Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Luận văn thạc sỹ: Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.86 KB, 122 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TÓM TẮT LUẬN VĂN
1
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCVT: Bưu chính viễn thông
CNTT: Công nghệ thông tin
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
HĐQT: Hội đồng quản trị
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TĐKT: Tập đoàn kinh tế
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
VNPT: Tập doàn bưu chính viễn thông Việt Nam
XDCB: Xây dựng cơ bản
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng phát triển chung của nền kinh tế, Bưu chính Viễn
thông Việt Nam đã có những thay đổi mạnh mẽ theo hướng hội nhập kinh
tế quốc tế. Từ một ngành nhỏ bé về quy mô, lạc hậu về kỹ thuật đã phát
triển ngang tầm khu vực, có nhiều đóng góp đáng kể vào công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước hành
lang pháp lý ngày càng hoàn thiện với việc Nhà nước ban hành và công bố
Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông, Luật Công nghệ thông tin, Luật Giao
dịch điện tử; Chiến lược phát triển Bưu chính Viễn thông đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020; Bộ máy quản lý cũng được củng cố và hoạt
động ngày càng hiệu quả với sự ra đời của Bộ Bưu chính, Viễn thông ở
trung ương và các sở Bưu chính Viễn thông tại các tỉnh, thành phố. Môi
trường kinh doanh cũng đã chuyển biến mạnh theo hướng cạnh tranh với sự
xuất hiện của nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tham gia cung cấp dịch vụ
BCVT trên thị trường. Tuy nhiên do điều kiện lịch sử, Bưu chính Viễn


thông Việt Nam là một ngành độc quyền tự nhiên. Do tính chất độc quyền
đó mà trong suốt một thời gian dài, quản lý Nhà nước về BCVT nói chung
và cơ chế quản lý trong từng doanh nghiệp nói riêng còn mang tính bao
cấp, chậm đổi mới, phần nào đã gây trở ngại cho sự phát triển ngành BCVT
trong giai đoạn hội nhập hiện nay, nhất là khi Việt Nam đã chính thức gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Ngành BCVT Việt Nam đang
đứng trước những thách thức khó khăn vì năng suất lao động thấp, chưa
hình thành được những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh, có khả năng đầu tư
ra nước ngoài, thiếu kinh nghiệm, vốn và cả phương thức quản lý.
Đổi mới cơ chế quản lý nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp BCVT VN, xây dựng ngành BCVT thực sự vững mạnh, tạo đà cho phát
triển kinh tế xã hội đất nước là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Với
chủ trương phát triển doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông theo mô hình tập
1
đoàn, Chính phủ đã phê duyệt quyết định thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông Việt Nam trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Tổng công ty BCVTVN
(VNPT). Dự kiến trong năm 2007, Tập đoàn chính thức đi vào hoạt động.
Với lý do đó, tác giả chọn đề tài “Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp Bưu
chính Viễn thông” với mục đích kết hợp giữa thực tiễn và lý luận để nghiên cứu
nhằm hiểu rõ hơn các vấn đề về quản lý thuộc lĩnh vực công tác của bản thân.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp BCVT hiện đang được các
nhà nghiên cứu, quản lý trong lĩnh vực này hết sức quan tâm.
Có nhiều bài viết đề cập đến các vấn đề xung quanh việc đổi mới tổ chức,
quản lý của VNPT trong điều kiện chuyển đổi từ tổng công ty thành tập đoàn,
nhưng chưa có tài liệu nào nghiên cứu về cơ chế quản lý doanh nghiệp BCVT.
Đề án thành lập tập đoàn BCVT đã được phê duyệt, Tổng công ty BCVT Việt
Nam đã đổi tên thành Tập đoàn BCVT Việt Nam; Tuy nhiên, về tổ chức hoạt
động vẫn đang là mô hình cũ. Tập đoàn đang tiếp tục sắp xếp, chuyển đổi và
nghiên cứu để chính thức đi vào hoạt động theo cơ chế mới trong năm 2007.

3. Mục đích, nhiệm vụ khoa học của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế
quản lý doanh nghiệp nhà nước, thực trạng cơ chế quản lý doanh nghiệp
Bưu chính Viễn thông ở Việt Nam, luận văn nêu lên định hướng và đề xuất
các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông trong quá trình đổi mới
hiện nay. Nhiệm vụ khoa học của luận văn:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cơ chế quản lý doanh nghiệp nói chung;
- Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý doanh nghiệp Bưu chính Viễn
thông, tập trung vào Tổng công ty Bưu chính Viễn thông (nay là Tập đoàn
Bưu chính Viễn thông Việt Nam);
- Nêu lên định hướng và các giải pháp thiết thực hoàn thiện cơ chế quản
lý doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông trong điều kiện chuyển đổi Tổng công
ty Bưu chính Viễn thông thành Tập đoàn Bưu chính Viễn thông.
2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Cơ chế quản lý doanh nghiệp và vấn đề đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp
trong ngành Bưu chính Viễn thông trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài đi sâu nghiên cứu nội dung và giải pháp đổi mới cơ chế quản lý
trong các doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông Việt Nam, trực tiếp là Tổng
công ty bưu chính Viễn thông Việt Nam - doanh nghiệp chủ đạo trong ngành
Bưu chính Viễn thông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp trừu
tượng hoá, kết hợp logic với lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp thống kê.
6. Đóng góp của luận văn:
- Hệ thống hoá lý luận về cơ chế quản lý doanh nghiệp

- Đánh giá sát thực cơ chế quản lý của các doanh nghiệp Bưu chính
Viễn thông
- Nêu lên được định hướng và các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn
thiện cơ chế quản lý đối với DNNN nói chung, các doanh nghiệp Bưu chính
Viễn thông nói riêng.
7. Kết cấu luận văn:
Luận văn được kết cấu gồm 3 phần : mở đầu, nội dung, kết luận.
Nội dung gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận và thực tiễn về cơ chế quản lý doanh nghiệp Bưu
chính Viễn thông
Chương II: Thực trạng cơ chế quản lý doanh nghiệp Bưu chính Viễn
thông hiện nay ở Việt Nam
Chương III: Định hướng và các giải pháp đổi mới cơ chế quản lý doanh
nghiệp Bưu chính Viễn thông trong thời gian tới
3
Chương 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG
1.1. CƠ CHẾ QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP VÀ NỘI DUNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ
DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm về cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế quản lý doanh nghiệp
Theo giáo trình Quản lý kinh tế của Trường Đại học kinh tế quốc dân:
“Cơ chế quản lý kinh tế là phương thức điều hành nền kinh tế có kế hoạch,
dựa trên cơ sở các đòi hỏi của các qui luật khách quan của sự phát triển xã
hội, bao gồm tổng thể các phương pháp, các hình thức, các thủ thuật để thực
hiện yêu cầu của các qui luật khách quan ấy”
Tài liệu “Tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX của
Đảng” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia đưa ra khái niệm: “Cơ chế quản lý
kinh tế là tổng thể các mối quan hệ ước chế và tác động qua lại lẫn nhau giữa
các bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế, tạo thành động lực điều tiết, dẫn

