Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

giới và sự khác biệt giới trong sức khoẻ sinh sản (nghiên cứu trường hợp thanh niên).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.99 KB, 46 trang )

1
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1.Lí do chọn đề tài………………………………………………….2
2. Câu hỏi ban đầu………………………………………………….3
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn………………………… 4
4. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu……………………………….4
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu…………………… 4
6. Phương pháp nghiên cứu……………………………………… 5
7. Giả thuyết nghiên cứu………………………………………… 5
8. Khung lí thuyết………………………………………………….6
Phần nội dung chính
Chương1: Cơ sở lí luận và thực tiễn nghiên cứu
1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu………………………………….7
1.2. Các khái niệm công cụ…………………………………………12
1.3. Lí thuyết áp dụng……………………………………………….15
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
2.1. Sự khác về các yếu tố giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân.
2.1.1 Yếu tố sinh lí………………………………………………….16
2.1.2. Yếu tố tâm lí- nhận thức…………………………………… 21
2.1.3 Yếu tố văn hóa- xã hội……………………………………… 27
2.2. Sự khác biệt giới về hành vi tình dục trước hôn nhân………….36
Chương 3: Kết luận và khuyến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Khuyến nghị
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giới và những vấn đề về giới nảy sinh từ rất lâu cùng với sự hình
thành và phát triển của con người, xã hội. Sự khác biệt giới cùng với nó là sự
khác biệt về các yếu tố sinh học, tâm lý và văn hoá - xã hội của nó dẫn tới sự


khác biệt về các mặt khác nhau trong đời sống mỗi cá nhân. Một trong
những khác biệt đó là sự khác biệt giới về hành vi tình dục trước hôn nhân.
Duy trì giống nòi thông qua các hoạt động tình dục không chỉ là chức
năng tự nhiên của hai giới nam và nữ để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
của những thế hệ sau, mà nó còn mang tính xã hội, liên quan đến nhân cách
và tính "người" của con người nói chung và mỗi giới nói riêng. Khi nói đến
tình dục và các hành vi tình dục người ta thường nói đến nhu cầu tình cảm,
cảm xúc và nhu cầu gần gũi cả về tâm hồn cũng như thể xác của hai giới
nam và nữ. Tính xã hội của các hành vi tình dục giữa nam và nữ được thể
hiện rõ nhất qua thiết chế hôn nhân, gia đình và dòng họ. Xã hội càng phát
triển thì các vấn đề về giới càng trở thành vấn đề nổi cộm và được quan tâm,
đặc biệt là hành vi tình dục trước hôn nhân của hai giới. Thông thường,
chúng ta thường thấy báo chí, các phương tiền truyền thông đại chúng hay
dư luận xã hội thường đề cập đến "quan hệ tình dục trước hôn nhân" như
một mặt trái của xã hội loài người, tuy nhiên, "quan hệ tình dục" chỉ là một
trong những "hành vi tình dục" và là biểu hiện thường xuyên, rõ nét nhất của
"hành vi tình dục". Vì vậy, để xem xét vấn đề một cách toàn diện chúng ta
cần xem xét các "hành vi tình dục trước hôn nhân". Theo quan điểm của
Freud, việc quan hệ tình dục nói chung và thực hiện các hành vi tình dục nói
riêng là biểu hiện của bản năng gốc của con người, tức là nó thuộc về yếu tố
sinh lý, nó có sự khác nhau về cấu tạo giới và tâm lý lựa chọn hành vi tình
3
dục (mà cao nhất là giao cấu tình dục) của mỗi giới. Dưới môi trường xã hội,
điều này càng bị quy định chặt chẽ hơn bằng các quy tắc, chuẩn mực, khuôn
phép của loài người. Vì vậy, chúng tôi không phán xét hành vi tình dục
trước hôn nhân của hai giới dưới góc độ đạo đức mà dưới góc độ xã hội học,
chúng tôi xem xét các yếu tố giới như sinh lý, tâm lý, văn hoá - xã hội ảnh
hưởng đến hành vi tình dục của cá nhân như thế nào? sự khác nhau về nhận
thức và lựa chọn hành vi tình dục trước hôn nhân của mỗi giới ra sao?
2. Câu hỏi ban đầu

- Khác biệt giới về tâm lý, sinh lý và văn hoá - xã hội trong hành vi
tình dục trước hôn nhân như thế nào?
3. Ý nghĩa khoa học và Ý nghĩa thực tiễn
3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài này áp dụng những lí thuyết, những kiến thức trong xã hội học
giới, xã hội học đại cương, tâm lí học, tình dục học để đưa ra sự khác nhau
căn bản về những hành vi tình dục của nam giới và nữ giới trước hôn nhân,
lí giải những khác biệt đó. Từ sự khác biệt về hành vi của hai giới sẽ dẫn đến
những vấn đề xã hội gì. Bởi con người khác với động vật. Sự khác biệt giới
ở đây không chỉ là về những hành vi từng dục đơn thuần mà còn có cả vai
trò xã hội, trách nhiệm xã hội khi người ta thực hiện những hành vi tình dục
đó.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Do chính sự khác biệt giới về hành vi và đời sống tình dục trước hôn
nhân, điều này nảy sinh các vấn đề xã hội đang quan tâm như: tình trạng
sống thử trước hôn nhân, tình trạng nạo phá thai trước hôn nhân… đối với
lứa tuổi thanh thiếu niên. Nhận thức và hành động của hai giới khi có những
hành vi tình dục trước hôn nhân. Qua việc tìm hiểu sự khác biệt trong hành
vi và đời sống tình dục trước hôn nhân ta sẽ nắm được đặc điểm của hai giới
4
về vấn đề tình dục. Qua đó, đưa ra những khuyến nghị phù hợp với từng giới
để đảm bảo cuộc sống tình dục an toàn đối với nam giới và nữ giới.
4. Mục đích nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu sự khác biệt giới trong hành vi tình dục trước
hôn nhân để thấy được thực trạng, nguyên nhân, động cơ các hành vi tình
dục của mỗi giới trước hôn nhân ra sao và những ảnh hưởng của vai trò giới
trong xã hội, văn hóa sẽ chi phối đến tâm lí, suy nghĩ, nhận thức và tiến tới
những hành vi tình dục của nam giới và nữ giới. Đồng thời đưa ra một số
nhận xét, khuyến nghị đảm bảo sức khỏe sinh sản cho mỗi giới trước hôn

