Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Luận văn thạc sỹ - Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở Công ty Điện lực tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.17 KB, 105 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2
1.1.2. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và sự cần thiết phải hoàn thiện cơ
chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản 13
+ Đặc điểm về kinh doanh điện năng: 45
+ Đặc điểm về công nghệ sản xuất: 45
+ Đặc điểm về tổ chức vận hành và bảo dưỡng hệ thống 46
3.3.5. Các giải pháp đặc thù khác 84
3.3.5.2. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý, cá nhân liên quan đến đầu tư
XDCB, chuyên nghiệp hoá công tác quản lý dự án 85
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý: 85
- Nâng cao năng lực của cán bộ tham gia quản lý dự án, chuyên gia xét thầu:
85
- Phải thực sự chuyên nghiệp trong hoạt động đấu thầu 86
3.3.5.3. Tăng cường hiệu quả quản lý công tác đấu thầu, nâng cao chất lượng đấu
thầu của các nhà thầu, tăng cường quản lý hợp đồng sau đấu thầu 87
3.3.5.5. Chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
trong đầu tư xây dựng 89
- Thực hiện nghiêm pháp luật đề ra: Để pháp luật thực hiện được nghiêm thì
trước hết phải thực hiện nghiêm ở các cơ quan bảo vệ pháp luật. Có cơ chế
thưởng, phạt thật hấp dẫn để làm cho người vi phạm không dám vi phạm,
người phát hiện và xử lý được hưởng quyền lợi thoả đáng làm cho người vi
phạm không thể hối lộ được. Lấy tiền phạt thu được làm tiền thưởng cho
người phát hiện, xử phạt. Người phát hiện vi phạm mà không xử phạt theo
đúng quy định sẽ bị phạt theo đúng mức phạt đó. Thưởng, phạt nghiêm đúng
mức độ một thời gian sẽ không còn vi phạm nữa. Củng cố và tăng cường các
hoạt động tư pháp cho phù hợp với cơ chế thị trường: Hệ thống toà án phải
đảm bảo khả năng xét xử một cách nhanh chóng, công minh đúng pháp luật
tất cả các mối quan hệ của các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các quan hệ
kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với
nhau. Xây dựng và thực hiện quy định về thể thức và quy trình làm việc,


thông báo công khai các thủ tục trong quá trình xem xét giải quyết công việc.
93
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CDMA : Công nghệ đa truy cập phân chia theo mã
CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
CPI : Chỉ số giá
ĐLMB : Điện lực Miền Bắc
ĐLNĐ : Điện lực Nam Định
ĐLTP : Điện lực thành phố
ĐLVN : Điện lực Việt Nam
ĐTPT : Đầu tư phát triển
GDP : Tổng sản phẩm trong nước
KTXH : Kinh tế - xã hội
SXKD : Sản xuất kinh doanh
TNHH MTV : Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
TSCĐ : Tài sản cố định
UBND : Ủy ban nhân dân
XDCB : Xây dựng cơ bản
XHCN : Xã hội chủ nghĩa.
DANH MỤC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 2.1: Khối lượng quản lý vận hành chính Error: Reference source
not found
Bảng 2.2: Tình hình tài chính Error: Reference source not found
Bảng 2.3: Công suất các nhà máy đưa vào vận hành giai đoạn 2005-2010
Error: Reference source not found
Bảng 3.1: Chi tiết các thành phần phụ tải điện Error: Reference source
not found
Bảng 3.2. Chỉ tiêu kinh doanh viễn thông điện lực Error: Reference

source not found
BIỂU
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu kinh tế năm 2005 và 2009 Error: Reference source not
found
SƠ ĐỒ
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 2
1.1.2. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và sự cần thiết phải hoàn thiện cơ
chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản 13
+ Đặc điểm về kinh doanh điện năng: 45
+ Đặc điểm về kinh doanh điện năng: 45
+ Đặc điểm về công nghệ sản xuất: 45
+ Đặc điểm về công nghệ sản xuất: 45
+ Đặc điểm về tổ chức vận hành và bảo dưỡng hệ thống 46
+ Đặc điểm về tổ chức vận hành và bảo dưỡng hệ thống 46
3.3.5. Các giải pháp đặc thù khác 84
3.3.5. Các giải pháp đặc thù khác 84
3.3.5.2. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý, cá nhân liên quan đến đầu tư
XDCB, chuyên nghiệp hoá công tác quản lý dự án 85
3.3.5.2. Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý, cá nhân liên quan đến đầu tư
XDCB, chuyên nghiệp hoá công tác quản lý dự án 85
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý: 85
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý: 85
- Nâng cao năng lực của cán bộ tham gia quản lý dự án, chuyên gia xét thầu:
85
- Nâng cao năng lực của cán bộ tham gia quản lý dự án, chuyên gia xét thầu:
85
- Phải thực sự chuyên nghiệp trong hoạt động đấu thầu 86
- Phải thực sự chuyên nghiệp trong hoạt động đấu thầu 86
3.3.5.3. Tăng cường hiệu quả quản lý công tác đấu thầu, nâng cao chất lượng đấu
thầu của các nhà thầu, tăng cường quản lý hợp đồng sau đấu thầu 87

3.3.5.3. Tăng cường hiệu quả quản lý công tác đấu thầu, nâng cao chất lượng đấu
thầu của các nhà thầu, tăng cường quản lý hợp đồng sau đấu thầu 87
3.3.5.5. Chấn chỉnh và nâng cao hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
trong đầu tư xây dựng 89
- Thực hiện nghiêm pháp luật đề ra: Để pháp luật thực hiện được nghiêm thì
trước hết phải thực hiện nghiêm ở các cơ quan bảo vệ pháp luật. Có cơ chế
thưởng, phạt thật hấp dẫn để làm cho người vi phạm không dám vi phạm,
người phát hiện và xử lý được hưởng quyền lợi thoả đáng làm cho người vi
phạm không thể hối lộ được. Lấy tiền phạt thu được làm tiền thưởng cho
người phát hiện, xử phạt. Người phát hiện vi phạm mà không xử phạt theo
đúng quy định sẽ bị phạt theo đúng mức phạt đó. Thưởng, phạt nghiêm đúng
mức độ một thời gian sẽ không còn vi phạm nữa. Củng cố và tăng cường các
hoạt động tư pháp cho phù hợp với cơ chế thị trường: Hệ thống toà án phải
đảm bảo khả năng xét xử một cách nhanh chóng, công minh đúng pháp luật
tất cả các mối quan hệ của các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các quan hệ
kinh tế giữa Nhà nước với các doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với
nhau. Xây dựng và thực hiện quy định về thể thức và quy trình làm việc,
thông báo công khai các thủ tục trong quá trình xem xét giải quyết công việc.
93
KẾT LUẬN 96
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Hoàn thiện cơ chế quản lý, chuyển kinh tế từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
sang kinh tế thị trường và hội nhập vào kinh tế quốc tế là một sự thay đổi căn bản
trong phương thức sản xuất, kết cấu kinh tế và con đường phát triển kinh tế.
Ngành điện là một ngành kinh tế mũi nhọn, có vị trí rất quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, cung cấp năng lượng phục vụ sản xuất kinh doanh (SXKD) và
sinh hoạt của nhân dân với hàng hóa đặc biệt là điện năng.
Nam Định nằm ở phía Nam vùng châu thổ sông Hồng, là một tỉnh đồng bằng
ven biển có bờ biển dài 72km. Nằm trong bối cảnh chung của nền kinh tế đất nước,

