Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào việt nam, giải pháp và bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.64 KB, 31 trang )

Lời mở đầu:
Khủng hoảng tài chính Đông Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ
tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung
tâm tiền tệ lớn, và giá cả của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia
trong đó được coi như là "những con Hổ Đông Á". Cuộc khủng hoảng này còn
thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ Đông Á.
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà
kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền
của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản
vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập
niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng
trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung
tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã
được áp dụng để chống lạm phát vô hình chung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào
nền kinh tế. Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và
Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao
quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay
đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong
khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở
các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế
đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Các nhà phân tích đã chỉ ra rằng: Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng
tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt
khỏi các nước châu Á. Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị
trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người
ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát
hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số
thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài
đồng loạt rút vốn ra. Như vậy, dòng vốn đầu tư gián tiếp bên cạnh những ý nghĩa
riêng với nền kinh tế, cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn so với các kênh huy động vốn
từ nước ngoài khác. Do vậy, trong đề tài thảo luận của mình, nhóm 6 đi sâu phân


tích đề tài: “ Đầu tư gián tiếp nước ngoài từng được coi là một trong những
nguyên nhân của khủng hoảng tài chính năm 1997 đươc châm ngòi từ Thái Lan.
Hãy phân tích những tác động của đầu tư nước ngoài giá tiếp đối với nền kinh tế
các nước, trên cơ sở đó xây dựng những bài học đối với việc tiếp nhận, quản lý
các luồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam”
Danh sách thành viên nhóm 6:
1. Lê Văn Dũng
2. Đặng Thúy Hà
3. Phan Xuân Hạnh
4. Nguyễn Thị Ngọc Quỳnh
5. Nguyễn Thị Phương Thảo (1987)
I. Khái quát về đầu tư gián tiếp nước ngoài:
1. Khái niệm đầu tư gián tiếp nước ngoài:
Khoản 3 điều 3 Luật đầu tư quy định “Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư
thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng
khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không
trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
Như vậy, theo đó, đầu tư gián tiếp nước ngoài (Foreign Portfolio Investment,
hay thường được viết tắt là FPI) là hình thức đầu tư gián tiếp xuyên biên giời. Nó
chỉ các hoạt động mua tài sản tài chính của nước ngoài nhằm kiếm lời. Hình thức
đầu tư này không kèm theo việc tham gia vào các hoạt động quản lý và nghiệp vụ
của doanh nghiệp, cũng như không kèm theo cam kết chuyển giao tài sản vật chật,
công nghệ, đào tạo lao động và kinh nghiệm quản lý. Một cách đơn giản hơn, FPI là
đầu tư tài chính thuần tùy trên thị trường tài chính.
2. Đặc điểm của đầu tư gián tiếp nước ngoài:
2.1 Tính thanh khoản cao
Do mục đích của FPI là tỷ suất lợi tức cao với một mức độ rủi ro nhất định
(hoặc tỷ suất lợi tức nhất định với mức rủi ro thấp nhất) chứ không quan tâm đến
quá trình sán xuất kinh doanh giống như trong phương thức FDI, cho nên NĐT
nước ngoài sẵn sàng bán lại những chứng khoán mà họ đang nắm giữ để đầu tư sang

thị trường khác hoặc chứng khoán khác với tỷ suất lợi tức dự tính cao hơn, an toàn
hơn. Tính thanh khoản cao của FPI khiến cho hình thức đầu tư này trở thành khoản
mục đầu tư ngắn hạn mặc dù cố phiếu được coi là chứng khoán dài hạn và nhiều
loại trái phiếu giao dịch trên TTCK có thời gian đáo hạn dài hơn 1 năm.
2.2 Tính bất ổn định
Tính thanh khoản cao là nguyên nhân làm cho dòng vốn FPI mang tính bất ổn
định. Sự bất ổn định, trong một giới hạn nào đó có thể có lợi do nó làm cho thị
trường tài chính nội địa hoạt động năng động và hiệu quả hơn, vốn đầu tư không
ngừng được phân bổ lại, dịch chuyến từ nơi có tỷ suất lợi nhuận thấp sang nơi có tỷ
suất lợi nhuận cao. Tuy nhiên, nếu điều đó xảy ra với tốc độ quá nhanh, những ảnh
hưởng xấu đến hệ thống tài chính và tình trạng bất ổn định của nền kinh tế xảy ra là
không thể tránh khỏi. Vấn đề trở nên nghiêm trọng hơn đối với các nước có thị
trường tài chính mới hình thành và nền kinh tế còn trong giai đoạn chuyển đổi như
Việt Nam.
2.3 Tính dễ đảo ngược
Tính dễ đảo ngược của dòng vốn FPI thực sự gây tác động xấu đến nền kinh tế,
nó là hệ quả của hai đặc tính thanh khoản cao và bất ổn định. Do dễ đảo ngược cho
nên có thể chỉ trong khoảng thời gian ngắn một lượng vốn FPI lớn tháo lui “bẻ ghi”
đầu tư sang thị trường khác để lại hậu quả khôn lường cho nền kinh tế. Kinh nghiệm
khủng khoảng kinh tế tài chính của các nước châu á vào cuối thập kỷ 90 của thế kỷ
20 đă cho thấy tác hại của sự đảo ngược dòng vốn FPI khi nền kinh tế của các quốc
gia này xuất hiện những khoảng trống, hậu quả là nền kinh tế bong bóng nhanh
chóng bị sụp đổ mà trong ngắn hạn khó có thể khắc phục được.
3. Các tác động của FPI:
FPI có vai trò lớn trong nển kinh tế tòan cầu nói chung và đối với từng nước
nói riêng. FPI có tác động nhiều mặt, cả tích cực và tiêu cực đối với nước đầu tư và
nước nhận vốn đầu tư.
3.1. Những tác động tích cực:
Thứ nhất, trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư gián tiếp và gián tiếp làm tăng
tổng vốn đầu tư trực tiếp của xã hội. Dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài khi đổ

