Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

VIET NAM - LAO; MOI QUAN HE THAM SAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.66 KB, 71 trang )

BÀI DỰ THI
“TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO,
LÀO – VIỆT NAM”
Chuyên đề 1
NHỮNG NHÂN TỐ HÌNH THÀNH, QUYẾT ĐỊNH
MỐI QUAN HỆ HỮU NGHỊ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM-LÀO, LÀO- VIỆT NAM.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự
gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ này, bắt nguồn từ
các điều kiện tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước. Trong tiến trình đó, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc-người sáng lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương đã sớm nhận thấy tầm
quan trọng của mối quan hệ này, với các hoạt động cách mạng của mình đã đặt nền
móng vững chắc phát triển thành quan hệ đặc biệt giữa hai dân tộc, hai quốc gia.
Về các điều kiện tự nhiên: Việt Nam và Lào nằm ở trung tâm bán đảo Ấn-
Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Trong phạm vi của bán đảo Đông
Dương, Việt Nam nằm ở phía đông dãy Trường Sơn, như một bao lơn nhìn ra
biển; Lào nằm ở sườn tây dãy Trường Sơn, lọt sâu vào vùng đất liền của bán đảo.
Như vậy, dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của hai nước, tạo thành biên giới
tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào. Với địa hình tự nhiên này, về đường
bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục Bắc-Nam. Còn về đường biển, con đường
gần nhất để Lào có thể thông thương ra biển đó là từ Sầm Nưa thuộc tỉnh Hủa
Phăn (Lào) qua Thanh Hoá; Xiêng khoảng (Lào) qua Nghệ An; Khăm Muộn
(Lào) qua Hà Tĩnh; Savẳnnakhệt (Lào) qua Quảng Trị và Khăm Muộn (Lào) qua
Quảng Bình.
Do điều kiện tự nhiên nên sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam và
Lào có nhiều điểm tương đồng, lại vừa có những nét khác biệt. Tuy nhiên, trong
hoàn cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, để hợp tác cùng phát triển
hai nước hoàn toàn có thể bổ sung cho nhau bằng tiềm năng, thế mạnh của mỗi


nước về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực, thị trường cũng như sự phân
vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý. Ngoài ra, Việt Nam và Lào là những
thuộc nước“vừa” và “tương đối nhỏ” sống cạnh nhau, lại nằm kề con đường giao
thông hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương cho nên chiếm vị trí địa- chiến lược quan trọng ở
vùng Đông Nam Á.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
1
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Souphanouvong tại
chiến khu Việt Bắc năm 1951
Về quốc phòng: bờ biển Việt Nam tương đối dài, nên việc bố trí chiến lược
gặp không ít khó khăn. Trong khi đó, dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa
Việt Nam và Lào được ví như bức tường thành hiểm yếu, để hai nước tựa lưng
vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa
bàn then chốt về kinh tế và quốc phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt
Nam và Lào trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Về các nhân tố dân cư, xã hội: Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa
dân tộc, đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia
của hai nước, hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở
khu vực Đông Nam Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này,
đến nay vẫn tiếp tục chi phối mạnh
mẽ các mối quan hệ khác trên đường
biên giới quốc gia Việt Nam-Lào.
Chính quá trình cộng cư, hoặc sinh
sống xen cài của những cư dân Việt
Nam và cư dân Lào trên địa bàn
biên giới của hai nước đã dẫn đến
việc cùng khai thác và chia sẻ nguồn
lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi
sinh thuỷ. Điều này, thêm một lần

nữa khẳng định các quan hệ cội
nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện lịch sử và xã hội đầu tiên, tạo
ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa cư dân hai
nước. Một trong những minh chứng cho nhận định trên đó chính là hai câu chuyện
huyền thoại của hai dân tộc đều xoay quanh môtíp quả bầu mẹ, đó là: người Lào,
thông qua câu chuyện huyền thoại đã cho rằng các nhóm dân cư: Lào, Thái,
Khơmú, Việt đều có chung nguồn gốc. Đặc biệt, trong câu chuyện này, Khún
Bulôm đã dặn dò với các con cháu của Người: “Các con phải luôn luôn giữ tình
thân ái với nhau, không bao giờ được chia rẽ nhau. Các con phải làm cho mọi
người noi gương các con và coi nhau như anh em một nhà, người giàu phải
giúp đỡ kẻ nghèo, người mạnh giúp kẻ yếu. Các con phải bàn bạc kỹ trước khi
hành động và đừng bao giờ gây hấn xâm lăng lẫn nhau”. Còn ở miền tây
Quảng Bình và Quảng Trị của Việt Nam, người B’ru cũng giải thích nguồn cội
của các dân tộc Tà Ôi, Ê đê, Xơ đăng, Bana, Khùa, Sách, Mông, Dao, Tày,
Khơme, Lào, Thái, Việt cũng từ quả bầu mẹ. Hình tượng quả bầu mẹ đã trở
thành biểu tượng cao đẹp, lý giải nguồn gốc và tình đoàn kết keo sơn giữa các dân
tộc hai bên dãy Trường Sơn. Chính vì vậy, đến nay, các dân tộc anh em sống ở
khu vực biên giới hai nước vẫn còn nuôi dưỡng niềm tự hào và truyền mãi cho
nhau những câu chuyện về đạo lý làm người vô cùng sâu sắc mà người xưa để lại.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
2
Về nhân tố văn hoá và lịch sử: Về nhân tố văn hoá, điều cần phải khẳng
định là do quan hệ gần gũi và lâu đời nên người Việt và người Lào đặc biệt là
người dân ở vùng biên giới am hiểu về nhau khá tường tận. Trong cuốn “Dư địa
chí”
(1)
của Nguyễn Trãi đã mô tả khá ấn tượng về nền văn hoá độc đáo và phong
tục thuần phác của dân tộc Lào, cũng như hiện tượng giao thoa văn hoá nở rộ giữa
Đại Việt với các nước láng giềng Đông Nam Á, trong đó có Lào Lạn Xạng.
Sự giao thương của người dân Lào với người dân Việt nhất là với người dân

các tỉnh biên giới của Việt Nam cũng khá nhộn nhịp. Người dân Việt Nam bày tỏ
mối thiện cảm với một số mặt hàng có chất lượng cao của Lào như: vải dệt,
chiêng Chính vì vậy, mà hiện nay, nhiều dân tộc ít người ở Tây Nguyên của
nước ta vẫn còn giữ được những chiếc chiêng Lào nổi tiếng. Đúng như nhà bác
học Lê Quý Đôn nhận xét: "Thật là một nước đã giàu lại khéo”.
(2)
Điều đáng chú
ý là trong quan hệ giao thương với Đại Việt, Lào Lạn Xạng đã không ít lần bộc lộ
mối quan tâm của mình muốn hướng ra biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để
mở rộng buôn bán vào sâu lục địa.
Có thể khẳng định rằng, sự hài hoà giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng
đồng là một nét đặc sắc của triết lý nhân sinh ngươì Việt cũng như người Lào.
Chính trong cuộc sống chan hoà này, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào đã
ngày càng hiểu nhau hơn và bày tỏ những tình cảm rất đỗi chân thành với nhau.
Ngạn ngữ Lào có câu: “Nói hợp lòng thì xin ăn cho cũng chả tiếc, nói trái ý thì
dẫu xin mua cũng chẳng bán” (Vầu thực khọ, khỏ kin cò bò thi (bò khỉ thi), vầu
bò thực khọ khỏ xừ cò bò khải). Đó cũng là những tình cảm bình dị nhưng chân
thành mà người dân nước Việt dành cho người bạn láng giềng của mình, còn được
lưu lại trong thư tịch cổ: “người Lào thuần hậu chất phác”
(3)
trong giao dịch buôn
bán thì “họ vui lòng đổi chác”
(4)
Mặc dầu Việt Nam và Lào có tiếng nói, văn tự không giống nhau, sáng tạo
và lựa chọn các nền văn hóa cũng như các hình thức tổ chức chính trị -xã hội khác
nhau, nhưng những nét tương đồng thì vẫn thấy phổ biến trong muôn mặt đời
sống hàng ngày của cư dân Việt Nam và Lào. Các nền văn hóa nghệ thuật truyền
thống của Việt Nam và Lào dễ dàng tìm thấy: sự đồng cảm lẫn nhau, chia sẻ các
giá trị cộng đồng, coi trọng luật tục, tôn kính người già… Sự tương đồng giữa văn
hóa làng – nước của người Việt và văn hóa bản - mường của người Lào xuất phát

