Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

chân dung trẻ em lao động sớm tại quận thủ đức – tp.hcm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.76 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
**********
ĐỀ TÀI
CHÂN DUNG TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
TẠI QUẬN THỦ ĐỨC-TP.HỒ CHÍ MINH
Nhóm thực hiện
1.Lê Thị Thu Ngân.
2.Hồ Xuân Hùng.
3.Nguyễn Thị Phương Nhung.
GVHD: Ths.Nguyễn Văn Tuyển
Tp.Hồ Chí Minh
Tháng 04 năm 2008
LÔØI CAM ÑOAN
Đề tài nghiên cứu là công trình nghiên cứu của tập thể nhóm, những tài liệu tra
cứu, trích dẫn và tham khảo cho đề tài này đều được kê khai nguồn gốc rõ ràng.
Chúng tôi xin cam đoan và chịu trách nhiệm về phương diện pháp luật và danh
dự trước hội đổng nghiên cứu khoa học nhà trường.
Nhóm tác giả đề tài

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
1.LĐTB&XH Lao động Thương Binh và Xã hội
2.VHXH Văn hóa Xã hội
3.KTXH Kinh tế Xã hội
4.KT-VH-XH Kinh tế văn hóa xã hội
5.THCS Trung học cơ sở
6.HS Học sinh
7.KT Kinh tế
8.TP Thành phố
9.QH Quốc Hội


10.CHXHCNVN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
11.Tp.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
12.NXB Nhà xuất bản
Mục lục
PHẦN I.
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài Trang
2.Sơ lựơc quá trình nghiên cứu Trang
3.Mục tiêu Trang
4.Câu hỏi nghiên cứu Trang
5.Đối tượng nghiên cứu.Trang
6.Phạm vi
7.Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học Trang
7.1.Ý nghĩa khoa học Trang
7.2.Ý nghĩa thực tiễn Trang
8.Phương pháp thu thập thông tin Trang
9.Xử lý số liệu Trang
10.Khó khăn trong việc thu thập thông tin Trang
PHẦN II
CHƯƠNG I
CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH
I.Những khái niệm liên quan đến đề tài Trang
1. Trẻ em đường phố Trang
2.Trẻ em lao động sớm Trang
3.Trẻ em có hòan cảnh khó khăn Trang
4.Hội nhập xã hội Trang
5.Trẻ em lao động sớm Trang
II.Bối cảnh KT-XH hiện nay Trang
1.Những thành quả đạt được về mặt KT-XH Trang

2.Những vấn đề xã hội nảy sinh Trang
3.Hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em Trang
CHƯƠNG II
CHÂN DUNG TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
I.Những thông tin nhân thân Trang
II.Những nguyên nhân dẫn đến trẻ lao động sớm Trang
III.Những khó khăn hiện tại của các em trong cuộc sống Trang
IV.Mong muốn của các em.
1.Mong muốn của trẻ đối với các cơ sở xã hội Trang
2.Mong muốn của trẻ từ giáo dục viên (nhân viên xã hội) Trang
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ MÔ HÌNH CHĂM SÓC
CHO TRẺ LAO ĐỘNG SỚM
1.Kết luận Trang
2.Khuyến nghị mô hình chăm sóc cho trẻ lao động sớm
Mô hình cho trẻ em lao động sớm Trang
Tài liệu tham khảo: Trang
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Đất nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển. Nền kinh tế nước ta đã có
những bước đáng tự hào được nhiều nước trên thế giới đánh giá cao, chúng ta đang hướng đến
mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và có thể sánh vai với các nước phát triển
trên thế giới. Nhiều thành phố ở nước ta hiện nay đang phát triển rất mạnh như TP.Hà Nội,
Tp.Hồ Chí Minh. Trong đó TP.HCM là một thành phố phát triển năng động nhất cả nhất cả
nứơc, trong khoảng một thập niên vừa qua TP.HCM đã có một tiến trình đô thị hóa nhanh và
mạnh làm thay đổi nhiều đến đời sống người dân và cảnh quan đô thị .
Bên cạnh những thành tựu về kinh tế-xã hội, chúng ta đang phải đối mặt với nhiều
những khó khăn và thách thức nẩy sinh từ mặt trái của quá trình phát triển kinh tế xã hội như
phân tầng xã hội, quá trình đô thị hóa không đồng bộ, môi trường bị xuống cấp, thất nghiệp,

người già neo đơn, tệ nạn ma túy, trẻ em có hòan cảnh khó khăn. Riêng đối với trẻ em có hòan
cảnh khó khăn, người ta ghi nhận thấy tại Tp.Hồ Chí Minh có rất nhiều trẻ em phải lao động
kiếm sống hàng ngày trên các con đường, góp phố. Một trong những đối tượng này phải kể
đến đó là trẻ em lao động sớm, bao gồm cả trẻ bị bóc lột sức lao động và trẻ em đường phố.
Nhiều trẻ em đã và đang làm nhiều công việc vất vả để kiếm sống sinh nhai cho bản
thân và gia đình các em, các công việc như lượm ve chai, đánh giầy, bán vé số…phần nhiều
những trẻ em có đời sống trong hòan cảnh phần lớn đều có hòan cảnh gia đình khó khăn, kinh
tế nghèo. Tuy nhiên nhiều trẻ em có hòan cảnh khó khăn trong những hòan cảnh như thế đôi
khi lại bị chính các gia đình các em ép buộc hoặc đẩy các em vào những hoàn cảnh bi đát. Tuy
nhiên ở nhiều gia đình mà người cha ,người mẹ chưa chu toàn bổn phận về mặt kinh tế hay
trong các gia đình khiếm khuyết thì lao động trẻ em đôi khi đóng vai trò khá quan trọng trong
việc kiếm sống cho gia đình. Ở quốc gia nào cũng đều phải nghiên cứu về trẻ em lao động
sớm, nhằm tìm ra những khó khăn và mong muốn của các em, để đưa ra những hình thưc giúp
đỡ khác nhau .Tất cả chúng ta đều biết trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước do vậy việc
quan tâm chăm sóc ,bảo vệ trẻ em la trách nhiệm không chỉ của gia đình mà của toàn xã hội.
Thủ Đức là một quận ven TP.HCM có quá trình đô thị hóa diễn ra khá mạnh mẽ trong
thời gian qua. Sự thay đổi về cơ cấu kinh tế, cơ cấu nghành nghề, công nghiệp hóa đã kéo theo
những làn sóng dân nhập cư từ khắp mọi miền đất nước đổ về, đã làm phúc tạp và gây nên
những hậu quả mà đôi khi chúng ta không thể kiểm soát được.
Qúa trình đô thị hóa diễn ra nhanh kéo theo tình trạng lao động sớm ở trẻ em và những
hậu quả đi cùng là vấn đề cần được quan tâm giải quyết.Để đảm bảo được quyền lợi cho trẻ
em chúng ta cần phải bắt tay vào giải quyết vấn đề của trẻ lao động sớm.Vì vậy nên nhóm
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu “Chân dung trẻ em lao động sớm tại Quận Thủ Đức –
TP.HCM” để nêu lên được nguyên nhân và thực trạng của trẻ em lao động sớm tại quận, để từ
đó kiến nghị các biện pháp giải quyết phù hợp,tạo điều kiện cho các em có một cuộc sống tốt
đẹp hơn.
2.Sơ lựơc quá trình nghiên cứu.
a. Sở LĐTB&XH TP.HCM và sở Khoa Học Công Nghệ TP.HCM, ”Trẻ em lang thang
ở TP.HCM -thực trạng và giải pháp”(NXB.LĐ-XH,2005).Với phương pháp tiếp cận đa chiều,
phương pháp tiếp cận có sự tham gia của nhiều đối tượng liên quan đến trẻ em lang thang và