vào Việt Nam sẽ trực tiếp làm tăng lượng vốn đầu tư gián tiếp trên thị trường vốn
trong nước như một phép cộng đương nhiên vào tổng số dòng vốn này. Hơn nữa,
khi vốn đầu tư gián tiếp nước gia tăng sẽ làm phát sinh hệ quả tích cực gia tăng dây
chuyền đến dòng vốn đầu tư gián tiếp trong nước. Nói cách khác, các nhà đầu tư
trong nước sẽ “nhìn gương” các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và tăng động lực bỏ
vốn đầu tư gián tiếp của mình, kết quả tổng đầu tư gián tiếp xã hội sẽ tăng lên. Hơn
nữa, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng sẽ là một bảo đảm và tạo
động lực mới hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư khác mạnh dạn thông qua các quyết
định đầu tư trực tiếp mới của mình, kết quả là gián tiếp góp phần làm tăng đầu tư
trực tiếp xã hội từ phía các nhà đầu tư cả nước ngoài, cũng như trong nước.
Thứ hai, góp phần tích cực vào phát triển thị trường tài chính nói riêng, hoàn
thiện các thể chế và cơ chế thị trường nói chung. Việc gia tăng và phát triển bộ phận
thị trường vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ làm cho thị trường tài chính (đặc biệt
là thị trường chứng khoán) trở nên đồng bộ, cân đối và sôi động hơn. Hơn nữa, điều
kiện và như là kết quả đi kèm với sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
này là sự phát triển nở rộ các định chế và dịch vụ tài chính - chứng khoán, trước hết
là các loại quỹ đầu tư, Công ty tài chính, và các thể chế tài chính trung gian khác,
cũng như các dịch vụ tư vấn, bổ trợ tư pháp và hỗ trợ kinh doanh, xác định hệ số tín
nhiệm, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán và thông tin thị trường; Đồng thời còn kéo theo
sự gia tăng yêu cầu và hiệu quả áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh thị trường, trước
hết trên thị trường chứng khoán Tất cả những điều này trực tiếp và gián tiếp góp
phần phát triển mạnh mẽ hơn các bộ phận và tổng thể thị trường tài chính nói riêng,
các thể chế và cơ chế thị trường nói chung trong nền kinh tế chuyển đổi Việt Nam.
Thứ ba, góp phần tăng cường cơ hội và đa dạng hoá phương thức đầu tư, cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực và thu nhập của đông đảo người dân. Việc phát
triển thị trường vốn đầu tư gián tiếp cả về bề rộng và bề sâu sẽ mang lại những cơ
hội mới và sự đa dạng hoá trong lựa chọn các phương thức đầu tư cho các nhà đầu
tư tiềm năng nước ngoài và trong nước.
Thứ tư, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước theo các
nguyên tắc và yêu cầu kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Sự gia tăng dòng vốn

đầu tư gián tiếp nước ngoài và phát triển thị trường tài chính sẽ đặt ra những yêu cầu
mới và cũng tạo các công cụ, khả năng mới cho quản lý nhà nước nói chung và quản
lý, quản trị doanh nghiệp nói riêng. Việc quản lý và quản trị doanh nghiệp phát hành
chứng khoán sẽ được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả hơn do yêu cầu về báo cáo tài
chính doanh nghiệp và minh bạch hoá, cập nhật hoá thông tin liên quan đến các
chứng khoán mà doanh nghiệp đã và sẽ phát hành. Hơn nữa, về nguyên tắc, các nhà
đầu tư chỉ lựa chọn đầu tư vào chứng khoán của các doanh nghiệp đáng tin cậy,
đang và sẽ có triển vọng, phát triển tốt trong tương lai. Chính điều này sẽ cho phép
quá trình “chọn lọc nhân tạo”, “bỏ phiếu” cho sự hỗ trợ và phát triển các doanh
nghiệp này trở nên khách quan và phù hợp cơ chế thị trường hơn (còn những doanh
nghiệp khác mà chứng khoán của họ không hấp dẫn sẽ phải điều chỉnh lại định
hướng và chất lượng quản trị kinh doanh, sáp nhập hoặc giải thể). Hệ thống luật
pháp, cũng như các cơ quan, bộ phận và cá nhân tỏng hệ thống quản lý nhà nước
liên quan đến thị trường tài chính, nhất là đến đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ phải
được hoàn thiện, kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động hơn theo yêu cầu, đặc
điểm của thị trường này, cũng như theo các cam kết hội nhập quốc tế. Đồng thời,
thông qua tác động vào thị trường tài chính, nhà nước sẽ đa dạng hoá các công cụ và
thực hiện hiệu quả việc quản lý của mình theo các mục tiêu lựa chọn thích hợp. Trên
cơ sở đó, năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, thị
trường tài chính nói riêng sẽ được cải thiện hơn.
3.2.Một số tác động tiêu cực:
Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, việc gia tăng thu hút vốn đầu tư
gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam có thể gây ra một số tác động tiêu cực sau:
Thứ nhất, làm tăng mức độ nhạy cảm và bất ổn về kinh tế có nhân tố nước
ngoài. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư tài chính
thuần tuý với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao trên
thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài dễ dàng và nhanh
chóng mở rộng hoặc thu hẹp, thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước,
hay chuyển sang đầu tư dưới dạng khác, ở địa phương khác tuỳ theo kế hoạch và
mục tiêu kinh doanh của mình. Trong tình huống như vậy, một sự đổ vỡ, một cuộc

khủng hoảng đầu tư – tài chính - tiền tệ, thậm chí là khủng hoảng kinh tế hết sức tệ
hại và bất khả kháng là hoàn toàn có thể xảy ra đối với nước tiếp nhận đầu tư, nếu
không có và triển khai tốt các phương án phòng ngừa hiệu quả.
Thứ hai, làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống chế và lũng đoạn
tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng khoán. Sự gia tăng
tỷ lệ nắm giữ chứng khoán, nhất là các cổ phiếu, cổ phần sáng lập, được biểu quyết
của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đến một mức “vượt ngưỡng” nhất định nào
đó sẽ cho phép họ tham dự trực tiếp vào chi phối và quyết định các hoạt động sản
xuất kinh doanh và các chủ quyền khác của doanh nghiệp, tổ chức phát hành chứng
khoán, thậm chí lũng đoạn doanh nghiệp theo phương hướng, kế hoạch, mục tiêu
riêng của mình, kể cả các hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. FPI chỉ đơn
thuần là hoạt động bỏ vốn, đầu tư vốn vào doanh nghiệp thông qua việc mua bán
chứng khoán hoặc những tài sản có giá khác, nhà đầu tư không có quyền tham dự
vào hoạt động của công ty. Lợi nhuận thu được từ việc chia cổ tức hoặc việc bán
chứng khoán thu chênh lệch. Tuy nhiên, nếu nắm giữ một số cổ phần nhất định, FPI
có thể chuyển thành FDI, nhà đầu tư có quyền ra quyết định với công ty họ đang bỏ
vốn.
Thứ ba, làm tăng quy mô, tính chất và sự cấp thiết đấu tranh với tình trạng tội
phạm kinh tế quốc tế. Đầu tư gián tiếp quốc tế không chỉ làm gia tăng cácnguy cơ và
tác hại của các hoạt động đầu cơ, lũng đoạn kinh tế vi phạm các quy định pháp lý
của nước tiếp nhận đầu tư, mà còn là mảnh đất màu mỡ sinh sôi và phát triển các
loại tội phạm kinh tế có yếu tố nước ngoài, thậm chí xuyên quốc gia, như hoạt động
lừa đảo, hoạt động rửa tiền, hoạt động tiếp vốn cho các kinh doanh phi pháp và hoạt
động khủng bố, cùng các loại tội phạm và các đe doạ an ninh phi truyền thống khác.
Sự cộng hưởng của các hoạt động tội phạm và tác động mặt trái của dòng vốn đầu
tư gián tiếp nước ngoài kể trên, nhất là khi chúng diễn ra một cách “có tổ chức” của
giới đầu cơ hay lực lượng thù địch chính trị quốc tế, sẽ ít nhiều, trực tiếp hay gián
tiếp, trước mắt và lâu dài gây tổn hại tới hoạt động kinh tế lành mạnh và làm tăng
tính dễ tổn thưởng của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư trong bối cảnh toàn cầu
hoá hiện nay; Thậm chí trong một số trường hợp, chúng còn làm mất uy tín nhà