từ cội nguồn cùng nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở Đông Nam Á. Đồng
thời, lòng nhân ái bao la và đời sống tâm linh phong phú, trong đó có những ảnh
hưởng sâu đậm của đạo Phật mà trong cách đối nhân xử thế của mình, nhân dân
Việt Nam và nhân dân Lào bao giờ cũng nêu cao những phẩm chất yêu thương và
hướng thiện.
Về nhân tố lịch sử: Theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam như: “Việt
điện u linh” “Lịch triều hiến chương loại chí” thì năm 550 dưới thời Vạn Xuân
của nhà tiền Lý, khi bị quân Lương ở phương Bắc đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
3
lánh nạn và anh ruột của Vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang đất Lào lập căn cứ
chống giặc ngoại xâm, mở ra mối quan hệ đầu tiên Việt Nam-Lào, Lào-Việt
-Nam. Còn hai bộ chính sử khác là “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Khâm định Việt sử
thông giám cương mục” thì sự kiện quan hệ ngoại giao, thông hiếu đầu tiên giữa
các nước Đại Việt và Lào là vào năm 1067
(5)
. Tiếp đến vào giữa thế kỷ XIV (năm
1353) những quy ước hoà bình đầu tiên về biên giới quốc gia đã được xác lập giữa
Đại Việt và Lạn Xạng khi Chạu Phạ Ngừng lần lượt chinh phục các mường Lào,
lập nên vương quốc Lạn Xạng thống nhất đầu tiên của người Lào. Ngoài ra, trong
suốt quá trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), nghĩa quân Lê Lợi cũng
luôn nhận được sự tiếp sức của các tộc trưởng và nhân dân Lào ở vùng biên giới.
Điều đáng nói, là trong khoảng thời gian từ thế kỷ XIV đến XV, hai nước
Đại Việt- Lạn Xạng, Lạn Xạng-Đại Việt mặc dù không phải không có những thời
khắc gặp nguy nan nhưng với tinh thần lấy hoà hiếu làm trọng nên đã sáng suốt và
công bằng, có ý thức đề cao không thù hận, đồng thời biết chủ động vun đắp tình
thân ái và hữu nghị lâu dài giữa hai dân tộc.
Đến thế kỷ XVII là thời kỳ toàn thịnh của Lạn Xạng dưới Vương triều
Xulinhavôngsả (1637-1694), nhà vua Lào đích thân cầu hôn công chúa Vua Lê
Duy Kỳ. Tuy nhiên, đây cũng là lúc chế độ phong kiến Việt Nam bước vào giai

đoạn khủng hoảng nên quan hệ giữa hai vương triều hậu Lê và Lạn Xạng không
phát triển được nhiều. Cuối thế kỷ XVII, nội bộ hoàng tộc Lào rối ren. Tuy nhiên
bất chấp hoàn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan
hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng.
Chính vì vậy, nửa cuối thế kỷ XVIII, khu vực Mương Phuôn (Xiêng Khoảng) đã
trở thành một căn cứ đề kháng quan trọng của nghĩa quân Tây Sơn chống lại thế
lực Nguyễn Ánh. Thế kỷ XIX, quan hệ Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam đã có bước
trưởng thành sâu hơn, nhất là về phương diện nhận thức chủ quyền quốc gia, quan
điểm bạn thù cũng như phương cách xây dựng đồng minh giữa nhân dân hai nước.
Đó là những yếu tố lịch sử.
Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá và lịch sử và sự
tự nguyện phối hợp của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào trong chống
ngoại xâm nhất là trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược càng khẳng định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Trong tiến trình lịch sử cả hai dân tộc đều phải ngoan cường chống
ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước
Văn Lang thành lập đã trải qua mấy ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong
kiến phương Bắc xâm lược, thống trị và do đó đã phải không ngừng chiến đấu
giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Nước Lào cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm
và cũng phải ngoan cường chống xâm lược để khẳng định sự tồn tại của mình với
tư cách một dân tộc, một quốc gia độc lập.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
4
Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt
Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Như vậy, trước 1930, hai dân
tộc Lào-Việt đã đoàn kết cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, nhưng lúc đó chỉ
dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều kiện lịch sử.
Từ khi có chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, đặc biệt là từ
khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trực
tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc Lào-Việt Nam tình đoàn

kết đó đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục. Chính truyền thống yêu nước vẻ
vang là cơ sở vững chắc cho sự đoàn kết giữa hai dân tộc.
Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào trong những
năm tháng chiến tranh mà biểu hiện của nó là nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu
tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn
(1930-1939), tiếp đến giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi nghĩa vũ trang
giành chính quyền thắng lợi (1939 - 1945) và liên minh Việt-Lào, Lào-Việt Nam
chiến đấu chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975). Sau năm
1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang hoàn toàn mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc
lập chủ quyền. Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào được
biểu hiện sâu nặng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người đặt nền móng vững chắc cho quan hệ đặc
biệt Việt Nam-Lào, Lào -Việt Nam.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ
Chí Minh), với lòng yêu nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó
khăn, gian khổ, đã tự mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc
thuộc địa, nhằm phát hiện chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con
đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách
mạng vô sản. Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất
quan tâm đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói
chung mà còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào
(6)
. Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên - một trong những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản
Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng
Châu (Trung Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào.
Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn
Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận

động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ
đoàn kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn
luyện cách mạng trên đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX,
Lào là một đầu cầu trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
5
nước mới của Nguyễn Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí
mật tổ chức khảo sát thực địa tại Lào
(7)
càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật
thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ
Thanh niên cộng sản đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường
dây liên lạc giữa nhiều thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về Đông Dương
của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho công tác chính
trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba nước
Đông Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của
cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chính Người cùng đồng chí
Kayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai
Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc
nào cũng có được mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong
sáng như mối quan hệ Việt - Lào.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc
biệt giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn còn không
ít thách thức, nhất là các thế lực thù địch tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo lịch sử,

chia rẽ tình hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và
tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà
nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào là nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước Việt Nam-Lào, lào-Việt Nam.
Chuyên đề 2
TÌNH CẢM GẮN BÓ KEO SƠN
GIỮA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO
TRONG NHỮNG NĂM THÁNG CHIẾN TRANH TRƯỚC ĐÂY
CŨNG NHƯ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ đặc biệt Việt Nam -
Lào, Lào – Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự
gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu
tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng
nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
6
dày công vun đắp. Một trong những nhân tố làm nên mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam -Lào, Lào-Việt Nam, đó chính là tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc
Việt Nam - Lào trong những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự
nghiệp xây dựng đất nước hiện nay.
Thứ nhất: Hai dân tộc sát cánh bên nhau, vượt qua mọi gian khổ, hy
sinh, đòan kết gắn bó đánh giặc ngoại xâm.
Dân tộc Việt Nam kể từ khi Nhà nước Văn Lang thành lập đã trải qua mấy
ngàn năm lịch sử và liên tục bị chế độ phong kiến phương Bắc xâm lược, thống trị và
do đó đã phải không ngừng chiến đấu giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Nước Lào
cũng trải qua lịch sử hàng nghìn năm và cũng phải ngoan cường chống xâm lược để
khẳng định sự tồn tại của mình với tư cách một dân tộc, một quốc gia độc lập.