nhân,
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu về khác biệt giới trong sinh lí.
- Tìm hiểu về khác biệt giới trong tâm lí- xã hội:
+ Tìm hiểu sự khác nhau trong các giai đoạn phát triển tâm lý của hai
giới
+ Tìm hiểu các động cơ về tâm lý dẫn tới hành vi tình dục của hai giới
trước hôn nhân.
- Tìm hiểu sự khác biệt về văn hoá trong hành vi tình dục trước hôn
nhân của hai giới.
- Tìm hiểu sự khác biệt giới trong các hành vi tình dục trước hôn
nhân.
- Tìm hiểu sự khác biệt về hành vi tình dục trước hôn nhân giữa nông
thôn và thành thị.
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Khác biệt giới trong hành vi tình dục trước hôn nhân.
5
5.2. Khách thể nghiên cứu
- Nam giới trước khi kết hôn.
- Nữ giới trước khi kết hôn.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: 16/03 – 22/03/2010
- Phạm vi nội dung: Chúng tôi chỉ tập trung phân tích những điểm
khác biệt giới cơ bản là: sinh lí, tâm lí, văn hóa- xã hội. Từ đó sẽ dẫn đến
những hành vi tình dục gì của mỗi giới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tài liệu: Chúng tôi sử dụng phương pháp này
thông qua các phương tiện trên sách báo, truyền hình, internet… để tìm
thông tin về sự khác biệt giới trong các hành vi tình dục trước hôn nhân như

thế nào. Trong đề tài này sẽ sử dụng những tài liệu của các ngành: tâm lí
học, tình dục học, xã hội học.
7. Giả thuyết nghiên cứu
- Do sự khác biệt giới trong sinh lí, tâm lí, xã hội, văn hóa nên nam và
nữ có sự khác biệt về hành vi tình dục trước hôn nhân. Trong đó, các yếu tố
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Trong tất cả các hành vi tình dục thì nam giới có nhiều biểu hiện và
hành vi tình dục hơn nữ giới.
- Nam giới và nữ giới ở thành thị có hành vi tình dục trước hôn nhân
nhiều hơn nam giới và nữ giới ở nông thôn.
6
8. Khung lí thuyết
Điều kiện kinh
tế- văn hóa- xã
hội
Sự khác biệt
giới trong sinh

Sự khác biệt
giới trong tâm

Sự khác biệt
giới trong văn
hóa – xã hội
Sự khác biệt giới
trong hành vi tình
dục trước hôn nhân
7
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài nghiên cứu

1.1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân của thanh thiếu niên là
một vấn đề quan trọng. Hiện nay tình trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân
của thanh thiếu niên ngày càng càng trở thành một vấn đề đáng quan tâm
của xã hội. Vấn đề tình dục trước hôn nhân của thanh thiếu niên không chỉ là
hiện tượng cá biệt của xã hội nào mà nó là 1 hiện tượng phổ biến, bất kì xã
hội nào cũng phải đối mặt với nó. Chính vì vậy có rất nhiều các cuộc nghiên
cứu về vấn đề tình dục trước hôn nhân của thanh thiếu niên hiện nay. Các
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sự tương tác giữa các yếu tố sinh học, tâm
lí và văn hóa tạo nên sự hưng phấn tình dục, sự hấp dẫn giới tính và các
hành vi tình dục, đặc biệt là các quan niệm về giới được bộc lộ trong hành vi
tình dục.
Trên thế giới vấn đề tình dục được nghiên cứu rất sớm. Ngay từ thế kỉ
19 đã có rất nhiều bài viết, sách và công trình nghiên cứu về tình dục. Phải
kể đến các tác phẩm của Block, Moll, Hirchefd, Max Marcuse. Các tác phẩm
như: Block với Đời sống tình dục trong thời đại chúng ta (1907), Gái điếm
(1912 và 1925), Tình dục đồng giới ở nam và nữ (1914), Moll với Tình dục
đồng giới (1891), Bản chất của ham muốn tình dục (1897), Hirchefd với 2
công trình lớn là cuốn sách giáo khoa 3 tập về Bệnh học tình dục (1916-
1920) và Những hiểu biết về tình dục (1926-1930). Việc nghiên cứu đầu tiên
về tình dục được Hirschefd thực hiện với việc thành lập viện nghiên cứu đầu
tiên trên thế giới ở Berlin năm 1919. Viện đã có nhiều công trình nghiên cứu
quan trọng và sử dụng phương pháp liên ngành để nghiên cứu như y học, xã
8
hội học, sinh học Năm 1921 ông tổ chức hội nghị quốc tế đầu tiên về tình
dục để bàn về những cải cách trên cơ sở những nghiên cứu khoa học về tình
dục. Moll cũng đứng ra tổ chức 2 hội nghị quốc tế khác vào năm 1926,
1930.
Tại Việt Nam, vốn là một nước phương Đông với nhiều quan niệm
khắt khe vì vậy mà trước đây các công trình nghiên cứu về tình dục không

nhiều và bị hạn chế bởi rào cản xã hội. Trong những năm gần đây, khi mà có
sự hội nhập với thế giới, mặt khác cùng với quá trình phát triển kinh tế là
những mặt trái từ xã hội như các tệ nạn ma túy, mại dâm đặc biệt là vấn đề
tình dục trước hôn nhân đã buộc các nhà nghiên cứu phải thực sự quan tâm
và nghiên cứu những vấn nạn này nhằm đưa ra một cái nhìn tổng quát cùng
những giải pháp đúng đắn. Tất cả dẫn đến một loạt các công trình nghiên
cứu về tình dục.
Nghiên cứu về các hành vi tình dục trước hôn nhân không chỉ thu hút
mối quan tâm của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau như xã hội
học, tâm lí học, nhân học mà nó còn thu hút sự chú ý của tất cả các chuyên
ngành khác như báo chí, truyền hình Trước tiên phải kể đến một số nghiên
cứu về tình dục trước hôn nhân điển hình như công trình “Nghiên cứu thực
trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng quan hệ tình dục trước hôn
nhân ở thanh thiếu niên trong độ tuổi 14-25 dựa trên số lượng điều tra về vị
thành niên và thanh niên Việt Nam 2003” của Đào Hoàng Bách, La Thành
Nhân do Lê Cự Linh hướng dẫn. Theo công trình nghiên cứu thì qua việc
phân tích số liệu điều tra quốc gia về thanh niên và vị thành niên Việt Nam
(Savy 2003) trên 7584 đối tượng cho thấy tỉ lệ quan hệ tình dục trước hôn
nhân của thanh thiếu niên Việt Nam là 7,6%. (Tạp chí y học thực hành số
557+ 578, 9/2007). Công trình cũng nghiên cứu, phân tích các yếu tố ảnh
hưởng đến hành vi quan hệ tình dục trước hôn nhân của nam nữ thanh niên
9
Việt Nam theo ba cấp độ: cấp độ cá nhân, cấp độ gia đình, cấp độ bạn đồng
lứa. Kết quả nghiên cứu cho thấy hành vi tình dục trước hôn nhân của họ
chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ mọi các cấp độ khác nhau. Bên cạnh
đó nghiên cứu cũng đưa ra một số khuyến nghị nhằm giảm tình trạng tình
dục trước hôn nhân của thanh thiếu niên Việt Nam. Như vậy đây là một
công trình nghiên cứu khá đầy đủ và sâu sắc về tình dục trước hôn nhân tuy
nhiên hạn chế của nghiên cứu này đó là mới chỉ ra ở các cấp độ vi mô như
gia đình, bạn bè chứ chưa đề cập tới cấp độ vĩ mô như xã hội ảnh hưởng thế

