Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

TRIỂN VỌNG KÝ KẾT ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM AUSTRALIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.63 KB, 83 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Kinh tế đối ngoại
TRIỂN VỌNG KÝ KẾT ĐÀM PHÁN HIỆP ĐỊNH ĐỐI
TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) ẢNH HƯỞNG
ĐẾN QUAN HỆ THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM - AUSTRALIA
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Thị Loan
Mã sinh viên : 0851010650
Lớp : Anh 15 - Khối 7 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : Th.S Nguyễn Hải Ninh
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
i
MỤC LỤC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG i
iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
I. Tiếng Việt
Từ viết tắt
DNVN Doanh nghiệp Việt Nam
KNNK Kim ngạch nhập khẩu
KNXK Kim ngạch xuất khẩu
NHTW Ngân hàng Trung Ương
XNK Xuất nhập khẩu
II. Tiếng Anh
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
AANZFTA Asean - Australia - New Zealand
Free Trade Area


Khu vực mậu dịch tự do Asean -
Australia - New Zealand
AFTA Asean Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do Asean
APEC Asia-Pacific Economic
Cooperation
Tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á
- Thái Bình Dương
ASEAN Association of Southeast Asia
Nations
Hiệp hội Đông Nam Á
BA Biosecurity Australia An toàn sinh học Australia
BTA Bilateral Trade Agreement Hiệp định Thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ
CEPT Common Effective Preferential
Tariff
Chương trình thế quan ưu đãi có
hiệu lực chung
CEPII Centre d'Etudes Prospectives et
d'Informations Internationales
Trung tâm nghiên cứu và dự báo
thông tin kinh tế
EU European Union Liên minh Châu Âu
FTA Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do
FTAAP Free Trade Area of Asia -
Pacific
Khu vực thương mại tự do Châu
Á - Thái Bình Dương
FTAs Free Trade Areas Các khu vực mậu dịch tự do
GATs General Agreement on Trade in
Services

Hiệp định chung về Thương mại
dịch vụ
GATT General Agreement of Trade and
Tariff
Hiệp định chung về Thương mại
và Thuế quan
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc dân
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
iv
LDCs Least Developed Coutries Những quốc gia kém phát triển
nhất
R $ D Research & Development Nghiên cứu và Phát triển
SBV The State Bank of Vietnam Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
SPS Sanitary and Phytosanitary
Measures
Biện pháp vệ sinh và kiểm dịch
động thực vật
TBT Technical Barriers to Trade Hàng rào kỹ thuật trong Thương
mại
TPP Trans - Pacific Parnership Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương
USA United State of America Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
USD The United State's Dollar Đồng đô la Mỹ
USTR US Trade Representative Đại diện thương mại Hoa Kỳ
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
v
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1 Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam - Australia giai đoạn
2000 - 2011

24
Bảng 2.2 Mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Australia năm 2010 -
2011
28
Bảng 2.3 Mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Australia năm 2010 - 2011 30
Bảng 2.4 GDP của Việt Nam và Australia giai đoạn 2002 - 2011 40
Bảng 2.5 Dự báo GDP của Việt Nam và Australia trong giai đoạn 2015 -
2025
46
Bảng 2.6 Dự báo tổng kim ngạch XNK của Việt Nam và Australia trong
giai đoạn 2015 - 2025
46
Bảng 2.7 Dự báo KNXK tăng thêm theo mặt hàng của Việt Nam và
Australia trong giai đoạn 2015 - 2025
47
vi
DANH MỤC HÌNH
Số hiệu Tên bảng Trang
Hình 2.1 Tăng trưởng kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam -
Australia
25
Hình 2.2 Tốc độ tăng trưởng kim ngạch thương mại hai chiều Việt
Nam - Australia
25
Hình 2.3 Tăng trưởng thặng dư thương mại Việt Nam - Australia 26
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đã chứng kiến sự ra đời của GATT, GATS, rồi sau đó là WTO
tương ứng với quá trình phát triển từ thương mại hàng hóa tới thương mại dịch vụ,

sở hữu trí tuệ trong thương mại quốc tế. Và giờ đây, chúng ta đang chứng kiến sự ra
đời của một Hiệp định mới – Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) –
một Hiệp định thiết lập mối quan hệ song phương và đa phương giữa các nước, khu
vực.
Nói đến những thành tựu đáng kể mà Việt Nam đã đạt được về mặt kinh tế
và xã hội không thể không nhắc đến phần đóng góp quan trọng của chủ trương tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu của Đảng và Nhà nước ta. Việt Nam bên
cạnh tham gia các diễn đàn hợp tác đa phương như Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu
Á – Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức thương mại thế giới (WTO) cũng đã và
đang đẩy mạnh những mối quan hệ đa phương và song phương khác. Đặc biệt, Việt
Nam cũng là một trong những quốc gia đang tham gia vào quá trình đàm phán Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Tham gia đàm phán TPP là một trong
những bước phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong
giai đoạn mới. Đồng thời, đây cũng là lần đầu tiên nước ta tham gia đàm phán một
Hiệp định đa phương với phạm vi sâu rộng, tốc độ đàm phán nhanh và các cam kết
mạnh mẽ như vậy.
Khi tham gia bất kỳ một Hiệp định song phương hay đa phương nào, các
quốc gia đầu tiên đều hướng tới đó là khai thác được những lợi ích mà Hiệp định đó
mang lại từ đó có được những lợi ích về kinh tế và xã hội. Xét trong phạm vi các
nước cùng tham gia Hiệp định TPP, các nước thành viên TPP đều là những đối tác
lớn của Việt Nam và đây là những thị trường mà Việt Nam luôn có được thặng dư
thương mại trong những năm gần đây. Đặc biệt, một trong những quốc gia thành
viên TPP có Australia – một trong những đối tác kinh tế lớn của Việt Nam. Trong
những năm gần đây, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều giữa hai nước có những
bước tiến triển quan trọng, tuy nhiên, vẫn chưa xứng với tiềm năng sẵn có của mỗi
bên. Câu hỏi đặt ra là trên con đường đàm phán tiến tới ký kết Hiệp định TPP và
trong thời gian tới Hiệp định này đi vào hiệu lực thì liệu quan hệ thương mại Việt
2
Nam – Australia sẽ tiến triển ra sao, hai nước có thể khai thác triệt để các tiềm năng
vốn có của mình hay không và đặc biệt Việt Nam có những chiến lược đàm phán