Từ đầu thế kỷ 20, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào-Việt
Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Trong đó, có phong trào
chống Pháp ở Áttapư do Khi Volảlạt lãnh đạo (1900-1901), phong trào Phùmibun
ở Trung Lào của Phò Càduột (1901-1902) và cuộc khởi nghĩa Hạ Lào do ông
Kẹo, ông Côm mađăm lãnh đạo (1901-1937) đã có sự liên kết với các cuộc nổi
dậy chống Pháp của bộ tộc Xơ đăng ở KonTum (Việt Nam). Đặc biệt, năm 1918,
phong trào chống Pháp của người Mông ở Tây Bắc Việt Nam do Chạu Phạpắt
chây lãnh đạo lan rộng trên địa bàn nhiều tỉnh Bắc Lào và Tây Bắc Việt Nam, kéo
dài đến tận năm 1922 gây cho Pháp nhiêù thiệt hại.
Như vậy, trước 1930, đã xuất hiện đoàn kết Lào-Việt cùng chiến đấu chống
kẻ thù chung nhưng lúc đó chỉ dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ
nhận thức và điều kiện lịch sử. Từ khi được chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh soi đường, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai
dân tộc Lào-Việt Nam, tình đoàn kết đó đã được phát triển mạnh mẽ và liên tục.
Nhân dân Lào cùng Việt kiều đấu tranh chống chế độ thuộc địa, phối hợp
và ủng hộ cách mạng Việt Nam giai đoạn (1930-1939).
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930) đã mở đầu trang sử vẻ
vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào.
Tại Hội nghị lần thứ nhất (tháng 10 -1930) Đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên
thành Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời xác lập các nguyên tắc, phương
hướng, đường lối chính trị và những nhiệm vụ cơ bản cho phong trào cách mạng của
ba dân tộc ở Đông Dương; đặt phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách
mạng Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Chính vì vậy, trong
những năm 1930 - 1939, các cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và Lào đã hỗ
trợ lẫn nhau, góp phần thúc đẩy sự phát triển phong trào cách mạng mỗi nước.
Trong thời gian trên, Tỉnh uỷ Quảng Trị đã bắt mối xây dựng một số chi bộ
Đảng trong Việt kiều ở địa bàn Trung Lào. Sự ra đời của các chi bộ này, thể hiện
sự phát triển của phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động Lào
cũng như vai trò rất lớn của Việt kiều. Dưới sự lãnh đạo của các chi bộ Đảng, sự

Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
7
vận động của các đoàn thể quần chúng, những hoạt động chống Pháp có tính chất
lẻ tẻ trong phạm vi bộ tộc, bộ lạc, mang tính chất địa phương và tự phát ở Lào dần
chuyển lên mang tính tổ chức, hoà nhịp với phong trào đấu tranh của ba nước
Đông Dương. Những hoạt động yêu nước và cách mạng ở Việt Nam và Lào có sự
phối hợp và ngày càng gắn kết chặt chẽ bổ sung, hỗ trợ nhau.
Nhân dân hai nước Việt Nam-Lào giúp nhau tiến hành cuộc vận động khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền thắng lợi(1939 - 1945).
Trước sự tồn vong của các dân tộc Đông Dương, Trung ương Đảng Cộng
sản Đông Dương liên tiếp tổ chức các cuộc hội nghị quan trọng, đặc biệt, Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 5- 1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ
trì đã quyết định nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc trong
khuôn khổ từng nước và thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng trước tiên của
cách mạng Đông Dương. Hội nghị cho rằng các dân tộc Đông Dương đều chịu
chung một ách thống trị của phát xít Pháp-Nhật cho nên phải đoàn kết lại đánh
đuổi kẻ thù chung.
Cuối năm 1944 đầu năm 1945, tình hình thế giới và Đông Dương có nhiều
biến đổi, đe doạ trực tiếp quyền lực và lợi ích của phát xít Nhật ở Đông Dương.
Trước tình hình đó, hai dân tộc Việt Nam - Lào đã phối hợp đấu tranh chống phát-xít
Nhật tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, thành lập chính phủ độc lập ở
mỗi nước. Sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 2-9-
1945), Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) (ngày 12-10-1945) là một trong những cơ
sở đưa tình đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu để hai bên xây
dựng mối quan hệ hữu hảo và vững chãi hơn trước là một bước ngoặt đưa tình
đoàn kết, giúp đỡ nhau lên tầm liên minh chiến đấu.
Liên minh Việt Nam-Lào , Lào-Việt Nam chiến đấu chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược.
Sau khi giành lại được chính quyền, Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước

tương trợ Lào – Việt
(1[1])
và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt
(2[2])
, đặt cơ
sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù
chung của hai dân tộc Việt Nam - Lào.
Ngày 25-11-1945, trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước
Việt Nam - Lào - Campuchia, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc
của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt – Miên
- Lào chống Pháp xâm lược”. Thực hiện chủ trương này, trong 3 năm (1945-
1948), liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào từng bước được hình thành, phát triển
và thu được nhiều kết quả, góp phần thúc đẩy quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt
Nam - Lào gắn bó mật thiết hơn. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, (tháng 1-
1
2
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
8
1949) đã quyết định “mở rộng mặt trận Lào - Miên”, trong đó nhấn mạnh yêu cầu
mở rộng Mặt trận kháng chiến Lào và Campuchia, củng cố các lực lượng Việt
Nam làm nhiệm vụ quốc tế ở hai nước, tăng cường thêm cán bộ, xây dựng và mở
rộng các căn cứ ở Lào Thực hiện chủ trương đó, Việt Nam đã cử nhiều cán bộ
phối hợp với lực lượng kháng chiến Lào mở lớp huấn luyện quân sự và học tập
chính trị. Lực lượng này, sau được tổ chức thành hệ thống riêng và lấy tên là
Quân tình nguyện.
Đại hội Quốc dân Lào (Mặt trận Lào kháng chiến) họp từ ngày 13 đến
ngày 15 - 8 - 1950, tại Tuyên Quang (Việt Nam) đã đề ra Cương lĩnh chính trị 12
điểm, trong đó nhấn mạnh yêu cầu tăng cường đoàn kết quốc tế, trước hết là với
Việt Nam và Campuchia, cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là thực dân Pháp xâm

