PHẦN III
DIỄN ĐẠT TRONG VĂN NGHỊ LUẬN XÃ
HỘI
(GỢI Ý CÁCH DẠY: Thầy cô có thể yêu cầu học
sinh nhắc lại yêu cầu về diễn đạt trong văn NLXH, cho
học sinh thực hành viết đoạn văn (mở bài, kết bài hoặc
một ý, một khía cạnh của phần thân bài) trên lớp hoặc
ở nhà. Thầy cô kiểm tra, nhận xét, cho điểm một số em.
Sau đó cung cấp tài liệu, yêu cầu học sinh nhận xét tài
liệu về cách diễn đạt, rồi so sánh, đối chiếu với sản
phẩm của mình, thầy cô định hướng cho học sinh các
cách viết bài văn NLXH hay hơn).
A. Yêu cầu về diễn đạt trong văn NLXH
1. Ghi nhớ SGK tr.21 và tr.67 đều yêu cầu: Diễn đạt
cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu
từ và yếu tố biểu cảm nhưng phải phù hợp…
2. Theo GS. TS Trần Đình Sử: “Văn nghị luận là
văn nói lí, nhưng xét cho kĩ, nó không bao giờ chỉ
thuần túy là nói lí, bởi trong lí có tình, tình cảm của
người viết, tình cảm đối với người đọc, tình cảm đối
với vấn đề bàn luận. Vì thế, văn nghị luận cũng có màu
sắc tu từ, nếu biết diễn đạt một cách có cảm xúc, hình
ản nhất định sẽ tăng thêm hiệu quả thuyết phục cho bài
văn”.
3. Cũng theo Trần Đình Sử: “Bài văn nghị luận hay
không chỉ có luận điểm, có ý nghĩa, lập luận chặt chẽ,
mà còn phải chú ý bố cục hợp lí. Bài văn thường có ba
phần, mở bài, thân bài, kết bài. Hình dung ra bài văn
như một cuộc trò chuyện, một cuộc phát biểu ý kiến
trước mọi người, thì nên có cách mở bài thích hợp.
Trong mở bài, tìm cách đưa ngay vấn đề cần bàn và
luận điểm chính cho người đọc thấy, sau đó phần thân
bài lần lượt trình bày, giải quyết. Phần kết bài không
nên đơn giản chỉ là “tóm lại” cái điều đã nói ở mở bài,
mà nên mở rộng ra, nhìn về triển vọng tương lai, hoặc
nêu đòi hỏi trách nhiệm đối với người đọc, khuyên nhủ
hay mong mỏi đối với mọi người.”
(Trích BÍ QUYẾT LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI)
THAM KHẢO MỞ BÀI, KẾT BÀI
MỞ BÀI: MỞ BÀI 1
. Mở đầu là câu hát hay một ý thơ
Đề bài: Bàn về một kĩ năng sống.
Đi đến nơi nào lời chào đi trước
Lời chào dẫn bước con đường bớt xa
Mỗi người chúng ta, trong hành trình đầy chông gai
của đường đời, rất cần có cho mình những kĩ năng sống
làm hành trang để chiếm lĩnh thành công, hạnh phúc và
những giá trị đích thực của cuộc sống. Bàn về kĩ năng
sống, có thể có rất nhiều, song có một nét đẹp trong
giao lưu ứng xử hằng ngày lại rất đáng để chúng ta lưu
tâm và bàn luận. Đó là lời chào.
MỞ BÀI 2: Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về lời
Phật dạy: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng
khoan dung”.
Nhạc Trịnh Công Sơn lôi cuốn người nghe không
chỉ ở giai điệu lắng sâu, da diết mà còn gây ấn tượng
bởi ca từ giàu ý nghĩa. Chỉ một câu hát “Tôi chợt biết
rằng vì sao tôi sống, vì đất nước cần một trái tim” cũng
khiến cho ta phải nghĩ suy. Thì ra, trong mỗi con người
không có gì quan trọng bằng trái tim, nhịp thở, cũng
như trong cuộc sống không có gì ý nghĩa bằng tấm
lòng nhân hậu, bao dung. Từ đó, ta càng thêm thấm
thía lời Phật dạy: “Tài sản lớn nhất của đời người chính
là lòng khoan dung”.