Nam Định đã và đang là một trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng của vùng Nam
đồng bằng sông Hồng với những thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, kinh tế biển,
công nghiệp dệt may, chế biến nông sản, thực phẩm, thuỷ sản, sản xuất vật liệu xây
dựng và cơ khí, điện, điện tử.
Công ty Điện lực Nam Định (ĐLNĐ) là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc
Tổng Công ty Điện lực Miền Bắc (ĐLMB) – Tập đoàn Điện lực Việt Nam
(ĐLVN), là một đơn vị SXKD và mặt hàng kinh doanh chủ yếu là điện năng thương
phẩm.
Mạng lưới truyền tải và phân phối do Công ty ĐLNĐ quản lý đã phát triển
tương đối hoàn thiện song vẫn còn không ít những tồn tại và hạn chế gây nên nguy
cơ mất an toàn và tổn thất điện năng lớn.
Lưới điện trung, cao thế có nhiều tuyến, lộ dây cũ nát được xây dựng từ rất
lâu. Do đường dây được thiết kế và xây dựng từ lâu nên hiện nay đã không còn đảm
bảo đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật để vận hành: Tiết diện dây nhỏ gây ra hiện tượng
quá tải, cột điện cũ không đảm bảo an toàn kỹ thuật
Ngành điện và tỉnh Nam Định chủ trương tiếp nhận lưới điện hạ thế nông
thôn của tỉnh (trước đây do địa phương tự đầu tư) để Công ty ĐLNĐ quản lý, đầu tư
cải tạo, bán điện trực tiếp đến hộ dân để toàn tỉnh (nhất là nông dân) được hưởng
1
giá điện, chất lượng điện như thành phố mà không phải đóng góp thêm kinh phí.
Thực hiện chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân (UBND) tỉnh Nam Định và Tập đoàn
ĐLVN, Công ty ĐLNĐ xây dựng kế hoạch tiếp nhận lưới điện hạ thế toàn tỉnh.
Thời gian giao - nhận lưới điện hạ thế của tỉnh trong năm 2008, 2009, 2010.
Sau việc bàn giao lưới điện trung áp nông thôn cho ngành điện quản lý đã
được hoàn tất, Chính phủ tiếp tục có chủ trương chuyển giao lưới điện của thủy
nông, nông lâm trường, quân đội, và lưới điện hạ áp nông thôn cho ngành điện quản
lý. Sau tiếp nhận, khó khăn lớn nhất đặt ra là khối lượng quản lý lớn, hạ tầng lưới
điện đã cũ nát, mất an toàn, tổn thất điện năng cao. Từ đó đòi hỏi vốn đầu tư lớn và
sự nỗ lực cao độ của tập thể cán bộ công nhân viên trong quản lý vận hành, đầu tư
xây dựng và cải tạo lưới điện.

Thời giam qua, ngành điện đã đầu tư trên địa bàn tỉnh Nam Định 1.824 tỷ
đồng, trong đó đầu tư tại khu vực nông thôn là 1.332 tỷ đồng. Công ty ĐLNĐ đã có
nhiều cố gắng và cũng đã đạt được nhiều thành tựu trong đầu tư xây dựng cơ bản
(XDCB). Tuy vậy cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở Công ty ĐLNĐ còn nhiều hạn
chế cần phải từng bước khắc phục. Vì vậy, hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB
nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động XDCB, là điều kiện tiên quyết để Công ty
ĐLNĐ phát triển, trở thành đơn vị hàng đầu của ngành ĐLVN.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đó, là người đang trực tiếp công tác tại Công
ty ĐLNĐ tôi chọn đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở Công ty Điện
lực tỉnh Nam Định” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Trong thời gian vừa qua, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về cơ
chế quản lý đầu tư XDCB ở một số ngành, địa phương như:
- Luận văn thạc sỹ kinh tế của Phạm Ngọc Biên với đề tài “Hoàn thiện cơ
chế quản lý đầu tư XDCB hạ tầng giao thông trong thời kỳ CNH-HĐH” năm 2002.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Khắc Thiện với đề tài “Tăng cường
vai trò quản lý của nhà nước đối với đầu tư XDCB bằng vốn ngân sách nhà nước tại
tỉnh Hà Tây” năm 2006.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Thị Bình với đề tài “Đổi mới quản lý
2
nhà nước đối với đầu tư XDCB từ Ngân sách nhà nước ở Hà Nội” năm 2007.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Thị Thanh với đề tài “Tăng cường
quản lý nhà nước đối với đầu tư XDCB từ ngân sách của thành phố Hà Nội”
năm 2008.
- Luận văn thạc sỹ kinh tế của Nguyễn Thanh Bình với đề tài “Tăng cường
quản lý đầu tư XDCB của Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam” năm 2008.
Tuy nhiên về cơ chế quản lý đầu tư XDCB của Công ty ĐLNĐ thì chưa có
đề tài nào nghiên cứu và nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống dưới góc độ
Kinh tế chính trị.
Vì vậy đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở Công ty Điện