lược và can thiệp Mỹ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Ngày 11-3-1951, theo sáng kiến của Đảng Lao động Việt Nam, Hội nghị
khối liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia đã thành lập theo nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng, tương trợ và tôn trọng chủ quyền của nhau, cùng nhau
đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc xâm lược, giành độc lập thực sự cho nhân dân
Đông Dương. Hội nghị đề ra chương trình hành động chung và cử Ủy ban liên
minh gồm đại diện của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Việc thành lập khối
liên minh nhân dân Việt Nam – Lào – Campuchia đã tạo cơ sở để nâng cao quan
hệ đoàn kết và phối hợp chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương và đã
giáng đòn mạnh mẽ vào chính sách “chia để trị” của bọn thực dân, đế quốc. Tháng
12-1953, một bộ phận quân chủ lực Việt Nam phối hợp với bộ đội Lào Ítxalạ và
quân tình nguyện Việt Nam tại Lào mở chiến dịch Trung, Hạ Lào. Chiến thắng
của Liên quân Việt – Lào góp phần làm phá sản kế hoạch tập trung quân của
Nava, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó trên nhiều chiến trường, tạo điều
kiện củng cố, phát triển thế phối hợp chiến lược giữa hai nước Việt Nam và Lào.
Với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ 1954, cách mạng hai nước Việt Nam,
Lào bước vào thời kỳ mới: thời kỳ tập trung xây dựng lực lượng, đẩy mạnh đấu
tranh để giữ vững hòa bình và giành độc lập, thống nhất ở mỗi nước. Tuy nhiên,
đế quốc Mỹ vẫn nuôi tham vọng xâm lược, ra sức can thiệp vào miền Nam Việt
Nam và Lào, âm mưu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự, để
làm bàn đạp tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Trước sự chuyển biến mới của
cách mạng Lào, Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào được tiến hành từ ngày 22
tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 1955 tại tỉnh Sầm Nưa. Đảng Nhân dân Lào ra
đời đã tạo cơ sở vững chắc để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách
mạng Lào, đồng thời là nhân tố trọng yếu, có ý nghĩa quyết định thúc đẩy quan hệ
đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng hai nước Lào - Việt Nam. Đặc biệt,
sau Đại hội đại biểu lần thứ II của Neo Lào Hắc Xạt (Mặt trận Lào yêu nước) đã
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
9
mở ra triển vọng mới cho sự tăng cường hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa cách mạng

hai nước Việt Nam – Lào.
Sau khi Đảng Nhân dân Lào được thành lập, các lực lượng yêu nước Lào
với sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các tổ cố vấn quân sự và dân chính Việt Nam
đã liên tiếp đánh bại các cuộc tiến công của các thế lực phái hữu trong chính
quyền và quân đội Viêng Chăn vào vùng căn cứ cách mạng, gây cho địch nhiều
thiệt hại. Đúng như khẳng định của Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào:“ Sở dĩ cách
mạng Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh
anh dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của
Đảng Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng tôi
trong mỗi giai đoạn của cách mạng”.
Từ cuối năm 1958, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đẩy mạnh các hoạt động lật
lọng, từng bước xoá bỏ các hiệp ước hoà hợp dân tộc đã được ký kết để cuối cùng
trắng trợn xoá bỏ Chính phủ liên hiệp và hoà hợp dân tộc. Trước sự can thiệp
trắng trợn của đế quốc Mỹ vào Lào, Hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Lào (3-
6-1959) xác định cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân Lào đang chuyển sang
một giai đoạn mới, giai đoạn từ đấu tranh công khai hợp pháp là chủ yếu, chuyển
sang đấu tranh vũ trang là chủ yếu, kết hợp với các hình thức đấu tranh khác.
Thống nhất với quan điểm trên của Đảng Nhân dân Lào, Hội nghị Bộ Chính trị
Đảng Lao động Việt Nam (2-7-1959) đề ra chủ trương chi viện cách mạng Lào
đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển lực lượng trong tình hình mới và coi đây là
một nhiệm vụ quốc tế hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng
Việt Nam. Về phía Việt Nam, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các bộ tộc
Lào, các đoàn công tác quân sự của ta đã xây dựng được nhiều cơ sở cách mạng,
phục vụ cho việc mở tuyến đường mới dọc Tây Trường Sơn trên đất Lào.
Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ
Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Đầu năm 1963 vua
Lào Xỉxávàng Vắthana dẫn đầu đoàn đại biểu Hoàng gia Lào thăm Việt Nam.
Trong buổi chiêu đãi vua Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hai dân tộc
Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi

Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như
anh em… Ngày nay chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống
mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ
phai nhạt được”
(3[4])
.
Mặc dù Hiệp định Giơnevơ năm 1962 về Lào được ký kết, đế quốc Mỹ vẫn
chưa từ bỏ âm mưu xâm lược Lào, tăng cường viện trợ, giúp chính quyền tay sai
3
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
10
thân Mỹ tiến công lấn chiếm vùng giải phóng, đồng thời ra sức phá hoại Chính
phủ liên hiệp, cô lập và vu cáo Neo Lào Hắc Xạt. Từ cuối năm 1963, Việt Nam cử
chuyên gia quân sự sang làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào và đến giữa năm 1964,
thành lập hệ thống chuyên gia quân sự Việt Nam từ trên cơ quan Tổng tư lệnh Lào
xuống đến Bộ tư lệnh các quân khu, tỉnh đội và cấp tiểu đoàn, có nhiệm vụ phối
hợp với bạn để nghiên cứu kế hoạch tác chiến, xây dựng lực lượng vũ trang, xây
dựng và củng cố các vùng căn cứ ở Lào. Đồng thời, các đơn vị quân tình nguyện
Việt Nam phối hợp với bộ đội Pathết Lào mở nhiều chiến dịch, chủ yếu ở khu vực
đường 9 – Trung Lào, Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng, đập tan các cuộc tấn
công lấn chiếm của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Lào, tạo điều kiện
thuận lợi cho quân và dân Việt Nam vận chuyển trên đường Tây Trường Sơn để
chi viện cho chiến trường miền Nam Việt Nam và cách mạng hai nước Lào,
Campuchia.
Ngày 22-6-1965, Đảng Lao động Việt Nam đã thống nhất với Đảng Nhân
dân Lào về việc phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau, trong đó tập trung giúp Lào xây
dựng vùng giải phóng về mọi mặt. Tiếp đó, ngày 3/ 7/ 1965, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết khẳng định:
“Việt Nam cần phải nỗ lực đáp ứng đến mức cao nhất mọi yêu cầu đối với công
cuộc phát triển cách mạng của Lào”

4[5]
. Đầu năm 1968, bộ đội tình nguyện Việt
Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào mở chiến dịch tiến công Nặm Bạc thắng
lợi, giải phóng hoàn toàn khu vực Nặm Bạc – Khăm Đeng với trên một vạn dân,
nối liền vùng giải phóng Thượng Lào thành khu vực liên hoàn, tạo thế vững chắc
cho hậu phương cách mạng Lào và hỗ trợ thiết thực cho cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam và Campuchia.
Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành
nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí
Cay xỏn Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và
Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam
cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và
xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất
nước Lào vì nền độc lập của Lào…Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây
dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ
nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”
5
[6].
4
5
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
11
Trước âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân Lào đã ra chỉ thị khẳng
định tăng cường đoàn kết giữa nhân dân hai nước, quyết tâm đánh bại đế quốc Mỹ
và bè lũ tay sai trong bất cứ tình huống nào. Với tinh thần đó, đến cuối năm 1972,
cách mạng Lào đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng và cùng với những chiến
thắng to lớn về nhiều mặt của quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng

nhân dân Lào cuối năm 1972, đầu năm 1973 đã trực tiếp góp phần quan trọng
buộc chính phủ Viêng Chăn phải ký kết Hiệp định Viêng Chăn “lập lại hoà bình
và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào” (21-2-1973).
Bước vào thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Đảng Nhân
dân Lào đã quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào; Đại
hội đã suy tôn đồng chí Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng; thông qua Nghị quyết:
“Tăng cường đoàn kết Lào – Việt”. Đặc biệt, đại hội khẳng định tình đoàn kết
Lào – Việt trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh thần quốc tế vô sản là mối
quan hệ đặc biệt. Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào
cũng đã thống nhất phương hướng hợp tác cần tập trung vào những vấn đề cơ bản
nhất, những khâu then chốt nhất, tạo điều kiện cho Lào nhanh chóng đảm đương
được công việc một cách độc lập, tự chủ.
Thực hiện chủ trương trên, Việt Nam từng bước rút chuyên gia ở tỉnh và
huyện về nước (trước tháng 5-1974), đồng thời điều chỉnh các lực lượng chuyên
gia và quân tình nguyện còn lại để phối hợp và giúp Lào thực hiện nhiệm vụ trong
giai đoạn cách mạng mới. Sự phối hợp chặt chẽ và giúp đỡ hiệu quả giữa Việt
Nam và Lào nói trên, đã làm cho thế và lực của cách mạng Lào lớn mạnh vượt
bậc, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng lan
rộng và sôi nổi, nhất là ở Thủ đô Viêng Chăn, buộc Chính phủ liên hiệp phải chấp
nhận Cương lĩnh chính trị 18 điểm và Chương trình hành động 10 điểm do Mặt
trận Lào yêu nước đưa ra (12-1974), đồng thời góp phần hỗ trợ tích cực cho nhân
dân Việt Nam và nhân dân Campuchia anh em giành thắng lợi hoàn toàn trong
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong
tháng 4-1975, nhất là chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975)
của nhân dân Việt Nam, ngày 5-5-1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhân dân
cách mạng Lào tổ chức Hội nghị mở rộng, quyết định phát động toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân trong cả nước nổi dậy đoạt lấy chính quyền và giành thắng lợi
hoàn toàn.
Tháng 12 năm 1975, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ra đời. Đây là

thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào, đồng thời cũng là thắng lợi
quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn kết chiến đấu, thủy chung,
son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
12
Thứ hai: Hợp tác và giúp đỡ nhau, vượt qua khó khăn cùng xây dựng
chủ nghĩa xã hội, hội nhập và phát triển.
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang một trang mới. Đây là
thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào trở thành
Đảng cầm quyền ở mỗi nước; cả hai nước càng có điều kiện phát huy truyền thống
tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, xây
dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện về chính trị,
quốc phòng an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục… Tuy nhiên, vào thời điểm này hai
nước đều phải ra sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, đặc biệt là hậu
quả thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Trong khi đó, các thế lực thù địch trong
nước và bên ngoài câu kết, tìm cách chia rẽ Lào với Việt Nam, Việt Nam với Lào
gây khó khăn, trở ngại không nhỏ cho mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào.
Ngày 30-4-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra
Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong giai đoạn
mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là một trong
những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Từ ngày 15
đến ngày 18-7-1977, Đoàn đại biểu cao cấp Đảng và Chính phủ Việt Nam do
Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị
chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về các vấn đề quốc tế quan trọng mà
hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề nhằm phát triển mối quan hệ hữu
nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, trên cơ sở đáp ứng
nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước:
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng

hòa Dân chủ Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào;
và ra Tuyên bố chung tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu dài, tạo
cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài tình đoàn
kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước
ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước.
Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị:
“Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện
với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần này
6
[7],
6
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
13
các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần kiểm
điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện tượng
tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho quan
hệ đặc biệt giữa ta với Lào”
7
[8]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng Nhân
dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và tình
hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh hợp
tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới trở thành
nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của mỗi
nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”
8[9]
. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư Đảng

Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài, quán
triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn cách
mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo thủ, chủ
quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống tư
tưởng dân tộc hẹp hòi”
9
[10].
Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị
đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước.
Trong đó có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong
quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là
chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt
Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với
nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai
nước và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của
quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn
kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào thăm
chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một là tăng
cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam –
Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai
nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.
Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung
ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
7
8

9
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
14
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ
giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa
đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với
nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên
soạn công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam (1930 –
2007) nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt Nam
– Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp
tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam lên
một tầm cao mới.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng
liêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:
"Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt - Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long".
Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "Trong lịch sử cách
mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản,
nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu
đặc biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"; "Núi có thể mòn,
sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi,
hơn sông". Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh
Savẳn nakhệt, Salavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng không
ngoài truyền thống quý báu đó.
Phát huy truyền thống trong chiến đấu, ngày nay trong sự nghiệp xây dựng
đất nước, với lợi thế Quảng Trị có chung 206 km đường biên giới, chính quyền 3
tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt và Salavăn thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc
hội thảo quảng bá đầu tư, cải cách thủ tục hành chính tại cửa khẩu Quốc tế Lao

Bảo, Đensavẳn và cửa khẩu Quốc gia La Lay nhằm khuyến khích giao lưu phát
triển kinh tế, thương mại, du lịch và tạo điều kiện bà con 2 bên biên giới qua lại
thăm thân, trao đổi hàng hoá, tham quan, du lịch Quan hệ buôn bán giữa các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào
từng bước được xác lập và bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du lịch của 3
tỉnh Quảng Trị - Việt Nam, Savẳnnakhệt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có các
chương trình hợp tác đưa đón khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày ăn
cơm 3 nước" ngày càng thu hút nhiều khác trong và ngoài nước. Các Sở, Ban,
ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, các lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội biên
phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh Savẳnnakhệt, tỉnh Salavăn định kỳ có các
cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. Công an, Biên phòng các
huyện biên giới cũng thường xuyên phối hợp với nhau trong công tác nắm tình
hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn trọng điểm để hoàn chỉnh kế
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
15
hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhờ vậy, đường biên, cột mốc giữa các
tỉnh luôn được bảo vệ nguyên trạng; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn được giữ vững.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt
Việt- Lào và công cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước
Việt Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị
hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi
nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân tỉnh Quảng Trị cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh Quảng Trị,
Savẳnnakhệt, Salavăn sẽ làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương thức, nội
dung, cơ chế phù hợp trên tất cả các lĩnh vực hoạt động thúc đẩy quan hệ hữu
nghị hợp tác toàn diện lên tầm cao mới và càng phát triển bền vững.
Chuyên đề 3

VAI TRÒ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, CHỦ TỊCH CAY XỎN
PHÔMVIHẢN, CHỦ TỊCH XUPHANUVÔNG VÀ CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO
CẤP CAO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào
– Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm
có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc
đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,
Lào - Việt Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây
dựng nền móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
dày công vun đắp; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XX, chính Nguyễn Ái Quốc, với lòng yêu
nước nồng nàn và nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó khăn, gian khổ, đã tự
mình khám phá thế giới tư bản chủ nghĩa và các dân tộc thuộc địa, nhằm phát hiện
chân lý cứu nước. Người tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin
vào điều kiện cụ thể của Đông Dương để xác định con đường giải phóng các dân
tộc Việt Nam, Lào, Campuchia theo con đường cách mạng vô sản.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
16
Liên quân Việt - Lào trước giờ xuất trận năm
1946.
Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan
tâm đến tình hình Lào. Người không chỉ lên án chế độ thực dân Pháp nói chung
mà còn tố cáo cụ thể sự tàn bạo của thực dân Pháp ở Lào
(1)

. Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái
Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc), đến
tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại Lào. Thông qua hoạt động
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn Ái Quốc thấy đây là
điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận động cứu nước tại
Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đoàn kết khăng khít
giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách mạng trên
đất Lào. Trên thực tế, từ nửa sau những năm 20 thế kỷ XX, Lào là một đầu cầu
trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng cứu nước mới của Nguyễn
Ái Quốc vào Đông Dương. Năm 1928, đích thân Người bí mật tổ chức khảo sát
thực địa tại Lào
(2)
càng cho thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa cách mạng
Việt Nam và cách mạng Lào. Cũng trong năm này, chi bộ Thanh niên cộng sản
đầu tiên được thành lập tại Viêng Chăn, đồng thời đường dây liên lạc giữa nhiều
thị trấn ở Lào với Việt Nam được tổ chức.
Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên
trên hành trình trở về Đông Dương của Nguyễn
Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới
cho công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của
Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba
nước Đông Dương. Quá trình Nguyễn Ái quốc
đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam –
Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử
trọng đại sắp tới của cách mạng Việt Nam cũng
như cách mạng Lào.
Ngày 3 -02-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam
do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lapạ đã ra đời -