chính các em thông qua phiếu hỏi cá nhân, thảo luận nhóm, khảo sát chuyên sâu kết hợp với
các tài liệu có sẵn, hội thảo chuyên gia. Công trình nghiên cứu này đã thu hút được một khối
lượng lớn thông tin rất hũu ích và có độ tin cậy cao về vấn đề liên quan đến trẻ em lang thang
tại TP.HCM, các giải pháp và các mô hình chăm sóc trẻ em tại TP. Bên cạnh đó các nhà
nghiên cứu còn đầu tư khá nhiều công sức cho việc nghiên cúu, phân tích “sức hút ” “lực
đẩy”các trẻ em đến với TP, đánh giá tác động của các chính sách, giải pháp của nhà nước, của
TP đối với các trẻ em này. Cũng như các tác động của các quá trình phát triển KT-XH nói
chung, của TP.HCM nói riêng đến cuộc sống hiện tại của trẻ em, từ đó đưa ra các giải pháp
thiết thực nhằm phục hồi, ngăn ngừa, trợ giúp các em phát triển bình đẳng như những trẻ bình
thường khác.
b. Dương Kim Hồng và Kenichi Ohno Trẻ đường phố VN, những nguyên nhân truyền
thống và những nguyên nhân mới, mối quan hệ giữa các nguyên nhân này trong nền KT đang
phát triển”
1
diễn đàn phát triển VN tháng 1-2005. Tác giả đã đưa ra nhiều nguyên nhân khác
nhau đưa đến tình trạng trẻ em đường phố, bao gồm nguyên nhân truyền thống: trẻ mồ côi, trẻ
có cha mẹ li dị và những nguyên nhân mới như về kinh tế. Tác giả cũng chỉ ra rằng nhóm trẻ
1
Văn phòng khoa Xã Hội Học, Trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn TP.HCM, 10/12 Đinh Tiên
Hoàng, Quận 1, Tp.HCM
lang thang do gia đình không hạnh phúc là nhóm trẻ khó hỗ trợ nhất trong khi nhóm trẻ di cư
do nguyên nhân KT lại mong muốn đi học, mong muốn cuộc sống tốt đẹp hơn .
3.Mục tiêu
Nhận diện và mô tả thực trạng chung về những nguyên nhân, những khó khăn và mong
muốn của các em hiện nay, từ đó xây dựng những mô hình chăm sóc cho những đối tượng
này.
4.Câu hỏi nghiên cứu .
Chúng tôi đặt ra những câu hỏi sau đây cho đề tài nghiên cứu.
1.Cuộc sống hiện tại của các em như thế nào ?
2.Nguyên nhân gì khiến các em phải lao động sớm?

3.Các em mong muốn gì ở các cấp cơ quan có trách nhiệm?
5.Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là nhận diện và mô tả những khía cạnh sau đây.
 Thực trạng chung của trẻ em lao động sớm như nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em
lao động sớm ở Thủ Đức-Tp.HCM.
 Những khó khăn hiện tại của các em trong cuộc sống
 Mong muốn của các em.
6.Phạm vi
 Về Không gian:
Đề tài được tiến hành nghiên cứu tại quận TĐ-Tp.HCM.
 Về khách thể khảo sát:
Nghiên cứu trẻ em lao động sớm bao gồm: trẻ đường phố và trẻ sống trong gia đình
đang phải lao động sớm, có độ tuổi từ 10 đến 16.
 Về nội dung sẽ bao gồm.
 Thực trạng chung của trẻ em lao động sớm như nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trẻ
em lao động sớm ở Thủ Đức-Tp.HCM.
 Những khó khăn hiện về kinh tế, tinh thần, tình cảm của các em trong cuộc sống
 Mong muốn về khía cạnh kinh tế, tình cảm, giáo dục của các em.
7.Ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học.
7.1.Ý nghĩa khoa học.
 Tìm hiểu những khó khăn và góp phần làm phong phú hệ thống lí luận, các lí
thuyết về vấn đề này.
 Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tư liệu tham khảo thông tin học tập
cho các bạn sinh viên, các khóa kế tiếp và cho những ai đã, đang và sẽ quan
tâm tới vấn đề này.
 Đóng góp thêm số liệu để phác họa được chân dung trẻ em lao động sớm một
cách rõ nét hơn.
7.2.Ý nghĩa thực tiễn.
 Khi tiến hành nghiên cứu đề tài chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nào đóng góp
vào việc mô tả thực trạng chung, những khó khăn và nhu cầu của trẻ lao động

sớm. Để xã hội có cái nhìn tích cực khi xem xét đến vấn đề trẻ lao động sớm.
Từ đó chúng tôi mong muốn rằng các cấp cơ quan có trách nhiệm, các nhà hảo
tâm góp một ít công sức vào việc lập quỹ và xây dựng mái ấm cho các em.
 Chúng tôi hi vọng qua đề tài này sẽ giúp cho những nhà làm công tác xã hội sẽ
có những chính sách chăm sóc, bảo vệ phù hợp của các em.
 Chúng tôi mong muốn rằng, từ những kết quả có được trong đề tài, chúng tôi sẽ
xây dựng được mô hình chăm sóc phù hợp cho các em.
8.Phương pháp thu thập thông tin
Đề tài này chúng tôi sử dụng những phương pháp, cụ thể như sau.
 Phân tích tư liệu sẳn có về các vấn đề có liên quan đến đề tài
 Phương pháp quan sát
 Phương pháp phỏng vấn sâu
9.Xử lý số liệu
Những số liệu mà chúng tơi thu thập được, sẽ được xử lý như sau.
 Xử lý làm sạch dữ liệu thơ
 Xử lý nhóm lại những số liệu liên quan.
 Ghi lại những mẫu đã được phỏng vấn sâu
 Ghi lại những tình huống mà chúng tơi bắt gặp.
10.Khó khăn trong việc thu thập thơng tin
Mặc dù những thông tin trong cuộc nghiên cứu này là dựa vào tất cả những thông tin
mà chúng tôi có được do các em cung cấp hoặc được lấy từ các cơ quan chun mơn, nhưng
thông tin có thể không được đầy đủ như mong muốn do các lý do tế nhò, thiếu thời gian và
nhiều trở ngại trong việc liên lạc và tiếp xúc. Tuy nhiên, chúng tơi đã cố gắng hết sức để
tận dụng và phân tích những thông tin thu thập được.
PHẦN II
CHƯƠNG I
CÁC KHÁI NIỆM LIÊN QUAN
BỐI CẢNH KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NẢY SINH
I.Những khái niệm liên quan đến đề tài.
1.Trẻ em đường phố