dắt nền kinh tế phát triển”.
Cơ chế kinh tế phát huy tác dụng trong vận hành thể chế kinh tế, nên còn
được gọi là cơ chế vận hành kinh tế.
Như vậy, khái niệm cơ chế kinh tế bao hàm ba nội dung: cơ chế kinh tế
gồm các chế định điều hóa quá trình kinh tế; cơ chế kinh tế phát huy tác dụng
qua sự tương tác giữa các yếu tố cấu thành; cơ chế kinh tế vận hành và phát
huy tác dụng theo một phương thức nhất định, có quy luật.
Cơ chế quản lý kinh tế là các quy tắc điều chỉnh các hành vi, hoạt động
kinh tế của các cá nhân và tổ chức kinh tế; là hệ thống các biện pháp, hình
thức, cách thức tổ chức, điều khiển nhằm duy trì các mối quan hệ kinh tế phát
triển phù hợp với những quy luật kinh tế khách quan theo mục tiêu đã xác
định trong những điều kiện kinh tế xã hội của từng giai đoạn phát triển.
4
Cơ chế quản lý kinh tế tác động sâu sắc đến hiệu quả phát triển của nền
kinh tế quốc dân; do vậy, hiệu quả kinh tế xã hội là một trong những tiêu
chuẩn quan trọng đánh giá tính đúng đắn của cơ chế quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý kinh tế có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau:
trong hệ thống kinh tế vĩ mô tồn tại khái niệm cơ chế thị trường và cơ chế kế
hoạch tập trung, cơ chế điều tiết vĩ mô; tầm vi mô tồn tại cơ chế tự điều tiết…
Nghiên cứu cơ chế quản lý kinh tế là nghiên cứu trên góc độ của hệ
thống cơ chế kinh tế và vai trò, vị trí của kế hoạch, của tài chính, của hạch
toán kinh tế, của đòn bẩy và khuyến khích kinh tế vv. Không nghiên cứu
những nội dung của cơ chế đó riêng biệt, tách rời nhau mà trong mối quan hệ
mật thiết, một thể thống nhất hữu cơ. Cơ chế quản lý kinh tế chính là sự vận
dụng các qui luật kinh tế. Do đó, phải nhận thức và tuân thủ đúng các yêu cầu
của quy luật khách quan có liên quan đến quá trình phát triển nền kinh tế quốc
dân, phân loại chính xác tầm quan trọng của mỗi qui luật, nắm vững mối
tương tác giữa các qui luật để rút ra các giải pháp quản lý kinh tế thích hợp
cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó chính là việc phải biết vận
dụng đúng các qui luật trong quản lý nền kinh tế quốc dân, hình thành nên cơ

chế quản lý thích hợp.
Từ việc phân tích khái niệm cơ chế quản lý kinh tế, và với quan điểm
doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế thì cơ chế quản lý kinh tế đã bao hàm
cả cơ chế quản lý doanh nghiệp. Như vậy, cơ chế quản lý doanh nghiệp là
tổng thể các nguyên tắc, các qui định của Nhà nước đối với doanh nghiệp;
cùng với cơ cấu tổ chức và cách thức vận hành để doanh nghiệp phát triển
với mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Nói cách khác, cơ chế quản lý doanh nghiệp đề cập đến các qui tắc
hướng dẫn hành vi của các doanh nghiệp, cũng như các hành động của chính
phủ nhằm thúc đẩy và thực thi các qui tắc đó. Cơ chế hay chế độ quản lý
doanh nghiệp tạo cơ sở cho môi trường kinh doanh ổn định và hiệu quả.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp do những đặc điểm của doanh nghiệp đó
5
và do tính chất của hệ thống quản lý doanh nghiệp của Nhà nước quyết định.
Những đặc điểm của hệ thống quản lý doanh nghiệp có ảnh hưởng đến cơ
chế quản lý doanh nghiệp là: nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, luật
doanh nghiệp, bối cảnh chung của thế giới và mục tiêu của doanh nghiệp.
1.1.2. Nội dung cơ chế quản lý doanh nghiệp
1.1.2.1. Chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp
Thực tế đã chứng minh nếu không xác định được một chiến lược phát
triển đúng, nhà doanh nghiệp rất có thể tự mình lao vào những cạm bẫy không
thể rút ra được, dẫn đến tình hình kinh doanh sa sút và thậm chí phá sản.
Doanh nghiệp có thể đặt mục tiêu và quyết định đầu tư vào một lĩnh vực mới
với hy vọng phát triển, nhưng đó không đánh giá được hết đối thủ cạnh tranh,
tiềm lực của mình mà có thể dẫn đến thua lỗ. Nguyên nhân dẫn đến việc
doanh nghiệp ngày càng sa sút có thể rất nhiều; có thể rõ ràng hoặc còn tiềm
ẩn. Có thể do doanh nghiệp không có một bộ máy tổ chức hợp lý, quản lý
nhân sự chưa hiệu quả, chi phí quản lý quá cao, hoặc cũng có thể do sản phẩm
của doanh nghiệp không được đổi mới, thị phần ngày càng giảm, không sử
dụng đúng các chiến lược về giá, marketing

