Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Luận văn thạc sỹ: Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.77 KB, 115 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
SƠ ĐỒ
HÌNH
Hình 2.1: Mối quan hệ giữa ROE và chi phí vốn chủ sở hữu của CIENCO 4
Error: Reference source not found
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước là một nội dung quan trọng trong tiến
trình đổi mới hơn 20 năm qua của nước ta. Ý tưởng phát triển một số tổng
công ty thành tập đoàn kinh tế đã được manh nha từ những năm 1990 cùng
với việc ban hành các Quyết định 90/TTg và 91/TTg của Thủ tướng Chính
phủ. Giai đoạn tập trung nhất của quá trình này được bắt đầu từ Nghị quyết
TW3 khoá IX (tháng 9/2001) của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Mục tiêu của
việc thành lập tập đoàn kinh doanh là tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tích tụ,
tập trung, nâng cao khả năng cạnh tranh, thực hiện chủ trương xoá bỏ dần chế
độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản và sự phân biệt doanh nghiệp trung
ương, doanh nghiệp địa phương; tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với
các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4 (CIENCO 4) là một tổng
công ty nhà nước trực thuộc Bộ Giao thông vận tải được thành lập theo Quyết
định 90/TTg của Thủ tướng chính phủ. Trong mấy năm gần đây Tổng công ty đã
chủ động nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức và quản lý mới để chuyển sang
hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con. Từ quá trình chuyển đổi đó
cộng với hơn một năm hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con (từ
tháng 8/2007), cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và cả cơ chế quản lý của Tổng
công ty đã có một số thay đổi trong đó vấn đề quản lý vốn theo một cơ chế nào
để phát huy hiệu quả nhất cũng được đặt ra. Tuy nhiên, cơ chế quản lý vốn hiện
nay vẫn còn bộc lộ những hạn chế không phù hợp, tương thích với hoạt động


của mô hình mới, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Tổng công ty trở
thành một doanh nghiệp mạnh của ngành giao thông vận tải.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, đề tài: "Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại
Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4" được lựa chọn nghiên cứu.
1
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế quản lý vốn
của doanh nghiệp; Phân tích thực trạng cơ chế quản lý vốn tại Tổng công ty
xây dựng công trình giao thông 4, đưa ra những nhận xét, đánh giá về ưu
nhược điểm của cơ chế quản lý vốn hiện tại. Trên cơ sở đối chiếu giữa lý luận
và thực tiễn, đề tài đưa ra một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại
Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp.
- Phạm vi nghiên cứu: Cơ chế quản lý vốn tại Tổng công ty xây dựng
công trình giao thông 4.
- Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2004 đến năm 2008.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp so sánh, tổng hợp, ngoại
suy nhằm phân tích tình hình thực tiễn và đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về cơ chế quản lý vốn trong doanh nghiệp.
- Phân tích thực trạng cơ chế quản lý vốn của Tổng công ty xây dựng
công trình giao thông 4.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn của Tổng công
ty xây dựng công trình giao thông 4.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
- Tên đề tài: Hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Tổng công ty xây dựng

công trình giao thông 4.
- Kết cấu:
Phần mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận về cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý vốn của Tổng công ty xây dựng
công trình giao thông 4.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý vốn tại Tổng công ty xây
dựng công trình giao thông 4.
Kết luận
2
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ
CƠ CHẾ QUẢN LÝ VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. TỔNG QUAN VỀ VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tế bào, bộ phận cấu thành của nền kinh tế, có quan
hệ chặt chẽ với các bộ phận khác. Cùng với sự phát triển của các phương thức
sản xuất, cách thức tổ chức doanh nghiệp cũng ngày càng phát triển.
Doanh nghiệp được hiểu là một chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp
nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở
hữu.
Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005: Doanh nghiệp là tổ
chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt
động kinh doanh - tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của
quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.1.2. Phân loại doanh nghiệp
Có nhiều cách thức để phân loại doanh nghiệp, tuy nhiên có các cách

phân loại phổ biến sau đây:
* Theo tính chất sở hữu:
Theo tiêu thức này, những doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước được
gọi là doanh nghiệp Nhà nước, còn những doanh nghiệp không thuộc sở hữu
3
Nhà nước được xếp vào doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp Nhà nước
Theo các chuyên gia của Ngân hàng thế giới thì: "Doanh nghiệp Nhà
nước là một chủ thể kinh tế mà quyền sở hữu hay quyền chi phối thuộc về
chính phủ, và phần lớn thu nhập của chúng được tạo ra từ việc bán hàng hoá
và dịch vụ". [8]
Định nghĩa này tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động
trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, cũng có thể được mở rộng ra các doanh
nghiệp khác mà Chính phủ nắm giữ cổ phần kiểm soát hoặc thuộc một cơ
quan của chính phủ.
Theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam ban hành năm 2005, các doanh
nghiệp Nhà nước cũng được quy định rõ trong Luật này là doanh nghiệp trong
đó nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Trong đó, phần vốn góp của sở hữu
nhà nước là phần vốn góp từ NSNN và nguồn vốn khác của Nhà nước, do một
cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức kinh tế làm đại diện chủ sở hữu.
Như vậy những đặc trưng cơ bản của Doanh nghiệp Nhà nước là:
- Doanh nghiệp Nhà nước là một pháp nhân mà Nhà nước nắm giữ từ
51% vốn chủ sở hữu trở lên.
- Doanh nghiệp Nhà nước có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh
nghiệp khác và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, thực hiện hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân được hiểu theo nghĩa rộng nhất là các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân bao gồm tất cả các loại hình doanh