nước và gây sụp đổ một nội các Chính phủ.
Ngoài ra, sự gia tăng dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam
còn đặt ra yêu cầu Chính phủ và các cơ quan Trung ương phải chủ động đổi mới và
sử dụng hiệu quả các công cụ quản lý kinh tế của mình theo nguyên tắc thị trường
hơn, trong đó có việc sử dụng bảo lãnh nhà nước, quy định tỷ lệ và sử dụng các
công cụ dự phòng, dư nợ cũng như các công cụ khác của các định chế tài chính -
tiền tệ quốc gia và địa phương. Tất cả những điều này là cần thiết để đảm bảo sự thu
hút và khai thác có hiệu quả các tác động tích cực của dòng vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư gián tiếp vào thị trường chứng khoán lại
là dòng vốn ngắn hạn, đưa vào cũng rất nhanh và rút ra cũng rất nhanh, tính theo
phiên trong từng ngày, tùy theo động thái nóng, lạnh của giá cổ phiếu, trái phiếu
trên thị trường chứng khoán hay sự tác động của chính sách quản lý của nhà nước
bản địa.
Tính "đầu cơ" của nguồn vốn này thường cao hơn nhiều so với tính "đầu tư"
("đầu cơ" chỉ nhằm thu lợi nhanh - mua ồ ạt lúc giá cổ phiếu, trái phiếu thấp để nâng
giá, sau đó lại bán ồ ạt lúc giá cổ phiếu, trái phiếu cao; "đầu tư" cũng nhằm thu lợi
nhuận nhưng đầu tư nhằm phát triển để thu lợi nhuận lâu dài). Trên thế giới hiện có
nhiều quỹ đầu tư mang nặng tính đầu cơ và đã có nhiều tấm gương tày liếp về sự
tham gia của các quỹ mang tính đầu cơ này. Chỉ với vài ba tỉ USD, một quỹ đầu tư
đã làm cho đồng bảng Anh phải rút khỏi thị trường châu Âu cách đây vài chục năm.
Cũng với quỹ đầu tư đó (cộng với sự yếu kém trên thị trường tài chính trong
nước) cách đây mươi năm đã khiến cho châu Á lâm vào cuộc khủng hoảng tiền tệ,
bắt đầu từ Thái Lan, sau đó tác động dây chuyền đến nhiều nước, như Indonesia,
Malaysia, Philippines, Hàn Quốc… làm cho người dân ở những nước này kinh
hoàng (chỉ sau một đêm ngủ dậy đã thấy tài sản của mình sụt xuống còn một nửa),
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) phải khẩn cấp hỗ trợ hàng trăm tỉ USD. Quỹ đầu tư trên
chỉ bị thua khi "chiến đấu" với Trung Quốc và Hồng Kông - hai đối thủ có lượng dự
trữ ngoại tệ khổng lồ!
Nếu trước đây, các nhà đầu tư nước ngoài hầu như chỉ có mua, không có bán,
gần đây đã chuyển sang vừa mua, vừa bán, có phiên bán nhiều hơn mua… Do có

nguồn vốn lớn, tính chuyên nghiệp cao , nên các nhà đầu tư nước ngoài đang làm
cho các nhà đầu tư trong nước, nhất là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ bị "cuốn" theo.
Giới đầu tư tài chính quốc tế thông qua đầu tư gián tiếp để "đánh nhanh, thắng
nhanh", thị trường gặp rủi ro họ đã thu được lợi lớn, còn các tổ chức, cá nhân và nhà
nước bản địa thường gánh chịu hậu quả.
Đối với các nước đang phát triển, thị trường chứng khoán còn quá non trẻ so
với hàng trăm năm của các nước khác, thường có sức thu hút các dòng vốn đầu tư
ngắn hạn gia tăng; nhưng nếu dòng vốn này đột ngột tăng vọt, thì đó lại là dấu hiệu
đáng lo ngại, cần hết sức cẩn trọng, bởi đột ngột tăng thì cũng dễ đột ngột giảm nếu
có dấu hiệu bất ổn trên thị trường hoặc sự siết chặt quản lý của nước sở tại. Thu hút
vốn trên thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn đầu tư dài hạn là chủ yếu,
chứ không phải là "sòng bạc".
Mở cửa thị trường là tất yếu của hội nhập, nhưng đối với thị trường tài chính
nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, cần hết sức cẩn trọng do sự nóng,
lạnh bất thường của nó tác động nhanh đến sự vào, ra cua dòng vốn tài chính ngắn
hạn.
Đặc điểm nổi bật nhất của FPI là tính bất ổn định. Việc bán chứng khoán diễn
ra đơn giản hơn nhiều so với việc hủy bỏ một dự án đầu tư trong đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Do đó, tốc độ luân chuyển vốn của FPI cao hơn nhiều so với FPI. Điều
này có thể giúp các nền kinh tế mới nổi tăng tính linh hoạt, thúc đẩy quá trình phát
triển của mình. Tuy nhiên, trong thời kỳ kinh tế suy thoái, lượng vốn ra và vào quá
nhanh lại khiến cho nền kinh tế mất tính cân bằng, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động
sản xuất. Ngược lại, FPI là nguồn bổ sung vốn dài hạn cho nước chủ nhà, không dễ
bị rút đi trong thời gian ngắn vì gắn liền với hoạt động của dự án. Nước chủ nhà sẽ
được tiếp nhận một nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước mà không
phải lo trả nợ.
Cuối cùng, để thực hiện được FPI, cần có một hệ thống tài chính hoạt động
hiệu quả. Trong khi đó, các nước kém phát triển lại có hệ thống tài chính yếu, nên
FPI có xu hướng luân chuyển giữa các nước phát triển với nhau, hoặc giữa nước
đang phát triển sang nước phát triển, hơn là luân chuyển sang các nước đang phát

triển.
Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài:
Các hình thức đầu tư gián tiếp nước ngoài bao gồm: Mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu và các loại giấy tờ có giá khác thông qua quỹ đầu tư chứng khoán hoặc
thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào các nước tồn tại dưới các loại quỹ hoặc
các công ty tài chính dưới một số dạng như:
- Quỹ tương hỗ
- Quỹ trợ cấp và hưu bổng
- Công ty bảo hiểm (Insurance Firm
- Các tổ chức tài chính (Financial Corporation)
- Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture Capital Funds)
Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn vốn FPI.
Nguồn vốn FPI chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
- Bối cảnh quốc tế (hòa bình, ổn định vĩ mô, các quan hệ ngoại giao và môi
trường pháp lý quốc tế thuận lợi).
- Nhu cầu và khả năng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài.
- Mức độ tự do hóa và cạnh tranh (chủ yếu là ưu đãi tài chính và sự thân thiện,
sự thuận tiện của quản lý nhà nước đối với nhà đầu tư) của môi trường đầu tư trong
nước.
- Sự phát triển của hệ thống tiền tệ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh nói riêng,
của các thể chế thị trường nói chung ở nước tiếp nhận đầu tư.
Ngoài ra dòng FPI cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố khác như:
- Sự phát triển và độ mở cửa của thị trường chứng khoán, chất lượng của các
cổ phiếu, trái phiếu do doanh nghiệp và Nhà nước phát hành, cũng như các chứng
khoán có giá khác lưu thông trên thị trường tài chính.
- Sự đa dạng và vận hành có hiệu quả của các định chế tài chính trung gian
(trước hết là quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư tài chính các loại, các quỹ đầu
tư đại chúng, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ thành viên).
- Sự phát triển và chất lượng của hệ thống thông tin và dịch vụ chứng khoán,