Chiến lược có thể coi là tập hợp những quyết định và hành động hướng
mục tiêu để các năng lực và nguồn lực của tổ chức đáp ứng được những cơ
hội và thách thức từ bên ngoài. Vì vậy, trước hết, chiến lược liên quan tới các
mục tiêu của doanh nghiệp. Thứ đến, chiến lược doanh nghiệp bao gồm
không chỉ những gì doanh nghiệp muốn thực hiện, mà còn là cách thức thực
hiện những việc đó là một loạt các hành động và quyết định có liên quan chặt
chẽ với nhau và lựa chọn phương pháp phối hợp những hành động và quyết
định đó. Chiến lược của doanh nghiệp phải khai thác được những điểm mạnh
cơ bản của mình (các nguồn lực và năng lực) và phải tính đến những cơ hội,
thách thức của môi trường.
Các chiến lược tồn tại ở vài cấp độ khác nhau - trải dài từ toàn bộ doanh
6
nghiệp (hoặc một nhóm doanh nghiệp) cho tới từng cá nhân làm việc trong đó.
Chiến lược doanh nghiệp – liên quan đến mục tiêu tổng thể và quy mô
của doanh nghiệp để đáp ứng được những kỳ vọng của người góp vốn. Đây là
một cấp độ quan trọng do nó chịu ảnh hưởng lớn từ các nhà đầu tư trong
doanh nghiệp và đồng thời nó cũng hướng dẫn quá trình ra quyết định chiến l-
ược trong toàn bộ doanh nghiệp.
Chiến lược kinh doanh - liên quan nhiều hơn tới việc làm thế nào một
doanh nghiệp có thể cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ thể. Nó liên
quan đến các quyết định chiến lược về việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu
cầu khách hàng, giành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra
được các cơ hội mới v.v
Chiến lược tác nghiệp - liên quan tới việc từng bộ phận trong doanh
nghiệp sẽ được tổ chức như thế nào để thực hiện được phương hướng chiến
lược ở cấp độ công ty và từng bộ phận trong doanh nghiệp. Bởi vậy, chiến
lược tác nghiệp tập trung vào các vấn đề về nguồn lực, quá trình xử lý và
con người.
Quản trị chiến lược là gì? Đó là một loạt các bước mà doanh nghiệp phải
thực hiện: Phân tích tình hình hiện tại; các quyết định nhằm đưa chiến lược

vào thực thi đánh giá, điều chỉnh, thay đổi chiến lược khi cần thiết. Nó bao
gồm tất cả các chức năng cơ bản của quản lý: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo
và kiểm soát. Như vậy, quy trình quản trị chiến lược bao gồm cả việc xây
dựng chiến lược, thực hiện chiến lược và đánh giá chiến lược.
Nói một cách tổng quát, quản trị chiến lược là một quá trình sắp xếp linh
hoạt các chiến lược, tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh, nó bao gồm
nhân lực, lãnh đạo, kỹ thuật và cả phương pháp xử lý.
Một chiến lược cho tổ chức – dù chiến lược đó là cho toàn bộ hoạt động
kinh doanh hay chỉ là hệ thống thông tin – cũng đều phải bao gồm:
- Một “tầm nhìn” chiến lược – một tầm nhìn dài hạn xem tổ chức mong
7
muốn tự đặt mình vào trong mối quan hệ tới môi trường kinh doanh như thế
nào – ví dụ, vai trò và chức năng của tổ chức, sản phẩm và dịch vụ mà tổ chức
cung cấp, mối quan hệ giữa tổ chức với khách hàng và đối thủ cạnh tranh.
- Các công việc cần làm cho sự thay đổi - những khu vực thay đổi quan
trọng mà tổ chức tham gia nhằm ứng phó với những khó khăn và cơ hội mà
nó phải đối mặt; những điều này sẽ là “chủ điểm” trong chiến lược trong đó
nó đưa ra một số chủ đề như cơ cấu và tổ chức, chức năng và hoạt động kinh
doanh, cung cấp sản phẩm và dịch vụ, các vấn đề về quản lý và nhân viên;
công nghệ hay các mối quan hệ bên ngoài; một chủ điểm được thực hiện
trong khoảng thời gian dài hoặc trung hạn.
- Các chính sách hướng dẫn quá trình ra quyết định và đưa ra một khuôn
khổ chung cho các quyết định quản trị - những chính sách này sẽ ảnh hưởng
tới những đặc điểm hành vi dẫn dắt tổ chức hướng tới một tương lai như
mong muốn.
Xem xét đánh giá lại chiến lược là một phần trong nhiệm vụ giám sát
tình hình tổ chức. Các nội dung cần xem xét:
- Tầm nhìn cho tổ chức vẫn còn có giá trị? Tầm nhìn về tương lai mong
muốn cho doanh nghiệp có còn phù hợp, con đường mà hoạt động kinh doanh
đang phát triển và những thay đổi đã diễn ra - hoặc dường như sẽ diễn ra -

trong môi trường kinh doanh.
- Các chủ điểm trong chiến lược có còn đúng không? Có cần phải thêm
vào các chủ điểm khác trong “danh mục những công việc quan trọng cần làm”
do tình hình kinh doanh đã thay đổi, xuất hiện công nghệ mới và có áp lực từ
môi trường bên ngoài hoặc thay đổi trong khả năng kinh doanh hay không?
Có chủ điểm chiến lược nào không còn phù hợp với“danh mục những công
viêc quan trọng cần làm”?
- Tiến trình đang thực hiện đối với chủ điểm chiến lược, và có cần phải
8
xác định lại thứ tự ưu tiên hoặc lập lại kế hoạch để đảm bảo rằng tỷ lệ thay
đổi đáp ứng được những yêu cầu kinh doanh.
Đồng thời, phải luôn đánh giá lại các cấp độ chiến lược hoặc kế hoạch sau:
- Tầm nhìn chiến lược
- Lộ trình đã được chọn để hướng tới tầm nhìn
- Các kế hoạch chi tiết để thực hiện.
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ doanh nghiệp nào cũng theo đuổi
các mục đích chủ yếu: sự tồn tại, phát triển, đa dạng hoá và hiệu quả kinh
doanh. Những mục đích này hình thành hệ thống mục tiêu toàn diện trong
chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm: cơ cấu sản
phẩm, dịch vụ chủ yếu; doanh thu và tốc độ tăng trưởng hàng năm; hiệu quả
sử dụng vốn, công suất thiết bị; tổng lợi nhuận, nghĩa vụ Ngân sách, năng suất
lao động và thu nhập bình quân; các chương trình, dự án đầu tư phát triển;
hướng nghiên cứu sản xuất mới; hướng mở rộng thị trường, Các mục tiêu
trên được hoạch định theo thời gian: dài hạn (10 đến 15 năm), trung hạn (5
năm) và ngắn hạn ( hàng năm).
1.1.2.2. Cơ chế tài chính
Cơ chế tài chính là những cách thức, phương thức và công cụ tài chính
mà qua đó, quá trình quản lý tài chính được thực hiện. Trọng tâm của cơ chế
tài chính là: vấn đề huy động, sử dụng vốn; cơ chế hạch toán kinh doanh; cơ
chế phân phối lợi nhuận.