4
nghiệp tư nhân: Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp
danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Nói cách khác, những doanh
nghiệp không thuộc sở hữu Nhà nước được hiểu là doanh nghiệp tư nhân.
Như vậy, tất cả những đơn vị, tổ chức cá nhân thuộc khu vực kinh tế tư
nhân dựa trên vốn của cá nhân tự có, hoặc đi vay được tổ chức kinh doanh
dưới nhiều hình thức khác nhau, dù là các chủ thể kinh doanh khác nhau như
kinh doanh cá thể, kinh doanh góp vốn hay Công ty đều được coi là doanh
nghiệp tư nhân.
Có thể thấy, không có một sự phân định rõ ràng giữa doanh nghiệp tư
nhân và doanh nghiệp Nhà nước. Nếu một công ty cổ phần mà Nhà nước nắm
giữ 51% cổ phần, theo Luật doanh nghiệp năm 2005, được gọi là công ty nhà
nước. Nếu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà thành viên đó là
Nhà nước thì vẫn có thể được hiểu là doanh nghiệp Nhà nước. Như vậy, tuỳ
thuộc vào tỷ trọng vốn của Nhà nước trong tổng vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp, doanh nghiệp đó có thể là doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân.
* Theo ngành nghề kinh doanh
Theo tiêu thức này, có thể phân các doanh nghiệp thành 6 loại hình
doanh nghiệp cơ bản sau trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế quốc
dân: doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp - thuỷ
sản, thương mại - dịch vụ, giao thông vận tải, xây dựng và các doanh nghiệp
khác (tư vấn tài chính, bảo hiểm, xổ số ).
* Theo chủ thể kinh doanh
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể
kinh doanh sau đây:
- Kinh doanh cá thể
5
- Kinh doanh góp vốn
- Công ty
Kinh doanh cá thể

- Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ
chính thức và ít chịu sự quản lý của Nhà nước.
- Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính
thuế thu nhập cá nhân.
- Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các
khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản của doanh nghiệp.
- Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ của
người chủ.
- Khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ.
Kinh doanh góp vốn
- Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Đối
với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường hợp cần có
giấy phép kinh doanh.
- Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ.
Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp.
Nếu như một thành viên không hoàn thành trách nhiệm trả nợ của mình, phần
còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả.
- Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay
rút vốn.
- Khả năng về vốn hạn chế.
- Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập
6
cá nhân.
Công ty
Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích:
các cổ đông (chủ sở hữu), của hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo
truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt
động của công ty. Cổ đông bầu nên hội đồng quản trị, sau đó hội đồng quản
trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý quản lý hoạt động của công ty theo
cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu

khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể
và góp vốn:
- Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới.
- Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông.
- Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào
công ty (trách nhiệm hữu hạn).
1.1.2. Vốn của doanh nghiệp
Vốn là yếu tố cơ bản không thể thiếu đối với mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó tạo tiền đề cho sự ra đời của doanh nghiệp,
là cơ sở để mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao
động, đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị
Vốn được hiểu một cách chung nhất vốn là tư bản. Tư bản là giá trị
mang lại giá trị thặng dư bao gồm cả tư bản vô hình và tư bản hữu hình.
Vốn của doanh nghiệp bao gồm hai bộ phận tuỳ vào tiêu chí phân loại
theo tính chất kỳ hạn hay theo quyền sở hữu.
1.1.2.1. Căn cứ vào tính chất kỳ hạn
7
Vốn của doanh nghiệp được phân chia thành vốn ngắn hạn và vốn dài hạn
a. Vốn ngắn hạn: là vốn có thời hạn hoàn trả trong vòng một năm. Vốn
ngắn hạn bao gồm các khoản phải trả người bán, vay ngắn hạn ngân hàng, các
khoản phải nộp nhà nước hay cấp trên, phải trả cán bộ công nhân viên, phát
hành trái phiếu ngắn hạn
Đặc điểm: Vốn ngắn hạn chủ yếu là từ hình thức vay ngân hàng và tín
dụng thương mại, được huy động để bổ sung nhu cầu vốn lưu động của doanh
nghiệp, đầu tư vào tài sản ngắn hạn, có chu kỳ quay vòng ngắn. Lãi suất của
vốn ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất vốn dài hạn.
b. Vốn dài hạn: là vốn có thời gian đáo hạn hơn một năm. Vốn dài hạn
bao gồm: vốn chủ sở hữu, các khoản nợ dài hạn do phát hành trái phiếu hay
vay ngân hàng, lợi nhuận giữ lại
Đặc điểm: Vốn dài hạn được huy động dưới hình thức phát hành cổ

