ở giữa màu lục, dài 7 - 15cm, lật ra ngòai, đáy phiến
mo hẹp so với đỉnh bẹ mo. Lá 3 - 6 trên cành nhỏ; hình mác dạng dải, dài 11 -
28cm, rộng 1 - 5 cm, gân cấp hai 3 - 7 đôi; bẹ lá không lông, mép đôi khi có
lông mảnh, tai lá thường không phát triển. Cụm hoa mọc trên cành không lá,
mỗi đốt mang 1 hoặc nhiều bông nhỏ. Mỗi bông nhỏ mang 8 - 12 hoa. Hoa có
3 mày cực nhỏ trong suốt, 6 nhị, đầu nhụy xẻ 3 hình lông chim.Quả dĩnh, hình
trứng trái xoan, mầu nâu.

13

*Đặc tính sinh thái:
Theo Ngô Quang Đê (1994) [6] vầu đắng có độ chiụ bóng lớn, độ tán che
trung bình của rừng vầu ổn định tới 0,8-0,9, nơi rừng thưa nhiều ánh sáng, sinh
trưởng của vầu đắng hạn chế. Tác giả cũng đã đưa ra một số thông tin khác như
vùng có vầu đắng, phân bố nhiệt độ bình quân từ 22-23,5°C, lượng mưa 1600-
1700mm/năm trở lên, độ ẩm không khí trung bình 85-95%, độ cao phân bố 50m-
120m so với mặt nước biển, vầu mọc trên các loại đất có đá mẹ là phiến thạch,
phiến philit, phiến mica, thành phần cơ giới trung bình nhưng đất ẩm.

Theo Trần Xuân Thiệp (1994) vầu đắng ưa đất hình thành từ các loại đá
phiến, phong hóa tương đối kém; thành phần cơ giới là các loại đất thịt có đá
lẫn; tầng đất thường sâu 50 - 80cm, có màu vàng, pH (Kcl) từ 3,2 - 4,6; C/N
8,3 - 9,9; mùn tổng số (%) 0,7 - 4,4; đạm tổng số 0,08 -0,32 (dẫn theo Ngô
Quang Đê, 2003) [7].
Vầu đắng có thể mọc hỗn giao hoặc thuần loài, những loài cây gỗ lớn
thường mọc hỗn giao với vầu đắng thường thuộc họ Đậu (Fabaceae), họ Re
(Laureceae), Thầu Dầu (Euphorbiaceae) [7].
* Giá trị sử dụng:
Thân khí sinh của vầu đắng thường được sử dụng trong xây dựng, bên cạnh
đó còn được sử dụng để làm nguyên liệu giấy, sản xuất đũa, tăm suất khẩu,…
Măng vầu đắng được sử dụng làm thực phẩm. Thu hoạch khi măng mới
nhú lên khỏi mặt đất là có chất lượng tốt nhất.
* Nhân giống:
Ngô Quang Đê (2003) [7] và nhiều tác giả khác thì hiện nay vầu đắng ở
nước ta có 2 hình thức nhân giống là nhân giống bằng thân ngầm và nhân
giống bằng thân khí sinh có mang 1 đoạn thân ngầm. Hình thức nhân giống
bằng thân ngầm thì hom được chọn có tuổi từ 1 - 3, khỏe mạnh, có từ 5 - 6
mắt ngủ, thời gian lấy hom trước mùa ra măng,… Đối với nhân giống vầu
đắng bằng thân khí sinh mang một đoạn thân ngầm thì nên chọn thân khí sinh
ở tuổi 2 là tốt nhất.

14

* Kỹ thuật gây trồng và khai thác:
Theo Ngô Quang Đê, có thể trồng vầu đắng bằng gốc thân khí sinh có
mang thân ngâm hoặc bằng một đoạn thân ngầm, trồng vào cuối đông, đầu
xuân (vào trước mùa măng), khi trồng chú ý đặt cây hoặc gốc cây thẳng đứng.
không được uốn cong hoặc lệch với hướng của thân ngầm: hố đào sâu 40 -50
cm, bón lót bằng phân chuồng hoai, khi trồng cần nệm chặt đất, trồng xong ủ