(i) Cơ chế huy động vốn: Vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cơ chế huy động vốn có vai trò đặc
biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có hai con đường cơ bản để tạo vốn: thứ nhất là huy động
vốn từ nội bộ nền kinh tế; thứ hai là huy động vốn từ nước ngoài thông qua
các dự án đầu tư nước ngoài, liên doanh, liên kết, phát hành cổ phiếu, trái
phiếu và vay vốn nước ngoài.
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị
9
trường tài chính.
Nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp được phân thành 2 nhóm:
nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản vốn vay.
Nguồn vốn chủ sở hữu gồm: Nguồn vốn Ngân sách đầu tư ban đầu;
Nguồn hình thành thông qua phát hành cổ phiếu; Nguồn vốn bổ sung từ lợi
nhuận sau thuế.
Nguồn vốn vay gồm: Vay thông qua phát hành trái phiếu; Vay từ các tổ
chức tín dụng; Nguồn vốn tín dụng thương mại; Thuê tài sản.
Các Tập đoàn kinh tế trên thế giới thực hiện điều hoà vốn trong nội bộ
tập đoàn thông qua các trung gian tài chính. Đây là một phương thức tạo vốn
hữu hiệu, nhờ đó tập đoàn có thể phát huy được nội lực, giảm bớt sự phụ
thuộc vào các nguồn tài chính bên ngoài. Vai trò điều hoà vốn của các trung
gian tài chính trong tập đoàn rất quan trọng, thể hiện:
- Các trung gian tài chính trong tập đoàn giúp tạo nguồn vốn, điều hoà
vốn và khơi thông các luồng vốn giữa các thành viên trong tập đoàn một cách
hiệu quả nhất với chi phí thấp.
- Bên cạnh việc huy động vốn trong nội bộ tập đoàn, các trung gian tài
chính có thể tìm kiếm, huy động các nguồn vốn từ bên ngoài nhằm đáp ứng
nhanh chóng nhu cầu lớn về vốn kinh doanh của cả tập đoàn. Các trung gian
tài chính còn có tác dụng quản lý và điều tiết tập trung các nguồn vốn huy

động cho tập đoàn để đảm bảo hiệu quả nguồn vốn huy động, giúp tập đoàn
có thể tham gia vào các thị trường vốn trong nước và quốc tế.
(ii) Cơ chế quản lý và sử dụng vốn:
Cơ chế quản lý, sử dụng vốn trong doanh nghiệp chủ yếu là những qui
định về quản lý, sử dụng vốn và tài sản, các qui định liên quan đến việc phân
cấp đầu tư, mua sắm, thanh lý tài sản, của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì cơ chế quản lý và sử dụng vốn phải trên
cơ sở đánh giá các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng chứ không thực hiện
10
quản lý theo kiểu hành chính, can thiệp quá sâu vào quyền quyết định của các
đơn vị sử dụng vốn.
Vấn đề đang được quan tâm nhất hiện nay ở các doanh nghiệp nước ta là
giải quyết mối quan hệ giữa quyền sở hữu và sử dụng vốn trong các doanh
nghiệp nhà nước.
(iii) Cơ chế hạch toán, xác định kết quả:
Hiện nay ở các Tổng công ty của Việt Nam đang tồn tại các hình thức
hạch toán: hạch toán tập trung, hạch toán phân tán, hạch toán vừa tập trung
vừa phân tán.
Bản chất của hình thức hạch toán tập trung là hạch toán phụ thuộc:
doanh thu, chi phí của các đơn vị thành viên được tập trung về công ty mẹ, lợi
nhuận và thu nhập của các đơn vị thành viên do công ty mẹ quyết định. Hình
thức hạch toán này tạo nên sự thụ động, ỷ lại của các đơn vị cấp dưới do
không xác định chính xác kết quả SXKD của đơn vị mình mà hưởng theo sự
điều tiết chung.
Hình thức hạch toán độc lập (phân tán) cho phép mỗi đơn vị xác định
đúng hiệu quả SXKD của đơn vị mình; do đó, phát huy được tính chủ động,
sáng tạo của từng đơn vị thành viên nhưng không tạo được mối liên kết chặt
chẽ giữa các đơn vị thành viên và công ty mẹ.
Cơ chế phân phối lợi nhuận và thu nhập trong doanh nghiệp cũng chịu
ảnh hưởng của cơ chế hạch toán. Chính vì vậy, việc lựa chọn hình thức hạch

toán phù hợp rất quan trọng trong các doanh nghiệp.
Để giảm bớt những hạn chế trong mỗi hình thức, các Tổng công ty thường
kết hợp giữa hai hình thức: vừa tập trung, vừa phân tán. Tuỳ theo đặc điểm
SXKD, các đơn vị lựa chọn hình thức hạch toán để vừa đảm bảo mục tiêu phát
triển của cả doanh nghiệp, mà vẫn tạo sự chủ động cho các thành viên.
1.1.2.3. Cơ chế quản lý nguồn nhân lực
11
Nguồn nhân lực được coi là một trong rất ít các yếu tố có vai trò tạo ra
lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong kinh doanh. Yêu cầu của quản trị
nguồn nhân lực là làm thế nào để sử dụng nguồn lực lao động hiệu quả nhất
nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Quản trị nguồn nhân lực liên quan mật thiết tới việc thực hiện kế hoạch
chiến lược phát triển doanh nghiệp.
Ngày nay, các doanh nghiệp không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh dữ dội
trong việc giành giật nhân tài mà còn phải đối mặt với sự phức tạp khi hoạch
định nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.
Khảo sát của Cedar Crestone (Mỹ) cho thấy những doanh nghiệp không
ứng dụng các giải pháp về nhân lực chỉ đạt mức tăng doanh số 2%. Giới phân
tích cũng khẳng định rằng các công nghệ quản trị con người mang lại kết quả
rõ ràng từ hạ tầng cho đến thượng tầng.
Các giai đoạn trong chiến lược nguồn nhân lực gồm các bước cơ bản sau:
(i) Công tác tuyển dụng:
Cách thức tuyển dụng: Thông báo thi tuyển công khai hoặc đến trực tiếp
các trường đại học, các cơ sở đào tạo để tuyển dụng.
Chế độ tuyển dụng thông thường được áp dụng hiện nay là tuyển dụng
suốt đời hoặc theo chế độ hợp đồng linh hoạt. Sau khi tuyển dụng, người lao
động sẽ có một thời gian thử thách, sát hạch sau đó là hợp đồng chính thức.
(ii) Giữ và phát huy năng lực
Giai đoạn này tập trung vào việc: làm sao để phát huy được hết khả năng
và lòng trung thành của người lao động với doanh nghiệp. Nó liên quan đến