phiếu, trái phiếu hoặc vay ngân hàng, được sử dụng chủ yếu để tài trợ cho tài
sản cố định. Lãi suất của vốn dài hạn thường cao hơn lãi suất của vốn ngắn
hạn do độ rủi ro cao hơn.
1.1.2.2. Căn cứ vào quyền sở hữu
Vốn của doanh nghiệp bao gồm Vốn Chủ sở hữu và Nợ.
Đặc điểm vốn chủ sở hữu:
+ Vốn chủ sở hữu không có thời hạn xác định, chỉ khi doanh nghiệp hết
thời hạn hoạt động hoặc bị phá sản thì chủ sở hữu mới có thể nhận lại phần
vốn góp.
+ Chủ sở hữu là những người được quyền hưởng lợi nhuận do doanh
nghiệp tạo ra nhưng ở thứ tự sau cùng, khi các chủ nợ và những người nắm
giữ cổ phiếu ưu đãi đã nhận phần mà họ được hưởng. Như vậy, khác với chủ
8
nợ và cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi, chủ sở hữu thường nhận được số lợi
nhuận tuỳ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Họ là người được
hưởng nhiều nhất khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt nhưng cũng có thể không
nhận được gì nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
+ Thu nhập của chủ sở hữu không được tính vào chi phí hợp lý khi tính
thuế thu nhập mà lấy ra từ lợi nhuận sau thuế để trả.
Đặc điểm của nợ:
+ Những người tài trợ cho doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu của
doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn, doanh nghiệp có thể lựa
chọn giữa việc vay vốn của ngân hàng, sử dụng tín dụng thương mại hoặc
phát hành trái phiếu. Nếu lựa chọn một trong các cách thức trên, quyền kiểm
soát của chủ sở hữu doanh nghiệp vẫn được đảm bảo.
+ Lãi suất vay trả cho chủ nợ cố định. Nếu doanh nghiệp có triển vọng
tốt trong kinh doanh thì lãi suất vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, doanh nghiệp
phải có nghĩa vụ trả cả gốc và lãi cho chủ nợ đúng hạn. Nếu không trả được
nợ, tình hình tài chính khó khăn sẽ dẫn doanh nghiệp đến tình trạng mất khả
năng thanh toán, có nguy cơ bị phá sản.

+ Chi phí lãi vay là chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.2. CƠ CHẾ QUẢN LÝ VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
Như trên đã đề cập, vốn là yếu tố cơ sở, tiền đề để doanh nghiệp bắt đầu
quá trình sản xuất kinh doanh và đạt được mục tiêu đề ra.
Đối với một doanh nghiệp, để bắt đầu chu kỳ sản xuất, phải sử dụng vốn
hữu hình để mua các yếu tố đầu vào như nguyên vật liệu, nhiên liệu, máy móc,
thiết bị, lao động vv. Trong quá trình sản xuất, các yếu tố đầu vào hữu hình
9
kết hợp với vốn vô hình như kinh nghiệm, tài năng sản xuất và quản lý của đội
ngũ cán bộ, công nhân viên để tạo ra sản phẩm hàng hoá và tạo ra giá trị thặng
dư. Sự thiếu vốn là một trong những trở ngại chính, một trong những nguyên
nhân kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế.
Vốn trong doanh nghiệp phải đảm bảo bằng tài sản có thực, được tích
luỹ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ để tiến hành kinh doanh, phải
vận động vì mục tiêu sinh lời và luôn gắn với chủ sở hữu. Không thể có
những đồng vốn vô chủ và đi liền với nó là sự lãng phí vô độ.
Doanh nghiệp cần thiết phải quản lý vốn vì vai trò của vốn thực sự được
phát huy khi vốn được quản lý có hiệu quả. Tác động của hiệu quả quản lý là
rất lớn: "Số vốn thường tăng do tiết kiệm và giảm do phung phí và quản lý
kém Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp để tăng vốn. Lao động tạo ra sản
phẩm để tích luỹ trong quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu
chăng nữa, nhưng không tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên Hậu quả
của việc quản lý kém nhiều khi cũng chẳng khác gì tính hoang phí." [1]
Do đó, bằng cách thức, phương thức và công cụ gì để có thể huy động được
vốn với cơ cấu hợp lý và chi phí ở mức thấp cho nhu cầu sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải có cơ chế quản lý vốn thích hợp.
Từ "cơ chế" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp được sử dụng để chỉ cấu tạo
và nguyên lý hoạt động của máy móc. Thuật ngữ cơ chế còn được sử dụng
trong giới sinh vật học và giới y học để thực hiện tác dụng và điều tiết qua lại