nào đến vấn đề này, đặc biệt là các quan niệm về giới
Một công trình nghiên cứu khác đó là “Nghiên cứu về kiến thức, thái
độ, hành vi liên quan đến HIV/AISD và 1 số bệnh lây truyền qua đường tình
dục của học sinh ở các trường trung học ở Hải Phòng” do Ths. Khương
Văn Duy thực hiện. Nghiên cứu cho thấy về hành vi quan hệ tình dục có
3,6% số học sinh đã từng quan hệ tình dục, tuổi quan hệ tình dục ở nhóm
này là 16,2%, đặc biệt trong số này có tới 19,3% nam học sinh đã quan hệ
tình dục với gái mại dâm. Nghiên cứu đã chỉ ra những con số đáng báo động
về tình hình thanh thiếu niên hiện nay. Tuy nhiên nghiên cứu mới chỉ ra thực
trạng đó mà chưa có những hướng nghiên cứu các nguyên nhân, yếu tố ảnh
hưởng đến thực trạng.
Hay công trình “Về hiện tượng mang thai ngoài hôn nhân” của
Nguyễn Quý Thanh. Nghiên cứu tập trung vào phân tích những nguyên nhân
của việc mang thai ngoài hôn nhân như gia đình tan vỡ, muốn có con, ảnh
hưởng của quan niệm tự do hóa tình dục, không nhìn thấy triển vọng tốt đẹp
của tương lai, nam giới thiếu trách nhiệm trong hành vi tình dục ngoài hôn
nhân, sự dễ dàng có được các dịch vụ nạo thai, thiếu kiến thức về giáo dục
tình dục
10
Một nghiên cứu đó là nghiên cứu của Nguyễn Linh Khiếu (TS trung
tâm NCKH về gia đình và phụ nữ) về “Tình bạn, tình yêu và tình dục tuổi vị
thành niên”. Nghiên cứu cho thấy tình bạn vị thành niên có một sự thay đổi
lớn lao- một sự khủng hoảng- đó là sự định hướng nội tại sang tình bạn khác
giới với những cảm xúc và tâm trạng hoàn toàn mới. Các hành vi tình dục
ngày càng phổ biến trong giới trẻ hiện nay, đó như là những câu chuyện hết
sức đỗi bình thường trong những cuộc nói chuyện của giới trẻ, và tất yếu
quan hệ tình dục là điều không tránh khỏi.
Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu khác như “Nhu cầu giáo
dục giới tính và sức khỏe sinh sản của học sinh trung học: nghiên cứu
trường hợp tại bốn trường nội thành Hà Nội” của Đoàn Kim Thắng,

Nguyễn Thị Văn, Phan Quốc Thắng; “Internet và định hướng giá trị của
sinh viên về tình dục trước hôn nhân” của Nguyễn Quý Thanh; “Ép buộc
tình dục trong hôn nhân từ quan điểm của nam giới” của Vũ Hồng Phong
Bên cạnh các công trình nghiên cứu nổi bật về tình dục trước hôn
nhân chúng ta cũng phải kể đến những dự án lớn về vấn đề tình dục. Trước
hết phải kể đến dự án “Xây dựng bộ từ điển về sức khỏe sinh sản và tình dục
cho học sinh khiếm thính”. Dự án được Quỹ dân số thế giới xây dựng, được
Viện nghiên cứu phát triển xã hội ( ISDS) đánh giá. Dự án được thực hiện
tại trường Xã Đàn. Kết quả cho thấy: nhìn chung các em học sinh còn nắm
rất mơ hồ các kiến thức liên quan đến sức khỏe sinh sản, tình dục: các kiến
thức về bộ phận sinh dục nam/nữ, khái niệm quan hệ tình dục và tình dục an
toàn, vấn đề mang thai và biện pháp tránh thai, vấn đề xâm hại tình
dục Hầu như học sinh chưa có cách tiếp cận đày đủ với những kiến thức
trên.
Tiếp đó phải kể đến dự án “triển khai thực địa nghiên cứu về sức khỏe
gia đình Việt Nam”. Trong tháng 11 và 12/ 2008 viện nghiên cứu phát triển
11
xã hội đã tiến hành triển khai nghiên cứu thực địa về sức khỏe gia đình Việt
Nam tại 11 tỉnh thành phố trong cả nước. Nghiên cứu này là sự tiếp nối và
mở rộng các dự án về tình dục do quỹ Ford tài trợ từ năm 2002. Mục tiêu
của dự án là cung cấp một cơ sở khoa học giúp nâng cao nhận thức một cách
toàn diện về các vấn đề cơ bản của tình dục và sức khỏe tình dục ở Việt
Nam, đẩy mạnh các vấn đề như tình trạng khỏe mạnh về tình dục, các quyền
tình dục và bình đẳng giới như là các yếu tố không thể tách rời trong sự
nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
Ngoài ra còn rất nhiều các dự án vừa và nhỏ khác của các tổ chức
trong và ngoài nước nghiên cứu về vấn đề tình dục đặc biệt là tình dục trước
hôn nhân hiện nay. Đây cũng là vấn đề được cơ quan ngôn luận đặc biệt chú
ý. Biểu hiện là có rất nhiều các bài báo đề cập tới vấn đề này. Nó trở thành
chủ đề quen thuộc của một số tờ báo lớn như gia đình, phụ nữ và trẻ em.