các vấn đề: bố trí việc làm phù hợp khả năng; thực hiện chế độ quản lý khoa
học; chế độ đãi ngộ thích đáng.
(iii) Công tác phát triển nguồn nhân lực
12
Người lao động phải được cập nhật kiến thức thường xuyên thông qua
đào tạo, đạo tạo lại dưới các hình thức. Bên cạnh đó, phải chú trọng việc thu
hút nhân tài từ bên ngoài để tăng cường năng lực cho doanh nghiệp mà không
mất chi phí đào tạo.
1.1.2.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Cơ cấu tổ chức doanh nghiệp không phải là cái gì bất biến. Ngược lại, nó
là một hiện tượng phức tạp. Về mặt này, vai trò và ảnh hưởng của người quản
lý rất quan trọng.
Jay W.Lorsch, giáo sư về khoa học quan hệ nhân quần, là tiến sĩ về quản
lý công thương nghiệp của Trường Đại học Harvard, một nhân vật nổi tiếng
của lý luận quản lý hiện đại thuộc trường phái lý luận quyền biến, cho rằng,
trước hết phải phân biệt một cách chính xác “cơ cấu cơ bản” và "cơ chế vận
hành". Khi nói đến cơ cấu cơ bản của một doanh nghiệp, người ta cần phải xét
đến những vấn đề chủ yếu như sự phân công trong nội bộ tổ chức việc sắp
xếp nhiệm vụ công tác cho các phòng, ban khác nhau, làm thế nào để thực
hiện sự điều hòa, phối hợp cần thiết nhằm bảo đảm thực hiện được mục tiêu
tổng thể của doanh nghiệp
Đáp án của những vấn đề này là: các doanh nghiệp thường dùng hình
thức biểu đồ để thể hiện cơ cấu tổ chức (như biểu đồ về hệ thống tổ chức).
Mặc dù đến nay, rất nhiều giám đốc vẫn sử dụng một cách rộng rãi các loại
biểu đồ, nhưng nếu chỉ có cơ cấu cơ bản thì không đủ mà cần phải thông qua
cơ chế vận hành để tăng cường cơ cấu cơ bản, đảm bảo thực hiện ý đồ của cơ
cấu cơ bản. Cơ chế vận hành là trình tự điều khiển, hệ thống thông tin, chế độ
thưởng phạt cũng như các chế độ đã được quy phạm hóa
Việc xác lập và tăng cường cơ chế vận hành sẽ làm cho công nhân viên
hiểu rõ rằng, cái mà doanh nghiệp yêu cầu và mong muốn ở họ là cái gì? Một

cơ chế vận hành tốt sẽ khích lệ công nhân viên đồng tâm hiệp lực, gắng sức
thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là cơ chế vận
13
hành đem lại nội dung và sức sống cho cơ cấu cơ bản của doanh nghiệp.
Lý luận quản lý cổ điển về cơ cấu tổ chức:
Lorsch cho rằng, kinh nghiệm chủ yếu của các học giả nổi tiếng của lý
luận cổ điển và những người theo họ là kinh nghiệm thực tế của các doanh
nghiệp ở thời kỳ đầu của thế kỷ XX.
Đối với những nhà lý luận quản lý cổ điển, việc điều hòa, phối hợp trong
nội bộ doanh nghiệp không quan trọng. Họ nhận định một cách đơn giản rằng,
sau khi phân công trong nội bộ doanh nghiệp, những mục tiêu nhỏ của các tổ
hợp lao động được tổng hợp lại sẽ trở thành mục tiêu lớn của doanh nghiệp.
Nếu cần điều phối thì hoàn toàn có thể dựa vào nhân viên quản lý kinh doanh
ở tầng lớp trên giải quyết. Lý luận của họ là công nhân viên phải nghe theo sự
chỉ huy của giám đốc. Do đó, cơ cấu điều phối có hiệu quả duy nhất chỉ có thể
là tầng lớp giám đốc.
Nhưng lý luận quản lý cổ điển còn có rất nhiều khiếm khuyết. Trước hết,
nó rất khó khích lệ tính tích cực của doanh nghiệp. Thứ hai, sự hạn chế của lý
luận đó rất dễ biểu hiện ở những doanh nghiệp lớn vì ở đó, tầng nấc phân
công rất phức tạp. Thứ ba, trên thực tế, các giám đốc ngày càng nhận thức
được rằng, nếu chỉ dựa vào sự lãnh đạo ở tầng cao của doanh nghiệp thì rất
khó thực hiện được sự điều hòa, phối hợp trong tổ hợp lao động cơ sở và nó
sẽ không tự động hợp thành mục tiêu lớn của doanh nghiệp.
Lý luận quản lý hiện đại về thiết kế cơ cấu tổ chức doanh nghiệp:
Trường phái quản lý hệ thống trong lý luận quản lý hiện đại cho rằng,
thiết kế tổ chức là do nhiệm vụ sản xuất và tố chất (chất lượng) của công nhân
viên của doanh nghiệp quyết định. Về mặt này, nghiên cứu của một số học giả
Mỹ về quản lý đều thừa nhận tính hữu hiệu của lý luận này. Họ cho rằng, cơ
cấu tổ chức của doanh nghiệp là vấn đề quan trọng có liên quan đến thành
công của doanh nghiệp.