giữa các cơ quan trong cơ thể con ngườikhi có sự thay đổi sinh lý và bệnh lý.
Sau này, thuật ngữ "cơ chế" được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu
kinh tế, từ đó xuất hiện thuật ngữ "cơ chế kinh tế" và được cụ thể hoá trong
lĩnh vực quản lý là cơ chế quản lý kinh tế.
Cơ chế quản lý tài chính là một nội dung của cơ chế quản lý kinh tế. Nội
10
dung của cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp gồm:
- Cơ chế quản lý vốn;
- Cơ chế quản lý tài sản;
- Cơ chế quản lý doanh thu, chi phí, lợi nhuận;
- Cơ chế kiểm soát tài chính của doanh nghiệp;
Như vậy, có thể thấy cơ chế quản lý vốn là một nội dung của cơ chế
quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Với nhận thức như vậy, tác giả Luận văn đưa ra khái nhiệm "cơ chế" và
"cơ chế quản lý vốn" như sau:
Cơ chế là hệ thống các cách thức, phương thức và công cụ qua đó người
ta thực hiện quá trình hoạt động của mình.
Cơ chế quản lý vốn là một hệ thống các phương pháp, các hình thức và
công cụ được sử dụng để quản lý vốn nhằm đạt được mục tiêu nhất định
trong từng thời kỳ.
Tuỳ theo quy mô và cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp mà cơ chế
quản lý vốn có mức độ đa dạng, phong phú về nội dung khác nhau.
Đối với các doanh nghiệp độc lập, hoặc có quy mô nhỏ thì hầu như không
có hoạt động điều hoà vốn trong nội bộ doanh nghiệp; việc áp dụng các hình
thức huy động vốn cũng rất đơn điệu, họ chỉ áp dụng những hình thức thông
thường như: vay vốn ngân hàng, chủ sở hữu cấp vốn, tự tích luỹ từ kết quả sản
xuất kinh doanh; và việc thiết lập cơ cấu vốn hợp lý cũng ít khi được quan tâm.
Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn như các Tổng công ty 90, 91
hay các tập đoàn kinh tế, do đặc điểm có quy mô rất lớn hoạt động đa ngành,
đa lĩnh vực, có cơ cấu tổ chức bộ máy gồm nhiều đơn vị thành viên có mối

11
liên kết chặt chẽ, do vậy nội dung cơ chế quản lý vốn của các doanh nghiệp
này cũng rất đa dạng.
Trong phạm vi nghiên cứu Luận văn này, vì doanh nghiệp đang nghiên
cứu là một Tổng công ty 90 đã chuyển đổi mô hình hoạt động sang mô hình
Công ty mẹ - Công ty con do đó Luận văn sẽ nghiên cứu cơ chế quản lý vốn
của doanh nghiệp theo các nội dung cơ bản sau:
- Huy động vốn
- Thiết lập cơ cấu vốn phù hợp
- Điều hoà vốn
1.2.2. Nội dung cơ chế quản lý vốn của doanh nghiệp
1.2.2.1. Huy động vốn
Để phù hợp với nội dung phân tích về cơ cấu vốn của doanh nghiệp sau
này, tác giả chọn cách phân loại vốn theo quyền sở hữu. Vì vậy, phần này sẽ
đi sâu nghiên cứu các nguồn vốn và phương thức huy động vốn chủ sở hữu và
nợ của doanh nghiệp.
a. Huy động vốn Chủ sở hữu
Vốn Chủ sở hữu của doanh nghiệp được huy động bằng các hình thức
sau: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia và phát hành cổ phiếu mới.

Vốn góp ban đầu
Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có
một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu đóng góp. Khi nói
đến nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xét hình
thức sở hữu của doanh nghiệp đó, vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất
và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp.
12
Nếu doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước thì vốn góp ban đầu chính
là vốn đầu tư của Nhà nước dưới dạng đầu tư trực tiếp 100% hoặc góp cổ
phần chi phối đối với tập đoàn kinh tế và thông qua đó quyết định mức độ sở

hữu của Nhà nước đối với tập đoàn.
Đối với các doanh nghiệp đa sở hữu thì vốn góp ban đầu là vốn do các
chủ sở hữu chung của doanh nghiệp cùng đóng góp.
Doanh nghiệp hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, vốn
ban đầu của công ty mẹ bao gồm số vốn thuộc sở hữu của chính nó đang sử
dụng trực tiếp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mẹ và toàn bộ
số vốn do công ty mẹ sở hữu ở công ty con, vốn cổ phần hoặc phần vốn góp
của công ty mẹ vào các công ty liên doanh và các công ty khác. Đối với công
ty con, nếu công ty con chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là công ty mẹ thì vốn
góp ban đầu chính là vốn đầu tư ban đầu của công ty mẹ, trong quá trình hoạt
động , tuỳ thuộc vào yêu cầu ngành nghề, quy mô sản xuất kinh doanh và
chiến lược phát triển mà công ty mẹ sẽ tự bổ sung vốn cho công ty con. Nếu
công ty con là công ty đa sở hữu thì vốn góp ban đầu do các chủ sở hữu
chung của công ty con đóng góp.

Lợi nhuận không chia
Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, nếu doanh nghiệp hoạt
động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng
trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luý từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi
nhuận được sử dụng tái đầu tư, mở rộng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia là một phương thức tạo nguồn tài
chính quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm
được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp
coi trọng chính sách tái đầu tư từ lợi nhuận để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có
13
một lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm tự đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng
tăng. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thì việc tái đầu tư phụ thuộc không
chỉ vào khả năng sinh lợi của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào
chính sách khuyến khích tái đầu tư của nhà nước.
Tuy nhiên, đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan

đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong
năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các
cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại họ có quyền
sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty.
Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài
trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt khuyến khích cổ đông giữ cổ
phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong
thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ
hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ
phiếu có thể bị giảm sút.