TPP như thế nào để gặt hái được nhiều lợi ích nhất từ Hiệp định này.
Với lý do trên, em lựa chọn đề tài: “Triển vọng ký kết đàm phán Hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ảnh hưởng đến quan hệ thương mại Việt
Nam – Australia” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Căn cứ vào đề tài: “Triển vọng ký kết đàm phán Hiệp định đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP) ảnh hưởng đến quan hệ thương mại Việt Nam –
Australia”, tác giả xác định khóa luận có 5 mục đích nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu các nội dung chính, chủ yếu của Hiệp định TPP: bối cảnh ra
đời, sự phát triển, Việt Nam đối với Hiệp định TPP
- Nghiên cứu hoạt động thương mại Việt Nam - Australia trong những năm
gần đây cũng như những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ thương mại
Việt Nam – Australia
- Nghiên cứu triển vọng ký kết đàm phán Hiệp định TPP
- Phân tích những ảnh hưởng của Hiệp định TPP đối với quan hệ Thương
mại Việt Nam – Australia
- Đề xuất các kiến nghị, giải pháp cho Việt Nam trong quá trình đàm phán
Hiệp định TPP cũng như thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam –
Australia.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Căn cứ vào đề tài “Triển vọng ký kết đàm phán
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) ảnh hưởng đến quan hệ
thương mại Việt Nam – Australia” tác giả xác định khóa luận có 3 đối tượng
nghiên cứu, cụ thể như sau:
- Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
- Triển vọng ký kết đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP)
- Quan hệ thương mại Việt Nam – Australia
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của khóa luận gồm phạm vi thời
gian và phạm vi nội dung.

3
- Phạm vi thời gian: Khóa luận giới hạn phạm vi nghiên cứu hoạt động
quan hệ thương mại Việt Nam – Australia từ năm 2000 trở lại đây.
- Phạm vi nội dung: Khóa luận giới hạn phạm vi nội dung là chỉ nghiên
cứu hoạt động thương mại hàng hóa Việt Nam – Australia chứ không
nghiên cứu hoạt động thương mại dịch vụ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, khóa luận sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu gồm: Phương pháp thu thập tài liệu (từ sách báo, tạp trí, giáo
trình ), phương pháp thống kê mô tả, đối chiếu, phương pháp phân tích – đánh giá,
phương pháp quy nạp, diễn giải. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng phương pháp tổng
hợp để khái quát và hệ thống hóa các vấn đề nghiên cứu thông qua các thông tin, số
liệu thu thập được.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, bảng từ viết tắt, danh mục
bảng hình thì nội dung của khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Hiệp định TPP và thị trường Australia
Chương 2: Triển vọng ký kết đàm phán Hiệp định TPP ảnh hưởng đến quan
hệ thương mại Việt Nam – Australia
Chương 3: Kiến nghị - Giải pháp
4
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH TPP
VÀ THỊ TRƯỜNG AUSTRALIA
1.1. HIỆP ĐỊNH TPP
1.1.1. Giới thiệu chung
Hiệp định TPP (tên tiếng anh là Trans – Pacific Strategic Economic
Partnership Agreement) là Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương. Hiệp
định TPP có phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm cả hàng hóa, dịch vụ (chưa bao gồm
dịch vụ tài chính do đàm phán sau), vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), rào cản kỹ

thuật (TBT), chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ và minh bạch
hóa. Ngoài ra, còn có một chương về hợp tác và 02 văn kiện đi kèm về Hợp tác Môi
trường và Hợp tác Lao động.
Hiệp định này khời nguồn là Hiệp định Đối tác kinh tế chặt chẽ hơn do
nguyên thủ 3 nước Chile, New Zealand, Singapore (P3) phát động đàm phán nhân
dịp Hội nghị Cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico. Tháng 04/2005, Brunei xin
gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết
thúc, biến P3 thành P4.
Đây là Hiệp định mang tính “mở”. Tuy không phải là chương trình hợp tác
trong khuôn khổ APEC nhưng các thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan
tâm. Singapore đã nhiều lần mong muốn mở rộng TPP và sử dụng TPP như một
công cụ để hiện thực hóa ý tưởng về khu vực Mậu dịch Tự do Châu Á – Thái Bình
Dương của APEC (FTAAP) (Bộ công thương, 2011).
1.1.2. Bối cảnh ra đời
5
Hiệp định TPP ra đời khi hai khuynh hướng thế giới quan trọng đã hình
thành, đó là toàn cầu hóa và khu vực hóa, trong đó, khu vực hóa hay tự do hóa
thương mại thông qua ký kết các Hiệp định thương mại tự do khu vực đã trở thành
trào lưu nổi bật trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Xu hướng
toàn cầu hóa được minh chứng bằng một loạt những Hiệp định đàm phán thương
mại đa phương được tiến hành bởi GATT/WTO. Tuy nhiên, các vòng đàm phán của
Hiệp định này rất gay go và căng thẳng do tính chất đa dạng về đặc thù và quyền lợi
quốc gia, điển hình trong số đó là vòng đàm phán Doha của WTO tiến triển chậm
chạp và vẫn chưa đi đến hồi kết. Chính điều này đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi
cho sự hình thành các cam kết mậu dịch tự do song phương và đa phương giữa các
nước, khu vực nổi lên mạnh mẽ. Với sự xuất hiện của nhiều liên kết kinh tế thương
mại như EU, khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Bắc Mỹ, xu hướng khu vực hóa
đang chứng tỏ tầm ảnh hưởng và sức hấp dẫn lớn hơn bao giờ hết.
6
Trong nhiều thập kỷ gần đây, cục diện thế giới có những biến đổi nhanh