lực tỉnh Nam Định” đã chọn vẫn mang tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, bổ
sung và làm phong phú thêm tình hình nghiên cứu khoa học về cơ chế quản lý đầu
tư XDCB.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu, hệ thống hoá cơ sở lý luận về cơ chế quản lý đầu tư XDCB, từ
đó làm tiền đề để hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở Công ty ĐLNĐ.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý đầu tư XDCB của Công ty ĐLNĐ
trong thời gian qua, tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu, những lợi thế, những khó
khăn. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB
ở Công ty ĐLNĐ trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý đầu tư XDCB ở Công ty ĐLNĐ.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động đầu tư XDCB ở Công ty ĐLNĐ
đặt trong mối quan hệ với Tổng Công ty ĐLMB, Tập đoàn ĐLVN.
Thời gian nghiện cứu: từ năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp với
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp thống kê phân tích thu thập xử lý số liệu, tổng hợp, so sánh;
3
phương pháp logic kết hợp lịch sử sử và một số phương pháp khác.
6. Những đóng góp của luận văn
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về đầu tư XDCB và cơ chế quản lý đầu tư XDCB.
- Giới thiệu tổng quát về quá trình hình thành và phát triển của Công ty
ĐLNĐ, những đóng góp của Công ty ĐLNĐ cho sự phát triển kinh tế - xã hội
(KTXH) của tỉnh Nam Định, cho việc hoàn thành những nhiệm vụ SXKD của Tổng
Công ty ĐLMB và Tập đoàn ĐLVN trong những năm qua.
- Phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở Công ty
ĐLNĐ trong thời gian qua, tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu, những lợi thế, những
khó khăn, xác định nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm rút ra từ công tác

quản lý đầu tư XDCB.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý
đầu tư XDCB ở Công ty ĐLNĐ trong tình hình mới bao gồm các giải pháp ở tầm vĩ
mô, cấp ngành và các giải pháp của Công ty ĐLNĐ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ chế quản lý đầu tư
xây dựng cơ bản ở Công ty Điện lực
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ở Công
ty Điện lực Nam Định
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý đầu
tư xây dựng cơ bản ở Công ty Điện lực Nam Định
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ
QUẢN LÝ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Ở CÔNG TY ĐIỆN LỰC
1.1. Một số vấn đề cơ bản về đầu tư xây dựng cơ bản và cơ chế quản lý
đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản và vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản trong
phát triển kinh tế xã hội
1.1.1.1. Khái niệm về đầu tư xây dựng cơ bản
Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư được hiểu là việc bỏ vốn ra hôm nay để
mong nhận được kết quả lớn hơn trong tương lai. Kết quả mang lại đó có thể là hiệu
quả KTXH.
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc tạo
ra các tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân của một nước, hoặc một vùng, một tỉnh,
thành phố Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản giữa các cá
nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế.

Đầu tư theo nghĩa hẹp là đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương
lai lớn hơn các nguồn lực đã đầu tư để đạt được các kết quả đó
Đầu tư có thể tiến hành theo những phương thức khác nhau: đầu tư trực tiếp,
đầu tư gián tiếp.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho
vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (mua trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công trình, chứng khoán, trái khoán, gửi tiết kiệm ) hoặc lãi
suất tùy thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành. Theo
phương thức đầu tư này, người bỏ vốn đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý và
điều hành dự án. Đầu tư gián tiếp không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ
5
làm tăng giá trị tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Vì vậy, phương thức đầu tư
này còn gọi là đầu tư tài chính.
- Đầu tư trực tiếp: Theo phương thức này, người bỏ vốn đầu tư sẽ trực tiếp
tham gia quản lý trong quá trình đầu tư, quá trình quản lý kinh doanh khi đưa dự án
vào khai thác, sử dụng sau này. Đầu tư trực tiếp có hai hình thức:
+ Đầu tư dịch chuyển: Đầu tư dịch chuyển là bỏ chi phí ra để mua cổ phần
của người khác nhằm chuyển dịch quyền quản trị trong hoạt động kinh doanh. Đó là
hình thức đầu tư mà ở đó chỉ liên quan đến việc tăng hoặc giảm quy mô của từng
nhà đầu tư cá biệt, nó không ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng hoặc giảm quy mô
vốn trên toàn xã hội.
+ Đầu tư phát triển (ĐTPT): ĐTPT là bộ phận cơ bản của đầu tư, là hình
thức đầu tư mà ở đó có liên quan đến sự tăng trưởng quy mô vốn của nhà đầu tư và
quy mô vốn trên phạm vi toàn xã hội. Điển hình của ĐTPT là đầu tư vào khu vực
sản xuất, dịch vụ, đầu tư vào yếu tố con người và đầu tư vào cơ sở hạ tầng KTXH.
Đó là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu
tố cơ bản của SXKD dịch vụ tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, năng lực SXKD mới
thông qua việc mua sắm lắp đặt thiết bị, máy móc, xây dựng nhà cửa vật kiến trúc
và tiến hành các công việc có liên quan đến sự phát huy tác dụng của các cơ sở vật

chất kỹ thuật do hoạt động của nó tạo ra.
ĐTPT đòi hỏi nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, đó chính là nguồn vốn.
Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc
thiết bị, tài nguyên Vì vậy, khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu
quả hoạt động đầu tư cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của ĐTPT là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện
nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao động xã
hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh
thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia thành hai nhóm
chính là công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ
xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành loại được khuyến khích
6
đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư. Từ góc độ tài
sản, đối tượng đầu tư chia thành tài sản hữu hình (gồm tài sản cố định và tài sản lưu
động) và tài sản vô hinh như phát minh sáng chế, uy tín thương hiệu
Kết quả của ĐTPT là sự tăng thêm tài sản vật chất (như nhà xưởng thiết
bị ), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật ) và tài sản
vô hình (phát minh sáng chế, bản quyền )
Mục đích của ĐTPT là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng
đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và đời sống của các thành
viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận,
nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực. Nội dung ĐTPT ở
doanh nghiệp và phạm vi nền kinh tế có thể khác nhau. Trên góc độ nền kinh tế,
ĐTPT phải làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải là hiện tượng chu
chuyển tài sản giữa các đơn vị.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá trước đây, khi nói đầu tư chúng ta thường
hiểu đó là đầu tư XDCB. Tuy nhiên, đầu tư XDCB chỉ là một trong nhiều loại đầu
tư. Cụ thể, ĐTPT được chia thành:
Thứ nhất: Đầu tư để hình thành tài sản phi vật chất đó là tài sản trí tuệ, môi