Phát hành cổ phiếu
Trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể huy động
vốn bằng cách phát hành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu là quá trình bán cổ
phiếu trên thị trường chứng khoán sơ cấp để thu hút vốn đầu tư. Phát hành cổ
phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu trong các trường hợp sau: Huy
động vốn chủ sở hữu khi thành lập doanh nghiệp (công ty cổ phần) và tăng
vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới.
Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, là người đầu tư vốn để hình thành
nên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Cổ động có trách nhiệm và quyền lợi
được pháp luật quy định tuỳ theo loại cổ phiếu mà họ nắm giữ, các quyền cơ
14
bản đó là: quyền chiếm hữu một phần lợi nhuận dưới hình thức lãi cổ phiếu
(cổ tức) và được quyền tham gia quản lý công ty. Những cổ đông cũ có quyền
được ưu tiên mua cổ phiếu mới theo tỷ lệ cổ phiếu mà họ hiện đang nắm giữ
với giá thấp hơn giá thị trường của loại cổ phiếu đó. Cổ đông không được rút
vốn ra khỏi công ty nhưng họ có thể chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường.
Cổ phiếu là một giấy chứng nhận được cấp cho cổ đông để chứng nhận số
cổ phần mà cổ đông đó đã mua ở công ty cổ phần, chứng thực về việc góp vốn

vào công ty cổ phần, đem lại cho người chủ của nó quyền chiếm hữu một phần
lợi nhuận dưới hình thức lãi cổ phiếu và được quyền tham gia quản lý công ty.
Chúng ta xem xét hai loại cổ phiếu thông dụng là cổ phiếu thường và cổ
phiếu ưu tiên và một số yếu tố cơ bản liên quan đến việc phát hành và kiểm
soát các loại cổ phiếu này.
+ Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường (còn gọi là cổ phiếu thông thường) là loại cổ phiếu
không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành ra nó, có
mức lãi suất không cố định, số lãi được chia vào cuối niên độ quyết toán gọi
là cổ tức, ít hay nhiều phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Cổ phiếu
thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất trên thị trường chứng khoán. Việc
phát hành cổ phiếu thường chịu ảnh hưởng của "giới hạn phát hành". Giới hạn
phát hành được thực hiện theo quy định của Uỷ ban chứng khoán nhà nước
nhằm quản lý và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động phát hành và giao dịch
chứng khoán.
Công ty cổ phần có thể huy động thêm vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành
thêm cổ phiếu thường. Việc phát hành được thực hiện theo hai hình thức sau:
- Phát hành cổ phiếu mới với việc giành quyền ưu tiên đặt mua cho cổ
đông. Đây là hình thức phổ biến được các công ty sử dụng bởi vì người mua
15
là những người đã có quan hệ mật thiết với công ty như người quản lý công
ty, người lao động trong công ty, các đối tác kinh doanh Việc phát hành cổ
phiếu như vậy một mặt giúp công ty tăng vốn kinh doanh, mặt khác tăng
cường được mối quan hệ lợi ích và tạo sự gắn bó chặt chẽ hơn trong công ty.
- Phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chào bán
công khai.
Như vậy, việc phát hành cổ phiếu thường sẽ giúp công ty cổ phần tăng
được vốn đầu tư dài hạn mà không phải trả khoản chi phí cho việc sử dụng
vốn một cách cố định và theo kỳ hạn như khi sử dụng vốn vay. Điều đó giúp
cho công ty chủ động sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh mà

không lo gánh nặng nợ nần.
Việc phát hành cổ phiếu thường ra công chúng sẽ làm tăng thêm vốn chủ
sở hữu của công ty, từ đó làm cho hệ số nợ giảm xuống và tăng thêm mức độ
vững chắc về tài chính của công ty. Đồng thời nó cũng giúp công ty nâng cao
được khả năng vay vốn và mức độ tín nhiệm trên thị trường.
Tuy nhiên, khi công ty cổ phần phát hành cổ phiếu thường sẽ làm tăng
thêm cổ đông mới, từ đó phải chia sẻ quyền phân phối thu nhập, phân chia
quyền bỏ phiếu và quyền kiểm soát công ty cho số cổ đông mới này. Điều đó
gây ra sự bất lợi cho cổ đông hiện hành. Mặt khác, chi phí để phát hành cổ
phiếu thường như hoa hồng cho người bảo lãnh, chi phí quảng cáo nói chung
cao hơn cổ phiếu ưu đãi. Như vậy, huy động vốn qua phát hành cổ phiếu phải
xét đến nguy cơ bị thôn tính. Do đó, phải tính đến tỷ lệ cổ phần tối thiểu cần
duy trì để giữ vững quyền kiểm soát của công ty.
+ Cổ phiếu ưu tiên
Cổ phiếu ưu tiên là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong công ty cổ
phần đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số
16
ưu tiên hơn so với cổ đông thường. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó
thường có cổ tức cố định, được xác định trước và không phụ thuộc vào kết
quả kinh doanh của công ty cổ phần. Người chủ của cổ phiếu này có quyền
được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu số lãi chỉ đủ để trả cổ tức
cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thường sẽ không được nhận cổ tức
của kỳ đó. Tuy nhiên, người sở hữu cổ phiếu ưu tiên lại không có quyền tham
gia bỏ phiếu bầu Hội đồng quản trị và quyết định các vấn đề quản lý công ty.
Một vấn đề rất quan trọng khi phát hành cổ phiếu ưu tiên đó là thuế. Khác với
chi phí lãi vay được giảm trừ khi tính thuế thu nhập công ty, cổ tức được lấy
từ lợi nhuận sau thuế. Đó là hạn chế của cổ phiếu ưu tiên.
Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ
phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu
ưu tiên là thích hợp vì việc phát hành cổ phiếu ưu tiên giúp công ty cổ phần