 Định nghĩa của Bộ LĐTB&XH: Trẻ đường phố là một trong mười nhóm trẻ có hồn
cảnh đặc biệt. Trẻ lang thang là trẻ rời khỏi gia đình, tự kiếm sống và nơi kiếm sống,
nơi cư trú khơng ổn định, hoặc là trẻ cùng với gia đình đi lang thang (luật chính sách
và gia đình trẻ em, QH nứớc CHXHCNVN khóa XI thơng qua, kỳ họp lần 5 thơng qua
ngày 15-6-2004)
 Định nghĩa của Terre des Hommes Foundation-một tổ chức phi chính phủ của Thụy Sĩ
“Trẻ em đường phố là trẻ dưới 18 tuổi, kiếm tiền bằng nghề nghiệp khơng ổn định
ngồi đường phố như:ăn xin ,lượm rác,bán hàng rong,đánh giầy,móc túi… và thuộc 1
trong 4 loại sau:
A.Trẻ bỏ nhà đi hoặc vơ gia cư, ngủ hoặc khơng ngủ trên đường phố .
B.Trẻ ngủ ngồi đường với gia đình hoặc người bảo hộ
C.Trẻ sống ở nhà nhưng làm việc trong mơi trường nguy hiểm: ban đêm, mại dâm, ăn xin
hoặc bán ma túy.
D.Lao động trẻ em nhập cư làm nghề khơng ổn định, ngủ hoặc khơng ngủ trên đường phố.
“Trẻ đường phố” (street children) thuật ngữ trẻ đường phố này chỉ mới được sử
dụng trong thời gian gần đây, bên cạnh thuật ngữ “trẻ bụi đời” và “trẻ lang thang cơ nhỡ”…
Cả ba thuật ngữ này, đều nói lên tính chất của một loại đối tượng có những nhu cầu phức
tạp và từng là nỗi nhức nhối của nhiều xã hội. Trẻ đường phố là một nhóm các trẻ chọn lối
sống ngoài vỉa hè các thành phố lớn, tự đi tìm cho mình một sinh kế để nuôi bản thân và có
khi có cả những người thân. Trẻ không có một nơi ở nhất đònh, hay tự xa lánh gia đình và có
những tổn thương về mặt tâm lý.
Hiện nay có hai khái niệm về trẻ đường phố được đưa ra như sau.
Thứ nhất là trẻ đường phố do chương trình mà các tổ chức phi chính phủ dành cho
trẻ em và thanh niên đường phố đưa ra trong thập niên 1980. “Trẻ đường phố là những trẻ
em mà đường phố (nhà hoang, đất hoang, góc phố…) chứ không phải gia đình đã trở thành
nhà thật sự của chúng, một cảnh ngộ trong đó không có sự bảo vệ, chăm sóc hay hướng dẫn
của người lớn”
2
.
Thứ hai là sau đó Unicef đề nghò phân biệt “Trẻ Em Trên Đường Phố” (children on

the street) với “Trẻ Em Của Đường Phố” (children of the street) dựa trên kinh nghiệm của
Châu Mỹ La Tinh. “Trẻ em trên đường phố là những trẻ em mà nền móng nuôi dưỡng
chúng trong gia đình ngày càng suy yếu đi khiến chúng phải chia sẻ trách nhiệm để gia
đình được sống bằng cách làm lụng trên các đường phố và những nơi hội họp tại đô thò. Đối
với các em này, nhà không còn là trung tâm vui chơi, trao đổi và sinh hoạt hàng ngày. Tuy
nhiên, dù đường phố trở nên hoạt động ban ngày của chúng, hầu như các em này đều trở về
nhà vào buổi tối. Dù rằng các quan hệ gia đình của chúng có thể đang xấu dần đi, nhưng
vẫn còn tồn tại và các em này vẫn sống theo quan điểm của gia đình”. Còn Trẻ Em Của
Đường Phố “có một số lượng ít hơn nhiều, là những trẻ hàng ngày kiếm sống đơn độc,
không được gia đình nâng đỡ. Tuy thường gọi là bò bỏ rơi, nhưng có thể chính chúng từ bỏ
gia đình do chán ngán cảnh bất an, sự ngược đãi hay đau khổ vì bạo hành, những mối dây
liên hệ với gia đình đã tan nát, chúng là những kẻ thật sự vô gia đình”
3
.
2.Trẻ em lao động sớm
Là trẻ làm việc trong độ tuổi còn đi học, các em có thể được trả cơng hay khơng trả
cơng, làm việc bên trong và bên ngồi gia đình, trẻ có thể làm các cơng việc nhẹ đến nặng
nhọc
4
.
2
Judith Ennnew (1996), “Trẻ em đường phố và trẻ em lao động”. NXB Đại học Mở-Bán công Tp.Hồ Chí
Minh, Khoa Phụ nữ học, Trang 29.
3
Judith Ennnew (1996), “Trẻ em đường phố và trẻ em lao động”. NXB Đại học Mở-Bán công Tp.Hồ Chí
Minh, Khoa Phụ nữ học, Trang 29.
4
Trích: An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Nguyễn Thị Oanh, 1997, T36
3.Khái niệm trẻ em có hòan cảnh khó khăn.
Theo điều 40 chương IV Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em “Trẻ em có

hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bò bỏ rơi; trẻ em
khuyết tật, trẻ em tàn tật, trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm
HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em
phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bò xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma
túy; trẻ em vi phạm pháp luật.”
Đặc điểm của hoàn cảnh đặc biệt là trẻ có nguy cơ, có nhiều nguyên nhân đưa trẻ
vào hoàn cảnh khó khăn, chúng có thể dẫn đến tình trạng tiêu cực. Ngoài những nguyên
nhân bất khả kháng như thiên tai, động đất…thì có những nguyên nhân hoàn toàn do chính
con người tạo ra.
Trẻ phải làm việc, lao động sớm, chúng bò vắt kiệt sức, có khi bò chết cháy do lao
động mà ra.
Trẻ bò lạm dụng vào nghệ thuật, buôn bán trẻ em, tiếp theo là phong trào thu gom
Ta có thể đề cập một vài đặc điểm của trẻ có hoàn cảnh đặc biệt như sau.
Trẻ em đường phố: là trẻ sống và làm việc trên đường phố, nhưng chúng có đặc
điểm là: các công việc phải làm như bán báo, vé số, bánh kẹo, đánh giầy, lượm bọc nylon,
mói rác, móc túi, trộm cắp….
Có nhiều nguyên nhân dẫn trẻ ra đường phố, đó là nghèo đói, gia đình ly dò, bạo lực
gia đình…
Các em sống trên đường phố phải đối phó với bao khó khăn gặp phải như bò bóc lột,
lạm dụng bởi người lớn, sức khỏe bò đe dọa, dễ bò các bệnh lây truyền nhiễm, bò thu gom.
Trẻ lao động sớm: trẻ làm việc trong độ tuổi còn đi học, có thể được trả lương hoặc
không, làm việc từ nhẹ đến nặng.
Thời gian làm việc có thể là vài giờ đến toàn thời gian, không đảm bảo nhu cầu y tế,
môi trường, vui chơi…
Ngòai ra còn có các lọai trẻ em khái như.
Trẻ em khuyết tật
Trẻ em trong tệ nạn mại dâm và mua bán người.
Trẻ bò bạo hành, gây ngược đãi hay lạm dụng
4.Khái niệm hội nhập xã hội.
Khái niệm này được dùng trong nhiều ngành khoa học. Theo Từ điển tiếng việt của

Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2005, có đònh nghóa: “Hội nhập là hòa mình
vào một cộng đồng lớn”
“Hội nhập là một quá trình xã hội trong đó các phần tử mới được tiếp nhận vào một
hệ thống sao cho sau đó chúng không khác gì với những phần tử cũ, như là so các phần tử
này với nhau…. Như vậy hội nhập là một hình thức của biến đổi xã hội, ít ra là từ góc độ của
người được tiếp nhận, vì việc hội nhập đòi hỏi có tiền đề là sự sẵn sàng thu nhận của hệ
thống xã hội nên ở hệ thống này nó cũng là hệ quả và/hoặc là yếu tố của biến đổi văn hoá
xã hội”
5.Khái niệm về trẻ em.
Là thành viên trong xã hội nhưng khác với người lớn, trẻ đang phát triển và cần có
được điều kiện tối ưu để phát triển. Điều kiện này thay đổi theo mỗi hồn cảnh, có mặt mạnh
mặt yếu, mặt mạnh sẽ giảm bớt thiệt hại do mặt yếu gây ra. Thí dụ: Con nhà nghèo khơng
được cha mẹ thương u quan tâm, mồ cơi nhưng được cha mẹ ni hết lòng chăm sóc,
khuyết tật nhưng được nhà nước, cộng đồng và gia đình kết hợp tốt nên cuộc sống được an ủi
thoải mái
5
II.Bối cảnh Kinh tế-Xã hội hiện nay
1.Những thành quả đạt được về mặt Kinh tế-Xã hội
Việt nam đã và đang phát triển và hội nhập vào quỹ đạo quay của thế giới.Với q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Việt Nam đã dần xây dựng cho mình một nền
cơng nghiệp khá hồn chỉnh với đầy đủ các ngành nghề. Với nơng nghiệp Việt Nam đang cố
gắng trở thành nước xuất khẩy gạo lớn nhất thế giới(2007),trung bình hiện nay nước ta xuất
5
Trích: An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Nguyễn Thị Oanh, 1997, T29
khẩu từ 4-5 triệu tấn/năm. Bên cạnh đó các ngánh nghề nông nghiệp khác cũng đang phát triển
mạnh mẽ, trở thành ngành sản xuất chính ở các vùng trung du, nông thôn, miền núi…Dịch vụ
và thương mại của nước ta cũng đang từng bước chuyển mình mạnh mẽ. Đặc biệt từ sau khi
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO(7-2007),tổng lượng hàng hóa xuất khẩu của ta
tăng nhanh đặc biệt là các mặt hàng thuộc ngành công nghiệp nhẹ. Tính đến cuối tháng 5-2007
kim ngạch xuất khẩu của nước ta đạt đến 198 triệu USD tăng 38,5% so với cùng kì năm ngoái.

Mặt khắc nước ta với chủ trương thực hiện nền “kinh tế mở” đã thu hút được đầu tư nước
ngoài vào nước ta ngày càng cao. Tính đến nay doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
tổng số vốn trên 80 tỷ USD (2/2008). Nhờ vậy nên nền kinh tế Việt nam trong những năm gần
đây đã phát triển một cách nhanh chóng. Một phần nữa do có sự trao đổi kỹ thuật-khoa học
với các nước phát triển đã tác động lớn đến trình độ phát triển KH-KT của Việt Nam.Nhờ sự
hợp tác đó mà trình độ sản xuất, sản lượng, chất lượng hàng hóa ngày càng cao. Bên cạnh đó
nhờ đổi mới trong công tác quản lý mà Việt Nam có thể phát triển thêm nhiều ngành quan
trọng như quốc phòng, quân sự, hàng không…Dẫn chứng tiêu biểu nhất là Việt Nam đã phóng
thành công vệ tinh VINASAT-1 vào ngày 19/4/2008 đã mở ra cho Việt Nam một ngành khoa
học mới, là cơ hội lớn để Việt Nam bước vào sự phát triển chung của cả thế giới.
Trong những năm trở lại đây sự phát triển về kinh tế của nước ta đã kéo theo
nhiều cơ hội việc làm cho người dân, tạo thu nhập ổn định cho đại bộ phận dân số nước ta.
GDP tăng mạnh, đến năm 2007 tăng đến 8,5%. Chỉ số phát triển con người tăng mạnh(HDI)
đạt 0,733. Đời sống người dân được nâng cao rõ rệt, đặc biệt là người dân sống ở các thành
phố lớn.
Bên cạnh sự phát triển kinh tế thì văn hóa nước ta cũng có sự phát triển sâu sắc.
Một mặt tiếp thu nền văn hóa hội nhập của thế giới nhưng mặt khác cũng phát huy và kế thừa
nền văn hóa truyền thống. Nước ta còn đẩy mạnh phát triển và phát huy nền văn hóa đậm đà
bản sắc dân tộc, tạo điều kiện cho nền văn hóa nước nhà hội nhập một cách dễ dàng và có chỗ
đứng trong nền văn hóa thế giới.
Chỉ mới trong vài năm trở lại đây, với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
nước ta đã đạt được những thành quả to lớn đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, TP.HCM là một thành phố lớn của
đất nước đã và đang chuyển mình trên tất cả các lĩnh vực: KT-VH-XH
TP.HCM là vùng kinh tế phát triển sôi động nhất cả nước, là một trong những
vùng kinh tế trọng điểm cúa cả nước. Với diện tích 2.085km
2
, dân số lên tới 5.285.000
người(2003). TP.HCM có nền kinh tế phát triển nhất trong cả nước, công nghiệp nhẹ và công
nghiệp điện tử là hai ngành phát triển nhất(điện tử phát triển mạnh trong những năm gần đây).