rác để giữ ẩm, tưới nước 2-3 lần [6].
Về kỹ thuật khai thác, tác giả Ngô Quang Đê nhận định: ở những rừng
vầu mới trồng, tuyệt đối không được thả trâu, bò, thường xuyên chú ý phát
quang, xới đất. Nơi vầu ra hoa thì cần khai thác ngay cây có hoa và những cây
xung quanh. Sau đó đào bới, loại bỏ thân ngầm rồi bón phân chuồng để giúp
cây phát triển tốt. Nếu khai thác không hợp lý sẽ làm cho rừng vầu bị thoái
hoá, mật độ tăng lên nhưng cây nhỏ dần, chỉ nên khai thác cây tuổi 5-6; chu
kỳ chặt có thể 2-3 năm một lần; tỉ lệ cây ở các tổ tuổi có thể giữ lại là: 1 tuổi
20-30%, 2-3 tuổi 30-40%, 4-5 tuổi 30-40%. Đối vớirừng vầu đã thoái hoá
(Vầu đinh), có thể cải tạo bằng cách trồng cây gỗ lá rộng theo băng hoặc theo
đám trong rừng vầu, trước khi trồng cần chặt bỏ và đào gốc cây vầu theo đám,
loài cây trồng có thể chọn Lim xanh, Ràng ràng, Mán đỉa…; cũng có thể chặt
trắng, sau đó đào bỏ hết thân ngầm, trồng lại vầu xen cây lá rộng [7].
1.4. Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu
1.4.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên
1.4.1.1. Vị trí địa lý
Huyện Na Rì là huyện miền núi, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Bắc Kạn, có
diện tích tự nhiên là 85.300,00 ha, chiếm 17,54% diện tích tự nhiên tỉnh Bắc
Kạn, gồm 21 xã và 01 thị trấn với 232 thôn, bản. Nằm trong toạ độ địa lý từ
khoảng 21
0
55

đến 22
0
30

vĩ độ Bắc, 105
0
58


đến 106
0
18

kinh độ Đông.
- Phía Bắc giáp huyện Ngân Sơn.
- Phía Nam giáp huyện Chợ Mới và tỉnh Thái Nguyên.

15

- Phía Đông giáp huyện Bình Gia và Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn).
- Phía Tây giáp huyện Bạch Thông.
Thị trấn Yến Lạc là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của huyện,
cách thị xã Bắc Kạn 69 km và thành phố Thái Nguyên 130 km theo Quốc lộ
3B và Quốc lộ 3.
1.4.1.2. Địa hình
Na Rì có địa hình phức tạp, chủ yếu là đồi núi với nhiều núi đá vôi,
thung lũng hẹp, độ dốc lớn, thuộc cánh cung Ngân Sơn. Độ cao trung bình
toàn huyện là 500 m, cao nhất là núi Phyia Ngoằm (xã Cư Lễ) với độ cao
1.193 m, thấp nhất ở xã Kim Lư với độ cao 250 m so với mực nước biển.
Nhìn tổng thể, địa hình của huyện có hướng thấp dần từ Tây Nam sang Đông
Bắc, được chia thành 2 dạng địa hình núi đá và núi đất.
Địa hình của huyện Na Rì đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình
thành đất, cụ thể là các quá trình rửa trôi và tích luỹ. Quá trình rửa trôi diễn ra
mạnh vào mùa mưa ở vùng núi đá chia cắt, dốc nhiều, ở vùng đồi núi thấp có
những thung lũng tương đối bằng phẳng, thích nghi với các loại cây lương
thực và cây ngắn ngày vùng nhiệt đới.
1.4.1.3. Thủy văn
Trên địa bàn huyện Na Rì có 2 con sông lớn chảy qua, đó là sông Bắc

Giang và sông Na Rì.
Đặc điểm chung của các sông suối trong huyện là có độ dốc lớn, lắm
thác nhiều ghềnh. Lưu lượng dòng chảy phân bố không đều trong năm, chủ
yếu tập trung vào mùa lũ (chiếm khoảng 60 - 80% tổng lượng dòng chảy
trong năm), nên việc khai thác sử dụng gặp khó khăn, đòi hỏi đầu tư lớn.
1.4.2. Các nguồn tài nguyên
1.4.2.1. Tài nguyên đất
Đất Na Rì chủ yếu được hình thành do sự phong hóa trực tiếp của đá mẹ
và một phần hình thành do sự bồi tụ phù sa các hệ thống sông, suối. Toàn
huyện gồm có 10 loại được phân thành 2 nhóm chính: nhóm đất thủy thành và
nhóm đất địa thành.

16

Nhìn chung đất đai Na Rì cho phép phát triển đa dạng các loại cây trồng,
vật nuôi. Tuy nhiên phần lớn đất của huyện là đất bị xói mòn trơ sỏi đá, thoái
hoá nghiêm trọng, nên việc phục hồi, nâng cao chất lượng đất là một nhiệm
vụ quan trọng trong sử dụng đất.
1.4.2.2. Tài nguyên nước
Với lượng mưa hàng năm khá lớn, hệ thống ao hồ và sông suối nhiều
nên nguồn nước mặt ở Na Rì khá phong phú.
Tài nguyên nước ngầm ở Na Rì chưa được khảo sát, đánh giá đầy đủ,
song qua tình hình khai thác phục vụ sinh hoạt của nhân dân cho thấy, trữ
lượng nước ngầm ở các vùng thấp, ven sông suối là khá dồi dào.
1.4.2.3. Tài nguyên rừng
Hiện nay, huyện có 66.949,96 ha đất lâm nghiệp, chiếm 78,49% diện
tích tự nhiên; trong đó rừng sản xuất chiếm 64,14% diện tích đất lâm nghiệp,
rừng phòng hộ chiếm 19,04% đất lâm nghiệp, rừng đặc dụng 16,82% đất lâm
nghiệp. Rừng được phân bố ở tất cả các xã và thị trấn trong huyện.
Nằm trong vùng có điều kiện khí hậu, địa hình, đất đai nhiều thuận lợi,