tránh được việc phân chia quyền kiểm soát cho các cổ đông mới thông qua
quyền biểu quyết. Cổ phiếu ưu tiên không có thời hạn hoàn trả và không bắt
buộc phải lập quỹ thanh toán, do đó giúp cho công ty cổ phần có thể linh hoạt
trong việc sử dụng vốn đầu tư.
b. Huy động nợ
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất - kinh doanh, doanh nghiệp có thể
sử dụng nợ từ các nguồn như: Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng; tín
dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu.

Vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng
Vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất,
không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với
toàn bộ nền kinh tế. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn
liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp trong đó
có việc cung ứng các nguồn vốn.
17
Trong quá trình hoạt động của mình, các doanh nghiệp thường vay ngân
hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh,
đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu
của doanh nghiệp.
Vốn vay ngân hàng thông thường được phân theo thời hạn vay, bao gồm:
vay dài hạn, vay trung hạn và vay ngắn hạn.
Vay dài hạn là khoản vay có thời hạn từ 3 năm trở lên, có nơi tính từ 5
năm trở lên. Vay trung hạn có thời hạn vay từ 1 đến 3 năm. Vốn vay trung và
dài hạn thường dùng để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực
sản xuất hiện có hoặc tài trợ cho dự án.
Vốn ngắn hạn là khoản vay có thời hạn dưới 1 năm. Vay ngắn hạn
thường dùng để tài trọ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn
hạn của doanh nghiệp như chi trả lương cán bộ nhân viên, chi trả tiền mua
nguyên vật liệu

Nguốn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm như khối lượng vốn
lớn, các giao dịch vay vốn thường đa dạng, linh hoạt, nhưng nguồn vốn này
cũng có những hạn chế nhất định như các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm
soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất).
- Điều kiện tín dụng: Điều kiện để doanh nghiệp vay ngắn hạn ngân hàng
tương đối đơn giản, chủ yếu dựa trên các mối quan hệ sẵn có. Đối với vốn dài
hạn, để đáp ứng yêu cầu an toàn tín dụng và sinh lời của ngân hàng, khi muốn
vay vốn doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ vay vốn và những thông tin cần
thiết mà ngân hàng yêu cầu. Ngân hàng sẽ phân tích hồ sơ vay vốn, đánh giá
các thông tin liên quan đến dự án đầu tư hoặc kế hoạch sản xuất - kinh doanh
của doanh nghiệp để đưa ra phán quyết cho vay cuối cùng.
- Các điều kiện đảm bảo tiền vay: Thông thường ngân hàng thường yêu
18
cầu doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Tài sản đảm bảo
có thể là hàng hoá trong kho, tài sản cố định, các hợp đồng chi trả của người
thứ ba, bảo lãnh của người thứ ba Việc yêu cầu người vay có tài sản đảm
bảo trong nhiều trường hợp làm cho bên đi vay không thể đáp ứng được điều
kiện vay, kể cả những thủ tục pháp lý về giấy tờ, do đó, doanh nghiệp cần tính
đến yếu tố này khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
- Sự kiểm soát của ngân hàng: Khi vay vốn của ngân hàng, doanh nghiệp
phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích tín dụng và tình hình sử
dụng vốn vay.
- Lãi suất vay vốn: Lãi suất vay vốn phản ánh chi phí sử dụng vốn. Lãi
suất vốn vay ngân hàng phụ thuộc vào tình hình tín dụng trên thị trường trong
từng thời kỳ. Nếu lãi suất vay quá cao thì doanh nghiệp phải gánh chịu chi phí
sử dụng vốn lớn và làm giảm thu nhập của doanh nghiệp.

Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại là loại tín dụng mà bên bán trực tiếp dùng hàng
hoá cung cấp cho bên mua trong quá trình giao dịch thương mại. Tín dụng

thương mại bao gồm tín dụng nhà cung cấp và tín dụng khách hàng.
Tín dụng nhà cung cấp được hình thành khi doanh nghiệp nhận được
hàng hoá, dịch vụ của nhà cung cấp song chưa trả tiền ngay. Doanh nghiệp có
thể sử dụng các khoản phải trả khi chưa đến kỳ hạn thanh toán với khách
hàng như một nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngắn
hạn của doanh nghiệp.
Tín dụng khách hàng được hình thành khi doanh nghiệp bán chịu cho
khách hàng. Giá trị hàng hoá, dịch vụ mua chịu càng lớn, thời hạn mua chịu
càng dài thì nguồn vốn tín dụng thương mại càng lớn.
19
Tín dụng khách hàng và tín dụng nhà cung cấp là hai mặt của tín dụng
thương mại.
Sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại có ưu điểm: nó là hình thức tín
dụng đơn giản, rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh. Hơn nữa, nó còn
tạo ra khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền.
Tuy nhiên, sử dụng tín dụng thương mại cũng tiềm ẩn rủi ro đối với doanh
nghiệp. Việc cho doanh nghiệp khác mua chịu sẽ làm tăng hệ số nợ và làm
tăng nguy cơ phá sản đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy doanh nghiệp phải
cân đối nguồn vốn tín dụng thương mại sao cho có thể sử dụng khoản tín
dụng nhà cung cấp như một nguồn tài trợ ngắn hạn, đồng thời phải giảm đến
mức tối thiểu các khoản phải thu (tín dụng khách hàng) đang bị khách hàng
chiếm dụng trong quá trình thanh toán.