chóng và đáng kể, khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đang nổi lên, trở thành khu
vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, năng động nhất thế giới, là một trong
những trọng tâm triển khai chính sách đối ngoại của nhiều cường quốc, trong đó có
Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc và Nga. Bên cạnh đó, có thể nói rằng, nếu như WTO
hướng tới một thể chế toàn cầu về thương mại quốc tế thì giờ đây các nước có thể
nhận ra phần nào những hạn chế của tổ chức này, đặc biệt là từ sau khủng hoảng tài
chính kinh tế toàn cầu vừa qua. Trong khi khu vực đồng Euro và cả thế giới nói
chung đang gánh chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng toàn cầu
trên quy mô sâu rộng, Châu Á – Thái Bình Dương vẫn tiếp tục là người cầm lái nền
kinh tế toàn cầu trong những năm gần đây với những nền kinh tế hàng đầu thế giới
như Hoa Kỳ, Nhật Bản cùng sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ. Trước
tình hình đó, các quốc gia APEC cam kết đẩy mạnh liên kết kinh tế thông qua nỗ
lực hóa và thuận lợi hóa thương mại đầu tư, giảm thiểu các rào cản đối với hàng
hóa, dịch vụ và vốn. Đã có nhiều khu vực mậu dịch tự do được hình thành như khu
vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, ASEAN – Nhật Bản, ASEAN –
Australia – New Zealand Tuy nhiên, phạm vi liên kết của những Hiệp định
thương mại này còn tập trung chủ yếu ở thương mại hàng hóa, mức độ cam kết
chưa sâu, định hướng mở rộng chưa rõ nét. Chính vì vậy, các nhà lãnh đạo APEC
cũng đã bàn về cách thức hướng tới khu vực mậu dịch tự do Châu Á – Thái Bình
Dương trên cơ sở các hợp tác khu vực hiện có.
Như vậy, sự ra đời của Hiệp định TPP là phù hợp với xu hướng hội nhập
kinh tế trên thế giới và khu vực, là cầu nối giúp APEC tiến dần đến mục tiêu thành
lập khu vực mậu dịch tự do FTAAP đồng thời là phương tiện để các nước thúc đẩy
xu hướng tập hợp lực lượng mới, mang tính chiến lược, đáp ứng cục diện mới của
khu vực và thế giới.
1.1.3. Sự phát triển
Từ ba thành viên ban đầu là Chile, New Zealand và Singapore, đến nay Hiệp
định TPP đã chứng tỏ được sức hút, tầm vóc và mức độ ảnh hưởng lớn của mình
với số lượng thành viên chính thức cũng như chuẩn bị gia nhập lên tới 12.
7

Tháng 04/2005, Brunei xin gia nhập với tư cách thành viên sáng lập trước
khi phiên đàm phán cuối cùng kết thúc, biến P3 thành P4 và hình thành Hiệp định
hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương – được ký kết ngày 03/06/2005,
có hiệu lực từ ngày 25/05/2006 giữa 4 nước Chile, New Zealand, Singapore và
Brunei, thời gian đầu ảnh hưởng của Hiệp định chưa đủ lớn do 4 quốc gia thành
viên dẫu có nền kinh tế khá phát triển nhưng dân số ít, thị trường còn hẹp.
Năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi đàm phán
của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ, tài chính và đầu tư và trao đổi với Hoa Kỳ
về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của P4. Cũng trong năm
này, Hoa Kỳ bắt đầu tiếp cận, tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ với các
nhóm lợi ích về vấn đề này.
Tháng 09/2008, USTR thông qua quyết định của Hoa Kỳ dự các cuộc đàm
phán mở rộng của P4 và chính thức tham gia vào các cuộc thảo luận về mở cửa dịch
vụ tài chính và đầu tư với các nước P4.
Tháng 11/2008, các nước Australia, Peru và Việt Nam cũng bày tỏ sự quan
tâm và tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số thành viên tham gia lên 8 nước (trừ
Việt Nam đến ngày 13/11/2010 mới tuyên bố tham gia đàm phán với tư cách là
thành viên đầy đủ). Cũng từ thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại
là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tại hội nghị APEC năm 2010 ở Nhật Bản, các đối tác TPP đã nhất trí để
Maylaysia tham gia đàm phán. Sự tham gia chính thức của Hoa Kỳ, Australia, Việt
Nam và Peru năm 2008 và Malaysia năm 2010 đã nâng tổng số quốc gia tham gia
TPP lên 9 thành viên. Ngay trước ngày khai mạc Hội nghị cấp cao APEC tại Hawaii
ngày 11/11/2011, Nhật Bản đã tuyên bố quyết định tham gia đàm phán gia nhập
Hiệp định TPP. Sau đó, ngày 13/11/2011 lại có thêm hai nước nữa thông báo tham
gia đàm phán đó là Canada và Mexico. Như vậy, lúc này tổng số quốc gia tham gia
đàm phán Hiệp định TPP đã lên tới 12.
1.1.4. Phạm vi điều chỉnh
8
Hiệp định TPP được coi là một Hiệp định kỳ vọng nhất của thế kỷ XXI, với