trong đó có các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vẫn và dịch vụ định mức hệ số tín
nhiệm của doanh nghiệp và chứng khoán do doanh nghiệp phát hành.
Dòng FPI tỷ lệ thuận theo cấp số nhân cũng với sự gia tăng quá trình cổ phần
hóa các doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đang hoạt động hiệu quả ở trong nước, cùng với việc mở rộng tỷ lệ nắm giữ
cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp.
Phần II: Thực trạng tác động của vốn đầu tư gián tiếp đến các nền kinh
tế ở khu vực.
1. Tác động tích cực của vốn đầu tư gián tiếp.
Thông qua số liệu kinh tế thu thập được, có thể đánh giá một số điểm tích
cực của vốn đầu tư gián tiếp như sau:
Thứ nhất, Chưa có một kết quả tính toán chính thức về xác định rõ mức độ
tác động của vốn đầu tư gián tiếp đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Nhưng vốn đầu tư gián tiếp là một bộ phận trong tổng thể nguồn vốn phục vụ cho
đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Theo thống kê từ năm 1991 đến năm 1996 tại Thái
Lan: Cán cân tài khoản vốn liên tục tăng: Thấp nhất là năm 1992 là: 9,47 tỷ USD
cao nhất: 21,9 tỷ USD vào năm 1995; Trung bình mỗi năm: 14,23 tỷ USD; Tích lũy
trong 6 năm là: 86,4 tỷ. So với GDP Vốn đầu tư gián tiếp chiếm 12%. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế GDP theo các năm biểu hiện rất khả quan, với tỷ lệ tăng trưởng cao
và biến động cũng với biến động của Cán cân tài khoản vốn.
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tăng trưởng GDP % 7,9 7,1 8,2 8,6 8,7 6,7
GDP 98,23 111,45 125,01 144,3 168,01 181,94
Tỷ giá hối đoái (Baht/USD) 25,28 25,32 25,54 25,09 25,19 25,61
Cán cân tài khoản vốn 11,76 9,47 10,5 12,17 21,9 19,5
Nợ nước ngoài 35,99 39,61 45,84 60,99 65 89
Dự trữ ngoại tệ 18,4 21,2 25,4 30,3 37 38,2
Thứ 2, Dữ trữ ngoại tệ liên tục tăng qua các năm: Đạt đỉnh: 38,2 tỷ USD năm 1996.
Với số liệu về cán cân tài khoản vãng lai liên tục âm qua các năm. Thì cho ta thấy
việc đóng góp của Cán cân tài khoản vốn qua các năm chiếm vị trí như thế nào. Khi

dự trữ ngoại tệ tăng: đây là một cơ hội để kiểm soát tốt các yếu tố vĩ mô như tỷ giá,
Nợ nước ngoài, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thâm hụt tài khoản vãng lai…
Cụ thể: chưa bàn tới việc tác hại của nợ nước ngoài nếu đầu từ khoản nợ này không
tốt, chính dựa vào lượng Dự trữ ngoại tệ lớn là một khoản đối ứng, và đảm bảo để
thu hút và có thể vay được vốn từ nước ngoài với các lãi suất cạnh tranh.
Thêm nữa, với lượng dữ trữ này là nguồn để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn,
tránh được các nguy cơ khi các khoản nợ ngắn hạn đã đến hạn.
Thứ 3, Dòng vốn đầu tư gián tiếp làm sôi động thị trường tài chính.
Như ta đã biết, Chỉ số chứng khoán là phong vũ biểu phản ánh thực tế kinh
doanh phát triển của nền kinh tế. Khi nguồn vốn gián tiếp được tăng cường bổ sung,
xuất hiện nhiều hơn các quỹ đầu tư, tăng thêm được quy mô vốn của các quỹ đầu tư
cũ, như vậy tăng cường hoạt động mua và bán trên thị trường chứng khoán. Khối
lượng và giá trị giao dịch tăng lên, mở rộng tính thanh khoản của thị trường, bên
cạnh đấy tạo cơ hội nhanh chóng để mở rộng vốn của các doanh nghiệp khi thực
hiện IPO. Biểu hiện rõ theo mô hình được thống kê như sau:
Ở Thái lan:
Nhìn vào mô hình ta thấy, trước khi có khủng hoảng: trước tháng 5/1997 chỉ số
chức khoán được đưa lên rất cao 860 điểm.
Ở Malaysia:
Từ các năm từ 1993 đến 1997: Chỉ số chứng khoán luôn giữ ở mức độ cao: 1000
đến 1350 điểm.
2. Tác động tiêu cực lên nền kinh tế của các nước.
2.1. Cơ chế biến động lãi suất kì vọng dẫn đến rút vốn hàng loạt.
Dòng vốn đầu tư gián tiếp sẽ hoạt động theo chu trình sẽ chảy theo lãi suất
(lợi tức kỳ vọng tương lai – mà trong lý thuyết của Keynes đưa ra khái niệm tinh
thần động vật (animal spirit), là đặc tính tâm lý của con người có những hành động
tức thời trước hoàn cảnh, không hoàn toàn thuần lý. Doanh nghiệp, cá nhân thường
dao động mạnh, tùy theo các điều kiện kinh tế hiện thời. Trong các giai đoạn khác
nhau của chu kỳ kinh tế, như thời kỳ bùng nổ và suy thoái càng khuyếch đại khuynh
hướng hiện thời vì nhiều lý do tâm lý).

a. Chứng minh sự chênh lệch lãi suất:
Khi chúng ta giả định lãi suất trong nước được quyết định bỡi lãi suất thế giới,
chúng ta đã giả thiết rằng thị trường tài sản là một thị trường cạnh tranh hoàn toàn
với chi phí giao dịch trên thị trường bằng 0. Trong thế giới thực mà chúng ta đang
sống, điều này không xãy ra vì những lý do sau đây
+ Khi các nhà đầu tư mua trái phiếu hoặc cho vay đến một quốc gia khác, họ có
lý do để lo sợ rằng số tiền cho vay hoặc đầu tư sẽ không được trả lại. Chẳng hạn như
sựbất ổn chính trị. Do vậy những người cho vay thường phải đinh một mức lãi suất
cao hơn bao gồm cả phí bù rủi ro đối với những quốc gia như vậy. Rủi ro trong
trường hợp này gọi là rủi ro quốc gia
+ Thêm nữa, sự dao động về tỷ giá cũng gây ra những rủi ro cho các nhà đầu tư
hay những người cho vay. Giả sử người ta dự đoán rằng đồng Baht sẽ giảm giá so
với đô la Mỹ, khi đó các khoản cho vay hay đầu tư bằng đồng Baht sau khi hoàn trả
bằng đô la Mỹ có giá trị thấp hơn các khoản cho vay bằng đô la Mỹ. Để bù đắp cho
khoản giảm giá kỳ vọng của đồng tiền Baht thì lãi suất tại Thái Lan phải cao hơn lãi
suất tại Mỹ
Để làm rõ những lý do trên ta khảo sát một ví dụ sau đây. Giả sử một nhà đầu
tư Thái lan có một số tiền là Baht và có 2 cơ hội để đầu tư . Một là đầu tư vào thị
trường tài chính Thái lan và hai là thị trường tài chính Mỹ. Giả định rằng Thái lan là
nước nhỏ mở, có nhiều bất ổn về chính trị, phát triển quá nóng và dễ mất khả năng
thanh toán. Nếu nhà đầu tư này đầu tư vào tài sản tài chính Thái lan, lợi tức kỳ vọng
thu được tính bằng đồng Baht vào cuối thời đoạn sẽ là
Trong đó r là lãi suất của tài sản tài chính ở thái lan và d là dự tính mức rủi ro
quốc gia của Thái lan. Nếu đầu tư vào tài sản tài chính ở Mỹ, lợi tức kỳ vọng
tính bằng đồng Baht thu được vào cuối thời đoạn là:
Trong đó r* là lãi suất ở Mỹ, e
t
là tỷ giá hiện thời (giá đồng Baht tính bằng đồng
đô-la Mỹ) và e
e