Nói tóm lại, tình dục trước hôn nhân đang là vấn đề được cả xã hội
quan tâm và có rất nhiều các nghiên cứu về vấn đề này. Mỗi nghiên cứu đều
tập trung vào các khía cạnh khác nhau của tình dục. Tuy nhiên có rất ít các
nghiên cứu đề cập tới vấn đề bình đẳng giới trong hành vi tình dục. Chính vì
vậy, nghiên cứu này của chúng tôi tập trung phân tích hành vi tình dục qua
lăng kính của quan niệm bình đẳng giới, phân tích yếu tố giới tác động đến
hành vi tình dục trước hôn nhân.
• Thực trạng quan hệ tình dục trước hôn nhân.
Theo số liệu được đưa ra tại Hội thảo chuẩn bị triển khai Điều tra quốc gia vị
thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ hai, 7,6% thanh niên Việt Nam
có quan hệ tình dục trước hôn nhân cho thấy có khá nhiều người .
Đáng chú ý, tại cuộc hội thảo được tổ chức hôm 10/12 tại Hạ Nội này, các
chuyên gia cho biết, hiện tượng quan hệ tình dục trước hôn nhân lại phổ biến
12
nhất ở khu vực dân tộc thiểu số với 39,8% ở nam và 26,1 % với nữ Theo
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Bá Thuỷ, sự phát triển của thanh thiếu niên
luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam và thế giới. Lứa tuổi
thanh thiếu niên từ 14 - 25 tuổi ở nước ta là nhóm đông nhất, chiếm 24,5%
dân số. Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ
nhất (SAVY 1 ) có quy mô lớn và toàn diện nhất về thanh thiếu niên. Nó
được triển khai với trên 7.584 thanh thiếu niên tại 42 tỉnh, thành phố về giáo
dục, việc làm, tình trạng sức khoẻ- sức khoẻ sinh sản, HIV/AIDS, sử dụng
các chất kích thích, tai nạn thương tích, bạo lực Hầu hết các đối tượng
tham gia điều tra đều không chấp nhận quan hệ tình dục trước hôn nhân; 3/4
số người được hỏi cho biết, sẽ đợi đến khi kết hôn mới quan hệ. Tuổi quan
hệ tình dục lần đầu của thanh niên Việt Nam là 19,6 tuổi. 25 - 30% cho rằng,
quan hệ tình dục trước hôn nhân là có thể chấp nhận nếu cả hai bên đồng ý
hoặc cả hai sẽ lấy nhau và biết cách ngừa thai. Phương tiện thông tin đại
chúng là nguồn cung cấp thông tin phổ biến nhất cho thanh thiếu niên về sức
khoẻ sinh sản. 97% thanh thiếu niên có hiểu biết về HIV/AIDS

(Nguồn: />hon-nhan/65114711/127, ngày đăng 11/12/2007, vào 9h11)
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây đã có một số công trình
nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng quan hệ tình dục
trước hôn nhân của thanh thiếu niên điều tra quốc gia về thanh niên và
thiếu niên 2003.
1.2. Các khái niệm công cụ
1. 2.1. Giới
- Theo quan điểm của ML. Andersen trong tác phẩm “Thinking about
women”: “Giới liên quan đến đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông
13
đợi được tạo nên với hai giới tính. Trong khi con trai hay con gái là những
yếu tố sinh học thì việc trở thành một phụ nữ hay một nam giới là một quá
trình văn hóa.” (Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình Xã hội học về giới, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, trang 40)
- Theo World Food Programme, Gender Glossary, 1996: “Giới là
những khác biệt giữa nữ giới và nam giới trong cùng hộ gia đình, trong và
giữa các nền văn hóa, là cấu trúc xã hội- văn hóa có thể biến đổi theo thời
gian. Những khác biệt này được phản ảnh trong các vai trò, trách nhiệm, khả
năng tiếp canh các nguồn lực, những sức ép, những ưu tiên, các nhu cầu,
nhận thức và các quan điểm… được thấy trong cả hai giới. Do vậy, giới
không đồng nhất với phụ nữ mà được xem là cả nữ giới và nam giới cùng
những mối quan hệ tương tác của họ.” (Hoàng Bá Thịnh, Giáo trình xã hội
học giới, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 41)
- Theo Luật bình đẳng giới: “ Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam
và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.”
1.2.2. Hành vi tình dục
- “Là một bộ phận trong tập hợp hành vi chung của con người. Hành
vi tình dục bao gồm những cử chỉ như âu yếm, vuốt ve, giao hợp… khi thực
hiện hoạt động tình dục.”
(Nguồn: />- Hành vi tình dục còn bao gồm các hành vi: thị dâm, thủ dâm, khổ

dâm, loạn dâm, bạo dâm, khẩu dâm
+ Thủ dâm: Là sự kích thích có chủ tâm của bộ phận sinh dục ngoài
của nam hay nữ để gây khoái cảm tình dục, có thể đưa đến cực khoái. Thủ
dâm là một biểu hiện sinh lí tự nhiên.
(Nguồn: wiki)
14
- Hành vi tình dục trước hôn nhân: Là hành vi của người có quan hệ tình dục
trước khi kết hôn.
- Hành vi tình dục ngoài hôn nhân: Là hành vi của người có quan hệ tình dục
sau khi đã kết hôn, nhưng đó không phải là vợ/chồng của mình.
1.2.3 Quan hệ tình dục
Quan hệ tình dục (tiếng Anh: sexual intercourse), còn gọi là giao hợp
hay giao cấu, thường chỉ hành vi đưa bộ phận sinh dục nam/đực vào trong
bộ phận sinh dục nữ/cái. Quan hệ tình dục cũng có thể là giữa những thực
thể khác hoặc cùng giới tính hoặc lưỡng tính. Những năm gần đây, việc thực
hiện với những bộ phận không phải là bộ phận sinh dục (quan hệ đường
miệng, đường hậu môn, hoặc dùng ngón tay) cũng được bao gồm trong định
nghĩa này. (Nguồn: />1.2.4. Khái niệm hôn nhân
Hôn nhân là sự kết hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội
và/hoặc tôn giáo một cách hợp pháp. Hôn nhân có thể là kết quả của tình
yêu. Hôn nhân là một mối quan hệ cơ bản trong gia đình ở hầu hết xã hội.
Về mặt xã hội, lễ cưới thường là sự kiện đánh dấu sự chính thức của hôn
nhân. Về mặt luật pháp, đó là việc đăng ký kết hôn.
( Nguồn: />- “Hôn nhân là quan hệ vợ chồng sau khi đã kết hôn”. (Điều 8,
chương I, Luật Hôn nhân và Gia đình 2001, NXB Chính trị Quốc gia Hà
Nội)
15
1.3. Lý thuyết áp dụng
Trong đề tài này chúng tôi sẽ áp dụng thuyết “Vai trò” của Ralph
Linton.