trường sinh thái, nguồn nhân lực
Thứ hai: Đầu tư hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm: i, Đầu tư mua
sắm trang thiết bị, chế tạo ra những cơ sở vật chất không gắn với đất như đóng tàu,
chế tạo máy bay ; ii, Đầu tư nhằm hình thành cơ sở vật chất gắn liền với đất được
gọi là đầu tư XDCB.
XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung nên đầu tư XDCB có
đầy đủ các đặc điểm và các tính chất của hoạt động đầu tư. Trong đó nổi lên các đặc
điểm cơ bản là đặc thù của hoạt động đầu tư XDCB: Một là, Sản phẩm của đầu tư
XDCB có tính cố định, nơi sản xuất cũng đồng thời là nơi tiêu thụ sản phẩm. TSCĐ
sẽ chịu tác động rất lớn của các điều kiện về địa lý, địa hình, môi trường KTXH.
Sản phẩm XDCB chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu, thời tiết. Hai là, Thời gian
7
XDCB và thời gian tồn tại của sản phẩm XDCB lâu dài, khối lượng vốn đầu tư lớn.
Ba là, Tính đơn chiếc và chu kỳ sản xuất không lặp lại là đặc điểm riêng có của đầu
tư XDCB. Dù thiết kế giống nhau, nhưng địa điểm xây dựng khác nhau, thời gian,
khí hậu các vùng khác nhau dẫn đến sản phẩm không giống nhau hoàn toàn từ đó
chi phí sản xuất cũng không giống nhau.
Hoạt động đầu tư XDCB là hết sức cần thiết, bởi vì:
- Do đặc điểm sử dụng TSCĐ tham gia nhiều lần vào quá trình tái sản xuất,
giá trị TSCĐ bị giảm dần và chuyển dần từng phần vào trong giá trị sản phẩm nên
phải tiến hành đầu tư XDCB để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn và duy trì dự trữ
nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất tiếp theo. Như vậy, đầu tư XDCB nhằm thực
hiện tái sản xuất giản đơn TSCĐ.
- Theo sự phát triển chung của xã hội, nhu cầu quy mô sản xuất ngày càng
mở rộng đòi hỏi phải tiến hành đầu tư XDCB nhằm tăng thêm TSCĐ mới và tăng
thêm dự trữ tài sản lưu động. Như vậy, đầu tư XDCB nhằm thực hiện tái sản xuất
mở rộng TSCĐ.
- Trong thời đại của tiến bộ công nghệ phát triển mạnh mẽ, nhiều máy móc
thiết bị trở nên lạc hậu. Vì vậy, phải tiến hành đầu tư mới để thay thế các tài sản sản
xuất đã bị hao mòn vô hình.

Trong doanh nghiệp, đầu tư XDCB là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo TSCĐ.
Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như: xây lắp, mua sắm máy móc thiết
bị. Để các hoạt động SXKD của doanh nghiệp diễn ra bình thường, cần phải xây
dựng các nhà xưởng, kho tàng, các công trình kiến trúc, mua sắm lắp đặt máy móc
thiết bị
Đầu tư XDCB có đặc điểm nổi bật là thời gian dài, số tiền bỏ ra lớn, khả
năng chịu rủi ro cao. Để giảm thiểu khả năng rủi ro, các nhà đầu tư thường đầu tư
theo những dự án đầu tư. Dự án đầu tư xây dựng công trình bao gồm phần thuyết
minh và phần thiết kế cơ sở. Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình quy mô nhỏ,
đơn giản và các công trình tôn giáo thì chỉ lập Báo cáo kinh tế - kỹ thuật xây dựng
công trình trong đó bao gồm các yêu cầu, nội dung cơ bản theo quy định.
8
Theo quy định của Chính phủ tại nghị định số 12/2009/NĐ-CP ngày 10
tháng 12 năm 2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình, các dự án đầu tư
xây dựng công trình được phân loại như sau:
+ Theo quy mô và tính chất, bao gồm: dự án quan trọng quốc gia do Quốc
hội xem xét, quyết định về chủ trương đầu tư; các dự án còn lại được phân thành 3
nhóm A, B, C.
+ Theo nguồn vốn đầu tư, bao gồm: i, Dự án sử dụng vốn ngân sách nhà
nước; ii, Dự án sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng ĐTPT
của Nhà nước; iii, Dự án sử dụng vốn ĐTPT của doanh nghiệp nhà nước; iv, Dự án
sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân hoặc sử dụng hỗn hợp nhiều nguồn vốn.
Việc đầu tư xây dựng công trình phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát
triển KTXH, quy hoạch ngành, quy hoạch xây dựng, đảm bảo an ninh, an toàn xã
hội và an toàn môi trường, phù hợp với các quy định của pháp luật về đất đai và
pháp luật liên quan. Tùy theo nguồn vốn sử dụng cho dự án, nhà nước thực hiện
việc quản lý các dự án theo quy định sau:
+ Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước kể cả các dự án thành
phần, Nhà nước quản lý toàn bộ quá trình đầu tư xây dựng từ việc xác định chủ trương
đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập thiết kế, dự toán, lựa chọn nhà thầu, thi công

xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa công trình vào khai thác sử dụng.
+ Đối với dự án của doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh, vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước và vốn ĐTPT của doanh nghiệp Nhà nước
thì Nhà nước chỉ quản lý về chủ trương và quy mô đầu tư. Doanh nghiệp có dự án
tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và quản lý dự án theo các quy định của pháp
luật có liên quan.
+ Đối với các dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân, chủ đầu tư tự
quyết định hình thức và nội dung quản lý dự án. Đối với các dự án sử dụng hỗn hợp
nhiều nguồn vốn khác nhau thì các bên góp vốn thỏa thuận về phương thức quản lý
hoặc quản lý theo quy định đối với nguồn vốn có tỷ lệ phần trăm lớn nhất trong
tổng mức đầu tư.
9
Đối với dự án quan trọng quốc gia hoặc dự án nhóm A gồm nhiều dự án
thành phần, nếu từng dự án thành phần có thể độc lập vận hành, khai thác hoặc thực
hiện theo phân kỳ đầu tư thì mỗi dự án thành phần có thể được quản lý, thực hiện
như một dự án độc lập. Việc phân chia dự án thành phần do người quyết định đầu tư
quyết định.
Đầu tư XDCB xét về bản chất nó là ngành sản xuất vật chất có chức năng tái
sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các TSCĐ có tính chất sản xuất và phi
sản xuất thông qua hình thức xây dựng mới, xây dựng lại hay hiện đại hóa và khôi
phục lại tài sản đã có.
1.1.1.2. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản trong phát triển kinh tế xã hội
Đầu tư XDCB có vai trò quyết định trong việc tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật
cho xã hội, là nhân tố quyết định làm thay đổi cơ cấu kinh tế quốc dân mỗi nước,
thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế đất nước. Đặc trưng của XDCB là
một ngành sản xuất vật chất đặc biệt có những đặc điểm riêng khác với những
ngành sản xuất vật chất khác cả về sản phẩm và vốn đầu tư XDCB.
Trong bất kỳ xã hội nào cũng đều phải có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng,
việc bảo đảm tính tương ứng này chính là nhiệm vụ của hoạt động đầu tư XDCB.
Như vậy muốn có nền kinh tế phát triển thì điều kiện trước tiên và cần thiết là phải