t+1
là tỷ giá kỳ vọng vào thời điểm (t+1). Với giả thiết rằng thị
trường tài chính là thị trường cạnh tranh, điều kiện ngang bằng tổng lợi tức trên
thị trường tài sản được thể hiện bỡi phương trình sau
Một cách tương đương ta có thể viết lại như sau
Với công thức trên cho ta thấy rằng lãi suất Mỹ sẽ khác với lãi suất Thái lan và
khoảng chênh lệch này sẽ bằng % giảm giá của đồng Baht và phí bù rủi ro quốc
gia. Chúng ta có thể viết gọn hơn như sau
Trong đó θ được gọi là phí bù rủi ro
b. Mô hình Mundell-Fleming với sự chênh lệch lãi suất
Từ những phân tích trên cho thấy có sự khác biệt giữa lãi suất trong nước và lãi
suất nước ngoài. Bây giờ chúng ta đưa sự khác biệt lãi suất này vào mô hình
Mulldell-Fleming. Mô hình này được thể hiện bỡi 2 phương trình cơ bản sau
đây
Nếu chúng ta giả thiết θ không đổi, việc phân tích tác động của chính sách tài
khoá và chính sách tiền tệ không có gì thay đổi. Bây giờ chúng ta giả thiết có dự
đoán giá trị đồng bản tệ giảm xuống làm cho θ tăng lên. Tác động trực tiếp
nhất là lãi suất trong nước (r) tăng lên. Khi lãi suất trong nước tăng lên sẽ có 2
tác động. Trước hết, lãi suất tăng sẽ làm cho đầu tư giảm kéo theo sự giảm sút
trong tổng cầu. Điều này sẽ làm cho đường IS* dịch chuyển sang trái. Thứ nhì,
khi lãi suất tăng sẽ làm cho cầu tiền giảm. Với cung tiền không đổi, lúc này thu
nhập sẽtăng lên để tạo sự cân băng trên thị trường tiền tệ và đường LM* sẽ dịch
chuyển sang phải. Kết quả cuối cùng là thu nhập (Y) tăng cùng với giá đồng bản
tệ (e) giảm
Phân tích này có ý nghĩa khá quan trọng, Dự đoán về sự mất giá của một
đồng tiền trong tương lai sẽ làm cho đồng tiền đó mất giá ở hiện tại. Cuộc khủng
hoảng tiền tệ xảy ra ở các nước Đông Nam Á vào năm 1997 và 1998 là kết quả của
một sự thay đổi đột ngột về sự dự đoán giá trị của tiền tệ.
2.2. Thực trạng nội tại của nền kinh tế thúc đẩy sự rút vốn hàng loạt.
Qua phân tích các nguy cơ để khủng hoảng kinh tế ta thấy khủng hoảng chỉ

nổ ra khi nền kinh tế đã tích lũy đủ bốn nguy cơ:
- Sự kém hiệu quả của các doanh nghiệp.
- Sự kém hiệu quả của các ngân hàng, công ty tài chính;
- Sự lên giá của đồng nội tệ;
- Nguy cơ quốc gia mất khả năng thanh toán;
Và khi bên ngoài có một tác động quyết định là sự rút vốn tài chính của các
nhà đầu tư nước ngoài.
Khi đồng nội tệ bị lên giá do quốc gia duy trì tỷ giá hối đoái gần như cố định
quá lâu, yếu kém về xuất khẩu, giữ lãi suất cho vay trong nước cao hơn lãi suất các
đồng tiền mạnh ở nước ngoài, thì trước sau nguy cơ mất khả năng thanh toán sẽ
ngày càng lớn, khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định sẽ ngày càng suy yếu và việc
phải thả nổi đồng nội tệ - tỷ giá hối đoái là vấn đề thời gian.
Khi một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán chính phủ nước sở tại sắp hết dữ
trữ ngoại tệ để duy trì tỷ gái hối đoái cố định thì họ sẽ bán tài sản họ đã đầu tư, đổi
lấy ngoại tệ mang ra nước ngoài. Lúc đầu, chính phủ các nước thường bán dữ trữ
ngoại tệ để duy trì tỷ giá như cũ, sóng đến một lúc nào đó, khong còn đủ khả năng
bán nữa thì sẽ thả nổi tỷ giá hối đoái. Lúc này các nhà đầu tư nước ngoài chưa bán
tài sản (cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu) thì sẽ tìm cách bán thật nhanh và đổi sang
ngoại tệ mạnh để tối thiểu hóa thiệt hại của mình. Áp lực này làm cho tỷ giá hối
đoái tăng vọt và điều này đã làm cho nợ nước ngoài của các ngân hàng, công ty tài
chính tính bằng đồng tiền nội địa sẽ tăng vọt theo, trong khi đó người dân lại đổ xô
đi rút tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng. Các ngân hàng, vốn làm ăn đã kém hiệu quả,
sẽ nhanh chóng mất khả năng chi trả, phá sản.
Việc chỉ vài ngân hàng phá sản, sẽ gây tâm trạng lo âu cho người gửi tiền tiết
kiệm tại các ngân hàng khác, họ sẽ lại chạy đi rút tiền tiết kiệm ra khỏi ngân hàng –
để chuyển mua ngoại tệ, vàng… dẫn đến các ngân hàng làm ăn hiệu quả cũng có thể
lâm vào mất khả năng chi trả, phá sản.
Khi tỷ giá hối đoái tăng mạnh, nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng
tiền nội địa sẽ tăng vọt, cũng với việc ngân hàng, công ty tài chính phá sản sẽ không
có khả năng cung ứng tín dụng cho các doanh nghiệp hoạt động nữa. Các doanh