Họ đã trình bày những yếu tố chủ yếu cấu thành cơ cấu tổ chức của
14
những doanh nghiệp thành công, nhưng lại chưa đề ra được một đường lối
hữu hiệu, hoàn chỉnh để giải quyết vấn đề cơ cấu tổ chức doanh nghiệp một
cách có hệ thống. Trên cơ sở những nghiên cứu của mình, Lorsch đã tiếp tục
tìm tòi, nghiên cứu và viết ra cuốn "Thiết kế cơ cấu tổ chức”, hình thành một
hệ thống lý luận hoàn chỉnh về thiết kế cơ cấu tổ chức.
Lý luận về thiết kế cơ cấu tổ chức của Lorsch:
Những suy nghĩ về thiết kế cơ cấu tổ chức do Lorsch đề ra bao hàm 2
khái niệm cơ bản: "Sự dị biệt" hoặc "sự khác biệt”, Sự "tổng hợp" hoặc "tổng
thể hóa".
Sự dị biệt ở đây là trình độ nhận thức và tinh thần, tư tưởng của người quản
lý ở các bộ phận khác nhau trong doanh nghiệp và những sự khác nhau về cơ
cấu tổ chức chính thức của các bộ phận đó. Không như các học giả theo lý luận
quản lý cổ điển, coi phân công là nhân tố duy nhất quyết định năng suất lao động
và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp, Lorsch cho rằng, mỗi bộ phận sản xuất
của doanh nghiệp đều là một đơn vị nhỏ của doanh nghiệp.
Những thành viên của các bộ phận đó đều xuất phát từ nhiệm vụ sản xuất
và tố chất của nhân viên mà hình thành phương hướng phát triển và cơ cấu tổ
chức của mình một cách hết sức tự nhiên. Bởi vì, mỗi bộ phận khác nhau đều
nằm trong môi trường khác nhau trong nội bộ doanh nghiệp. Giữa những bộ
phận ấy có sự khác biệt một cách hết sức tự nhiên ở mức độ khác nhau.
Một khái niệm cơ bản khác là sự "tổng hợp”. Khái niệm này là để chỉ
những sức ép, thách thức và đòi hỏi trong những hoàn cảnh nhất định, năng
lực và trình độ hợp tác, điều hòa của các bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp.
Theo đó, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý là sự phối hợp và điều hành
giữa các bộ phận để thực hiện nhiệm vụ của doanh nghiệp. Bao gồm các vấn
đề về quản lý con người, về thị trường, công nghệ và các chiến lược tác
nghiệp khác nhằm đạt hiệu quả kinh doanh.
1.1.3. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng cơ chế quản lý doanh

15
nghiệp BCVT
1.1.3.1. Đặc điểm doanh nghiệp Bưu chính Viễn thông
Ngoài những đặc điểm chung giống như mọi ngành sản xuất khác, Bưu
chính Viễn thông (còn gọi là Bưu điện) còn có những đặc điểm mang bản
chất kinh tế riêng biệt của nó. Có nhận thức đầy đủ các đặc điểm này thì mới
giải quyết đúng đắn các vấn đề về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh nói
chung và quản lý sử dụng vốn nói riêng.
- Thứ nhất, xu hướng chuyên môn hoá là một tất yếu khách quan do đặc
điểm kỹ thuật công nghệ của Ngành và sự phát triển đa dạng của nền kinh tế
thị trường. Khoa học kỹ thuật càng phát triển thì xu hướng này càng được thể
hiện rõ. Hoạt động trong lĩnh vực chất lượng và thời gian truyền tin phụ thuộc
rất nhiều vào máy móc thiết bị thông tin hiện đại. Vì vậy, đầu tư vốn phải
được tính toán hiệu quả và sử dụng đúng mục đích, không dàn trải.
- Thứ hai, do tính chất của ngành Bưu điện phụ thuộc vào từng vùng
lãnh thổ, nên quá trình sản xuất và tiêu thụ cũng mang tính chất vùng. Mỗi
vùng phụ thuộc vào vị trí địa lý, trình độ phát triển kinh tế, xã hội , nhu cầu sử
dụng thông tin khác nhau Đương nhiên tính chất vùng hình thành tương
quan cung cầu về các dịch vụ thông tin rất khác nhau và sản phẩm sản xuất
ra đến đâu tiêu thụ ngay tới đó. Khó có thể điều hoà sản phẩm ở nơi có chi
phí thập, giá bán thấp đến nơi có giá bán cao, càng không thể lưu kho, lưu bãi.
Do đó sản phẩm của Bưu điện không có xu hướng đầu cơ, không hình thành
các " cơn sốt" như các sản phẩm khác. Quan hệ cung cầu đối với sản phẩm có
khả năng phản ánh đúng nhu cầu thực tế và khả năng cung ứng. Đây là đặc
điểm nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư
từng vùng, lãnh thổ.
- Thứ ba, xu hướng cạnh tranh trong kinh doanh Bưu chính Viễn thông:
+ Cạnh tranh giữa các chuyên ngành Bưu điện
16
+ Cạnh tranh khách hàng trên cùng một thị trường

+ Cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ.
Bưu chính - Viễn thông là một ngành nghề kinh tế thuộc kết cấu hạ tầng
có vai trò quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
là mạch máu thông tin liên lạc của Đảng và Nhà nước. Nhằm đảm bảo cho
nhu cầu xã hội được đáp ứng chất lượng cao về mọi mặt, giá cả hợp lý, nơi có
lãi cao bù nơi có lãi thấp, khu vực có thu nhập cao bù khu vực có thu nhập
thấp. Do vậy, Nhà nước trực tiếp tính toán và ban hành cước phí các dịch vụ
cơ bản.
- Thứ tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn luôn phải dự trữ
năng lực cho những nhu cầu cần thiết sau đây:
+ Dự trữ để thay thế cho bộ phận mạng lưới hỏng hóc nhằm đảm bảo
chất lượng phục vụ, đảm bảo sự liên tục của sản xuất.
+ Dự trữ đoán trước sự phát triển nhu cầu xã hội để đảm bảo luôn đi
trước 1 bước trong hệ thống kết cấu hạ tấng cơ sở kinh tế toàn xã hội. Đặc
điểm này chi phối đến kế hoạch huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Trong cơ cấu giá thành các sản phẩm của Bưu điện tỷ trọng chi phí cố
định lớn, phần chi phí biến đổi không lớn, đặc biệt là các sản phẩm viễn
thông. Đặc điểm này cũng chi phối đến kế hoạch đầu tư vốn.
- Thứ năm, sản xuất trên một địa bàn rộng lớn, trên mặt đất, trong mặt
đất, trên không trung, cáp quang dưới đáy đại dương. Bưu điện là ngành có
tốc độ hao mòn vô hình vào loại nhanh nhất. Đặc biệt trong điều kiện tiến bộ
khoa học kỹ thuật hiện nay chu kỳ đổi mới công nghệ chỉ từ 1 - 3 năm. Đặc
điểm này đòi hỏi doanh nghiệp phải có vốn lớn nhưng lại phải biết đầu tư, sử
dụng, bởi vì độ mạo hiểm rủi ro cao.
- Thứ sáu, do đặc thù của ngành, quá trình sản xuất gắn liền tiêu thụ, do
cung cấp dịch vụ trước, thu tiền sau, nên luôn có khoản ghi nợ phải thu khách
hàng gọi là Bưu điện phí ghi nợ, đây là số tiền khách hàng phải trả do đã sử
dụng các dịch vụ BC - VT theo giá cước. Đặc điểm này buộc doanh nghiệp
17
BCVT phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và có các biện pháp thu