mục tiêu tăng cường thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên TPP, thúc đẩy
sự đổi mới, tăng cường kinh tế và phát triển, hỗ trợ tạo thêm và duy trì việc làm.
Hơn nữa, Hiệp định này cũng được cho là một tiến trình hội nhập thương mại kinh
tế tham vọng nhất lịch sử khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, TPP có phạm vi
điều chỉnh rộng, bao gồm hầu hết các lĩnh vực có liên quan tới thương mại, hàng
hóa, dịch vụ, vệ sinh an toàn thực phẩm, rào cản kỹ thuật, chính sách cạnh tranh, sở
hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ và minh bạch hóa. Trong đó có nhiều lĩnh vực mới
như môi trường, lao động, các vấn đề xuyên suốt liên quan tới chuỗi cung ứng,
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra còn có một số chương về hợp tác và 02 văn kiện
đi kèm về Hợp tác Môi trường và Hợp tác Lao động. Trong báo cáo mô tả các lĩnh
vực đàm phán của Hiệp định TPP của các Bộ trưởng Thương mại (2011) đã nêu rõ
nội dung Hiệp định TPP gồm 5 điểm chính sau:
(1) Tiếp cận thị trường toàn diện
Khi tham gia Hiệp định TPP, hàng hóa các nước thành viên được tiếp cận
thị trường một cách toàn diện và miễn thuế. Các hạn chế về dịch vụ được đồng loạt
xóa bỏ nhằm tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp cũng
như lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng.
(2) Hiệp định khu vực toàn diện
Hiệp định này sẽ tạo điều kiện cho thương mại và phát triển chuỗi sản xuất
và cung ứng giữa các nước thành viên TPP, hỗ trợ mục tiêu tạo việc làm, nâng cao
mức sống và cải thiện phúc lợi tại các nước thành viên.
(3) Các vấn đề thương mại xuyên suốt
Trên cơ sở những thỏa thuận đã thực hiện trong khuôn khổ APEC và các
diễn đàn khác và thông qua việc đưa vào Hiệp định TPP 04 vấn đề mới mang tính
xuyên suốt gồm:
- Gắn kết môi trường chính sách: Các cam kết sẽ thúc đẩy thương mại giữa
các nước thành viên thông qua việc tạo ra môi trường trao đổi thương mại
gắn kết và hiệu quả;
9
- Tạo động lực thúc đẩy năng lực cạnh tranh và kinh doanh: Các cam kết sẽ

nâng cao năng lực cạnh tranh trong nước và khu vực của từng nền kinh tế
TPP và thúc đẩy hội nhập kinh tế và tạo thêm việc làm trong khu vực
thông qua phát triển chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng khu vực;
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Các cam kết sẽ giải quyết những quan ngại
của những doanh nghiệp vừa và nhỏ về khó khăn trong việc hiểu và vận
dụng các Hiệp định thương mại, khuyến khích các doanh nghiệp vừa và
nhỏ giao thương quốc tế;
- Phát triển: Tự do hóa thị trường một cách toàn diện và mạnh mẽ, cải thiện
thương mại và đầu tư, tăng cường kỷ cương và những cam kết khác, bao
gồm việc thiết lập cơ chế giúp các thành viên TPP thực thi hiệu quả và
tận dụng được tối đa những lợi ích mà Hiệp định mang lại, qua đó góp
phần tăng cường vai trò của những thể chế quan trọng đối với quản lý và
phát triển kinh tế, và từ đó góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy những ưu
tiên phát triển kinh tế của từng thành viên TPP.
(4) Những vấn đề mới trong thương mại
Các vấn đề mới nổi lên trong thương mại toàn cầu sẽ là một phần quan trọng
được đàm phán trong Hiệp định TPP. Công nghệ mới sẽ tạo ra những cơ hội mới
cho thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, đồng thời cũng làm nảy sinh
các vấn đề thương mại tiềm ẩn cần giải quyết để có thể thúc đẩy thương mại hàng
hóa và dịch vụ, đảm bảo tất cả các nền kinh tế các nước nước TPP đều được hưởng
lợi. Ngoài ra các vấn đề thương mại liên quan đến tăng trưởng xanh cũng được xem
xét nhằm đảm bảo các nước thành viên TPP tiếp tục giữ vững vị trí tiên phong trong
lĩnh vực này.
(5) Hiệp định mở
Để xây dựng Hiệp định TPP thành một Hiệp định mở, các nhóm đàm phán
Hiệp định TPP đang thiết lập một cấu trúc, thể chế và quy trình cho phép Hiệp định
này tiếp tục phát triển để đáp ứng những tiến triển mới trong thương mại, công nghệ
hoặc các vấn đề thách thức mới nổi khác.
1.1.5. Những điểm mới
10

Như đã phân tích ở trên, sự ra đời của Hiệp định TPP là phù hợp với xu
hướng hội nhập kinh tế trên thế giới và khu vực, là cầu nối giúp APEC tiến gần hơn
với mục tiêu thành lập khu vực mậu dịch tự do FTAAP. Sự ra đời của Hiệp định
TPP là một bước phát triển vượt bậc với mức độ cam kết sâu rộng và những nét mới
nổi trội sẽ khắc phục được những hạn chế, tồn tại của những Hiệp định thương mại
trước. Nhìn chung, so với các Hiệp định trước, TPP có 4 điểm mới sau:
(1) Đối tượng và thành viên tham gia
Nét mới trong đàm phán Hiệp định TPP so với các FTAs truyền thống trước
đây là sự tham gia của các đối tượng liên quan như doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức
xã hội. Tại mỗi phiên đàm phán, các đối tượng trên luôn được tạo cơ hội để trao đổi
thông tin, bày tỏ quan điểm và nguyện vọng đối với các nội dung đàm phán của
Hiệp định thông qua các buổi hội thảo và diễn đàn dành cho các đối tượng liên quan
được tổ chức bên lề các phiên đàm phán.
(2) Phạm vi điều chỉnh
Hiệp định TPP được đánh giá là có cách tiếp cận cả gói, bao gồm toàn bộ các
lĩnh vực then chốt về thương mại và có liên quan đến thương mại. Bên cạnh việc
cập nhật các cách tiếp cận truyền thống đối với những vấn đề đã có trong Hiệp định
mậu dịch tự do FTAs trước đây, Hiệp định TPP còn bao gồm những vấn đề thương
mại mới, đang nổi và những vấn đề xuyên suốt. Những vấn đề mới và đang nổi lên
của TPP bao gồm thương mại và đầu tư trong các sản phẩm và dịch vụ có tính chất
đổi mới như công nghệ số và đảm bảo các xí nghiệp quốc doanh cạnh tranh công
bằng với các công ty tư nhân và không bóp méo sự cạnh tranh theo cách đẩy các
công ty và người lao động Hoa Kỳ vào thế bất lợi.
(3) Mức độ cam kết
Hoa Kỳ - bên đàm phán cầm trịch của TPP quyết tâm để TPP trở thành
“Hiệp định thương mại của thế kỷ XXI”, theo nghĩa này, đây sẽ là một Hiệp định có
mức độ tự do cao ở tất cả các lĩnh vực thương mại và cả lĩnh vực phi thương mại.
11
TPP chú trọng thúc đẩy hàng hóa của các nước thành viên được tiếp cận thị
trường của nhau một cách toàn diện và miễn thuế, các hạn chế về dịch vụ được