nghiệp nào hoạt động vốn đã kém hiệu quả, thì giờ đây sẽ không đủ vốn để kinh
doanh, càng sớm bị đẩy tới thua lỗ và phá sản. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các
ngân hàng, công ty tài chính lại không đòi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn.
2.3. Một số chỉ số thực tế phản ánh kết quả của khủng hoảng kinh tế 1997.
- Sự biến động của tỷ giá hối đoái.
- Sự phá sản của các ngân hàng và doanh nghiệp.
III. Thực trạng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam, giải pháp và bài học
1. Sự cần thiết thu hút FPI ở Việt Nam:
Trên thế giới, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng giữ vai trò quan trọng
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này bao gồm đầu tư trực tiếp
(FDI) và đầu tư gián tiếp (FPI). Trong khi nguồn vốn FDI có vai trò trực tiếp thúc
đẩy sản xuất, thì FII lại có tác động kích thích thị trường tài chính phát triển theo
hướng nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô và tăng tính minh bạch, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn mới; nâng
cao vai trò quản lý nhà nước và chất lượng quản trị doanh nghiệp, có tác động thúc
đẩy mạnh mẽ các mối quan hệ kinh tế.
Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FPI mang một ý nghĩa rất quan trọng.
Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Việt Nam cần một lượng
vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (2006-2010) để xây dựng,
từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp
Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và
hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành
các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán
(TTCK). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần
tạo ra các hiệu ứng tốt tác động đến các doanh nghiệp. Lợi ích của hội nhập không
những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng
hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FII sẽ có
tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch
và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một

cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải
quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…).
Tuy nhiên, dòng vốn FPI cũng tiềm ẩn những rủi ro hơn so với các kênh huy
động vốn từ nước ngoài khác. Do vậy, thúc đẩy thu hút FPI ổn định, tương xứng với
tiềm năng, góp phần tạo động lực phát triển thị trường vốn, nâng cao năng lực quản
trị của nhà doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam thời kỳ hậu WTO là vấn đề cần
được quan tâm.
2. Các giai đoạn thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam:
- Giai đoạn 1(1995-1998): Là thời kỳ mở đầu cho dòng vốn FPI vào Việt Nam
theo xu hướng mở cửa và hội nhập, tạo động lực, hy vọng chung cho các nhà đầu tư
nước ngoài. Trong giai đoạn này Việt Nam có 7 quỹ đầu tư nước ngoài được thành
lập với tổng số vốn huy động được khoảng 400 triệu USD.
- Giai đoạn 2 (1998-2002): là thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài
chính-tiền tệ Châu Á khiến cho các dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước
ngoài vào Châu Á vị chững lại, Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng chung của xu hướng
này. Giai đoạn này, Việt Nam bị giảm sút và thu hẹp đáng kể quy mô vốn FDI và
FPI. Trong số 7 quỹ nêu trên, có tới 5 quỹ rút khỏi Việt Nam, một Quỹ thu hẹp trên
90% quy mô quỹ. Chỉ còn duy nhất quỹ Vietnam Enterprise Investment Fund được
thành lập 7-1995 là còn hoạt động cho đến nay.
- Giai đoạn 3 (từ 2003-2006): thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào
Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện đầu tư, phát triển các định chế thị
trường tài chính. Việc thành lập sàn giao dịch chứng khoán ở TP.Hồ Chí Minh và
trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, đặc biệt chủ trương và quyết tâm của
Chính phủ đẩy mạnh việc cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà
đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, tính đến 6/2006, cả nước đã
có 9 quỹ đầu tư nước ngoài với tổng vốn 1,9 tỷ USD đnag hoạt động ở Việt Nam.
Tổng cộng đến nay, FPI mà Việt Nam thu hút được bằng 2-3% so với tổng vốn FDI
trong cùng thời kỳ (còn rất khiêm tốn so với 30-40% của các nước trong khu vực).
- Giai đoạn 4 (2006-2008)- giai đoạn hậu WTO: năm 2006 đánh dấu thời điểm
Việt Nam gia nhập WTO, đây là một dấu mốc quan trọng cho đầu tư gián tiếp nước

ngoài vào Việt Nam. Ở giai đoạn này, cùng với sự đi lên của thị trường chứng
khoán, luồng vốn liên tục tăng nhanh và liên tục thu hoạch thành công. Có 19 công
ty quản lý quỹ được hình thành và trên 1000 nhà đầu tư trên khắp thế giới đăng ký
tài khoản tại Việt Nam, trong đó có nhiều công ty đa quốc gia. Chỉ riêng thời điểm
cuối năm 2006, vốn FPI là trên 2 tỷ USD, cao hơn tất cả các giai đoạn trước cộng
lại, và đến năm 2007 đạt đến mức kỷ lục, khoảng 8 tỷ USD. Vào giai đoạn này,
lượng đầu tư chủ yếu vào thị trường trái phiếu. Việc bùng nổ FPI góp phần thúc đẩy
hệ thống ngân hàng Việt Nam phát triển mạnh.
- Giai đoạn 5 (2008-nay): giai đoạn này chứng kiến nhiều bước thăng trầm của
nguồn vốn FPI vào Việt Nam. Cùng với sự sụp giảm của thị trường chứng khoán và
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, FPI từ tháng 5-2008 đến khoảng tháng 3-2009 đã có
giảm rõ rệt, lần lượt các nhà đầu tư rút ra khỏi thị trường Việt Nam, đỉnh điểm là
vào cuối năm 2008, giao dịch gần như đóng băng. Tuy nhiên, theo một số nhận định
của các chuyên gia kinh tế, kế từ quý II/2009, các nhà đầu tư nước ngoài đã quay
trở lại thị trường Việt Nam, tuy nhiên còn khá dè dặt.
Quy mô dòng vốn đầu tư gián tiếp giai đoạn 2001-2007
- Đơn vị: Tỷ USD
Chỉ
tiêu
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Vốn
FPI
0,02 0,03 0,07 0,17 1,19 1,9 6,3 5,7 5,2
(Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước)
Tỷ lệ FPI/FDI giai đoạn 2001-2009
- Đơn vị: %
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
Tỷ lệ
FPI/FDI
0,5 1,2 2,3 3,7 17,5 15,8 29,6 8.9 24,2

(Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước)
3. Tiềm năng thu hút vốn FPI ở Việt Nam:
Theo khảo sát của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) gần đây cho thấy, vào năm 2001
lợi nhuận từ vốn FPI thế giới tăng gấp 2 lần vốn FDI. Trong vòng 4 năm, đầu tư
gián tiếp toàn cầu đã tăng 2 lần; nước có tỷ trọng đầu tư gián tiếp lớn nhất là Mỹ
chiếm 24,5%, tiếp đó là Anh chiếm 10%. Dòng vốn FII đang trỗi dậy mạnh mẽ sau
cuộc khủng hoảng tài chính 1997 và đang chuyển hướng đầu tư sang các quốc gia
đang phát triển có tiềm năng, nhằm hạn chế các rủi ro đầu tư.
Hiện có khoảng trên 100 định chế đầu tư tài chính chuyên nghiệp trên thế giới
đang quản lý một khối lượng tài sản khổng lồ, khoảng 300 tỷ USD. Chỉ cần họ chấp
nhận đầu tư vào Việt Nam 0,1% là chúng ta đã có khoảng 300 triệu USD.
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, các yếu tố sản xuất trong quá trình tái sản xuất
hàng hóa, dịch vụ được dịch chuyển tự do hơn từ nơi này sang nơi khác, nhằm phát
huy lợi thế so sánh của mỗi quốc gia thông qua các cam kết mở cửa thị trường. Việt
Nam đang nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, tiềm năng tăng trưởng kinh tế dài
hạn, Việt Nam còn là một quốc gia có nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu tư như:
nguồn lao động, thị trường, tài nguyên. Hơn nữa, vận nước đang lên, Việt Nam ngày
càng khẳng định vai trò, vị trí và tầm quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế khu
vực và thế giới. Sự quan tâm của khu vực và thế giới tới Việt Nam, đặc biệt là thời
điểm Việt Nam gia nhập WTO, cộng với sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu
tại đây sẽ mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung, nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FPI) là một tiềm năng rất lớn đối với
thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Với các yếu tố thuận lợi khách quan,
Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm năng dòng chảy vốn FII của thế giới
phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
2. Các giải pháp nhằm thu hút FPI ở Việt Nam:
1. Định hướng thu hút FPI của Việt Nam trong thời gian tới:
Các nhà quản lý đều đồng ý rằng, Việt Nam hiện vẫn đang có tiềm năng rất lớn
trong việc thu hút đầu tư gián tiếp. Hiện nay, Việt Nam vẫn là một điểm đến hấp