Theo Ralph Linton, vai trò là một quan điểm cơ bản trong lý thuyết xã
hội học nó đánh giá cao những mong đợi xã hội gắn với những vị thế cụ thể
và phân tích thực hiện những mong đợi đó. Mỗi cá nhân có một loại vai trò
được đem lại từ những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong
tiến trình cuộc đời của mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác
nhau lần lượt hoặc đồng thời và tổng hợp tất cả các vai trò xã hội của cá
nhân đó thực hiện từ khi sinh ra cho đến lúc chết tạo thành nhân cách xã hội
của người đó. Ralph Linton nói chúng ta giữ các địa vị nhưng chúng ta đóng
các vai trò. Vai trò và địa vị không thể tách rời nhau. Sự phân biệt chúng chỉ
trong nhận thức khoa học. Không thể có vai trò mà không có địa vị hoặc
ngược lại. Vai trò trở thành một tập hợp các quyền và nghĩa vụ đã được thể
hóa có nghĩa là với vị trí mà các cá nhân xã hội hay tổ chức nắm giữ thì chủ
thể xã hội đó cần thực hiện tốt những mong đợi, bổn phận và trách nhiệm ở
vị trí đó. Vai trò trong đề tài của chúng tôi được nhắc đến là chỉ vai trò của
hai giới nam và nữ trong khi thực hiện những hành vi tình dục trước hôn
nhân. Nam và nữ sẽ có những hành động như thế nào khi xã hội gán cho hai
giới những chức năng khác nhau. Đặc biệt là nữ giới, họ sẽ chịu ảnh hưởng
từ phía gia đình, xã hội nhiều hơn là nam giới khi thực hiện những hành vi
tình dục (đặc biệt là quan hệ tình dục) trước hôn nhân. Bởi xã hội sẽ đánh
giá họ như thế nào với vị trí là một người chưa có gia đình mà lại có có quan
hệ tình dục trước hôn nhân. Họ phải làm như thế nào trước, trong và sau khi
có quan hệ tình dục. Khác với nam giới sẽ có những cách biểu hiện bằng
những hành vi tình dục thoải mái hơn, ít bị xã hội đánh giá hơn.
16
Hành vi tình dục của hai giới có thể nói là dựa vào bản năng, chức năng duy
trì nòi giống nhưng nó lại phụ thuộc vào vai trò mà mỗi giới đảm nhận gắn
với cấu tạo cơ thể, chức năng xã hội.
Chương 2: Kết quả nghiên cứu
2.1. Sự khác biệt về các yếu tố giới trong hành vi tình dục trước
hôn nhân

2.1.1 Yếu tố sinh lý
Để tìm hiểu về sự phát triển của giới trong hành vi tình dục trước hôn
nhân thì ta cần tìm hiểu về những giai đoạn phát triển của mỗi giới từ khi
còn nhỏ đến lúc trưởng thành. Trong những giai đoạn đó thì ta sẽ xem xét
giai đoạn nào có những hành vi tình dục bộc lộ và có tác động tới xã hội,
gây ra hiện tượng xã hội được xét trên lĩnh vực giới. Giai đoạn trước ảnh
hưởng đến giai đoạn sau ra sao, chúng có mối liên hệ với nhau về hành vi-
tâm lí và có sự phát triển khá rõ ràng
Để trả lời cho câu hỏi này thì một trong những lý do là nhu cầu sinh lý
của hai giới khác nhau. Ở mỗi một giai đoạn khác nhau thì có những nhu cầu
sinh lý của mỗi giới lại khác nhau. Và chính những nhu cầu sinh lý này dẫn
tới những hành vi tình dục khác nhau giữa nam và nữ. Mỗi một phái sẽ có
những đòi hỏi, những yêu cầu khác nhau trong những hành vi tình dục trước
hôn nhân.
Trước hết, mọi người cần phải có một cái nhìn khái quát về các giai
đoạn phát triển sinh học cũng như sinh lý của con người qua từng giai đoạn.
Tuy nhiên những giai đoạn mà chúng tôi đưa ra sau đây được chia theo quan
điểm của Freud. Nhưng chúng tôi chỉ tập trung chủ yếu giải thích giai đoạn
thanh thiếu niên và tuổi trưởng thành của mỗi giới.
Đầu tiên là giai đoạn đầu còn ẵm ngửa thì trẻ em thường tự kỷ trung
tâm hay tự cho mình là trung tâm. Quan tâm đầu tiên của chúng là thỏa mãn
17
nhu cầu vật chất của riêng chúng và Sigmund Freud gọi đây là dạng tự thỏa
mãn. Và trẻ em nhanh chóng bắt đầu khám phá cơ thể chúng. Khi trẻ em học
được các kỹ năng vận động, chúng học cách sờ mó và cọ xát bộ phận sinh
dục. Việc chạm vào các bộ phận sinh dục một cách chủ tâm có liên quan đến
cảm giác thú vị. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã quan sát những bé trai
và bé gái đạt đến cực khoái thông qua dạng trứng nước của thủ dâm. Rõ ràng
những nghiên cứu này chỉ ra rằng hoạt động tình dục đã có từ rất sớm trong
cuộc đời.