MỞ BÀI 3: Đề bài: “Kĩ năng đầu tiên và quan trọng
nhất mà bạn cần có trong một thế giới hiện đại là khả
năng “học phương pháp học” – nghĩa là thường xuyên
tiếp thu và học hỏi những phương pháp mới để làm
công việc cũ hay những phương pháp mới để làm công
việc mới… Trong một thế giới như vậy không chỉ kiến
thức mà cả phương pháp học hỏi của bạn mới tạo ra giá
trị riêng. Bởi những kiến thức bạn có ngày hôm nay sẽ
trở nên lỗi thời nhanh hơn bạn tưởng nhiều”.
(Theo Phrit-men, Thế giới phẳng, NXB Trẻ, 2005)
Từ lời khuyên của Phrit-men, hãy bàn về vai trò của
học “phương pháp hoc” đối với mỗi người trong thế
giới hiện đại.
“Học tập cũng như mặt trời lung linh nơi thiên
đàng” (Shakespeare).
Tất cả chúng ta đều suốt đời học tập trong những
lĩnh vực khác nhau nhưng không phải tất cả đều vươn
tới thiên đàng. Không phải vì họ lười biếng, không phải
vì họ không đam mê mà vì họ không tìm ra cách học
hiệu quả, cách thích ứng với những thay đổi của thế
giới hiện đại.
Theo Phrit-men, đó là cách “học phương pháp học”.
Ông đã đề cao vai trò của nó trong cuốn Thế giới
phẳng: “Kĩ năng đầu tiên và quan trọng nhất mà bạn
cần có trong một thế giới hiện đại là khả năng “học
phương pháp học” – nghĩa là thường xuyên tiếp thu và
học hỏi những phương pháp mới để làm công việc cũ
hay những phương pháp mới để làm công việc mới…
Trong một thế giới như vậy không chỉ kiến thức mà cả
phương pháp học hỏi của bạn mới tạo ra giá trị riêng.
Bởi những kiến thức bạn có ngày hôm nay sẽ trở nên
lỗi thời nhanh hơn bạn tưởng nhiều”.
MỞ BÀI 4: Đề bài: Nhà văn Đức F. Sile có nói:
Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được
hạnh phúc.
Em nghĩ gì về ý kiến đó và về vai trò của tình yêu
trong cuộc sống con người?
Tình yêu – chỉ hai chữ đơn giản vậy mà đã làm hai
tổn bao giấy mực của văn nhân, thi sĩ, triết gia… từ
xưa đến nay. Nó đã trở thành đề tài muôn thuở của con
người. V. Huy gô đã khẳng định: Tình yêu là bông hoa,
cuộc đời là mật ngọt. Vai trò của tình yêu lớn lao như
vậy nhưng bản chất của tình yêu là gì? F. Sile - Nhà
văn Đức thế kỉ XVIII cho rằng: “Tình yêu là niềm say
mê làm cho người khác được hạnh phúc”.
MỞ BÀI 5: Đề bài: Anh (chị) hãy viết một bài văn
nghị luận xã hội với đề tài: Giờ trái đất.
Có một khoảnh khắc mà cả thế giới không một ánh
đèn. Có một khoảnh khắc mà cả thế giới cùng làm một
công việc có ý nghĩa. Giờ trái đất – đó là 60 phút mà
toàn thế giới tắt đèn nhưng là để bật tương lai, một
tương lai về trái đất xanh, sạch và đẹp hơn.
KẾT BÀI
KẾT BÀI 1: Đề bài: Anh (chị) hãy viết một bài văn
nghị luận xã hội với đề tài: Giờ trái đất.