đồng loạt xóa bỏ nhằm tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh
nghiệp cũng như lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng. TPP đưa ra lộ trình xóa bỏ
thuế quan và các gói mở cửa khác, cụ thể là:
- Lộ trình xóa bỏ thuế quan sẽ áp dụng cho tất cả hàng hóa, tương đương
khoảng 11.000 dòng thuế (Bộ công thương 2011);
- Các nước thành viên đang xây dựng các nguyên tắc chung về xuất xứ
hàng hóa, và cân nhắc các đề xuất nhằm thực hiện việc này một cách đơn
giản và hiệu quả nhất;
- Các gói cam kết về dịch vụ và đầu tư sẽ bao gồm hầu hết các ngành dịch
vụ, Hiệp định sẽ bao trùm lên một phạm vi toàn diện nhưng vẫn cho phép
các nước đàm phán các ngoại lệ cụ thể trong cam kết ở các ngành dịch vụ
cụ thể;
- Gói cam kết về mua sắm chính phủ đòi hỏi các thành viên phải nỗ lực mở
cửa thị trường mua sắm chính phủ hơn nữa nhằm đảm bảo sự tiếp cận tối
đa của các nước khác trong lĩnh vực này.
(4) Kết cấu
TPP là Hiệp định có kết cấu “mở” tức là có cơ chế kết nạp thêm thành viên
mới trong tương lai và các bên có thể tiếp tục đàm phán những vấn đề phát sinh sau
khi Hiệp định có hiệu lực. Tuy không phải là chương trình hợp tác trong khuôn khổ
APEC nhưng các nước thành viên APEC đều có thể gia nhập nếu quan tâm. Với
mục tiêu duy trì tính mở của Hiệp định TPP, các nhóm đàm phán cũng đang nỗ lực
đưa ra nhiều đề xuất và biện pháp liên quan để đảm bảo Hiệp định sẽ mang lại
nhiều lợi ích nhất cho các nước đã và sẽ tham gia.
1.1.6. Quá trình đàm phán Hiệp định TPP
Đàm phán Hiệp định TPP là một đàm phán thương mại tự do nhiều bên, với
mục tiêu thiết lập một khu vực thương mại tự do chung cho các nước đối tác trong
khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Mặc dù, rất nhiều thỏa thuận hiện hành đã
được tạo ra một cách cẩn thận nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho các bên, một số
trong những thỏa thuận đó có thể bị xóa bỏ khi đàm phán Hiệp định này.
12

Năm 2008, sau khi có sự tham gia của Hoa Kỳ, Australia, Puru và Việt Nam,
đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Tuy nhiên, do phải chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng
thống và Chính quyền mới của Tổng thống Obama tham vấn và xem xét lại việc
tham gia đàm phán Hiệp định TPP của Hoa Kỳ cho nên đàm phán TPP đã bị trì
hoãn đến cuối năm 2009. Tháng 12/2009, USTR mới thông qua quyết định của
Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ tiếp tục tham gia TPP. Cho đến nay, Hiệp định
TPP đã trãi qua 11 vòng đàm phán lần lượt được tổ chức ở các quốc gia thành viên
và gần đây nhất là vòng đàm phán thứ 11 tại Australia diễn ra vào tháng 03/2012.
Trong quá trình đàm phán của Hiệp định TPP, tại vòng đàm phán thứ 5 tổ
chức vào tháng 02/2011 diễn ra ở Chile, các nước được xem là đã đạt được nhất trí
cơ bản trong các nguyên tắc đàm phán và đã thiết lập được khuôn khổ cho các cam
kết nền (về kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cạnh tranh ). Đây được xem
là thành công ban đầu tuy vẫn còn rất chung chung và vẫn tồn tại những bất đồng
xung quanh vấn đề này.
Đặc biệt, điểm nhấn trong quá trình đàm phán của Hiệp định TPP là vào
ngày 12/11/2011, bên lề hội nghị cấp cao APEC 19, các nhà lãnh đạo 9 nước thành
viên (Việt Nam, Hoa Kỳ, Australia, Singapore, Malaysia, Brunei, Peru, Chile và
New Zealand) tuyên bố đã đạt được Bản mô tả các lĩnh vực đàm phán chính của
Hiệp định TPP – một Hiệp định nhiều kỳ vọng của thế kỷ XXI – với mục tiêu tăng
cường thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên TPP và thúc đẩy sự đổi mới,
tăng cường kinh tế và phát triển, hỗ trợ thêm và duy trì việc làm.
Vòng đàm phán thứ 10 diễn ra tại Malaysia vào tháng 12/2011, các đoàn
đàm phán tuyên bố đã đạt được một Hiệp định khung về TPP và thông qua báo cáo
từ các Bộ trưởng thương mại của các nước TPP, bao gồm cam kết về một FTA toàn
diện và tham vọng mà sẽ giúp xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối
với thương mại và đầu tư.
13
Vòng đàm phán thứ 11 Hiệp định TPP diễn ra tại Australia với 9 quốc gia
đàm phán trên hai nhánh đó là đàm phán sớm để ký kết Hiệp định TPP trong năm