Đặc biệt ở TP.HCM xây dựng được một hệ thống khu công nghiệp và khu chế xuất với quy
mô lớn nhất cả nước. Hiện nay TP.HCM đã và đang xây dựng 2 khu chế xuất và 11 khu công
nghiệp, trong đó 2 khu chế xuất và 8 khu công nghiệp đã đưa vào hoạt động. Vốn đầu tư yêu
cầu đối với phát triển hạ tầng trong các khu công nghiệp, khu chế xuất được phê duyệt là
952,2 triệu USD và trên 15,5 nghìn tỷ đồng. Ngoài việc đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật trong khu
công nghiệp như hệ thống đường giao thông, cống thoát nước, điện thì các công việc xây dựng
ngoài khu công nghiệp đang được nâng cấp và hoàn thiện.
Nhờ sự đầu tư mạnh mẽ vào các khu công nghiệp, khu chế xuất của nước ta mà
nhờ đó các khu công nghiệp, khu chế xuất này đã thu hút được một lượng lớn vốn đâu tư nước
ngoài. Chỉ với đầu tư trong nước TP.HCM đã thu hút được 300 dự án với tổng số vốn 6.500 tỷ
đồng(2002). Còn với đầu tư nước ngoài đăng ký đạt đến 7,7 tỷ USD (2002).
Với sự thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào làm cho TP.HCM không ngừng
mở rộng và phát triển sản xuất(năm 2006 đạt 700 triệu (USD). Không chỉ phát triển kinh tế
trên lĩnh vực công nghiệp mà TP.HCM còn đẩy mạnh phát triển công nghiệp dịch vụ và nông
nghiệp.
Nhờ sự phát triển không ngừng về kinh tế kéo theo tốc độ GDP của vùng đến
2002 đạt 10,2%. Phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao đã tạo ra mức đóng góp GDP lớn
cho cả nước. Tỷ trọng GDP của TP.HCM chiếm 1|3 GDP của cả nước. Bên cạnh đó giá trị
công nghiệp dịch vụ tính đến 2002 là 76,66 nghìn tỷ đồng, gấp 2,2 lần Bà Rịa Vũng Tàu, 3.7
lần Hà Nội.Nền kinh tế quốc doanh của TP.HCM vẫn giữ vai trò vị trí chi phối, đóng góp 15%
GDP của cả nước.
Hòa vào sự phát triển chung của cả nước,TP.HCM đã và đang bước vào con
đường hội nhập quốc tế, với xu hướng toàn cầu hóa. Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức
thương mại thế giới(WTO)thì sản lượng xuất nhập khẩu của thành phố cũng tăng ở mức đáng
kể. Và cũng nhờ đó mà thị trường buôn bán của nước ta ngày càng được mở rộng và đa dạng
hơn. Các thị trường lớn như:Mỹ, Đông Âu, Nhật Bản, nước ta còn mở rộng và phát triển mạnh
ở thị trường ASEAN, EU, MICS…mặt khácTP.HCM là cửa ngõ trọng yếu của khu vực và đó
cũng là cầu nối trọng yếu để giao thương nước ta ra thị trường khu vực và thế giới.
Trong nhiều năm trở lại đây, bên cạnh phát triển mạnh mẽ về kinh tế,thì
TP.HCM cũng có một nền giáo dục phát triển không kém. Tỷ lệ lao động có trình độ cao

chiếm tỷ lệ lớn trong ngành công nghiệp, chỉ số phát triển con người (HDI) cũng tăng nhanh
và cao hơn chỉ số HDI trung bình của cả nước. Tỷ lệ phổ cập giáo dục chiếm tỷ lệ cao của cả
nước, đời sống người dân được nâng cao rõ rệt.
Nhờ sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế nên TP.HCM đã thu hút được một lượng
dân cư từ các vùng khác di cư đến góp phần làm phong phú thị trường lao động của thành phố.
Với tốc độ phát triển như vũ bão của nền kinh tế TP.HCM đã kéo theo sự di cư ồ ạt của một
khối lượng dân lớn, bên cạnh làm cho lực lượng lao động phong phú thì điều đó còn làm nảy
sinh nhiều vấn đề cần giải quyết.
2.Những vấn đề xã hội nảy sinh
Bên cạnh những thành tựu mà nước ta, đặc biệt Tp.Hồ Chí Minh đã đạt được trong thời
gian qua,chúng ta còn có nhiều tồn tại và yếu kém.
 Về kinh tế: tăng trưởng kinh tế của nước ta chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn
lực hiện có. Chất lượng sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh còn hạn chế.Việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế còn chậm và chưa đồng bộ. Mặc dù đời sống người dân đã được nâng cao nhưng
vẫn có sự chênh lệch giữa thành thị với nông thôn, giưa đồng bằng với miền núi.
 Về văn hóa:Xuất hiện nhiều lối sống không lành mạnh, tình trạng suy thoái về
đạo đức đang diễn ra ngày một nhiều.
 Về giáo dục:Vẫn chưa phát huy được hết tiêu chí”Giaó dục là quốc sách hàng
đầu”.Đổi mới toàn diện trong giáo dục diễn ra còn chậm, chất lượng đào tạo chưa cao, chưa
đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế phát triển.
 Đứng trước những khó khăn và thách thức như vậy đòi hỏi Đảng ta phải có những
chính sách cụ thể để khắc phục các khó khăn trước mắt đế đưa đất nước bước sang một thời kì
mới của hội nhập và phát triển.
Như đã đề cập ở trên,với cơn sốt phát triển đã làm cho TH.HCM phải chịu sức ép lớn
của việc dân cư ồ ạt nhập cư và trở thành lao động chính của thành phố. Những hậu quả mà
vấn đề này gây ra đã làm cho thành phố phải đương đầu với hàng loạt các khó khăn, thách
thức. Đó là các vấn đề tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, trộm cắp…Hay vấn đề thất nghiệp là
những vấn đề đáng báo động. Và điều mà chúng tôi muốn đề cập tới ở đây đó là hiện tượng
lao động sớm ở trẻ em.
Với lượng lao động ồ ạt đổ vào thành phố có cả lao động là trẻ em. Các em kiếm sống