nên thảm thực vật ở đây phát triển rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, trong
những năm qua, do rừng bị khai thác không theo quy hoạch nhằm đáp ứng
các nhu cầu trước mắt của người dân nên diện tích rừng đang bị suy kiệt
mạnh, diện tích rừng nhất là rừng gỗ quý hiếm giảm nhanh chóng và diện tích
đất trống đồi núi trọc tăng lên. Kể từ khi có chủ trương của Nhà nước về việc
tăng cường giao đất, giao rừng cho nông dân nên diện tích rừng của huyện đã
được phục hồi theo hướng tích cực, độ che phủ rừng ngày càng được nâng
cao. Đến nay độ che phủ rừng của huyện đã đạt 66%.
Huyện Na Rì có trữ lượng tương đối cao 5.095.327 m
3
gỗ. Trong đó
rừng tự nhiên 4.722.506 m
3
, rừng trồng 372.821,0 m
3
. Trữ lượng lớn nhất
thuộc về xã Kim Hỷ có 1.128.397 m
3
, do đây là xã có diện tích lớn 7.621,73
ha, chủ yếu thuộc địa phận khu dự trữ thiên nhiên Kim Hỷ.
Lượng tre nứa (chủ yếu là vầu) có tổng trữ lượng toàn huyện Na Rì khá
cao 34.913 nghìn cây. Nhiều nhất là các xã Vũ Loan: 5.180 nghìn cây, xã

17

Kim Lư với 5.988 nghìn cây và xã Quang Phong với 5.016 nghìn cây. chủ yếu
thuộc các hộ gia đình quản lý (22.249 nghìn cây), Ủy ban nhân dân các xã
(11.026 nghìn cây), còn lại là Ban quản lý rừng đặc dụng, doanh nghiệp nhà
nước và 8 cộng đồng thôn bản (1.637 nghìn cây).phần lớn các loại này thường
mọc xen với cây gỗ hoặc mọc tập trung thành từng đám lớn.

Nhìn chung, Na Rì là huyện có nguồn tài nguyên rừng rất phong phú và
đa dạng với nhiều loài động, thực vật quý hiếm ở trong nước và quốc tế. Tuy
nhiên do nạn phá rừng cùng với công tác quản lý chưa được chặt chẽ đã làm
cho nguồn tài nguyên phong phú này có nguy cơ bị cạn kiệt.
1.4.2.4. Tài nguyên khoáng sản
Theo kết quả điều tra, thăm dò, Na Rì là một trong những khu vực trọng
điểm, tập trung nhiều khoáng sản của tỉnh Bắc Kạn.
Nhìn chung tài nguyên khoáng sản của huyện khá đa dạng và phong phú
cả về chủng loại lẫn quy mô. Hiện tại trên địa bàn đã có một số mỏ đang được
khai thác, trong thời gian tới cần phải có các biện pháp khai thác hợp lý, khoa
học và bảo vệ môi trường sinh thái.
1.4.3. Điều kiện kinh tế xã hội
Cùng với xu hướng phát triển chung của tỉnh Bắc Kạn trong những năm
qua, nền kinh tế của huyện đã có những chuyển biến tích cực và đạt được
những thành tựu quan trọng về nhiều mặt, hạ tầng tiếp tục phát triển như giao
thông, thủy lợi, trường học, bệnh viện, các công trình văn hóa phúc lợi; đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao.
Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của huyện thay đổi khá đều theo hướng tích
cực ở cả ba khu vực kinh tế cho thấy sự chuyển dịch là đúng hướng, phù hợp
với xu hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh và của cả nước và phù
hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Tỷ trọng khu vực kinh tế công
nghiệp tăng khá nhanh và ngày càng chiếm ưu thế trong tổng giá trị sản xuất
của huyện, cùng với đó cơ sở hạ tầng nông thôn đã được cải thiện, đặc biệt là
giao thông, giáo dục, y tế, bưu chính viễn thông, đã giúp huyện Na Rì phát
triển trở thành một huyện hiện đại trong tương lai không xa.

×