tiền thân của Đảng Cộng sản Đông Dương cũng
là sự mở đầu những trang sử vẻ vang của quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam.
Trên cơ sở sự phát triển của tổ chức Đảng ở Lào, tháng 9 năm 1934, Ban
Chấp hành Đảng bộ lâm thời Ai Lao (tức Xứ uỷ lâm thời Ai Lao) được thành lập.
Sự ra đời của Xứ uỷ Ai Lao là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử đấu tranh
yêu nước của nhân dân các bộ tộc Lào, khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo
của Đảng bộ Lào đối với cách mạng Lào cũng như đánh dấu một bước phát triển
mới trong quan hệ giữa phong trào cách mạng hai nước Việt Nam - Lào, Lào -
Việt Nam.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
17
Trong suốt quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng, Đảng Cộng sản Đông
Dương còn đề ra những chủ trương và giải pháp cụ thể chỉ đạo các cấp bộ Đảng
và phong trào cách mạng Đông Dương cũng như tăng cường sự quan hệ mật thiết,
nương dựa lẫn nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào trên hành trình đấu tranh
giành tự do, độc lập cho mỗi dân tộc. Điều này thêm một lần nữa khẳng định: quá
trình chuẩn bị công phu về mọi mặt chính trị, tư tưởng, và tổ chức cho cách mạng
Việt Nam, đồng thời với việc quan tâm xây dựng nhân tố bên trong cho cách
mạng Lào, cả về phương diện tổ chức lẫn chỉ đạo thực tiễn của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã thật sự tạo ra nền tảng hoàn toàn mới về chất cho lớp người cộng sản
Đông Dương đầu tiên, bất luận họ là người Việt Nam, người Lào, hay là người
Campuchia. Đây chính là nền móng vững chắc của quan hệ đặc biệt Việt Nam-
Lào, Lào-Việt Nam mà Nguyễn Ái Quốc là kiến trúc sư vĩ đại của tình đoàn kết
đặc biệt đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kayxỏn Phômvihản, đồng chí
Xuphanuvông và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai
nước dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh mời Hoàng thân Xuphanuvông đang ở Vinh ra Hà Nội và tiếp Hoàng thân.

Cuộc gặp gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hoàng thân trong việc
chọn lựa con đường làm cách mạng. Ngày 3-10-1945, tại cuộc mít tinh của hàng
vạn nhân dân tỉnh Savẳnnakhệt đón chào Hoàng thân Xuphanuvông trở về tham
gia chính phủ Lào, Hoàng thân tuyên bố: “Quan hệ Lào - Việt từ nay sẽ mở ra một
kỷ nguyên mới ”. Hình ảnh, uy tín, quyết tâm làm cách mạng, cứu nước và
những lời nói tốt đẹp của Hoàng thân về quan hệ Lào - Việt đã tác động lớn lao
đến sự hưởng ứng, tham gia cách mạng của các tầng lớp nhân dân Lào, càng tạo
thêm chất keo gắn kết tình cảm của nhân dân Lào với Việt kiều cũng như với Việt
Nam. Chính phủ Lào Ítxalạ (Lào tự do) vừa được thành lập cũng đã chủ trương:
“Nhân dân Lào thân thiện với nhân dân Việt Nam và quyết tâm cùng nhân dân
Việt Nam đánh đuổi bọn thực dân Pháp ra khỏi Đông Dương”
(3)
. Thủ tướng
Khăm Mạo tuyên bố với Việt kiều: “mong rằng ba nước Việt, Miên, Lào bắt tay
nhau để kiến thiết quốc gia”
(4)
. Chính phủ hai nước đã ký Hiệp ước tương trợ
Lào – Việt
(4)
và Hiệp định về tổ chức Liên quân Lào - Việt
(5)
, đặt cơ sở pháp lý
đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của
hai dân tộc Việt - Lào.
Sau khi giành được chính quyền, nhân dân hai nước Việt Nam, Lào hơn lúc
nào hết, chỉ mong muốn được sống trong hòa bình, tiếp tục hợp tác, cùng nhau
bảo vệ nền độc lập và xây dựng lại đất nước nhưng ngày 23 tháng 9 năm 1945,
thực dân Pháp được sự đồng lõa của quân Anh, nổ súng đánh chiếm thành phố Sài
Gòn. Tiếp đó, chúng mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam Trung Bộ của
Việt Nam, sang Campuchia, Hạ Lào, rồi toàn cõi Đông Dương.

Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
18
Trước nguy cơ tồn vong nền độc lập dân tộc của ba nước Việt Nam – Lào -
Campuchia, ngày 25-11-1945, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc để chỉ đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc
của ba nước Đông Dương. Chỉ thị chủ trương: “Thống nhất mặt trận Việt- Miên-
Lào chống Pháp xâm lược” và nêu rõ nhiệm vụ: “Tăng cường công tác vũ trang
tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân ở thôn quê, làm cho mặt trận kháng
Pháp của Lào – Việt lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê, đặng bao
vây lại quân Pháp ở nơi sào huyệt của chúng và quét sạch chúng khỏi đất Lào”
(6)
.
Đảng và Chính phủ Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi
nhiệm vụ giúp cách mạng Lào như mình tự giúp mình để cùng phối hợp chiến
đấu, đánh đuổi kẻ thù chung, giành độc lập tự do cho mỗi nước trên bán đảo Đông
Dương. Thấm nhuần quan điểm quốc tế cao cả của Đảng Lao động Việt Nam và
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam từ tiền tuyến đến hậu phương sẵn
sàng chia sẻ những thuận lợi, cùng khắc phục khó khăn, cử nhiều người con yêu
dấu của mình sang phối hợp cùng bạn Lào đẩy mạnh chiến tranh du kích, phát
triển lực lượng kháng chiến.
Nhân dịp giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện hoà hợp dân
tộc, thống nhất quốc gia, thành lập Chính phủ Liên hiệp, ngày 10 tháng 1 năm
1958, Ban Chỉ đạo Đảng Nhân dân Lào gửi thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: “Sở dĩ cách mạng
Lào đạt được những thắng lợi to lớn đó là do tinh thần đoàn kết đấu tranh anh
dũng kiên cường của nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng
Nhân dân Lào, đồng thời cũng do sự đóng góp quan trọng của đồng chí và Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam đã hết lòng theo dõi, giúp đỡ chúng tôi trong mỗi
giai đoạn của cách mạng”.
Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách

mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành
nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí
Cay xỏn Phômvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và
Đảng Lao động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam
cho cách mạng Lào hết sức tận tình và vô tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và
xương máu. Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất
nước Lào vì nền độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây
dựng nên mối quan hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ
nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản”.
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là mình tự giúp
mình”, coi nhân dân bạn như nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của bạn là
trách nhiệm của mình, trong suốt 30 năm chiến tranh giải phóng, các thế hệ cán
bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ chuyên gia Việt Nam làm nhiệm vụ quốc
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
19
tế ở Lào luôn kề vai sát cánh và cùng với bạn, vừa chiến đấu chống địch càn quét
lấn chiếm, vừa tiến hành xây dựng và củng cố các đoàn thể, chính quyền kháng
chiến, xây dựng và bảo vệ vùng giải phóng, tăng cường lực lượng vũ trang, phát
triển chiến tranh du kích trên khắp các khu vực Thượng, Trung và Hạ Lào. Đồng
thời, thực tiễn chiến đấu, công tác trên các chiến trường Lào cũng là cơ hội bồi
dưỡng, rèn luyện rất bổ ích về các mặt quân sự, chính trị, nhất là nâng cao thêm
tinh thần đoàn kết quốc tế cho cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện và đội ngũ
chuyên gia Việt Nam.
Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập
chủ quyền. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra như vũ bão, đẩy nhanh
xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do đó,
các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Lào đều có cơ hội và điều kiện thu
hút vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ của