cùng với gia đình hoặc đi lang thang để kiếm sống. Việc làm chủ yếu của các em đó là bán vé
số, đánh giày, lượm ve chai, làm ở các quán cơm, các xưởng tư nhân…Cuộc sống của các em
nhìn chung là khó khăn. Trong số trẻ em lao động sớm phần lớn là các em đã bỏ học để đi làm
phụ giúp gia đình. Và với việc các loại văn hóa độc hại từ bên ngoài vào đã tác động rất lớn
đến xã hội và đặc biệt là trẻ em đang tham gia lao động trong xã hội. Các em có thể nhiễm bất
kì loại văn hóa độc hại nào vì không có kiến thức phòng tránh. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh
đáng quan tâm của vấn đề lao động sớm ở trẻ em, đi cùng với nó là hàng loạt các mặt trái của
lao động sớm ở trẻ em nảy sinh từ vấn đề xã hội. Nếu chúng ta chỉ nhìn nhận vấn đề ở góc độ
tích cực đó là:trẻ em tham gia vào lao động sớm là để giúp đỡ gia đình về mặt kinh tế thì
chúng ta không thể thấy được mặt trái của vấn đề.
3.Hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em
Tại sao trẻ em lại phải lên thành phố kiếm sống?Đó là câu hỏi có thể có nhiều đáp
án.Phải chăng tình trạng lao động sớm ở trẻ em là vấn đề khách quan mang laị?Liệu rằng các
em có được đối xử và sống một cuộc sống như những trẻ em khác hay không?Đó là vấn đề đặt
ra và cần giải quyết.
 Các em khi tham gia lao động sớm thì các em có thể phải va chạm với cuộc sống đầy
phức tạp,các em sẽ rất dễ bị nhiễm các thói hư tật xấu của xã hội. Với độ tuổi và kiến thức của
các em không đủ để tránh khỏi việc không bị mắc phải. Ma túy, mại dâm, HIV|AIDS, trộm
cắp, đâm thuê chém mướn…đang ngày càng dẫn sâu vào cuộc sống của trẻ lao động sớm. Tất
cả trẻ lao động sớm có thể là đối tượng tấn công của bất kì một loại tệ nạn nào. Một thực tế
cho thấy đó là hiện tượng trẻ em vi phạm pháp luật là rất cao, mà tập trung chủ yếu ở trẻ em
lang thang. Ban ngày đi làm tối về thì tụ tập ở các bến xe, quán nét, các tụ điểm đen
6
và muốn
khẳng định mình, các em đã bị cuốn vào các trò vô bổ và các lối sống không lành mạnh, điều
đó đã làm hỏng nhân cách của những đứa trẻ mới lớn. Nhìn vào hình ảnh các em mới chỉ
13,14,15 tuổi, đang chích hút, đang phê, đang phục vụ trong các quán ba…thì thật sự chúng ta
mới thấy rõ được tác hại của việc lên thành phố kiếm sống khi đang ở lứa tuổi ngồi trên ghế
nhà trường.
6

Tụ điểm đen theo chúng tôi là nơi tập trung những con nghiện, gái mại dâm, cờ bạc.
 Do cuộc sống quá khó khăn nên khi đang ở tuổi chơi các em đã phải đi kiếm sống.Bên
cạnh việc bị dính vào các tệ bạn xã hội thì một mặt trái nữa đó là:Các em bị đối xử thậm tệ,tra
tấn và bóc lột sức lao động.Một thực tế hiện nay cho thấy là số lượng trẻ bị bạo hành rất
lớn.Các em vì kiếm sống nên đã chịu đựng để cho chủ bóc lột sức lao động mà không hề có
một sự phản kháng nào.Qua phương tiện thông tin đại chúng chúng ta biết được rằng các em
vừa bị bóc lột vừa bị tra tấn dã man, cũng chỉ vì muốn kiếm sống. Nhân phẩm của các em bị
chà đạp,cuộc sống không khác gì một loài vật.Chúng ta có thể nào khoanh tay đừng nhìn trước
tình trạng như vậy không?
 Tuổi của các em là tuổi đi học tuổi vui chơi, nhưng các em phải bươn chải khắp thành
phố để kiếm sống, phải làm việc trong môi trường độc hại như: hóa chất, khí thải công nghiệp,
bụi bẩn, rác thải…và nặng nhọc như: bốc vác, thồ hàng, kéo xe, phụ hồ…Sức khỏe của trẻ sẽ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng và có thể bị nhiễm bệnh: ung thư, cột sống, viêm phổi, đường
ruột…Cộng thêm vào đó là các em sống trong các khu nhà không đảm bảo:nhà ổ chuột, gầm
cầu, công viên, vệ đường…
Đó là hậu quả của vấn đề lao động sớm ở trẻ em trên toàn thành phổ Hồ Chị Minh nói
chung và khu vực Quận Thủ Đức nói riêng.Thủ Đức là quận vùng ven của Tp.HCM và là nơi
giao thoa của nhiều vùng khác vơi nhau, vậ nên số lượng trẻ lao động sớm ở đây trên thực tế
khá đông, nhưng do từ nơi khác đến nên không được quản lý và thống kê. Theo thống kê mới
nhất của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận Thủ Đức, hiện trên toàn quận có 65.660 trẻ
em dưới 16 tuổi, trong đó nữ là 32.584 em, nam là 33.076 em và có 11.916 trẻ tạm trú. Tình
trạng bỏ học vào cuối năm 2007 khá nhiều, đặc biệt là ở bậc THCS có 80/14.261 HS, tiểu học
là 6/19.738 HS.Khi phải tham gia lao động sớm thì các em không con thời gian và sức lực để
giành cho việc học vậy nên một tất yếu là bỏ học đi kiếm sống.Trên địa bàn quận tính đến cuối
2007 có 7 trẻ lang thang và đến quý I năm 2008 tăng lên 13 trẻ.Với tình trạng này các em rất
dễ bị dính vào các tệ nạn xã hội dẫn đến hư hỏng. Trong đó Hiệp Bình Chánh là phường có số
trẻ lang thang cao nhất: 7 trẻ.Những đứa trẻ đó luôn luôn là đối tượng tấn công của tệ nạn xã
hội bất cứ lúc nào.Trên địa bàn quân hiện có 10 trẻ tham gia lao động sớm, theo thống kê của
Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em các em làm rất nhiều nghề:Phụ hồ, bán vé số, phụ quán
cơm, làm ở các xưởng tư nhân…Những công việc mà các em đang làm có một số công việc

vượt quá sức của một đứa trẻ như phụ hồ, chạy bàn, vậy nhưng các em vẫn làm vì nó có thu
nhập và ổn định. Nhiều trường hợp thường bị ăn tát, những cú đá, những lời chửi bới nhục mạ
đã làm tổn hại nghiêm trọng đến nhân phẩm của các em, nhưng các em vẫn tiếp tục làm vi nếu
không làm thì không có tiền.
Vậy chúng ta phải làm gì? Hành động như thế nào để ngăn ngừa tối đa những hậu quả
của lao động sớm?
CHƯƠNG II
CHÂN DUNG TRẺ EM LAO ĐỘNG SỚM
I- Những thông tin nhân thân.
Qua số liệu và khảo sát chúng tôi đã thu thập được những thông tin liên quan tới
thân nhân của trẻ em lao động sớm tại quận Thủ Đức như sau.
Theo thống kê hiện nay của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận Thủ Đức, hiện
trên địa bàn quận Thủ Đức có 65.660 trẻ em dưới 16 tuổi, trong đó có 33.076 nam và 32.584
nữ, có 11.916 trẻ tạm trú. Hiện tượng bỏ học tại quận đang diễn ra khá nhiều và tập trung chủ
yếu ở lứa tuổi THCS. Có 80/14.261 học sinh THCS bỏ học và ở tiểu học là 6/19.738 học sinh.
Vào cuối năm 2007 trên địa bàn quận có 7 trường hợp trẻ lang thang và đến đầu năm 2008 con
số đã tăng lên là 13 trường hợp, các em chủ yếu đi một mình để kiếm sống. Theo thống kê mới
nhất của Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận thì tính đến cuối năm 2007 còn có 16 trường
hợp trẻ lao động sớm, các em làm rất nhiều nghề: phụ hồ, bán vé số, phụ quán cơm…Chúng
tôi đã có cơ hội để nói chuyện với một số trẻ đang tham gia lao động sớm trên địa bàn quận.
Sau đây là 4 trường hợp tiêu biểu mà chúng tôi đã được nói chuyện.
Như trường hợp 01: Khi được hỏi về bản thân thì em cho biết những thông tin liên
quan tới em và gia đình em như sau. Em tên là D.P, người dân tộc Khơmer và hiện em đang
sống tại huyện Dĩ An- Tỉnh Bình Dương. Năm nay em 13 tuổi và đang học lớp 4, em đang
sống cùng với bố mẹ tại Bình Dương. Khi chúng tôi hỏi tại sao em lại phải đi nhặt rác? Em nói
tại hôm nay được nghỉ học nên tranh thủ đi làm thêm để giúp bố mẹ, nhà em nghèo lắm nên
em mới phải đi như thế này. Em nói nếu nhặt như thế này thì một ngày em được khoảng
10.000đ và số tiền đó thì em đều đưa hết cho bố mẹ. Em vẫn đi học nhưng khi nào được nghỉ
là em lại lượm ve chai để có tiền.
Trường hợp 02: Đi cùng với D.P còn có một em nữa cũng lượm rác như D.P em