Có người đã nói rằng: Ước gì một năm không chỉ có
một giờ trái đất. Đúng thế, nhưng tại sao chúng ta lại
không biến mình thành một Hội An thứ hai? Tại sao
trường chúng ta không có những “greenagers” để cùng
nhau tạo nên những không gian xanh xung quanh mình.
Hãy mang Giờ Trái Đất về thành phố bạn, ngôi trường
của bạn. Hãy cùng nhau tắt điện, bật tương lai.
Cuộc sống luôn là cho và nhận, như nhà thơ Tố Hữu
đã viết “sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Nếu ta
biết cho đi sự tha thứ, sự cảm thông, ta sẽ nhận về một
cuộc sống bình yên, thanh thản.
KẾT BÀI 2: Đề: Nhạc sĩ S.Gu nô có lần nói: Hồi tôi
hai mươi tuổi tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài. Ba
mươi tuổi tôi đã nói: Tôi và Mô da. Bốn mươi tuổi tôi
nói: Mooda và tôi. Còn bây giờ tôi chỉ nói: Mô da.
Phải đi gần hết cuộc đời, Gu nô mới rút ra được bài
học nhân sinh sâu sắc và thấm thía. Chỉ trong vài câu
ngắn gọn, nhạc sĩ đã nói được bao điều thật thiết thực,
thật hữu ích cho mỗi chúng ta. Đây là lời khuyên về
đức khiêm tốn, về cách đánh giá bản thân và người
xung quanh. Khi đánh giá người khác, ta phải thận
trọng khiêm tốn. Đồng thời nó còn là lời phê phán
những thói xấu như chủ quan, tự phụ, kiêu căng…dễ
dẫn người ta đến thất bại trên đường đời. Đúng là làm
người thật khó. Để trở thành một người đủ tài và đức
lại càng khó. Ta có thể coi mấy câu nói của nhạc sĩ Gu
nô là một câu chuyện ngụ ngôn nhỏ,dí dỏm và tế nhị
song ý nghĩa giáo dục của nó quả là không nhỏ.
KẾT BÀI 3: Đề bài: “Khi một dân tộc rơi vào vòng
nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình
thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”.
Em có suy nghĩ gì về ý kiến đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tiếng nói là
thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quí báu của dân
tộc. Chúng ta phải giữ gìn, quí trọng nó, làm cho nó
phổ biến ngày càng rộng khắp”. Trách nhiệm này thuộc
về ai? Một câu hỏi lớn nhưng không phải không có lời
đáp. Là của tất cả mọi người nhưng đặc biệt đối với thế
hệ trẻ hôm nay. Chúng ta cần phải biết yêu và quí trọng
tiếng Việt, phải thường xuyên rèn luyện kĩ năng, bảo
vệ tiếng Việt. Hãy luôn tâm niệm:
“Tôi chỉ biết nếu tiếng tôi biến mất
Thì tôi sẵn sàng nhắm mắt buông xuôi!”
Cậu bé Phơ-răng trong hoàn cảnh đặc biệt của buổi
học cuối cùng đã có bước chuyển biến mới trong suy
nghĩ, nhận thức và tình cảm. Còn bạn, bạn sẽ làm gì
bây giờ để thể hiện tình yêu tiếng nói dân tộc một cách
cụ thể và rõ ràng nhất?
KẾT BÀI 4: Đề bài: Nhà văn Đức F. Si le có nói: “
Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được
hạnh phúc”
Em nghĩ gì về vai trò tình yêu trong cuộc sống con
người?
Tuy câu nói của F. Si le cách đây đã hai thế kỉ
nhưng ý nghĩ nhân sinh của nó vẫn rất mới mẻ và sâu
sắc. Quan điểm này không chỉ có giá trị trong phạm vi
tình yêu lứa đôi mà còn có giá trị trong đời sống tinh
thần của cả cộng đồng. Nó khá gần gũi với quan điểm
đạo lí Á Đông nên dễ hiểu và dễ chấp nhận. Mỗi chúng
ta hãy coi bài học về lòng vị tha và đức hi sinh trong
tình yêu là bài học lớn trong cuộc đời.