nay và tham vấn trong nước về việc Nhật Bản, Canada và Mexico mới đây xin gia
nhập đàm phán TPP. Phiên đàm phán đã ghi nhận nhiều tiến bộ đáng kể trong đàm
phán lời văn tại nhiều chương của Hiệp định TPP, kể cả các vấn đề xuyên suốt như
hài hòa chính sách, doanh nghiệp vừa và nhỏ, chuỗi cung ứng và một số vấn đề phát
triển. Các nước thành viên cũng hoan nghênh ý định tham gia của 3 nước Nhật Bản,
Canada và Mexico. Quyết định cuối cùng về việc mở rộng thành viên TPP sẽ được
các bộ trưởng TPP tiến hành theo nguyên tắc đồng thuận.
Hiện vẫn còn một số vấn đề nhạy cảm từ sự khác biệt giữa các nước thành
viên, trong đó có vấn đề chênh lệch cấp độ phát triển chưa được đàm phán. Tuy
nhiên, các nhà lãnh đạo đã nhất trí tìm ra cách thức phù hợp để giải quyết trong một
gói cam kết toàn diện và hài hòa, trong đó có tính đến sự đa dạng về trình độ phát
triển của mỗi nước thành viên.
Trên cơ sở những tiến bộ đã đạt được, lãnh đạo các nước thành viên đã cam
kết dành nguồn lực cần thiết để hoàn tất Hiệp định mang tính chất biểu tượng này
trong thời gian sớm nhất có thể. Dự kiến các nước sẽ tiếp tục thúc đẩy đàm phán
thông qua việc tổ chức các phiên đàm phán giữa kỳ cho một số lĩnh vực đàm phán.
Mục tiêu của các nước đặt ra là thu hẹp tối đa các vấn đề tồn tại sự khác biệt quan
điểm nhằm tạo đà cho phiên đàm phán thứ 12 sẽ được tổ chức tại Hoa Kỳ. Các
nước thành viên TPP cũng đã thống nhất đưa kế hoạch hoàn tất Hiệp định cuối năm
2012.
1.1.7. Việt Nam đối với Hiệp định TPP
1.1.7.1. Sự cần thiết tham gia Hiệp định TPP đối với Việt Nam
TPP được đánh giá như một Hiệp định quan trọng xét trên tầm vóc và sự ảnh
hưởng của nó. Khác với các cam kết WTO hay các Hiệp định thương mại tự do
khác, ảnh hưởng của TPP rộng hơn cả về thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ
và đặc biệt là đầu tư, sỡ hữu trí tuệ. Mặc dù Việt Nam đã ký hầu hết các BTA và
FTAs với các quốc gia đối tác ở TPP hoặc cùng là thành viên WTO, nhưng Việt
Nam vẫn phải tham gia đàm phán TPP bởi 3 lý do sau:
(1) Hội nhập khu vực
14

Hội nhập khu vực đang nổi lên đóng vai trò chủ đạo với nhiều hình thức
phong phú và đa dạng, đặc biệt là khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Xu thế này
không chỉ phản ảnh sự mưu cầu lợi ích kinh tế mà còn phản ánh cục diện kinh tế
chính trị quốc tế, sau sự nổi lên nhanh chóng của một số nước phát triển hàng đầu.
Việt Nam tham gia đàm phán Hiệp định TPP không những theo xu hướng
của thời đại mà còn nhất quán với chủ trương đổi mới và hội nhập quốc tế, đồng
thời quyết tâm đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Đảng
và Nhà nước ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục
mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện của nước ta và
đảm bảo thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như
AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ”. Đặc biệt, Đại hội Đảng
XI nhất trí với đa số áp đảo từ bỏ quan niệm kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo,
Nhà nước chiếm hữu tư liệu sản xuất. Chủ trương này hoàn toàn phù hợp với yêu
cầu của TPP 12 đối với hệ thống doanh nghiệp Nhà nước.
(2) Các nước TPP là thị trường quan trọng của Việt Nam
Hầu hết các đối tác tham gia Hiệp định TPP có trình độ phát triển kinh tế cao
và có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam. Trong các nước
thành viên TPP, có những quốc gia quan trọng, có khả năng bổ sung cao cho nền
kinh tế Việt Nam như Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Singapore và thành viên
mới Nhật Bản. Hơn thế, trong 9 quốc gia đang tham gia đàm phán Hiệp định TPP,
Hoa Kỳ là đối tác xuất khẩu quan trọng của Việt Nam nhưng Việt Nam vẫn chưa có
được FTA với Hoa Kỳ. Do vậy, nếu là thành viên TPP cơ hội của hàng Việt Nam
vào thị trường Hoa Kỳ nói riêng và thị trường các nước TPP nói chung sẽ lớn hơn
với nhiều ưu đãi.
(3) Mở ra nhiều cơ hội để nền kinh tế Việt Nam phát triển
15
Việt Nam khi tham gia Hiệp định TPP sẽ có nhiều nét khác biệt, đổi mới cần
thiết cho quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam so với những Hiệp định thương
mại song phương, khu vực mà Việt Nam từng tham gia. Mức độ, phạm vi cam kết
sâu rộng, tính chất toàn diện của Hiệp định này hứa hẹn mở ra nhiều cơ hội cho nền