Đến giai đoạn đầu của tuổi thơ: những đứa trẻ không hoàn toàn phụ
thuộc vào cha mẹ nữa mà bắt đầu trên con đường dài để trở nên tinh thông
hơn đối với các hoạt động trong thế giới. Theo Freud thì ở giai đoạn này thì
cha mẹ phải đối mặt với nhiều thách thức mới khác khi họ bắt đầu dạy trẻ sử
dụng nhà tắm. Trong suốt giai đoạn dương vật (3- 6 tuổi), trẻ em trải nghiệm
sự thích thú cao độ với bộ phận sinh dục của chúng. Hầu hết các em tham
gia thủ dâm ở giai đoạn này. Và đặc biệt, tình trạng thủ dâm ở giai đoạn này
chủ yếu diễn ra ở những bé trai là nhiều. Nguyên nhân chủ yếu là những bé
trai thường năng động và nghịch ngợm hơn những đứa bé gái. Ngoài ra
trong giai đoạn này thì trẻ em ở độ tuổi chưa đến trường còn tò mò về cơ thể
của những đứa trẻ khác đặc bệt là những trẻ khác giới.
Giai đoạn cuối và giữa tuổi thơ: Theo Erikson, nhiệm vụ phát triển
chủ yếu của giai đoạn này là đạt đến kỹ nghệ hay cảm giác năng lực xã hội.
Ở giai đoạn nay sự thể tình dục là phổ biến – việc mở rộng tò mò và các cảm
giác thích thú hơn là sự phát triển nhanh mạnh của sự dâm dục. Hứng thú, sự
đụng chạm và thử nghiệm tình dục tiếp tục và thậm chí còn tăng lên vê tần
suất trong những năm tháng đi học. Đùa nghịch và tiếp xúc với những đứa
trẻ cùng giới là phổ biến ở giai đoạn này. Và cũng từ đây thì chúng bắt đầu
kết giao với những đứa trẻ khác giới. Những cô cậu thường đi cùng nhóm
18
với nhau. Một số cô bé, cậu bé lao vào nhau thậm chí còn hẹn hò, tuy nhiên
chưa có quan hệ lãng mạn.
Đến giai đoạn thanh thiếu niên, đây là giai đoạn của sự thay đổi và
khám phá to lớn. Trong những năm tháng này những thay đổi về tình cảm và
thể chất xuất hiện với tốc độ chóng mặt, nó đòi hỏi phải có sự thích ứng
nhanh chóng với những thay đổi đó. Đặc tính tò mò trước đây bị hạn chế bởi
tập tục và những kỳ vọng xã hội. Có lẽ không có khía cạnh nào của thời
thanh thiếu niên lại gây xung đột như sự trưởng thành về mặt sinh học bắt
đầu xuất hiện trong cơ thể người thiếu niên. Chỉ trong vòng một thời gian
ngắn mà một đứa trẻ còn phụ thuộc nhiều vào cha mẹ nay đã trở thành một

người lớn trong xã hội. Tuổi dậy thì là giai đoạn phát triển thể chất nhanh
chóng, đánh dấu sự kết thúc của thời thơ ấu và bắt đầu trưởng thành về mặt
tình dục. Hay nói cách dậy thì là giai đoạn chuyển đổi giữa trẻ con và người
lớn. Con gái thường dậy thì ở tuổi 9 đến 13 sớm hơn con trai vài năm. Và
lúc này em gái có khả năng mang thai. Và ở nam giới thì bắt đầu trải nghiệm
sự xuất hiện "mộng tinh" về đêm (những giấc mơ ẩm ướt), nó thường đi kèm
với giấc mơ về tình dục và sự kích động đến cực điểm. Thời thanh thiếu niên
rõ ràng là một giai đoạn chuyển đổi trở thành người lớn.
Đến giai đoạn trưởng thành thì sinh hoạt tình dục thể hiện dưới nhiều
dạng khác nhau trong mỗi giai đoạn của đời người
Qua mỗi một giai đoạn phát triển của một con người ta nhận thấy rằng
con người luôn luôn có nhu cầu sinh lý về mặt tình dục. Đây chính là bản
năng vốn có của con người từ khi sinh ra cho đến khi mất đi. Tuy nhiên mỗi
một giai đoạn thì có cách thức thể hiện khác nhau. Đồng thời mỗi một giới
lại có cách biểu hiện cũng như mức độ khác nhau.Và một điều cũng dễ lý
giải vì sao hành vi tình dục trước hôn nhân lại tập trung vào thanh thiếu
niên. Đó là vì giai đoạn này con người đã trưởng thành về mặt thể chất cũng
19
như sinh lý. Và đây cũng là giai đoạn ngưỡng cửa giữa trẻ con và người lớn
nên luôn có sự khám phá về những gì mới lạ. Chính điều này dẫn tới việc
các hành vi tình dục trước hôn nhân tập trung vào giới trẻ là nhiều. Chúng
tôi chỉ tập trung nghiên cứu chính độ tuổi thanh thiếu niên và khi trưởng
thành. Bởi theo chúng tôi, những giai đoạn trẻ thơ thì trẻ không nhận thức
được thế nào là hành vi tình dục, chỉ khi lớn lên và có nhận thức thì con
người mới có những hành vi tình dục rõ rệt.
Thứ nhất, con người hiện nay đang sống trong thời đại văn minh
công nghiệp, được tiếp nhận nguồn vật chất, dinh dưỡng và tinh thần rất dồi
dào, phong phú. Nam nữ thanh niên trong độ tuổi 13-16 không những có cơ
thể phổng phao, cường tráng mà các chức năng sinh lý ở tuổi dậy thì cũng
phát triển. Thêm vào đó, họ lại còn được tiếp xúc với những phim ảnh,