MỘT SỐ ĐOẠN VĂN THUỘC PHẦN THÂN
BÀI,
ĐOẠN 1: Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về đức tính lễ
phép trong giai tiếp, ứng xử.
Ai cũng phải rèn luyện, tu dưỡng đức tính lễ phép,
để sống đẹp, để hình thành nhân cách văn hóa. Giáo
dục đức tính lễ phép, các cụ thường nhắc lại câu ca sau
đây cho con cháu ghi lòng:
Khi còn bé tại gia hầu hạ,
Dưới hai thân vâng dạ theo lời.
Khi ăn, khi nói, khi cười,
Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang.
Hai thân là cha mẹ. Khuôn phép là nếp nhà, gia
giáo, lễ giáo. Không phải là tư tưởng phong kiến mà
qua câu ca dao, ta thấy nhân dân ta rất coi trọng việc
giáo dục phẩm chất lễ phép cho tuổi trẻ.
Lòng có sáng mới biết lễ phép. Lễ phép mà không
khép nép, khom lưng bợ đỡ, nịnh bợ. Trái với lễ phép
là vô lễ, sỗ sàng:
Đất xấu trồng cây khẳng khiu
Những người thô tục nói điều phàm phu.
Người thô tục là người vô học, vô văn hóa; nói điều
phàm phu là nói điều bậy bạ, vô lễ.
Người khiêm tốn, người có văn hóa được giáo dục
mới có đức tính lễ phép, có cách giao tiếp và ứng xử lễ
độ, lễ phép.
ĐOẠN 2: Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về tiền tài
và hạnh phúc.
(…) Sống ở đời, ai cũng muốn giàu sang, có nhiều
tiền của. Xã hội hiện nay đang khuyến khích người
người làm giàu, nhà nhà làm giàu; làm giàu bằng tài
năng, bằng sức lao động của bản thân mình. Biết làm ra
tiền của một cách chân chính, biết sử dụng tiền của một
cách hợp lí, không thể vì tiền tài mà biến thành kẻ bất
lương. Bàn về vấn đề tiền tài và hạnh phúc, ta càng
cảm thấy bài học về cần, kiệm, liêm, chính của Bác Hồ
dạy là vô cùng sâu sắc.
ĐOẠN 3: Đề bài: Suy nghĩ của anh (chị) về sự đồng
cảm và sẻ chia trong xã hội ta ngày nay
Có thương người mới biết đồng cảm và sẻ chia.
Nhìn thấy người bất hạnh, tàn tật, ốm đau, đói khổ,
hoạn nạn, ta động lòng thương, ta rơi nước mắt, đó là
đồng cảm. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”,
đó là san sẻ. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Bác Hồ
kêu gọi toàn dân “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc
ngoại xâm”. Bác Hồ cũng như hàng triệu gia đình đã
giảm bớt khẩu phần ăn hằng ngày dành gạo để cứu đói.
Chiến thắng được giặc đói lúc bấy giờ là một thành tích
to lớn của cách mạng, là do sức mạnh lòng nhân ái của
nhân dân ta.
Sau hơn ba mươi năm chiến tranh, nước ta hiện có
hàng chục vạn nạn nhân nhiễm chất độc da cam. Hàng
triệu đồng bào ở vùng sâu, vùng xa còn sống trong
cảnh nghèo khó thiếu thốn, khó khăn. Lũ lụt bão tố xảy
ra triền miên, gây ra cảnh người chết, cảnh màn trời
chiếu đất cho nhiều gia đình. Nhiều học sinh đến
trường bị nước lũ cuốn trôi; nhiều ngư dân ra khơi
đánh cá bị sóng gió cuốn mất tích. Trước những cảnh
đau lòng đó, ai mà chẳng động lòng thương, ai mà
chẳng rơi nước mắt?
Các phong trào quyên góp để cứu giúp, để ủng hộ
các nạn nhân chất độc da cam, các bệnh nhân nhiễm
HIV-AISD đã được đồng bào ta hưởng ứng nhiệt liệt.