kinh tế Việt Nam chuyển mình và cải cách triệt để. Đặc biệt, khi đàm phán WTO
Việt Nam là kẻ đến sau muốn gia nhập phải đưa ra các cam kết của mình thì với
TPP, cơ hội đàm phán của Việt Nam với các quốc gia còn lại là bình đẳng.
Ở TPP, Việt Nam – một trong các thành viên sáng lập TPP, có lợi thế đặt ra
luật chơi và chuẩn mực cho những nước gia nhập sau phải tuân theo nên những cơ
hội xây dựng và loại trừ tiêu chuẩn cho TPP của Việt Nam là hiện thực. Bên cạnh
đó, khác với các Hiệp định song phương khác của Việt Nam, phạm vi của TPP bao
quát nhiều lĩnh vực từ dịch vụ, đầu tư, viễn thông và thương mại điện tử, quyền sở
hữu trí tuệ đến các biện pháp vệ sinh dịch tễ, hàng rào kỹ thuật trong thương mại
đồng thời mức độ cam kết cũng sâu hơn và tham vọng hơn. Điều này sẽ mở ra
những cơ hội cho Việt Nam phát triển hơn nữa các lĩnh vực này trong tương lai.
1.1.7.2. Quá trình tham gia Hiệp định TPP của Việt Nam
Từ năm 2006, qua nhiều kênh, Singapore đã rất tích cực mời Việt Nam tham
gia TPP (P4). Trước những cân nhắc cả về khía cạnh kinh tế và chính trị, Việt Nam
chưa nhận lời mời này của Singapore. Tuy nhiên, tháng 09/2008, Hoa Kỳ tuyên bố
tham gia TPP, nhưng trước khi tuyên bố tham gia TPP, Hoa Kỳ đã mời Việt Nam
cùng tham gia Hiệp định này, Việt Nam đã cân nhắc lại việc tham gia hay không
tham gia TPP.
Ngày 03/02/2009, Việt Nam đã có thư gửi các thành viên TPP chính thức đề
nghị tham gia đàm phán Hiệp định này với tư cách là thành viên liên kết. Trong giai
đoạn này, quyết định của Việt Nam không chỉ thể hiện quyết tâm tiếp tục đổi mới
và hội nhập mà còn xuất phát từ nguyện vọng muốn góp phần tăng cường liên kết
kinh tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
16
Ngày 15/11/2010, sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách thành
viên liên kết, Chủ tịch nước thông qua quyết định của Việt Nam chính thức tham
gia đàm phán Hiệp định TPP. Đây là những bước triển khai hội nhập quốc tế của
Việt Nam trong giai đoạn mới đồng thời cũng là lần đầu tiên Việt Nam tham gia
đàm phán một FTA đa phương với tốc độ đàm phán nhanh, quy mô sâu rộng, mức
độ cam kết cao và phức tạp như TPP (Bộ công thương 2011).

1.1.7.3. Cơ hội và thách thức cho Việt Nam khi tham gia Hiệp định TPP
Khi tham gia Hiệp định TPP, bên cạnh những cơ hội sẽ mở ra cho nền kinh
tế Việt Nam còn có những thách thức ở phía trước. Tính chất toàn diện, mức độ,
phạm vi cam kết sâu rộng của TPP so với cam kết trước kia của Việt Nam tạo ra
những cơ hội rõ ràng hơn bao nhiêu thì cũng tạo ra những thách thức lớn hơn bấy
nhiêu. Việc đánh giá cơ hội và thách thức cho Việt Nam khi tham gia Hiệp định
TPP là cần thiết, quan trọng cho Chính phủ trước khi ký kết Hiệp định này.
a. Cơ hội cho Việt Nam
So với các các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa
phương đang tồn tại, TPP là một bước phát triển mới về chất lượng cam kết. Tham
gia TPP,mỗi quốc gia thành viên sẽ gặt hái được những lợi ích, tìm được những cơ
hội khác nhau. Cũng không ngoại lệ, tham gia Hiệp định TPP Việt Nam cũng sẽ gặt
hái được những lợi ích và cơ hội cho riêng mình, cụ thể là:
(1) Mở ra cơ hội to lớn để xuất khẩu sang các nước TPP
TPP mở ra cơ hội quý giá để tiếp cận thị trường thương mại quan trọng là
Hoa Kỳ cũng như các thành các nước thành viên khác trong Hiệp định TPP, qua đó
mở rộng thương mại hơn nữa ra bên ngoài khu vực ASEAN.
Theo đánh giá chung, từ các đối tác trong TPP, Việt Nam có thể tận dụng
hưởng lợi theo hai hình thức là lợi ích thế quan (đối với hàng hóa) và lợi ích tiếp
cận thị trường (đối với dịch vụ và đầu tư). Với mức độ cam kết sâu của Hiệp định
này, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các quốc gia TPP và ngược
lại đều có thể được hưởng mức thuế xuất bằng 0% hoặc rất nhỏ, từ đó mở ra con
đường tiếp cận thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu sang các quốc gia này thuận lợi hơn
vì ít rào cản và điều kiện hơn. Sự thay đổi này chắc chắn sẽ làm tăng kim ngạch
xuất khẩu tới các thị trường lớn của hàng hóa Việt Nam.
17
(2) Có lợi từ thị trường nội địa
Đối với thị trường trong nước, do tham gia Hiệp định TPP, Việt Nam cũng
phải đối xử với hàng hóa, dịch vụ của đối tác tương xứng với sự ưu ái mà họ dành
cho ta, nên ngay tại thị trường nội địa Việt Nam vẫn có thể có lợi.