dẫn đối với những nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2015, Việt
Nam cần một lượng vốn lớn để phát triển, lên tới 140-150 tỷ USD, trong đó 30%
lượng vốn được xác định thu hút từ bên ngoài. Thực tế, Chính phủ đã thực hiện
hàng loạt giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nguồn vốn,
trong đó có FPI. Nhiều giải pháp đột phá đã được thực hiện từ 2002, như đẩy mạnh
cải cách hành chính, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả tiến trình cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán, tăng tỷ lệ nắm
giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài ở cả công ty niêm yết lẫn công ty chưa niêm
yết. Đặc biệt với việc ban hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng
khoán với nhiều quy định thông thoáng hơn, bình đẳng hơn giữa nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Những chính sách này thực sự đã làm cho môi
trường đầu tư Việt Nam trở nên thân thiện hơn đối trong con mắt những nhà đầu tư
quốc tế.
Trong 10 năm cuối trước khi trở thành 1 nước công nghiệp hiện đại vào năm
2020, lượng vốn cần để phát triển được xác định là nhiều hơn nữa. Vì vậy trong thời
gian tới, bên cạnh thu hút FDI, Việt Nam muốn đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút FPI,
khuyến khích các nhà đầu tư đầu tư dài hạn hơn là ngắn hạn, nhằm tạo nguồn vốn
dồi dào phục vụ cho sự phát triển.
Tuy nhiên, do tính hai mặt của FPI, đồng thời với việc gia tăng lượng vốn đầu
tư gián tiếp, Việt Nam cần có những biện pháp khắc phục những mặt hạn chế của
nó. Hiện nay, nhà nước đã có những biện pháp kiểm soát cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài ở các doanh nghiệp trong nước. Mặc dù vậy, việc quản lý luồng vốn ra
vào còn hết sức hạn chế, một phần là do đặc tính ra vào rất nhanh của FPI, một phần
là do công tác quản lý yếu kém. Đã có một thời gian dài, sự đầu cơ nước ngoài gây
ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán và gây mất giá tiền nội tệ. Trong thời gian
tới, Việt Nam cần chú trọng hơn trong công tác quản lý.
2. Những ưu thế và trở ngại trong việc tăng cường thu hút FPI vào Việt
Nam:
2.1. Ưu thế:
Trong nền kinh tế toàn cầu hóa như hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam gia

nhập WTO, Việt Nam nổi lên như một quốc gia có nhiều tiềm năng thu hút đầu tư
nước ngoài. Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, tiềm năng tăng trưởng
kinh tế dài hạn, Việt Nam còn là quốc gia có nhiều lợi thế so sánh hấp dẫn nhà đầu
tư như: nguồn lao động, thị trường tài nguyên và thị trường tài chính ngày càng
hoàn thiện. Hơn nữa, Việt Nam đang ngày càng khẳng định vai trò, vị trí và tầm
quan trọng của mình trên bản đồ kinh tế thế giới. Sự quan tâm của thế giới tới Việt
Nam, cộng với sự thành công của các nhà đầu tư hiện hữu tại đây sẽ mở ra cơ hội
lớn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, Việt Nam có những ưu thế rất
lớn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư gián tiếp FPI so với các nước khác trên thế
giới. Với các yếu tố thuận lợi đó, Việt Nam hoàn toàn có khả năng khai thác tiềm
năng dòng chảy vốn FPI của thế giới nhằm phục vụ cho công cuộc phát triển của
mình.
2.2 Trở ngại:
Bên cạnh đó Việt Nam còn có những trở ngại sau:
Tiến trình cổ phần hóa tuy đã được đẩy mạnh từ năm 2002 song đến nay vẫn
chưa có hiệu quả như mong muốn, tỷ lệ vốn hóa các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp nhà nước còn quá thấp, không lôi cuốn mạnh mẽ và đông đảo các nhà đầu tư
cá nhân tham gia vào tiến trình cổ phần hóa. Các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô
nhỏ, không hấp dẫn nhà đầu tư.
Quy mô của thị trường chứng khoán còn quá nhỏ bé, lại bất ổn định, lên xuống
không theo xu thế chung của thế giới, gây tâm lý e ngại đối với nhà đầu tư. Hệ
thống tài chính mặc dù đã được cải thiện song vẫn còn nhiều yếu kém, tỷ lệ dự trữ
ngoại hối thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư.
Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư của ta còn nhiều hạn chế, hệ số ICOR quá cao,
gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi Hàn Quốc và Đài Loan trong giai đoạn phát triển tương
tự, tốn quá nhiều vốn cho tăng trưởng, điều này làm giảm ý muốn đầu tư lâu dài của
các nhà đầu tư nước ngoài.
3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh mẽ thu hút FPI và hạn chế tác
động tiêu cực của nó:
Thứ nhất, xây dựng và thực hiện chiến lược thu hút vốn và đầu tư có trọng

điểm để phát triển nền kinh tế
Thực tiễn phát triển TTCK Việt Nam (trong đó có việc thu hút đầu tư FPI) thời gian
qua cho thấy, sự lúng túng, bất cập trong hoạch định và thực hiện chiến lược, cũng
như kế hoạch phát triển TTCK nói chung và thu hút FPI nói riêng. Trong 15 - 20
năm tới, khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế đặt ra hàng năm là 8 - 8,5%, nhu cầu vốn
sẽ rất lớn, trong khi kênh huy động vốn truyền thống không thể đáp ứng được thì
việc thu hút FPI là rất cần thiết. Và, việc định hướng nguồn vốn này vào lĩnh vực gì
để tạo nên sự bứt phá là điều vô cùng quan trọng. Bởi, trong điều kiện năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp nói riêng còn kém, yếu tố công
nghệ còn nhiều bất cập, việc chọn hướng đầu tư đúng sẽ giúp Việt Nam rút ngắn
thời gian, nhanh chóng phát triển ngang bằng các nước trong khu vực. Lĩnh vực cần
phải ưu tiên hàng đầu là đầu tư cho công nghệ cao và đầu tư cho giáo dục và đào
tạo. Thực tế, việc này cũng đã có định hướng của Chính phủ, song chưa có những
chính sách khuyến khích thiết thực với những biện pháp cụ thể có tính bứt phá nên
chưa có sự phát triển mạnh mẽ. Tuy vậy, cũng cần hiểu rằng, đầu tư vào khoa học
công nghệ cao đòi hỏi nhiều vốn, thời gian thu hồi được vốn rất lâu, mức độ rủi ro
cao nên cần phải có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ tài chính đối với những nhà đầu
tư tham gia vào lĩnh vực này.
Thứ hai, tạo dựng hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ để thu hút và
quản lý nguồn vốn này
Việc ban hành các văn bản pháp lý và cơ chế chính sách về FPI, trước hết là thể chế
FPI liên quan đến thị trường tài chính nói chung và đến nhà ĐTNN nói riêng phải
được chuẩn hóa với một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, đảm bảo
quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cũng như các chủ thể liên quan.
Ngoài ra, cần tiến hành rà soát, hoàn chỉnh các quy định hiện hành, so sánh với các
quy định của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các quy định của WTO cũng như
những cam kết song phương và đa phương của Việt Nam nhằm đảm bảo một hành
lang pháp lý an toàn, ổn định và dài hạn, tạo điều kiện tốt cho các dòng đầu tư gián
tiếp từ nước ngoài vào thị trường trong nước.
Thiết lập các quy định cụ thể về mua bán, sáp nhập, hợp nhất các doanh nghiệp; quy