Nhiều Việt kiều đã gửi về hàng trăm triệu đồng đóng
góp vào quỹ từ thiện được báo chí gợi ca. Phong trào
giúp học sinh nghèo, học sinh vượt khó khăn đã được
đông đảo thầy cô giáo và các bạn trẻ tham gia nhiệt
liệt. Tất cả các phong trào đó đã nói lên một cách cảm
động sức mạnh đoàn kết, truyền thống nhân ái vô cùng
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta.
Đồng cảm và sẻ chia đã trở thành bài ca, tiếng hát
của cả cộng đồng dân tộc. Đồng cảm và sẻ chia đã trở
thành tiếng gọi của lương tâm. Đồng cảm và sẻ chia đã
trở thành sức mạnh đẩy lùi khó khăn, hoạn nạn.
Khoan dung, với giá trị sâu sắc của nó, được ví như
sợi dây vô hình nối trái tim với trái tim, làm cho cuộc
sống giàu tình thương, xã hội hòa bình, thân ái. Dẫu
vậy, chúng ta không nên cho rằng khoan dung là nhân
nhượng, là chùn bước, dễ dàng đầu hàng cái xấu, cái
ác, mà nên hiểu theo nghĩa tích cực của câu “Một điều
nhịn là chín điều lành”. Thế cho nên, Phật mới dạy
rằng: “Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng
khoan dung”.
ĐOẠN 4: Đề bài: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô
lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì
chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”.
Em có suy nghĩ gì về ý kiến đó.
“Trên thế giới, những hoạt động bảo vệ tiếng nói
dân tộc luôn được quan tâm. Nước Nga đã chọn một
năm làm “Năm tiếng Nga”, nước Pháp cũng rất quan
tâm đầu tư xây dựng “Cộng đồng Pháp ngữ”, chính phủ
Trung Quốc đã có quy định về viết tên thương hiệu, tên
của các cơ quan, tổ chức công ty theo nguyên tắc chữ
Hán.
Ở Việt Nam ta, từ xa xưa yêu cầu bảo vệ tiếng nói
dân tộc đã được đặt ra như một nội dung quan trọng.
Vua Trần Duệ Tông xuống chiếu cho quân dân không
được bắt chước ngôn ngữ để làm loạn ngôn ngữ nước
nhà. Hồ Chí Minh đã từng phê phán căn bệnh nói chữ:
“Của mình có mà không dùng lại đi mượn của nước
ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay sao?”
ĐOẠN 5: Đề bài: Nhà văn Đức F. Si le có nói: “
Tình yêu là niềm say mê làm cho người khác được
hạnh phúc”
Em nghĩ gì về vai trò tình yêu trong cuộc sống con
người?
Người xưa nói rằng đất cũng có tình yêu và say mê
sự sống. Lúa nổi ở Đồng Tháp Mười là quà của đất
tặng của con người, không đòi hỏi con người một chút
mồ hôi gieo trồng. Được người chăm sóc, đất sinh hoa
kết trái cho đời, không bao giờ ngừng nghỉ. Cuộc sống
con người cần có tình yêu biết bao! Con người không
có tình yêu thì khác chi trái đất không có ánh mặt trời.
Tình yêu say mê của các nhà khoa học là hi sinh sức
lực, thời gian cả một đời để nghiên cứu, phát minh,
sáng tạo ra những điều tốt đẹp, đem lại hạnh phúc cho
con người. Tình yêu của người chiến sĩ sẽ đem lại
thanh bình cho đất nước. Người chiến sĩ hiểu rất rõ
rằng: tính mạng là đáng quí và tình yêu rất đẹp. Nhưng
nếu vì tự do của nhân dân, Tổ quốc, họ có thể hi sinh
cả hai thứ đó. Tất cả đều bắt nguồn từ tình yêu lớn, từ
sự say mê làm cho người khác được hạnh phúc.
Tình yêu là quy luật muôn đời.