Trước hết, là việc hưởng lợi từ giảm thuế nhập khẩu từ các nước đối tác TPP,
người tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng nguyên liệu nhập khẩu đầu vào,
hàng hóa, dịch vụ sẽ hưởng lợi từ nguyên liệu, hàng hóa, dịch vụ rẻ giúp giảm chi
phí, từ đó có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của những ngành này, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người tiêu dùng.
Thứ hai, với đầu tư, TPP sẽ mở ra cơ hội thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế
đang khát vốn của nước ta, đặc biệt là cơ hội cho các nhà đầu tư đưa kỹ thuật cao
vào Việt Nam, qua đó góp phần giúp Việt Nam tiếp cận với hướng sản xuất hiện
đại, công nghệ cao.
(3) Cơ hội để Việt Nam tái cơ cấu nền kinh tế triệt để
Thực tế cho thấy, Việt Nam là nền kinh tế kém phát triển nhất trong số các
quốc gia tham gia Hiệp định TPP cũng như chưa phải tất cả các nước thành viên
TPP đều công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Do đó, đối với các nền kinh
tế chuyển đổi như Việt Nam, tham gia một Hiệp định trình độ cao, phạm vi cam kết
sâu rộng như TPP còn là một cơ hội để Việt Nam tái cơ cấu triệt để nền kinh tế, đẩy
nhanh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, minh bạch hóa đầu tư công và
hướng tới phát triển bền vững.
Đặc biệt, trong lĩnh vực mở cửa thị trường mua sắm công mà Hiệp định TPP
quy định rất cởi mở và minh bạch sẽ giúp cho Việt Nam có điều kiện để giải quyết
những bất cập trong những hợp đồng mua sắm công và hoạt động đấu thầu xuất
khẩu xuất phát từ tình trạng thiếu minh bạch hiện nay. Nếu không có cơ hội này, sự
nghiệp tái cơ cấu nền kinh tế sẽ có thể bị trì hoãn, kéo dài vì thiếu động lực, sức ép
từ bên ngoài.
(4) Cơ hội xác lập vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu
18
Tham gia vào Hiệp định TPP – nơi có những quốc gia phát triển hàng đầu
thế giới và có những định hướng để tìm ra cách thức phù hợp để giải quyết trong
một gói cam kết toàn diện và hài hòa, trong đó có tính đến sự đa dạng về trình độ
phát triển của mỗi nước thành viên TPP. Việt Nam sẽ có được những hỗ trợ nhất
định trong nỗ lực chung của tất cả các nước thành viên. Các nền kinh tế nhỏ và

đang phát triển như Việt Nam không chỉ tìm thấy ở TPP cánh cửa mở vào các thị
trường tiêu thị rộng lớn mà còn có cơ hội hợp tác để phát triển cơ sở hạ tầng, xác
lập vai trò của mình trong chuỗi cung ứng hàng hóa toàn cầu.
Tham gia vào Hiệp định TPP – một cấu trúc quan trọng của khu vực sẽ giúp
Việt Nam nắm bắt và tận dụng tốt hơn các cơ hội do quá trình tái cấu trúc cục diện
quốc tế và khu vực cũng như xu thế hội nhập kinh tế khu vực đem lại. Đặc biệt,
Việt Nam sẽ có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến
lược đối ngoại ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng, qua đó nâng cao vị
thế Việt Nam trên trường quốc tế.
b. Thách thức cho Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, Hiệp định TPP là một bước phát triển mới về chất
lượng cam kết, nó không chỉ thúc đẩy tự do hóa trong lĩnh vực thương mại hàng
hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư mà còn đề ra những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về
môi trường, lao động, quyền sở hữu trí tuệ Chính vì vậy, khi tham gia TPP, Việt
Nam không chỉ có được những cơ hội to lớn kể trên mà còn phải đối mặt với nhiều
thách thức, cụ thể là:
(1) Cạnh tranh tăng mạnh ở thị trường nội địa
19
Tham gia các FTA nói chung, TPP nói riêng, Việt Nam phải mở cửa nhanh
thị trường nội địa hàng hóa, dịch vụ đến từ các nước đối tác. Cho nên bất lợi chính
là áp lực cạnh tranh tăng mạnh ở thị trường nội địa do mức thuế giảm và mở cửa thị
trường. Tác động trực tiếp của việc cắt giảm thuế sẽ tạo điều kiện cho hàng hóa của
các nước đối tác vào nhiều hơn, cạnh tranh hơn, từ đó làm giảm thị phần của hàng
Việt Nam ngay trên sân nhà. Do đó, tham gia Hiệp định TPP có thể gây ra một số
hệ quả xã hội tiêu cực như tình trạng phá sản và thất nghiệp ở các doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh yếu và không có sự chuẩn bị tốt. Tuy nhiên, đây là con đường
mà sớm hay muộn Việt Nam cũng phải đi qua để chuyển dịch cơ cấu thành công,
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả.
(2) Thách thức từ rào cản kỹ thuật các nước nâng cao

Một thách thức gián tiếp từ việc giảm mạnh hàng rào thuế quan là khẳ năng
các nước đều nâng cao rào cản kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu. Điều này là vô cùng
khó khăn cho hàng hóa của nước ta khi trình độ sản xuất còn có những bất cập. Để
đáp ứng được những tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe, các doanh nghiệp sẽ phải tốn
thêm những khoản chi phí lớn, từ đó tăng chi phí sản xuất và giảm sức cạnh tranh
về giá của hàng hóa. Nhưng chính sức ép này sẽ khiến ngành sản xuất của Việt
Nam phải đổi mới trang thiết bị kỹ thuật để có thể tạo ra những sản phẩm có tính
cạnh tranh về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật tăng hơn, góp phần nâng cao uy tín,
hình ảnh của doanh nghiệp.
(3) Thách thức ở góc độ pháp lý
Hệ thống các quy định của Việt Nam nhìn chung kém phát triển hơn những
bên khác của TPP là một thách thức cho Việt Nam. Trong khi có một số loại trừ có
thể được áp dụng để phản ánh việc Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, Việt
Nam cũng không nên mong chờ rằng mình có thể vượt qua hoàn toàn những đòi hỏi
đó. Để thực thi cam kết trong Hiệp định TPP, Việt Nam có thể sẽ phải sửa đổi nhiều
quy định pháp luật về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ, đặc biệt là cải cách đạo
luật lao động để có sự chấp nhận của các nước thành viên. Tuy nhiên, với những
kinh nghiệm từ đàm phán gia nhập WTO, đây có thể là một thử thách không quá
lớn đối với Việt Nam.
(4) Thách thức về mặt kinh doanh và chính sách công

×