Phát hành trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty là một tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung
hạn do doanh nghiệp phát hành với các điều kiện về mệnh giá, lãi suất và thời
hạn xác định. Người nắm giữ trái phiếu có thu nhập ổn định trong một thời
gian xác định và được hoàn trả vốn khi đáo hạn trái phiếu.
Trái phiếu công ty có nhiều loại khác nhau: Trái phiếu có lãi suất cố
định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu chuyển

đổi, trái phiếu trả lãi một lần, trái phiếu Coupon
Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể và tình hình trên thị trường tài chính mà
doanh nghiệp có thể lựa chọn phát hành loại trái phiếu nào thích hợp nhất.
Khi phát hành trái phiếu, doanh nghiệp cần lưu ý các vấn đề như chi phí trả
lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu.
Ưu điểm của phương thức huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu là
doanh nghiệp có thể tăng vốn cho hoạt động sản xuất - kinh doanh mà không
20
phải san sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi phát hành cổ phiếu; chi phí
phát hành trái phiếu thấp hơn so với phát hành cổ phiếu; lãi phải trả cho trái
phiếu được tính là chi phí hợp lý hợp lệ khi xác định thu nhập chịu thuế của
doanh nghiệp; giúp doanh nghiệp điều chỉnh cơ cấu vốn một cách linh hoạt
Tuy nhiên, khi sử dụng trái phiếu công ty để huy động vốn doanh nghiệp
phải có nghĩa vụ trả nợ đúng kỳ hạn. Do đó doanh nghiệp có thể gặp rủi ro
nếu tình hình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp thiếu sự ổn định dẫn
đến tình trạng không đủ nguồn tài chính để trang trải.
1.2.2.2. Thiết lập cơ cấu vốn phù hợp
Cơ cấu vốn của doanh nghiệp là mối tương quan tỷ lệ giữa Nợ dài
hạn và Vốn chủ sở hữu. Như vậy, khi đề cập đến cơ cấu vốn của doanh
nghiệp người ta chỉ xem xét vốn dài hạn là nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu mà
không xem xét đến nợ ngắn hạn vì nợ ngắn hạn mang tính ngắn hạn, tạm thời,
không ảnh hưởng nhiều đến sự chia sẻ quyền quản lý và giám sát hoạt động
của doanh nghiệp. Các khoản nợ ngắn hạn hầu như chỉ được sử dụng để đáp
ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động của doanh nghiệp, không bị tác động nhiều
bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Hơn nữa, chi phí để tiếp
cận vốn ngắn hạn thấp hơn vốn dài hạn, do vậy khi thiết lập kế hoạch huy
động vốn, doanh nghiệp chỉ xem xét đến các nguồn vốn dài hạn.
Trên thực tế, không có doanh nghiệp nào sử dụng hoàn toàn vốn chủ sở
hữu và không có doanh nghiệp nào chỉ vay nợ để kinh doanh vì sử dụng nợ và
vốn chủ sở hữu đều có những ưu, nhược điểm của nó. Việc lựa chọn một cơ

cấu vốn hợp lý có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn làm tối đa hoá giá trị của doanh
nghiệp và ở đó chi phí vốn trung bình nhỏ nhất.
21
Mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản cho các
chủ sở hữu và tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều nhằm thực hiện mục
tiêu này. Tối đa hoá giá trị tài sản cho chủ sở hữu cũng chính là tối đa hoá giá
trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp bằng giá trị hiện tại của các dòng tiền
mà doanh nghiệp nhận được từ việc đầu tư vào các tài sản.
Giá trị của doanh nghiệp được tính bằng công thức sau:
V =
CF
1
+
CF
2
+ +
CF

(1+WACC) (1+WACC)
2
(1+WACC)

Trong đó:
V: Giá trị doanh nghiệp
CF: các dòng tiền nhận được từ việc đầu tư vào các tài sản
WACC: chi phí vốn trung bình
Nếu các dòng tiền không đổi, giá trị của doanh nghiệp được tối đa hoá
khi chi phí vốn trung bình (WACC) nhỏ nhất. WACC chính là tỷ lệ chiết