thế giới để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, xây dựng đất nước…
Năm 1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào
và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vòng hai tháng rút toàn bộ
quân đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định
biên giới quốc gia giữa hai nước. Tuy nhiên, lợi dụng cơ hội này, bọn phản động
trong nước Lào, với sự hỗ trợ của các thế lực thù địch quốc tế, đã hoạt động nổi
dậy ở nhiều nơi. Do vận mệnh của hai nước liên đới lẫn nhau nên mối quan tâm
hàng đầu về an ninh chính trị của Lào cũng là mối quan tâm thường trực của Việt
Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam ra Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng Lào trong
giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với Lào là
một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam,
cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.
Đặc biệt, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 7 năm 1977, Đoàn đại biểu cao cấp
Đảng và Chính phủ Việt Nam do Tổng Bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn
Đồng dẫn đầu sang thăm hữu nghị chính thức Lào. Hai bên đã trao đổi ý kiến về
các vấn đề quốc tế quan trọng mà hai bên cùng quan tâm, cũng như các vấn đề
nhằm phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Đảng, Chính phủ và nhân dân
hai nước, trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng thiết tha và lợi ích sống còn của hai dân
tộc trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 18
tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung
tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
20
Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là Hiệp ước toàn diện, mang tính chiến lược lâu
dài, tạo cơ sở chính trị và pháp lý quan trọng để củng cố và tăng cường lâu dài

tình đoàn kết, mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hiệp ước
có giá trị trong 25 năm và sẽ được mặc nhiên gia hạn thêm từng 10 năm nếu một
trong hai bên không thông báo cho bên kia muốn hủy bỏ Hiệp ước ít nhất là một
năm trước khi hết hạn. Hiệp ước nêu rõ: Hai bên cam kết ra sức bảo vệ và phát
triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam, không ngừng tăng
cường tình đoàn kết và tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về
mọi mặt trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hoàn toàn
bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng
lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây
là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước.
Việc ký kết hiệp ước đó còn có ý nghĩa quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc
tế trong sáng giữa hai nước đang cùng hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và
phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.
Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc
giải quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, là mẫu mực về
chính sách láng giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986,lãnh đạo cấp cao hai
Đảng hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam.
Ngày 3-7-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ thị:
“Trên cơ sở quán triệt đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
các Nghị quyết 10 và 11 của Bộ Chính trị về tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện
với Lào và Campuchia và nội dung thỏa thuận trong các cuộc hội đàm lần
này
10
[11], các bộ ban ngành và các tỉnh trực tiếp làm nhiệm vụ hợp tác với bạn cần
kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiên quyết xử lý và có biện pháp chấm dứt các hiện
tượng tiêu cực, các quan điểm, nhận thức và hành động sai trái gây phương hại cho

quan hệ đặc biệt giữa ta với Lào”
11
[12]. Về phía Lào, Ban Bí thư Trung ương Đảng
Nhân dân cách mạng Lào cũng khẳng định: “Xuất phát từ truyền thống lịch sử và
tình hình, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ba nước, sự tăng cường liên minh
hợp tác toàn diện giữa ba Đảng, ba nước Lào – Việt Nam – Campuchia mới trở
thành nhiệm vụ chiến lược số một, là nguyên tắc cách mạng bất di bất dịch của
mỗi nước, là vấn đề sống còn của mỗi nước”
12[13]
. Đặc biệt, Chỉ thị của Ban Bí thư
Đảng Nhân dân cách mạng Lào ghi rõ: “hai bên nhất trí phải tăng cường giáo dục
10
11
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
21
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ quan hệ đoàn kết sống còn và lâu dài,
quán triệt quan điểm, phương châm nguyên tắc của mối quan hệ trong giai đoạn
cách mạng mới, uốn nắn tư tưởng và tác phong làm việc mới, tránh những bảo
thủ, chủ quan, chống mọi hiện tượng lơ là mất cảnh giác, thiếu trách nhiệm, chống
tư tưởng dân tộc hẹp hòi”.
Theo tinh thần đó, từ năm 1988, cuộc gặp hàng năm giữa hai Bộ Chính trị
đã trở thành một cơ chế hoạt động chính thức giữa hai Đảng và hai Nhà nước.
Trong đó có sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu bước phát triển mới trong
quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam là chuyến thăm hữu nghị chính thức nước
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào của Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam do
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu từ ngày 2 đến ngày 4 -7-1989. Đây là
chuyến thăm Lào chính thức đầu tiên của lãnh đạo cấp cao Đảng Cộng sản Việt
Nam từ sau Đại hội IV Đảng Nhân dân Cách mạng Lào. Hai bên thống nhất với
nhau nhiều vấn đề quan trọng trong việc đổi mới phương thức hợp tác giữa hai
nước và giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Thành tựu nổi bật nhất của

quan hệ hợp tác chính trị Việt Nam – Lào trong giai đoạn này là hai nước vẫn
kiên định giữ vững định hướng chính trị theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tháng 10 năm 1991, đồng chí Cayxỏn Phômvihản, Tổng Bí thư Đảng Nhân
dân Cách mạng Lào và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
thăm chính thức Việt Nam. Hai bên khẳng định quyết tâm trước sau như một tăng
cường, củng cố và nâng cao quan hệ đoàn kết đặc biệt Lào – Việt Nam, Việt Nam –
Lào, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, định kỳ trao đổi cấp Thứ trưởng Ngoại giao giữa hai
nước nhằm phối hợp chặt chẽ các hoạt động ngoại giao trên các diễn đàn quốc tế.
Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng cử trên 30 đoàn từ cấp Trung
ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, công tác dân vận. Quan hệ
giữa các bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa
đều có những trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với
nội dung thiết thực và có hiệu quả. Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên
soạn công trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam từ 1930
– 2007 nhằm tổng kết quá trình liên minh chiến đấu và hợp tác toàn diện Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam, đúc kết những bài học kinh nghiệm phục vụ cho
việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt
Nam lên một tầm cao mới.
Tháng 6 năm 2011, Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã
thăm hữu nghị chính thức CHDCND Lào, tiếp tục khẳng định mong muốn và
quyết tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong việc gìn giữ, phát huy
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào như một tài sản chung vô giá của hai dân tộc.
Cũng trong năm 2011, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn lãnh đạo Quốc hội và đại
biểu Quốc hội của hai nước, phối hợp tổ chức thành công nhiều hoạt động giao
12
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
22
lưu giữa các cơ quan của hai Quốc hội như: Hội thảo giao lưu giữa Ủy ban Đối
ngoại Quốc hội Việt Nam - Lào tại Hội An (Việt Nam) vào tháng 6/2011; Hội

thảo giữa ba Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam - Lào - Campuchia tại
Chămpaxắc (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giao lưu giữa Văn phòng Quốc hội
Việt Nam - Lào tại Savẳnnakhệt (Lào) vào tháng 7/2011; Hội thảo giữa hai Ủy
ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của hai Quốc hội
tháng 2/2011 tại Lào, qua đó tăng cường hiểu biết, tin cậy và quan hệ hợp tác toàn
diện giữa hai Quốc hội nói riêng, hai Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước Việt
Nam - Lào nói chung.
Tháng 8/2011,Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Chummaly xaynhasỏn dẫn
đầu Ðoàn đại biểu cấp cao Lào sang thăm Việt Nam tiếp tục góp phần thắt chặt
hơn nữa mối quan hệ truyền thống, hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và sự
hợp tác toàn diện giữa hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Lào - Việt
Nam phát triển lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước Lào - Việt Nam,
vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào -Việt Nam quý báu và thiêng
liêng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:
"Thương nhau mấy núi cũng trèo,
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.
Việt - Lào, hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long".
Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: "Trong lịch sử cách
mạng thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vô sản,
nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu
đặc biệt, lâu dài và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"; "Núi có thể mòn,
sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi,
hơn sông".
Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Quảng Trị với hai tỉnh
Savẳnakhệt, Xalavăn của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng không
ngoài truyền thống quý báu đó.
Phát huy truyền thống trong chiến đấu, ngày nay trong sự nghiệp xây dựng
đất nước với lợi thế Quảng Trị có chung 206 km đường biên giới, chính quyền 3