định về việc chuyển nhượng vốn và dự án giữa các nhà đầu tư; quy định về việc
chuyển đổi từ hình thức đầu tư gián tiếp sang đầu tư trực tiếp với sự tham gia quản
lý điều hành của NĐTNN; quy định về thủ tục phá sản, tái cấu trúc doanh nghiệp;
quy định về quản lý ngoại hối và mức độ tự hóa tài khoản vốn; quy định về việc
kiểm soát các nguồn vốn vào và ra trong những tình huống đặc biệt Đó là những
quan hệ kinh tế chắc chắn sẽ nảy sinh trong quá trình thu hút và hoạt động của các
luồng vốn đầu tư gián tiếp ở nước ta. Vì vậy, cần phải được thể chế hóa bằng luật
pháp càng sớm càng tốt.
Thứ ba, tăng cường tính minh bạch của TTCK và các doanh nghiệp cổ
phần
Trước hết, cần xây dựng, triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quản
lý và điều hành doanh nghiệp. Nhanh chóng ban hành quy chế về quản trị công ty
niêm yết trên TTCK, hệ thống công bố thông tin công khai theo các chuẩn mực
quốc tế. Đồng thời, áp dụng các chuẩn mực về thông lệ tốt nhất trong quản trị công
ty, tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp tham gia TTCK. Các NĐTNN có tổ
chức xem quản trị công ty như một tiêu chuẩn cơ bản khi đưa ra quyết định đầu tư.
Thông lệ quản trị công ty tốt tạo ra tính hiệu quả của vốn đầu tư và hạn chế rủi ro.
Vì vậy, cần nâng cao nhận thức và xây dựng cơ chế bắt buộc các doanh nghiệp phải
áp dụng các chuẩn mực quản trị và điều hành, các bộ tiêu chuẩn đạo đức nghề
nghiệp theo thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, cần phải có những cơ chế để đảm bảo sự
thực thi của các quy định này. Bản thân các quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ cũng
phải tuân thủ các quy định này.
Tiếp đến, cần có những biện pháp triển khai đồng bộ hệ thống chuẩn mực
kinh tế và kiểm toán mới vào thực tế, biến chúng trở thành văn hóa kinh doanh của
từng doanh nghiệp, làm cầu nối thông tin giữa TTCK trong nước và thị trường quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các NĐTNN có đủ tự tin đầu tư vào Việt Nam. Hệ
thống kế toán và công bố thông tin hoàn thiện hơn sẽ giúp các NĐTNN đầu tư tốt
hơn. Đồng thời, các quy định và quy chế chuẩn hóa sẽ giúp hệ thống tài chính hiệu
quả hơn, đặc biệt là khả năng chịu đựng các cú sốc từ bên ngoài.
Thứ tư, xếp hạng tín nhiệm để thu hút đầu tư

Việt Nam cần phải coi định mức tín nhiệm như một công cụ hỗ trợ đầu tư,
góp phần tăng cường tính minh bạch, chất lượng của các công ty trong nước cũng
như mức độ tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế.
Do đó, cần có biện pháp thúc đẩy sự ra đời và hoạt động của các tổ chức phân hạng
tín nhiệm của Việt Nam. Nhà nước với vai trò “bà đỡ” cần đứng ra thành lập các tổ
chức phân hạng tín nhiệm. Sau một thời gian có thể chuyển đổi hình thức sở hữu
thành các công ty cổ phần hoạt động độc lập kết hợp với việc kêu gọi đầu tư với mô
hình 100% vốn nước ngoài hoặc kết hợp hỗn hợp các hình thức nêu trên
Trong điều kiện thị trường vốn Việt Nam còn nhỏ bé và định mức tín nhiệm
còn là một khái niệm hết sức mới mẻ thì các tổ chức định mức tín nhiệm ở Việt
Nam chỉ nên triển khai một số nghiệp vụ cơ bản, cần thiết cho sự phát triển của thị
trường vốn trong nước.Trước mắt, có 4 đối tượng cần được ưu tiên triển khai việc
định mức tín nhiệm:
Một là, xếp hạng các công cụ nợ dài hạn, bao gồm việc xếp hạng tổ chức
phát hành nợ dài hạn và xếp hạng đợt phát hành nợ dài hạn. Xếp hạng tổ chức phát
hành nợ liên quan tới việc đưa ra đánh giá chung về năng lực của tổ chức phát hành
nợ, của tổ chức bảo lãnh hoặc cung cấp các hỗ trợ tín dụng nhằm đáp ứng các cam
kết tài chính liên quan đến các nhà phát hành nợ hoạt động trên thị trường tài chính
Việt Nam. Còn xếp hạng đợt phát hành nợ dài hạn là việc đánh giá khả năng của
công ty hoàn trả vốn gốc và lãi vay.
Hai là, xếp hạng tiền gửi và khả năng tài chính của các ngân hàng thương
mại quốc doanh và thương mại cổ phần Việt Nam. Điều này liên quan tới khả năng
của một ngân hàng có thể đáp ứng đúng hạn các nghĩa vụ nợ của mình đối với các tổ
chức hoặc cá nhân gửi tiền trong và ngoài nước. Còn xếp hạng khả năng tài chính
của ngân hàng liên quan tới đặc tính an toàn và chất lượng hoạt động của một ngân
hàng, thường tính tới các yếu tố như các chỉ số tài chính cơ bản, giá trị mạng lưới
hoạt động, sự đa dạng hóa tài sản đầu tư và cả các yếu tố liên quan tới môi trường
hoạt động của ngân hàng, triển vọng của nền kinh tế
Ba là, xếp hạng các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã và đang tiến
hành cổ phần hóa, các doanh nghiệp đang niêm yết trên TTCK Việt Nam. Việc tiến

hành định mức tín nhiệm đối với các đối tượng này cần được coi là một điều kiện
bắt buộc nhằm bảo vệ công chúng đầu tư nói chung, vì đại bộ phận trong số họ còn
chưa có đầy đủ kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán.
Bốn là, xếp hạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) của Việt Nam. Hiện
SMEs chiếm tới 95% tổng số doanh nghiệp Việt Nam và được coi là khu vực có

×