tiến hành các hoạt động đầu tư XDCB.
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, đầu tư XDCB có tác động đến tăng trưởng
và phát triển bởi vì:
- Đầu tư XDCB tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế:
Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, cần phải đầu tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của
đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn. Xét theo mô hình kinh tế vĩ mô, đầu tư là bộ phận
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, gia tăng đầu tư
(I) làm cho tổng cầu (AD) tăng, nếu các yếu tố khác không đổi
AD = C + I + G + X - M
10
Trong đó: C: Tiêu dùng;
G: Tiêu dùng của chính phủ;
X: Xuất khẩu;
M: Nhập khẩu.
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung
từ nước ngoài. Trong đó, bộ phận chủ yếu là cung trong nước, là một hàm của các
yếu tố sản xuất: vốn (K), lao động (L), nguồn tài nguyên (R), công nghệ (T) , được
thể hiện qua phương trình:
Q = F (K, L, T, R )
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng
cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Ngoài ra, tác động của vốn
đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đổi mới công nghệ Như vậy, đầu tư gián tiếp làm tăng tổng cung của
nền kinh tế.
Khi các dự án đầu tư hoàn thành phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào
hoạt động thì tổng cung (đặc biệt là tổng cung dài hạn) tăng lên, sản lượng tiềm
năng tăng, giá cả sản phẩm giảm, từ đó tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại kích thích
sản xuất tăng lên. Khi sản xuất phát triển, tích lũy tăng, KTXH phát triển, tăng thu
nhập cho người lao động, nâng cao đời sống nhân dân.

- Đầu tư XDCB có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế.
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư XDCB đến tổng
cung và tổng cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư XDCB đều
cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của
nền kinh tế của mọi quốc gia.
Khi tăng đầu tư XDCB, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả của
các hàng hoá có liên quan tăng, đến một lúc nào đó dẫn đến yếu tố lạm phát. Lạm
phát dẫn đến ngừng trệ sản xuất, đời sống lao động gặp nhiều khó khăn, thâm hụt
ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác khi tăng đầu tư XDCB làm cho cầu
của các yếu tố có liên quan tăng lên, dẫn đến sản xuất của các ngành này phát triển,
11
thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động , tất cả
các vấn đề này tạo điều kiện cho phát triển tinh tế.
- Đầu tư XDCB tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, các vùng kinh tế. Để
phát triển kinh tế ổn định, vững chắc với tốc độ cao, cần thiết phải đầu tư để chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH nâng cao tỷ trọng các ngành công
nghiệp, dịch vụ trong GDP đồng thời giải quyết sự mất cân đối về phát triển giữa
các vùng lãnh thổ nhằm phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế so sánh giữa các vùng
lãnh thổ của đất nước.
Nước ta hiện nay, nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cần phải chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng tăng tỷ trọng cơ cấu ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của
ngành nông nghiệp.
- Đầu tư XDCB tác động đến khoa học và công nghệ, là nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ của một doanh
nghiệp và quốc gia.
Công nghệ là trung tâm của CNH-HĐH. Đầu tư XDCB là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ.
Công nghệ có được là do nhập khẩu hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng. Song,

dù nhập hay tự nghiên cứu để có công nghệ cũng cần có vốn đầu tư lớn. Mỗi doanh
nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ
thích hợp. Từ đó đầu tư phù hợp có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng
đơn vị cũng như toàn nền kinh tế.
- Đầu tư XDCB tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng, vừa tác động đến chất lượng
tăng trưởng. Tăng quy mô đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố
quan trọng nâng cao hiệu quả đầu tư, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Từ đó nâng cao
chất lượng tăng trưởng kinh tế.
12
Biểu hiện của mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng kinh tế được thể hiện
ở công thức tính hệ số đầu tư tăng trưởng (hệ số ICOR):
ICOR =
Vốn đầu tư tăng thêm
=
Đầu tư trong kỳ
GDP tăng thêm GDP tăng thêm
Như vậy: Mức tăng GDP =
Vốn đầu tư
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Hệ số ICOR của nền kinh tế cao hay thấp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, thay
đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách của quốc gia. Hướng phấn
đấu của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 mức tăng trưởng GDP bình quân từ
7% đến 8%/năm, điều này đòi hỏi Chính phủ phải có cơ chế quản lý, chính sách thu
hút và sử dụng các nguồn vốn đầu tư một cách hợp lý và hiệu quả.
1.1.2. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và sự cần thiết phải hoàn
thiện cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.2.1. Khái niệm về cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản

Theo từ điển Từ và ngữ Việt Nam giải nghĩa từ “cơ chế” như sau: “cơ là máy
móc; chế là phép định ra. Cơ chế là cách thức sắp xếp theo một trình tự nhất định”.
Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm
2000 giải nghĩa: “Cơ chế là cách thức theo đó một quá trình thực hiện”.
Theo từ điển Tiếng Việt (Vũ Chất, Nhà xuất bản văn hoá thông tin) năm
2009 thì quản lý chính là việc sắp đặt, trông nom.
Khi nói đến quản lý là nói đến chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Để kiểm
soát đối tượng quản lý và hướng đối tượng quản lý theo đúng chủ đích của mình,
chủ thể quản lý phải có những ý tưởng để tiết chế đối tượng quản lý thông qua công
cụ quản lý. Cơ chế quản lý là phương thức để chủ thể quản lý tác động tới đối tượng
quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra.
Như vậy, ta có thể hiểu: Cơ chế quản lý đầu tư XDCB là cách thức quản lý
đầu tư XDCB, là phương thức tác động từ chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
13
đầu tư XDCB nhằm đạt được mục tiêu đặt ra. Cơ chế quản lý đầu tư XDCB bao
gồm những quy định về nội dung, trình tự công việc cần làm; tổ chức bộ máy để
thực thi các công việc và những quy định về thưởng, phạt khi thực hiện tốt hoặc
không tốt công việc đó.
1.1.2.2. Nguyên tắc cơ bản trong cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
Tuy cơ chế quản lý mang tính chủ quan nhưng hiệu quả của cơ chế đòi hỏi
nó phải phù hợp với yêu cầu khách quan trong điều kiện lịch sử cụ thể. Do đó cơ
chế quản lý nói chung và cơ chế quản lý đầu tư XDCB nói riêng phải luôn luôn
được hoàn thiện để đáp ứng các điều kiện khách quan của thực tiễn. Quản lý đầu tư
XDCB phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
- Nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả cao
Tiết kiệm và đạt hiệu quả cao vừa là mục tiêu, vừa là phương hướng, tiêu
chuẩn đánh giá trình độ, năng lực quản lý đầu tư XDCB.
Nội dung của nguyên tắc này là quản lý sao cho với một đồng vốn đầu tư
XDCB bỏ ra phải thu lại lợi ích cao nhất. Để tạo ra được một năng lực sản xuất mới,
hay một chất lượng phục vụ tốt hơn thì cần phải quản lý như thế nào để tiết kiệm chi

phí ở mức tối ưu. Nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả phải được xem xét trên phạm vi toàn
xã hội và trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
- Nguyên tắc tập trung, dân chủ
Tập trung, dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất. Tập trung thống nhất
vào một đầu mối có thể hội tụ được trí tuệ, tình cảm, ý chí và cơ sở vật chất nhằm
đạt hiệu quả tổng thể cao nhất, tránh được hiện tượng phân tán, rối loạn, triệt tiêu
sức mạnh và tiềm năng chung. Dân chủ làm tăng tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt
của mỗi người, tạo được khí thế tích cực, quyết tâm cho người thực hiện.
Tính dân chủ là đảm bảo cho mọi người cùng tham gia vào quản lý đầu tư
XDCB. Dân chủ đòi hỏi phải công khai cho mọi người biết, thực hiện phương châm
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trên tất cả các khâu lập quy hoạch, kế
hoạch phân bổ, cấp phát, thanh quyết toán Phát huy dân chủ sẽ tạo ra sự thi đua,
nỗ lực, cạnh tranh lành mạnh trong việc quản lý đầu tư XDCB.
14
- Nguyên tắc thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế
Đảng cộng sản Việt Nam đã thống nhất quan điểm: “phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt”. Về cơ bản và lâu dài,
chính trị và kinh tế thường thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau. Kinh tế, thể hiện
các lợi ích cụ thể, trực tiếp, có thể đem ra đo đếm được. Còn chính trị, mang tính
trừu tượng, khái quát, mang tính giai cấp, dân tộc.
Lãnh đạo chính trị cuối cùng cũng phải phấn đấu đạt được các mục tiêu kinh
tế. Ngược lại, có ổn định chính trị mới tạo ra được môi trường tin cậy và thuận lợi
cho các hoạt động kinh tế, góp phần đem lại sự ổn định, tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện nguyên tắc này, khi xây dựng kế hoạch đầu tư XDCB phải dựa
vào chủ trương, đường lối của Đảng đã vạch ra trong từng thời kỳ. Khi lựa chọn dự
án đầu tư phải tính toán đầy đủ hiệu quả KTXH.
- Nguyên tắc kết hợp hài hoà giữa các lợi ích.
Lợi ích là mục tiêu cuối cùng, là vấn đề quan tâm hàng đầu của quản lý. Lợi
ích vừa là mục đích, vừa là yêu cầu, là động lực mạnh mẽ nhất đối với hành động
của con người.

Kết hợp hài hoà các mặt lợi ích sẽ tạo động lực cho các bên tham gia đầu tư.
Nhà nước tính toán thấy có lợi sẽ đầu tư nhiều hơn, các doanh nghiệp đầu tư có lãi
sẽ nhanh chóng thu hồi được vốn đầu tư mở rộng SXKD, người lao động được đảm
bảo thu nhập hợp lý, sẽ yên tâm công tác, hăng say lao động, tránh được những vi
phạm, tiêu cực.
- Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo vùng, lãnh thổ
Quản lý theo ngành nhằm phát huy lợi thế trên toàn quốc về chiều sâu kinh
tế - kỹ thuật. Quản lý theo vùng, lãnh thổ tạo ra thế chủ động cho các cấp chính
quyền địa phương, làm cho quá trình quản lý sâu sát với đối tượng quản lý hơn. Kết
hợp quản lý theo ngành với quản lý theo vùng lãnh thổ sẽ tạo cho quá trình quản lý
hiệu quả hơn.
Quản lý đầu tư XDCB theo ngành trước hết bằng các quy định về tiêu chuẩn,
định mức kỹ thuật do Bộ Xây dựng và các Bộ quản lý chuyên ngành ban hành.
15
Quản lý đầu tư XDCB theo địa phương, theo vùng là xây dựng đơn giá vật liệu,
nhân công, ca máy cho từng địa phương.
Ngoài ra, trong quản lý đầu tư XDCB của Nhà nước còn phải tuân thủ các
nguyên tắc như: phải thực hiện đúng trình tự đầu tư và xây dựng; phân định rõ trách
nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước, chủ đầu tư, tổ chức tư vấn và
nhà thầu trong quá trình đầu tư XDCB
1.1.2.3. Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
Cơ chế quản lý đầu tư XDCB là phương tiện tác động từ chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý đầu tư XDCB. Cơ chế quản lý đầu tư XDCB quyết định đến hiệu
quả đầu tư. Việc cần thiết phải hoàn thiện cơ chế quản lý hiện hành về đầu tư
XDCB xuất phát từ những lý do sau đây:
- Nền kinh tế nước ta hiện tại là nền kinh tế thị trường sơ khai với những đặc
điểm cơ bản: thị trường thiếu đồng bộ, đặc biệt là thị trường các yếu tố đầu vào còn
đang trong giai đoạn sơ khai, manh mún như thị trường vốn, thị trường lao động
Các giao dịch, thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế còn chiếm tỷ trọng quá
lớn. Ngoài ra ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể kinh tế còn nhiều hạn chế.