tên là L.V.V quê ở Dĩ An- Bình Dương. Hoàn cảnh của V cũng không khác với D.P là mấy,
cũng tại nhà nghèo nên em phải tranh thủ đi nhặt rác để kiếm tiền vào những ngày nghỉ như
thế này. Em đang học lớp 4 và hiện đang sống cùng với bố mẹ tại Bình Dương. Cả D.P và V
lúc nào không phải đi học là 2 em lại rủ nhau đi nhặt rác để có thêm tiền phụ giúp gia đình.
Trường hợp 03: Khác với trường hợp một và hai, em L.V.S có hoàn cảnh khó khăn
hơn. S hiện đang sống tại khu phố 6- Phường Linh Trung- Quận Thủ Đức. Do hoàn cảnh gia
đình khó khăn nên em đã phải bỏ dở lớp 4 để tham gia kiếm sống cùng với gia đình, em đang
bán vé số tại khu vực Suối Tiên để kiếm sống.
Trường hợp 04: B.A là một cô bé đến tư miền Tây, em rất háo hức khi kể về hoàn cảnh
gia đình em cho chúng tôi nghe. Em kể lại: ”Gia đình em có 15 người, em là con thứ 12, dưới
quê ba mẹ em vay tiền nuôi anh chị nên mắc nợ nhiều. Cả nhà phải lên Sài Gòn để làm thuê”
Khi được hỏi về ước mơ thì B.A trả lời: “Em nuốn đi học lắm, hồi ở quê em học đến
lớp 3”. B.A cúi mặt buồn. Giờ em đang lượm ve chai để kiếm sống.
Ngoài những trường hợp chúng tôi vừa đề cập ở trên, còn có rất nhiều các trường hợp
các trẻ em khác cũng tham gia kiếm sống và có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Với những hình
ảnh mà chúng tôi đã được trực tiếp nói chuyện và quan sát thì một thực tế cho thấy rằng: Các
em đã phải để lại đằng sau những mong muốn trẻ thơ để kiếm sống qua ngày.
II. Nguyên nhân dẫn đến trẻ lao động sớm
Bên cạnh sự phát triển nhanh chóng về kinh tế của TP.HCM, thì chúng ta không
khỏi không bắt gặp những hình ảnh” nhếch nhác”, lê lết bẩn thỉu của trẻ ăn xin, trẻ lượm ve
chai, bán báo, đánh giày, bán vé số… Tất cả các em mới chỉ ở độ tuổi từ 6- 15 tuổi nhưng đã
phải tham gia kiếm sống ngoài xã hội cùng với gia đình.
Bảng 01 sau đây cho thấy những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em ra đường phố
để kiếm sống.
Nguyên nhân Không Có Tổng
Cha mẹ ly hôn 91
76,5%
28
23,5%
119

100%
Cha mẹ mất sớm 103
86,6%
16
13,4%
119
100%
Ý thích
94
79%
25
21%
119
100%
Bạn bè rủ rê 107
89,9 %
12
10,1 %
119
100 %
Kinh tế khó khăn 51
42,9%
68
57,1%
119
100%
Muốn chứng tỏ bản lĩnh 111
93,3%
8
6,7%

119
100%
Bạo lực
7
gia đình 104
88,1%
14
11,9%
118
100%
Gia đình thiếu quan tâm 83
69,7%
36
30,3%
119
100%
Chán học
113
95%
6
5%
119
100%
Nguyên nhân khác 108
90,8%
11
9,2%
119
100%
(Bảng 01: Nguyên nhân khiến trẻ ra đường phố)

Nguồn: “Huấn luyện đào tạo cho giáo dục viên đường phố” do Hội bảo trợ trẻ em thành phố
Hồ Chí Minh
8
thực hiện tại Tp.HCM vào tháng 8 năm 2002.
Có hàng loạt các nguyên nhân dẫn đến hiện tượng trẻ phải ra đường phố, nhưng
nguyên nhân lớn nhất là do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, buộc các em phải tham gia lao
động để kiếm tiền nuôi sống bản thân và gia đình. Kinh tế là nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất
dẫn đến tình trạng trẻ ra đường phố chiếm 57,1%. Như vậy vấn đề nghèo khổ được xem là
nguyên nhân chính. Các em chủ yếu theo bố mẹ lên thành phố để kiếm sống, gia đình quá khó
khăn nên buộc các em phải tham gia lao động sớm để phụ giúp kinh tế cùng với gia đình.
Trẻ em lao động sớm đóng góp được khá nhiều về mặt kinh tế cho gia đình, thậm
chí có em còn là thu nhập chính của cả nhà. Với độ tuổi của các em là độ tuổi cắp sách đến
trường, nhưng cuộc sống nghèo khổ đã buộc các em phải vắt kiệt sức lao động của mình để
hòng có được miếng ăn qua ngày. Người ta cho rằng nhà nghèo bố mẹ không đủ sức nuôi thì
phải tự đi kiếm sống, từ việc lao động sớm đã dẫn đến những hậu quả của vấn đề lao động
sớm ở trẻ em. Hầu hết các trẻ tham gia lao động sớm đều ở trong tình trạng thất học, bỏ học.
Vậy thử đặt ra vấn đề là: Khi tiếp xúc với môi trường hỗn tạp của xã hội thì trẻ sẽ như thế
nào? Đó là câu hỏi mà các cơ quan cần được quan tâm, kể cả phía các cá nhân và các tổ chức
có liên quan.
7
8
Hội bảo trợ trẻ em thành phố Hồ Chí Minh, 85/65 Phạm Việt Chánh, F19, Quận Bình Thạnh TP Hồ Chí Minh.
Được thành lập năm 1988, hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em, đặc biệt là trẻ đường phố
Từ việc hoàn cảnh gia đình khó nhăn buộc trẻ phải lao động sớm để kiếm sống đã
kéo theo hàng loạt các vấn đề bất cập. Bên cạnh đó một phần không nhỏ các bậc cha mẹ của
trẻ lao động sớm cho rằng: “trách nhiệm chăm sóc, giáo dục trẻ là của xã hội và cộng đồng”.
Bởi những suy nghĩ hạn chế như vậy nên vấn đề bỏ học, nghỉ học để đi kiếm sống là vấn đề
đa và đang tồn tại.
Ngoài kinh tế gia đình khó khăn là nguyên nhân cao nhất thì sự thiếu quan tâm của
gia đình đến trẻ là nguyên nhân thứ hai có số tỷ lệ phần trăm cao chiếm 30,3% trong tổng số