những băng đĩa về tình dục khiến cho nhu cầu của họ ngày càng lớn hơn.
Một điều thực tế là hiện nay nam giới có xu hướng lập gia đình muộn hơn so
với nữ, nên để thỏa mãn nhu cầu họ thường có quan hệ tình dục trước hôn
nhân nhiều hơn nữ giới.
Thứ hai, đặc điểm sinh lý của nam và nữ khác nhau thể hiện ở sự
khác nhau cơ bản giữa tinh trùng với trứng (noãn) là ở khả năng di chuyển
tiến lên nhờ cái đuôi của tinh trùng. Con trai thường tìm kiếm sự giải tỏa
trên chính cơ thể mình. Xét về ham muốn tình dục (Sexual desires): Khi vào
lứa tuổi dậy thì, dưới sự ảnh hưởng của kích thích tố (còn gọi là nội tiết tố,
hormone), thân thể người nam và nữ thay đổi rất nhiều và rõ rệt. Ngoài sự
phát triển về thể xác, nội tiết tố giới tính (sex hormone) tiết ra nhiều ở tuổi
dậy thì làm cho người thanh niên, thiếu nữ có những cảm giác rạo rực trong
cơ thể. Họ bắt đầu chú ý đến thân thể mình nhiều hơn và có những thích thú
hay kích tích tình dục khi nhìn thân thể người khác phái. Sự vô tình đụng
chạm thân thể người khác phái tạo nên cảm giác tình dục thích thú và có thể
20
làm cho đứa trẻ vị thành niên (chưa đến 21 tuổi) đỏ mặt bối rối. Sự ham
muốn tình dục của nam giới có tính độc lập không nhất thiết phải có sự tác
động của giới đối lập là phụ nữ. Ham muốn tình dục ở nam giới bộc lộ sớm
và mạnh hơn nữ giới. Ham muốn tình dục ở phái nam thường nghiêng về
vóc dáng cơ thể hơn là tính tình của người con gái. Con trai ở tuổi dậy thì
thích nhìn thân thể người con gái và đặc biệt, chúng thích những bức ảnh
phụ nữ khiêu dâm và có ảo tưởng chiếm đoạt cơ thể người phụ nữ đó. Đối
với con trai, tình yêu thường đồng nghĩa với tình dục. Ham muốn tình dục ở
phái nữ khác hơn. Người thiếu nữ dậy thì không bị kích thích tình dục với ý
nghĩ đụng chạm xác thân mà không có tình yêu. Thân thể bị đụng chạm bởi
người nam giới họ không quen biết sẽ khiến họ sợ hãi hơn là thích thú. Sự
khác nhau về ham muốn tình dục giữa hai giới cho thấy ở lứa tuổi dậy thì,
trước hôn nhân, nam giới có những hành vi tình dục sớm, bộc lộ mạnh mẽ
và nhiều hơn ở nữ giới.

Thứ ba, các chuyên gia nói rằng đàn ông có khuynh hướng tình dục
dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu sinh lý còn phụ nữ thì đa dạng hơn. Các
nghiên cứu cho thấy đàn ông không chỉ có xu hướng tình dục mạnh mẽ hơn
phụ nữ mà còn thẳng thắn hơn rất nhiều. Trái lại, nguồn cảm hứng tình dục
của phái nữ lại rất khó bị ràng buộc. Nguyên nhân chính là phụ nữ đặt nhiều
giá trị vào mọi ràng buộc tình cảm hơn là thỏa mãn tình dục đơn thuần. Theo
Lauman tổng kết, đàn ông nghĩ đến tình dục sẽ nhiều hơn. Đa số đàn ông
trưởng thành dưỡi 60 tuổi nghĩ đến sẽ ít nhất một lần một ngày. Trong khi
đó chỉ ¼ phụ nữ đạt tần suất này. Tuy nhiên theo tuổi tác của hai giới mà họ
giảm dần mơ mộng về tình dục, nhưng đàn ông vẫn mơ mộng nhiều hơn phụ
nữ gấp đôi. Trong một nghiên cứu so sánh khuynh hướng tình dục giữa nam
và nữ, Roy Baumeister, nhà tâm lý học xã hội của đại học Florida đã tìm ra
rằng đàn ông dễ bị kích thích tình dục nhất thời với tần suất và độ phong phú
21
về mơ mộng tình dục nhiều hơn phụ nữ. Điều này dẫn đến, nam giới sẽ có
các hành vi tình dục nhiều hơn nữ giới. Theo ông, thì nhu cầu sinh lý của
nam giới cao hơn phụ nữ rất nhiều. Đàn ông thèm muốn sex thường xuyên
hơn phụ nữ rất nhiều. Điều này không chỉ đúng với những người quan hệ
tình dục khác giới, ông cho biết những người đàn ông quan hệ đồng giới
cũng có tần suất nhiều hơn những người đồng giới nữ. Và đàn ông không chỉ
có một người yêu duy nhất mà họ muốn nhiều bạn tình trong đời hơn và
cũng quan tâm đến những cuộc tình thoảng qua nhiều hơn. Đàn ông thích
thú tìm kiếm sex nhiều hơn ngay cả khi mối quan hệ đó không được tán
thành hay thậm chí ngoài vòng pháp luật tức có hành vi tình dục trước hôn
nhân nhiều hơn nữ giới.
2.1.2. Yêú tố nhận thức- tâm lý
Một yếu tố khác cũng không kém phần quan trọng như yếu tố sinh lý
giữa các giới là yếu tố tâm lý. Yếu tố tâm lý không tách rời mà phát triển
song song với quá trình phát triển sinh lý theo từng giai đoạn, theo đó dẫn
tới các hành vi tình dục cũng thay đổi và có sự khác biệt giữa các giới. Theo

quan điểm của J.P.Masolova được trích ở “Giới tính tuổi hoa”: yếu tố nhận
thức – tâm lí khác nhau theo từng giai đoạn: 1-2 tuổi, 3-4 tuổi;5-6 tuổi; 7-8
tuổi; 9-10 tuổi; 11-12 tuổi, 13-15 tuổi; 15- 18 tuổi… Tuy nhiên, khi xét đến
hành vi tình dục có sự nhận thức đầy đủ thì chúng tôi chỉ bắt đầu xét từ giai
đoạn trẻ bắt đầu dậy thì (từ 9 tuổi trở lên)
Từ 9 đến 10 tuổi: Thời kì bộc lộ những thiên hướng giới tính. Một số
các em trai đã thủ dâm, nhưng thường là làm theo sự hướng dẫn của các cậu
bé nhiều tuổi hơn đầu têu. Còn các em nữ bắt đầu có sự thay đổi về cơ thể
(đối với những em dậy thì sớm).
Từ 11 đến 12 tuổi: Một số các em nam có sự phát triển vượt mức
bình thường. Cả các em nam và nữ đều quan tâm đến vai trò của bố trong
22
chuyện chửa đẻ của các bà mẹ, thích sách có nội dung tình dục. Các em bắt
đầu để ý một bạn nam/ nữ trong lớp.
Ở một số em nữ đã xuất hiện kinh nguyệt, tâm trạng của các em trước
những hiện tượng đó phụ thuộc vào hiểu biết của các em và sự quan tâm của
mẹ. Các em nữ quan tâm đến ngực của mình, xấu hổ khi thấy mình lớn sớm
và có những hành động che dấu.
Một số em nam có những giọt tinh trùng đầu tiên trong những giấc mơ
hoặc thủ dâm. Các em nam thương quan tâm đến cơ thể của mình và bạn
khác giới.
Từ 13 đến 15 tuổi: Đã xuất hiện tình cảm yêu đương, nhưng thường
là đơn phương và yêu thầm. Các em nữ say mê những chàng trai nhiêu tuổi
hơn mình, còn các em nam lại thích những cô gái đoan trang, chững chạc
hơn mình. Thích sưu tầm tranh ảnh khỏa thân, thường hay thủ dâm. Các em
nữ thích nghe những chuyện tình lãng mạn. Cả hai giới ở tuổi này đều quan
tâm tới chuyện tránh thai, phá thai… Bắt đầu từ lứa tuổi này nảy sinh nhiều
hành vi tình dục (quan hệ tình dục, thủ dâm…) nếu không được giáo dục kĩ
càng thì các em sẽ có những hành vi lệch lạc khó kiểm soát. Dẫn đến nhiều
tệ nạn, các hiện tượng xã hội…