tỉnh Quảng Trị, Savẳnnakhệt và Xalavăn thường xuyên phối hợp tổ chức các cuộc
hội thảo quảng bá đầu tư, cải cách thủ tục hành chính tại Cửa Khẩu Quốc tế Lao
Bảo, Đensavẳn và Cửa khẩu Quốc gia La Lay nhằm khuyến khích giao lưu phát
triển kinh tế, thương mại, du lịch và tạo điều kiện bà con 2 bên biên giới qua lại
thăm thân, trao đổi hàng hoá, tham quan, du lịch Quan hệ buôn bán giữa các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế của Quảng Trị và các tỉnh biên giới của Lào
từng bước được xác lập và bước đầu đạt kết quả tốt. Các Công ty du lịch của 3
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
23
tỉnh Quảng Trị - Việt Nam, Savannakhẹt - Lào và Mụcđahản - Thái Lan đã có các
chương trình hợp tác đưa đón khách tham quan du lịch theo tour " Một ngày ăn
cơm 3 nước" ngày càng thu hút nhiều khác trong và ngoài nước.
Các Sở, Ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, các lực lượng Công an, Quân
sự, Bộ đội biên phòng, Hải quan tỉnh Quảng Trị và tỉnh Savẳnnakhệt, tỉnh
Xalavăn định kỳ có các cuộc gặp gỡ giao lưu, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Công an, Biên phòng các huyện biên giới cũng thường xuyên phối hợp với nhau
trong công tác nắm tình hình, điều tra cơ bản bổ sung các tuyến điểm, địa bàn
trọng điểm để hoàn chỉnh kế hoạch đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhờ vậy,
đường biên, cột mốc giữa các tỉnh luôn được bảo vệ nguyên trạng; tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới của hai bên luôn được
giữ vững. Vừa qua, tại Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo - Đensavẳn, tỉnh Quảng Trị là
tỉnh đầu tiên trong 13 tỉnh, thành phố có chung đường biên giới với nước bạn Lào
được triển khai xây dựng thí điểm và tỉnh Savănnakhệt (Lào) khởi công xây dựng
cột mốc Quốc giới Việt Nam - Lào đoạn qua tỉnh Quảng Trị và Savănnakhet (mốc
605-1 và 605-2). Đây là cặp mốc đầu tiên được khởi công xây dựng nằm trong dự
án tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc Quốc giới Việt – Lào.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang thực hiện các âm mưu “diễn biến hòa
bình” với nhiều thủ đoạn nhằm phá hoại, chia rẽ tình đòan kết hữu nghị đặc biệt
Việt- Lào và công cuộc xây dựng CNXH ở mỗi nước. Hai Đảng, hai Nhà nước
Việt Nam- Lào tiếp tục khẳng định ý chí, quyết tâm tăng cường quan hệ hữu nghị

hợp tác toàn diện nhằm góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng ở mỗi
nước, giữ gìn và phát triển tình hữu nghị láng giềng gắn bó keo sơn này.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân tỉnh Quảng Trị cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân 2 tỉnh Quảng Trị,
Savănnakhệt,Xalavăn sẽ làm hết sức mình, tiếp tục đổi mới phương thức, nội
dung, cơ chế phù hợp trên tất cả các lĩnh vực hoạt động thúc đẩy quan hệ hữu
nghị hợp tác toàn diện lên tầm cao mới, trở thành mối quan hệ quốc tế mẫu mực,
thuỷ chung trong sáng này ngày càng phát triển bền vững, trước mắt, thực hiện
các nội dung chương trình hợp tác mà lãnh đạo cao cấp 3 tỉnh đã ký kết hàng năm,
góp phần cùng với hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam- Lào bảo vệ và
nâng quan hệ đặc biệt lên tầm cao mới.
C huyên đề 4
NHỮNG THÀNH TỰU CÓ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ
QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM
Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào đã ghi vào lịch sử dân tộc của hai nước
những trang chói ngời nhất về tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thủy chung, lâu
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
24
dài và toàn diện, trở thành một trong những nhân tố bảo đảm phát triển của cách
mạng mỗi nước trên con đường phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Kể từ khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành Đảng cộng sản Việt Nam vào
tháng 2-1930 và sau đó đổi tên thành Đảng cộng sản Đông Dương (tháng 10-
1930), mối quan hệ truyền thống, lâu đời của hai dân tộc được nâng lên thành
quan hệ đặc biệt, không ngừng được hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước
vun đắp và đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng.
1. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau cùng tiến hành khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc
Hai tháng sau khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng cộng sản Đông
Dương đã đưa ra những luận điểm và chủ trương quan trọng chuẩn bị cho công
cuộc khởi nghĩa giành độc lập, tự do cho các dân tộc Việt Nam, Lào, Miên. Do

điều kiện cụ thể khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ có hai nước Việt
Nam, Lào tiến hành khởi nghĩa giành được độc lập.
Từ cuối năm 1939 đến tháng 8-1945, tuy cách mạng Việt Nam và cách
mạng Lào bị chính quyền thực dân Pháp, Nhật đàn áp, khủng bố rất khốc liệt,
nhiều cán bộ cao cấp của Đảng và đảng viên bị cầm tù và hy sinh, nhưng dưới sự
lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Đông Dương, công tác chuẩn
bị về mọi mặt cho công cuộc khởi nghĩa giành chính quyền vẫn được cán bộ, đảng
viên, nhân dân hai nước tham gia tích cực và xúc tiến mạnh mẽ.
Tại Việt Nam, căn cứ địa Việt Bắc, Mặt trận Việt Minh và nhiều tổ chức
quần chúng do Đảng lãnh đạo được thành lập; nhiều đơn vị vũ trang như Cứu
quốc quân, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân lần lượt ra đời. Sau ngày Nhật
đảo chính Pháp (9-3-1945), Ban Thường vụ Trung ương Đảng cộng sản Đông
Dương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nhiều tỉnh
thành lập chiến khu, khởi nghĩa từng phần ở nhiều địa phương miền Bắc và miền
Trung nổ ra thắng lợi.
Ở Lào, đầu năm 1945, Xứ ủy Lào được lập lại lần thứ tư và xác định các đô
thị và địa phương lớn như Viêng Chăn, Thà Khẹc, Savẳnnakhệt là địa bàn hoạt
động chính. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, phong trào cứu nước càng phát triển
mạnh mẽ. Tổ chức Lào Itxalạ (Lào tự do) bao gồm công chức, học sinh có tinh
thần yêu nước, chịu ảnh hưởng đường lối cứu nước Đảng cộng sản Đông Dương
ra đời, nhiều căn cứ địa cách mạng xuất hiện. Tháng 6-1945, đơn vị Việt Nam
Độc lập quân được thành lập ở chiến khu trên đất Thái Lan.
Trung tuần tháng 8-1945, thời cơ giành độc lập cho Đông Dương xuất hiện,
lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương
quyết định Tổng khởi nghĩa và tiến hành Hội nghị toàn Đảng tại Tân Trào (Tuyên
Quang vào ngày 14 và 15-8-1945). Nghị quyết hội nghị nêu rõ: “Những điều kiện
khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi, cơ hội cho ta giành quyền độc lập đã
Nguyễn Chí Đại – Viện kiểm sát nhân dân thị xã An Khê, Gia Lai
25

×