khấu toàn bộ các dòng tiền mà doanh nghiệp thu được hay chính là tỷ lệ sinh
lời cần thiết để không làm giảm số lợi nhuận dành cho các chủ sở hữu.
Các căn cứ để thiết lập cơ cấu vốn tối ưu là chi phí vốn trung bình và
sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận.
Chi phí trung bình của vốn (WACC) bao gồm chi phí Nợ và chi phí vốn
chủ sở hữu. Chi phí Nợ là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để huy động
Nợ. Chi phí vốn chủ sở hữu bao gồm: chi phí của cổ phiếu ưu tiên, chi phí của
cổ phiếu thường và chi phí của lợi nhuận giữ lại. Chi phí Nợ được coi là chi
phí trước khi tính thuế thu nhập còn chi phí vốn chủ sở hữu là chi phí xác
định sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Chi phí Nợ chịu tác động của
thuế thu nhập doanh nghiệp nên sẽ giảm đúng bằng phần tiết kiệm nhờ thuế,
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp càng lớn thì chi phí nợ càng thấp. Đây
22
chính là cơ sở của việc sử dụng đòn bẩy tài chính.
Chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp sẽ thay đổi khi một trong các
nguồn vốn riêng lẻ có chi phí thay đổi. Có hai lý do để chi phí vốn sẽ thay
đổi. Thứ nhất là do hoạt động động đầu tư của doanh nghiệp tăng mức độ rủi
ro, khi đó, nhà đầu tư sẽ đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận cao hơn để bù đắp mức độ
rủi ro tăng lên. Do đó, chi phí vốn của doanh nghiệp tăng lên. Thứ hai, là do
cung cầu vốn trên thị trường tài chính thay đổi. Khi cầu về vốn tăng, hay
doanh nghiệp muốn huy động thêm một lượng vốn mới thì chi phí vốn hay lãi
suất trên thị trường sẽ tăng lên tương ứng vì lượng cung vốn trên thị trường
lúc này thấp hơn so với nhu cầu của các doanh nghiệp. Do vậy chi phí bình
quân gia quyền của vốn sẽ thay đổi trong từng thời kỳ, với từng lượng vốn
huy động khác nhau.
Căn cứ thứ hai để doanh nghiệp thiết lập cơ cấu vốn tối ưu là nguyên tắc
đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Sử dụng Nợ làm giảm chi phí vốn trung bình
của doanh nghiệp do chi phí nợ thường thấp hơn chi phí vốn chủ sở hữu, hơn
nữa doanh nghiệp còn được hưởng phần tiết kiệm thuế do lãi vay là chi phí hợp
lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy vậy, sử dụng nợ càng nhiều

càng làm tăng rủi ro tiềm tàng đối với cả chủ nợ lẫn chủ sở hữu doanh nghiệp.
Để đáp ứng mục tiêu tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu, cơ cấu vốn
tối ưu là cơ cấu đạt được sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận.
Những nhân tố tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp gồm:
- Rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính
Rủi ro kinh doanh được định nghĩa là sự không chắc chắn ở thời điểm
hiện tại về thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT). Những yếu tố tác động đến
mức độ rủi ro trong kinh doanh có thể là sự biến động của doanh thu, giá bán
sản phẩm, giá đầu vào, sự thay đổi công nghệ, khoa học kỹ thuật, kết cấu chi
phí (tỷ trọng giữa chi phí cố đinh và chi phí biến đổi). Rủi ro kinh doanh càng
23
cao thì chi phí vốn của doanh nghiệp càng cao.
Rủi ro tài chính là kết quả của việc doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn
có chi phí cố định (chủ yếu là lãi vay) để tài trợ cho các tài sản của mình. Khi
doanh nghiệp sủ dụng nợ vay và cổ phiếu ưu tiên thì chi phí lãi vay và cổ tức
ưu tiên chính là các nghĩa vụ theo hợp đồng mà doanh nghiệp phải đáp ứng ở
bất kỳ mức EBIT nào. Rủi ro tài chính làm tăng sự biến động trong thu nhập
dành cho các cổ đông đồng thời làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro phá sản
của doanh nghiệp.
Xem xét tác động của rủi ro kinh doanh người ta dùng đòn bẩy kinh doanh
và độ lớn của đòn bẩy kinh doanh (DOL). Đối với tác động của việc sử dụng nợ
người ta đề cập đến khái niệm đòn bẩy tài chính và độ lớn của đòn bẩy tài chính
(DFL). Đòn bẩy được định nghĩa là việc doanh nghiệp sử dụng các chi phí hoạt
động và chi phí tài chính cố định để gia tăng thu nhập cho các cổ đông. Đòn bẩy
kinh doanh lấy chi phí hoạt động làm điểm tựa. Khi một doanh nghiệp sử dụng
các chi phí cố định, một thay đổi trong doanh thu sẽ được phóng đại thành một
thay đổi tương đối lớn hơn trong EBIT. Trong khi đó đòn bẩy tài chính dùng các
chi phí tài chính cố định làm điểm tựa. Khi một doanh nghiệp sử dụng các chi
phí tài chính cố định, một thay đổi trong EBIT sẽ được phóng đại thành một thay
đổi tương đối lớn hơn trong thu nhập trên một cổ phiếu (EPS).

Công thức tính của DOL và DFL như sau:
DOL =
% thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay
% thay đổi của sản lượng hoặc doanh thu tiêu thụ
DOL cho biết 1% thay đổi của sản lượng hoặc doanh thu tiêu thụ sẽ dẫn
đến bao nhiêu % thay đổi của EBIT.
DFL =
% thay đổi của thu nhập trên một cổ phiếu
% thay đổi của thu nhập trước thuế và lãi vay
24

×