Xuất phát từ yêu cầu phát triển KTXH của nước ta đi lên nền kinh tế thị
trường từ một nền kinh tế kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế và
toàn xã hội còn hết sức thiếu thốn, cơ cấu kinh tế đã bước đầu được chuyển dịch
song tốc độ chuyển dịch còn chậm. Vì vậy mục tiêu đặt ra là phải đẩy nhanh phát
triển KTXH. Mặc dù việc quản lý đầu tư XDCB đã có nhiều thay đổi nhưng nhìn
chung hiệu quả chưa cao. Tình trạng đầu tư dàn trải, manh mún và thất thoát trong
đầu tư XDCB, đặc biệt là từ nguồn vốn của ngân sách Nhà nước còn lớn, cần phải
hoàn thiện cơ chế quản lý hơn nữa.
- Do vận động, phát triển của nền kinh tế làm gia tăng về lượng kéo theo sự
biến đổi về chất dẫn đến chuyển dịch và thay đổi cơ cấu kinh tế. Nền kinh tế đang
trên đà chuyển dịch cơ cấu nên đòi hỏi cơ chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế
quản lý đầu tư XDCB cũng phải thay đổi thích ứng với cơ cấu kinh tế mới. Để tạo
điều kiện cho nền kinh tế tiếp tục phát triển thì việc quản lý phải thay đổi cho phù
hợp với cơ cấu kinh tế mới, trong đó phải hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB.
16
- Quản lý đầu tư XDCB nhằm đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu
chiến lược phát triển KTXH từng thời kỳ của quốc gia. Ở Việt Nam, đó là chiến
lược phát triển KTXH theo định hướng XHCN, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm
thực hiện CNH-HĐH, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân, vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ -
công bằng - văn minh.
- Cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước là một trong
những nội dung đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình đổi mới của đất nước, bộ máy quản lý nhà nước nói chung và bộ
máy quản lý đầu tư XDCB nói riêng đã không ngừng được nâng lên. Song do yêu
cầu của thực tiễn quản lý thì trình độ, năng lực của bộ máy Nhà nước vẫn còn nhiều
bất cập, đặc biệt là kiến thức quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, sự nhạy cảm quản lý đối với những vấn đề hội
nhập kinh tế quốc tế. Như vậy, chính sự vận động của thực tiễn quản lý đã làm rõ sự
bất cập về năng lực của bộ máy quản lý.

Phân công, phân cấp quản lý trong hệ thống bộ máy Nhà nước là tính tất yếu
của mọi loại hình nhà nước. Từ sự phân công, phân cấp đã hình thành nhiều tổ
chức, nhiều chủ thể trong hệ thống quản lý, đồng thời tạo ra tính độc lập tương đối
giữa các cơ quan hoạch định, soạn thảo, ban hành và trực tiếp quản lý. Do tính chất,
đặc điểm của sản phẩm XDCB chi phối, nên ngoài các chủ thể trong hệ thống quản
lý của Nhà nước còn cả các chủ thể với tư cách là doanh nghiệp cũng tham gia vào
quá trình đầu tư XDCB (đơn vị tư vấn, thi công ). Về mặt lợi ích, giữa Nhà nước
và doanh nghiệp nhiều khi rất khác nhau theo khuynh hướng của người bán là tối đa
hóa lợi nhuận, còn người mua là tối đa hóa lợi ích. Trình độ chuyên môn của các cơ
quan quản lý Nhà nước, các chủ đầu tư, ban quản lý, đơn vị nhận thầu đã được nâng
lên nhưng chưa đồng đều, chưa có sự chuẩn hóa về trình độ cho các vị trí trên, dẫn
đến tính hiệu quả quản lý chưa cao, cần hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB.
- Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy mạnh
công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật do đó môi trường pháp lý đã được cải thiện
17
đáng kể. Song nhìn chung, thực trạng nền pháp lý vẫn còn nhiều bất cập: tình trạng
thiếu Luật và không đồng bộ trong hệ thống Luật còn tồn tại, việc tổ chức triển khai
thực hiện Luật còn qua nhiều khâu, nhiều nấc, nhiều tầng (Luật, Nghị định, Thông
tư, Quyết định ) không đảm bảo tính kịp thời và có lúc, có nơi chưa thống nhất với
nhau, chế tài thực hiện Luật còn thiếu, đặc biệt là các chế tài về trách nhiệm kinh tế,
pháp chế chưa được tăng cường hữu hiệu, pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Với thực trạng môi trường pháp lý đang trên đà hoàn thiện đã đặt ra yêu cầu khách
quan thường trực cho việc hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB nhằm huy động tối đa và sử dụng
có hiệu quả cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tận dụng và khai
thác tốt các tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động ; bảo vệ môi
trường sinh thái; chống tham ô lãng phí trong XDCB. Bảo đảm xây dựng theo quy
hoạch, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong XDCB. Kiểm tra, kiểm soát ngăn
ngừa các hiện tượng tiêu cực trong việc sử dụng vốn nhà nước nhằm tránh thất
thoát, lãng phí ngân sách của nhà nước. Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực do việc

sử dụng đầu vào của các chủ dự án không đúng trên lợi ích toàn diện, lâu dài của
đất nước. Ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực khác có thể gây ra như các công trình
xây dựng được tạo ra bởi dự án cảnh quan, thuần phong mỹ tục, an ninh quốc gia.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế
giới. Đối với Việt Nam, từ tháng 1 năm 2007 đã trở thành thành viên chính thức của
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đánh dấu một giai đoạn hội nhập sâu rộng với
các quốc gia trên thế giới. Để đảm bảo cho nền kinh tế nước ta hội nhập, tận dụng
được những nguồn lực ngoài nước và sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước đòi
hỏi chúng ta phải điều chỉnh cơ chế quản lý chung trong đó có quản lý đầu tư
XDCB để đáp ứng theo các yêu cầu hội nhập chung.
- Đối với doanh nghiệp, hoạt động đầu tư XDCB là một bộ phận trong hoạt
động SXKD nhằm duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, là điều kiện phát
triển SXKD của doanh nghiệp. Vì vậy, cơ chế quản lý đầu tư XDCB nhằm đạt hiệu
quả cao nhất với chi phí đầu tư thấp nhất trong một khoảng thời gian nhất định trên
18
cơ sở đạt được các mục tiêu quản lý từng giai đoạn của dự án. Sử dụng hợp lý, tiết
kiệm, hiệu quả nguồn vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và các tiềm
năng khác, bảo vệ môi trường sinh thái, chống tham ô lãng phí trong sử dụng vốn
đầu tư và khai thác các kết quả của đầu tư.
Quản lý dự án đầu tư XDCB đảm bảo cho quá trình đầu tư, xây dựng công
trình đúng quy hoạch và thiết kế được duyệt, đảm bảo bền vững và mỹ quan, đảm
bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý.
1.2. Các bộ phận cấu thành và nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý đầu
tư xây dựng cơ bản ở Công ty Điện lực
1.2.1. Các bộ phận cấu thành cơ chế quản lý đầu tư xây dựng cơ bản ở
Công ty Điện lực
1.2.1.1. Hệ thống luật pháp, chính sách, văn bản hướng dẫn quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản
Môi trường chính trị, pháp luật của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ngày
càng ổn định và đi vào hoàn thiện. Các chính sách của Nhà nước đối với phát triển