cước một cách hiệu qủa để đảm bảo thường xuyên nhu cầu vốn kinh doanh
trong kỳ.
Bưu điện là ngành dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế quốc
dân. Ngành Bưu điện vừa kinh doanh vừa phục vụ. Do đó, cơ chế quản lý
doanh nghiệp BCVT vừa có đặc điểm của một doanh nghiệp kinh doanh, vừa
có đặc điểm của một đơn vị công ích, đồng thời, có tính chất đặc thù ngành
trong phương thức quản lý doanh nghiệp. Cụ thể là:
- Cơ chế quản lý doanh nghiệp BCVT mang đặc điểm của doanh
nghiệp được tổ chức theo mô hình Tổng công ty 91, đang dần chuyển sang
cơ chế quản lý của Tập đoàn kinh tế; Có các qui định mang tính đặc thù
riêng của ngành.
- Các chính sách về đầu tư, phát triển hạ tầng vừa có mục đích kinh
doanh, vừa phục vụ theo định hướng phát triển BCVT của đất nước cho tất cả
các vùng lãnh thổ, theo qui định chung của ngành.
- Có xuất phát điểm thấp, là ngành độc quyền tự nhiên nên việc tổ chức
điều hành còn gặp nhiều khó khăn, chậm đổi mới về phương thức bán hàng và
phục vụ.
- Có sự điều tiết, phân chia kết quả giữa các bên cùng tham gia khai thác
dịch vụ do đặc điểm loại hình dịch vụ mang tính chất hai chiều đi - đến.
1.1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý doanh nghiệp Bưu
chính Viễn thông
Luật pháp kinh tế :
Với đặc điểm là ngành độc quyền tự nhiên, cho đến nay, dù đã xoá độc
quyền nhưng ngành BCVT vẫn chỉ có sự xuất hiện của các doanh nghiệp Nhà
nước (DNNN). Và do đó, cơ chế quản lý doanh nghiệp BCVT trong thời gian
qua chịu tác động trực tiếp của Luật DNNN.
Sau quá trình xây dựng, sửa đổi, Luật DNNN (năm 2003) đã có những
18
bước tiến rõ rệt, giúp cho các DNNN có môi trường hoạt động thông thoáng
hơn, thể hiện ở chỗ Luật đã qui định rõ mục tiêu hoạt động của công ty nhà

nước là tập trung vào hoạt động kinh doanh, chuyển quản lý doanh nghiệp
công ích sang quản lý hoạt động công ích, thực hiện cơ chế đấu thầu hoạt
động công ích. Luật DNNN sửa đổi cũng đã qui định rõ về tài sản, quyền về
tài sản cho doanh nghiệp; tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp; Xoá bỏ các
loại bao cấp, bao gồm khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, bù lỗ, Bổ sung cơ chế tạo
động lực mạnh mẽ hơn đối với doanh nghiệp Nhà nước và trách nhiệm cao
hơn đối với cán bộ quản lý về đầu tư và kết quả kinh doanh, gắn trách nhiệm
quản lý với kết quả kinh doanh.
HĐQT là cơ quan quản lý của doanh nghiệp, thực hiện chức năng đại
diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp, trừ những thẩm quyền
được phân cấp cho các cơ quan nhà nước.
Luật cũng có các qui định về chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, tổ chức
lại các tổng công ty, tạo các điều kiện để phát triển tổng công ty theo mô hình
công ty mẹ – công ty con.
Tuy nhiên, DNNN vẫn phải chịu ràng buộc hay chi phối bởi sự can thiệp
mang tính chất hành chính, chủ quan và thiếu phối hợp của không ít cơ quan
nhà nước. Ví dụ, trong các vấn đề liên quan đến sự sống còn của DNNN thì
Bộ chuyên ngành quyết về chiến lược, Bộ Nội vụ quyết về nhân sự, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư quyết về dự án đầu tư, Bộ Tài chính cấp vốn.
Năm 2005, Luật doanh nghiệp thống nhất được ban hành, Luật doanh
nghiệp 2005 có mục đích kết hợp và tiến tới thay thế các quy định hiện hành
về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp trong các luật như Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp Nhà
nước. Luật DNTN tạo ra khung pháp lý áp dụng theo loại hình, đặc trưng của
doanh nghiệp chứ không theo chủ thể sở hữu doanh nghiệp. Cụ thể là Luật
DNTN qui định về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của bốn loại hình
19
doanh nghiệp cơ bản: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty
TNHH và công ty cổ phần. Bất cứ doanh nghiệp nào thuộc một trong bốn loại
hình này đều được điều chỉnh bởi Luật doanh nghiệp thống nhất mà không

phụ thuộc vào tính chất sở hữu của doanh nghiệp.
Quyền kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, tính tự chủ kinh
doanh được nâng cao, việc quản trị cũng được cải thiện và ít phải phụ thuộc
vào ngân sách Nhà nước hơn.
Tuy nhiên, sự khác biệt bất hợp lý giữa doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau có thực sự được xóa bỏ hay không còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), muốn hoạt động theo
Luật doanh nghiệp thì phải chuyển đổi loại hình sang công ty TNHH hoặc
công ty cổ phần. Có quy định bắt buộc các DNNN phải chuyển sang hoạt
động theo luật Doanh nghiệp hay không, thời gian phải chuyển đổi là bao lâu
vẫn đang còn là một ẩn số. Nếu vẫn còn các DNNN nằm ngoài sự điều chỉnh
của Luật Doanh nghiệp thì chưa thể có một sân chơi chung cho tất cả các
thành phần kinh tế.
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là quyền của doanh
nghiệp được tự chủ quyết định các vấn đề trong các hoạt động kinh doanh,
đặc biệt là quyền đầu tư kinh doanh và quyền huy động vốn. Mở rộng quyền
tự do kinh doanh của doanh nghiệp cũng có nghĩa là hạn chế sự can thiệp
hành chính tùy ý của các cơ quan nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được kinh doanh tất cả
các ngành nghề mà pháp luật không cấm chứ không chỉ bị giới hạn trong nội
dung của giấy phép đầu tư như qui định trong Luật Đầu tư nước ngoài hiện
hành. Đồng thời, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng chế độ đăng ký
kinh doanh giống như các doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhờ đó việc
thành lập doanh nghiệp trở nên đơn giản, nhanh và ít chi phí hơn so với chế
độ cấp phép đầu tư phức tạp, tuỳ tiện và tốn kém hiện nay. Các doanh nghiệp
20
nước ngoài sẽ không bị giới hạn ở một loại hình công ty TNHH như hiện nay
mà sẽ được tự do chọn các loại hình doanh nghiệp phù hợp, ví dụ công ty cổ
phần với lợi thế về huy động vốn trên thị trường tài chính. Những khống chế
về mức sở hữu (30%) đối với đầu tư nước ngoài về cơ bản sẽ được xóa bỏ.