các nguyên nhân đã đẩy trẻ đến với cuộc sống đường phố và lao động sớm. Như vậy sự thiếu
quan tâm trong gia đình lại là vấn đề đẩy trẻ đến tình trạng phải lao động sớm? Trẻ em là lứa
tuổi đang trong quá trình phát triển mạnh về mặt thể xác cũng như tâm sinh lý, đây là lứa tuổi
dễ bị tổn thương và cần được yêu thương chăm sóc. Điều đó đồng nghĩa với việc khi không
được bố mẹ hay các thành viên trong gia đình dành sự quan tâm chăm sóc thì trẻ dễ bị chán
nản và dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực. Gia đình đối với trẻ là rất quan trọng, theo nghiên
cứu của bác sỹ Nguyễn Hữu Cầu ( Đặc điểm tâm lý của trẻ em côi cút ở Quảng Ninh) cho thấy
là” Trong sự phát triển nhân cách của trẻ, yếu tố tình cảm vô cùng quan trọng…sự thiếu hụt
tình cảm sẽ dẫn tới sự phát triển lệch lạc nhân cách…”
9
. Điều đó cho thấy rõ một điều rằng
nếu không nhận được sự quan tâm đầy đủ từ phía gia đình thì trẻ rất dễ bị hư hỏng và dẫn tới
suy nghĩ là bỏ nhà đi kiếm sống. Khi ra xã hội với tâm trạng chán nản như vậy thì trẻ rất dễ bị
nhiễm các thói hư tật xấu và sẵn sang làm việc gì miễn là có tiền. Do tình trạng không nhận
được từ gia đình sự quan tâm đầy đủ nên tỷ lệ trẻ ra ngoài xã hội kiếm sống khá cao, kéo theo
hậu quả đó là các tệ nạn xã hội nảy sinh: ma túy, mại dâm, móc túi, đánh nhau…Các em ra
khỏi nhà đi kiếm sống do cảm thấy bị ngột ngạt và chán nản về mặt tinh thần nghiêm trọng
nên muốn ra ngoài để tìm cảm giác thoải mái và tự do. Liệu khi ra ngoài xã hội các em có thể
sống tốt trong khi không có kiến thức đầy đủ về xã hội. Các trường hợp này đang là đối tượng
để các tệ nạn xã hội tấn công.
Bên cạnh đó còn nhiều nguyên nhân khác như do gia đình tan vỡ làm cho con cái
bị hoang mang và lo sợ, điều đó dẫn đến tình trạng muốn thoát ra khỏi gia đình để tự do vì do
bố mẹ không sống với nhau nữa. Trong giai đoạn này trẻ thường có suy nghĩ là bố mẹ bỏ nhau
thì mình đi “ bụi” cho họ biết. Vậy là các em buộc phải lao động sớm để có tiền sống qua
ngày, để tự lập. Có nhiều trường hợp bố mẹ ly hôn và trẻ không biết sống với ai, đành chấp
9
An sinh xã hội và các vấn đề xã hội. Chủ biên: Lê Thị oanh, 1997, T42, NXB: Tp.HCM
nhận làm trẻ đường phố, lao động để kiếm sống. Vậy nên gia đình tan vỡ đã tạo một sức ép hết
sức nặng nề với trẻ và việc bỏ gia đình đi kiếm sống là hệ quả tất yếu. Liệu trẻ có đủ khả năng
để chống chọi lại với những văn hóa phẩm độc hại, những tệ nạn xã hội, thói hư tật xấu đang

rình rập xung quanh cuộc sống của trẻ.
Bên cạnh những nguyên nhân chính như vừa đề cập ở trên, còn có hàng loạt các
nguyên nhân khác tác động không nhỏ đến việc trẻ em phải lao động sóm. Do cha mẹ mất sớm
trẻ phải tự bươn chải kiếm sống để nuôi thân, do ý thích muốn tự khẳng định mình, do bị đánh
đập đối xử tàn tệ, bạn bè rủ rê lôi kéo… Khi bị dính vào một số những nguyên nhân này thì
nguy cơ trẻ chọn việc ra đường kiếm sống là rất cao.
Hiện nay trên địa bàn quận Thủ Đức theo thống kê của Ủy ban dân số gia đình và
trẻ em quận Thủ Đức thì có 16 trẻ lao động sớm trong đó phường Linh Chiểu 3 em, Linh
Đông 2 em, Linh Tây 1 em, Linh Trung 2 em, Linh Xuân 5 em, Tân Phú 3 em. Các em chủ
yếu tham gia lao động với các nghề như: Công nhân cho các xưởng tư nhân, phụ bán cơm, bán
vé số, lượm ve chai, phụ hồ. Cũng theo Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em quận Thủ Đức cho
biết các em lao động sớm tạm trú trên địa bàn đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chủ yếu là
theo bố mẹ đi kiếm sống và có một bộ phận là do bố mẹ ly hôn. Nhưng trên thực tế con số 16
là chưa đủ, mà còn có một bộ phận trẻ lao động sớm không quản lý được do các em chỉ hành
nghề trên địa bàn quận chứ không sinh sống định cư trên địa bàn quận.
Với việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới trẻ đi lao động sớm để từ đó để đi sâu xem
xét và phân tích những khó khăn, mong muốn trong cuộc sống của trẻ lao động sớm.
II. Khó khăn hiện tại, của các em trong cuộc sống
Bảng 02: Những khó khăn của trẻ em.
Khó khăn Ưu tiên 1 Ưu tiên 2 Ưu tiên 3 Tổng
N % N % N % N %
Không tiền 19 16%5 5 4,1% 4 3,3% 122 100%
Đau ốm 8 6,6% 4 3,3% 4 3,3% 121 100%
Bị lạm dụng thân
thể
1 8% 4 3,3% 1 8% 121 100%
Bị bóc lột sức lao
động
7 5,8% 4 3,3% 5 4,1% 121 100%
Bị công an thu

gom
15 12% 7 5,8% 3 2,5% 121 100%

×