KTXH ngày càng mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp SXKD. Cơ
chế chính sách của Chính phủ luôn giành ưu tiên cho phát triển lĩnh vực điện, đồng
thời cũng sẽ có bảo hộ nhất định cho ngành điện. Đây là điều kiện hết sức thuận lợi
cho việc phát triển SXKD của Công ty ĐLNĐ.
Việc thể chế hoá Luật nhằm đáp ứng yêu cầu vận hành các hoạt động xây
dựng theo hướng vừa bảo đảm tính cạnh tranh, hội nhập của ngành xây dựng vào
nền kinh tế trong khu vực, vừa bảo đảm tuân thủ các quy định đã được Chính phủ
và các Bộ, ngành cụ thể hoá trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn.
Hệ thống các văn bản trên, lần đầu tiên đã xác lập khung pháp lý tương đối hoàn
chỉnh, đồng bộ nhằm điều tiết hoạt động xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam.
- Trước yêu cầu hội nhập quốc tế của nền kinh tế và do yêu cầu chuyên môn
hóa ngày càng cao về quản lý trong hoạt động xây dựng, Quốc hội nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam đã thông qua Luật Xây dựng, đánh đấu một bước phát triển mới
trong hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng ở Việt Nam.
19
Luật Xây dựng điều chỉnh các quan hệ xã hội nảy sinh trong hoạt động xây
dựng giữa các tổ chức, cá nhân; quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, các
nhân đầu tư xây dựng công trình và hoạt động xây dựng. Các tổ chức, cá nhân trong
nước; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư xây dựng công trình và hoạt động xây
dựng trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Luật Xây dựng.
Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia nhập
có quy định khác với Luật Xây dựng thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Luật xây dựng đã nâng cao tính pháp lý về quản lý nhà nước đối với các hoạt
động: quy hoạch xây dựng và quản lý quy hoạch; đầu tư xây dựng công trình; lập
dự án đầu tư, khảo sát thiết kế, xây dựng công trình; lựa chọn nhà thầu và hợp đồng
xây dựng; quản lý thi công xây dựng công trình; kiểm tra giám sát các khâu của quá
trình xây dựng; quản lý dự án và các hoạt động khác liên quan đến đầu tư xây dựng
công trình. Luật xây dựng tách quản lý nhà nước về đầu tư và quản lý nhà nước về
xây dựng theo từng chế định luật riêng, đảm bảo điều kiện cho chuyên môn hoá
ngày càng cao hoạt động chuyên ngành và đáp ửng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế

của hoạt động kinh tế liên quan đến đầu tư và xây dựng.
Cơ chế quản lý của nhà nước được chuyên môn hoá theo từng khâu của quá
trình xây dựng: quy hoạch xây dựng, lập và thực hiện dự án đầu tư xây dựng; quản
lý thi công xây dựng công trình và kiểm tra giám sát trong đầu tư xây dựng. Luật
xây dựng và các văn bản hướng dẫn thực hiện đã tạo điều kiện thuận lợi cho bộ máy
quản lý nhà nước vận hành cơ chế quản lý; đồng thời đường hướng rõ ràng, cụ thể
trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi chủ đầu tư, các chủ thể tham gia đầu tư XDCB.
- Năm 2005, Quốc hội thông qua Luật Đấu thầu, đã tạo lập tính pháp lý cao
nhất của các quy định về đấu thầu; công khai minh bạch hoạt động đấu thầu, đáp
ứng yêu cầu cấp thiết về cơ chế quản lý đầu tư XDCB và thông lệ quốc tế trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế; đặc biệt góp phần đáp ứng tích cực cho việc đàm
phán gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước ta.
Luật Đấu thầu quy định về các hoạt động đấu thầu để lựa chọn nhà thầu cung
cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hóa, xây lắp đối với gói thầu thuộc các dự án sau:
20
+ Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển,
bao gồm: dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đã đầu tư xây
dựng: dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt;
dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng
đô thị, nông thôn; dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật
và các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển.
+ Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ cải tạo, sửa
chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, công trình, nhà xưởng đã đầu tư của
doanh nghiệp nhà nước.
Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động đấu thầu
của các dự án nêu trên và các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đấu thầu
phải thực hiện theo quy định của Luật đấu thầu. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân
trong nước và nước ngoài áp dụng Luật Đấu thầu đối với các dự án không thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Trường hợp có đặc thù về đấu thầu quy định ở luật khác thì áp dụng theo quy

định của luật đó. Đối với dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA),
việc đấu thầu được thực hiện trên cơ sở nội dung điều ước quốc tế mà Cộng hòa
XHCN Việt Nam là thành viên hoặc thỏa thuận quốc tế mà cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ký kết.
Ưu việt của Luật đấu thầu thể hiện rõ tính công khai, minh bạch trong đấu
thầu; quy định về thông tin liên quan đến quá trình đấu thầu được đăng tải công
khai trên hệ thống thông tin về đấu thầu do Bộ Kế hoạch và đầu tư quản lý. Từ đó
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận và tìm kiếm thông tin
đấu thầu, giúp cơ quan quản lý kiểm soát được tính minh bạch ở khâu lựa chọn nhà
thầu. Luật đấu thầu nâng cao tính cạnh tranh, từng bước xoá bỏ tình trạng khép kín
và liên kết tiêu cực trong đấu thầu. Hình thức lựa chọn nhà thầu quy định chặt chẽ
hơn, hạn chế tình trạng lạm dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu kém cạnh tranh.
- Trong quá trình thi hành Luật có nhiều ý kiến kiến nghị cần phải điều chỉnh
bổ sung một số nội dung trong Luật và các Nghị định hướng dẫn thi hành cho phù
21

×