Đối với một số ngành, nghề hạn chế kinh doanh áp dụng cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ có quy định những điều kiện nhất định
mà nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng theo hướng công khai, minh bạch
hơn. Những thay đổi này chắc chắn sẽ góp phần tăng tính hấp dẫn của môi
trường đầu tư.
Luật DNTN sẽ tạo một khung quản trị thống nhất và phù hợp với thông
lệ quốc tế để áp dụng cho các DNtrong nước (DNtư nhân, DNNN đã chuyển
đổi và DNcó vốn đầu tư nước ngoài). Điều này góp phần nâng cao hiệu quả
quản trị doanh nghiệp, tăng cường tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao
khả năng thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Khung
pháp lý chung sẽ giúp giải quyết những tồn tại trong quản trị DNNN, ví dụ
như quyền chủ sở hữu và quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý
chưa được xác định đầy đủ và rõ ràng, vẫn còn chế độ "hành chính chủ quản",
cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm người quản lý chưa hợp lý, cơ chế giám sát điều
hành kém hiệu quả v.v
Luật doanh nghiệp 2005 giành một chương mới về Công ty mẹ, công ty
con và nhóm công ty - một hiện tượng rất phổ biến trên thế giới nhưng lại là
mô hình mới ở Việt Nam. Những quy định này mở ra những cơ hội đầu tư
mới cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo một hướng phát triển mới trong cải
cách DNNN và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân mở rộng quy mô
kinh doanh một cách hiệu quả mà vẫn kiểm soát được những rủi ro phát sinh
trong quá trình hoạt động.
Nhìn chung Luật doanh nghiệp đã đáp ứng được những yêu cầu đặt ra
21
trong tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, đó là: i) mở rộng quyền tự
do kinh doanh để tất cả các doanh nghiệp được kinh doanh và đầu tư trong
mọi lĩnh vực luật pháp không cấm cũng như được tự chủ và tự chịu trách
nhiệm về doanh nghiệp của mình; ii) đổi mới chức năng quản lý hành chính
nhà nước cho phù hợp với nền kinh tế thị trường và tăng cường tính minh
bạch; iii) phù hợp với các nguyên tắc quốc tế và cam kết của Chính phủ Việt

Nam trong các thoả thuận hội nhập.
Tuy nhiên, để Luật doanh nghiệp có thể phát huy được hiệu lực và đi vào
cuộc sống thì cần có sự thống nhất giữa nội dung của Luật này và các quy
định hiện hành khác có liên quan (ví dụ luật DNNN, Luật đầu tư, một số luật
chuyên ngành và các cam kết quốc tế); Đồng thời, phụ thuộc vào tiến độ
chuyển đổi, sắp xếp lại các doanh nghiệp
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mà thị trường đóng
vai trò quyết định trong việc phân bổ các nguồn lực và các quan hệ kinh tế
giữa các tổ chức, cá nhân thông qua các qui luật của thị trường, trước hết là
qui luật giá trị; đồng thời có sự bổ sung, kết hợp của các qui luật của CNXH
như qui luật phát triển có kế hoạch, cân đối, công bằng giữa các vùng và
thành phần kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế đang trong quá trình
chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong giai đoạn đầu của CNXH. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam mới bước đầu hình thành và còn cần phải tiếp tục
xây dựng, phát triển và hoàn thiện. Nó không phải là kinh tế thị trường phát
triển hay kinh tế thị trường tự nhiên phát triển, và cũng chưa phải là kinh tế
thị truờng XHCN.
Quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
22
định hướng XHCN ở Việt Nam đã và đang được thực hiện trên các mặt:
Thứ nhất, xây dựng, hoàn thiện pháp luật về kinh tế, tạo khung pháp lý
cho kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong những năm qua, Nhà nước
Việt Nam đã ban hành mới, sửa đổi bổ sung nhiều Luật và văn bản dưới luật
về tổ chức và hoạt động của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN. Đó là pháp luật về doanh nghiệp nhà nước (luật DNNN
năm 1995, 2003), về doanh nghiệp dân doanh (Luật Công ty năm 1990; Luật
Doanh nghiệp tư nhân năm 1990; luật doanh nghiệp năm 1990 ), về kinh tế

tập thể (Luật Hợp tác xã năm 1995, 2003), về các đơn vị sự nghiệp có thu
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, mặc dù đã có nhiều đổi mới và đáp
ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu của kinh tế thị trường mà Luật Doanh
nghiệp là một ví dụ, nhưng hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn thiếu nhiều
qui định quan trọng; còn nhiều nội dung chưa phù hợp với các nguyên tắc của
WTO và chậm được cải tiến so với các nước trong khu vực. Quy định của
pháp luật còn thiếu cụ thể, rõ ràng và quá hay bị thay đổi, thiếu nhất quán nên
khó dự đoán trước được. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản
của tình trạn thực thi pháp luật yếu kém; pháp luật không đi vào cuộc sống
hoặc bị lợi dụng, vi phạm.
Để hoàn thiện khung khổ pháp luật phù hợp và phục vụ cho phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam đang đẩy mạnh thực hiện
chương trình xây dựng pháp luật phù hợp không những với thực tế Việt Nam
mà còn cả với các cam kết hội nhập và các qui định của WTO. Thực hiện tự
do hoá kinh tế, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng của các chủ thể kinh
tế, một mặt bằng pháp lý và các điều kiện kinh doanh chủ yếu trên thương
trường cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế là yêu cầu đang
được đặt ra trong công tác xây dựng pháp luật về kinh tế ở Việt Nam.
Thứ hai, thực hiện cải cách hành chính. Trong những năm đổi mới vừa
23

×