Từ 15 đến 18 tuổi: Bắt đầu xuất hiện những mối tình và những giao
tiếp tình dục. Cả hai giới đều củng cố kiến thức hiểu biết trong lĩnh vực tình
dục, quan tâm đến các tư thế giao hợp, kĩ thuật kích thích dạo đầu và các
hiện tượng cực đoan trong tình dục.
Ở tuổi này có sự thay đổi toàn diện đời sống tâm lí- sinh lí, tình cảm
thể hiện ở 3 đặc điểm sau: Thứ nhất, sự thay đổi hành vi tình dục. Nếu ham
muốn tình dục trước đây mới tồn tại ở dạng tiềm năng thì nay nó đã trở
thành một động lực thật sự và được biểu hiện ra trong các hành vi chủa chủ
thể; Thứ hai, sự thay đổi hành vi tâm lí. Đó là sự biểu hiện của cá tính, sự
23
hiện diện các kiểu dạng tâm lí- thần kinh của cá thể. Thứ ba, sự thay đổi tình
cảm. Những biến đổi của năng lực tình dục và tâm lí được thể hiện ra thành
các sắc thái khác nhau. Các em ở giai đoạn này dường như bị rơi vào sự đảo
lộn cá giá trị, chuẩn mực, đạo đức, thẩm mỹ nên nghiên cứu về tình bạn, tình
yêu, tình dục và ảnh hưởng của nó đến sức khỏe sinh sản trong lứa tuổi nhạy
cảm này có y nghĩa khá quan trọng trong giai đoạn hiện nay.
Từ 18 đến 30 tuổi: Đây là giai đoạn của tuổi thanh niên. Lúc này thì
cơ thể của hai giới đã phát triển toàn diện, là độ tuổi dễ dẫn đến hôn nhân.
Cũng là độ tuổi mà các hành vi tình dục được diễn ra nhiều hơn.
Trong các giai đoạn phát triển của những hành vi tình dục của trẻ em
và thanh thiếu niên thì ta nhận thấy lứa tuổi thanh thiếu niên có những nhận
thức và hành vi tình dục bắt đầu rõ ràng hơn. Họ tò mò hơn và có những
biểu hiện hành vi tinh dục (khẩu dâm, thị dâm…). Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào
yếu tố tâm lý của mỗi giới lại có sự khác nhau trong về hành vi tình dục
trước hôn nhân. Yếu tố tâm lý ở đây tác động mạnh đến cá nhân thông qua
các trạng thái tình cảm mang tính chất cảm xúc như yêu, thích, ghét v v
hay những suy nghĩ, thái độ, tình cảm và hành vi được tích luỹ từ những trải
nghiệm trong cuộc sống có ảnh hưởng đến thái độ và hành vi trong các hành
vi tình dục của nam và nữ trước hôn nhân. Yếu tố tâm lý không phải là một
yếu tố riêng lẻ, độc lập và bất biến, nó được hình thành và phát triển đồng

thời với quá trình phát triển sinh lý, nhận thức và sự tác động của các yếu tố
văn hoá - xã hội. Bởi vậy, chúng tôi xin trình bày rõ hơn yếu tố này ở phần
sự khác biệt giới về yếu tố văn hoá - xã hội trong hành vi tình dục trước hôn
nhân.
Sự khác biệt giữa nam và nữ trong động cơ tâm lý xã hội dẫn đến
hành vi tình dục trước hôn nhân được thể hiện qua những tiêu chí sau:
24
Thứ nhất, Sự khác biệt giới trong động cơ có liên quan đến vấn đề
tình cảm dẫn đến hành vi tình dục trứơc hôn nhân. Hành vi tình dục không
chỉ là hành vi có tính bản năng mà còn là một hành vi có sự tác động rất lớn
bởi nhận thức tình cảm của con người. Có rất nhiều vấn đề tình cảm khác
nhau trong quan hệ giữa hai giới. Chúng ta có thể đề cập đến một số khía
cạnh những tâm lý-xã hội dẫn tới hành vi tình dục trước hôn nhân là:
Động cơ muốn tạo mối quan hệ tình cảm lâu dài, bễn vững với đối
phương. Thực tế, việc chập nhận quan hệ tình dục để khẳng định quan hệ
với người mình yêu và tạo ra một mối quan hệ ràng buộc giữa hai người
không phải là ít. Có rất nhiều nhận định rằng trong mối quan hệ tình cảm,
giới nữ thường có những băn khoăn, lo ngại trong quan hệ của mình bởi bất
kể một hành vi nào của hai giới trong quan hệ tình cảm, người ta vẫn cho
rẵng con gái thưòng dễ là ngưòi chịu nhiều thiệt thòi, con gái gắn với đức
tính thuỷ chung còn con trai gắn với bản tính chinh phục. Như một câu
chuyện của cuộc sống chúng ta thường nói rằng: "con trai luôn muốn con gái
là người đầu tiên của con gái còn con gái luôn muốn là người cuối cùng của
con trai". Theo nhận thức của giới trẻ, cuộc sống hiện đại cũng liên quan đến
những thách thức thường trực về đinh hình tính cách thực và những dự tính,
đặc biệt là bạn tình trong tương lai. Những yếu tố tâm lý này thường xảy ra
ở giới nữ nhiều hơn ở giới nam. Từ những tâm lý, những dự cảm về sự thay
đổi mô hình tình cảm hiện tại của đối phương mà không ít giới trẻ tìm đến
hành vi tình dục trước hôn nhân như một giải pháp tìm nhu cầu an toàn về
mặt tình cảm hay dù chỉ là muốn tạo ra một phép thử tình cảm đối với đối

phương. Một phỏng vấn sâu từ nghiên cứu "Vấn đề tình dục tại đô thi đương
đại" của tác giả Tine Gammeltoft trong tạp chí Giới- tình dục và sức khoẻ số
11/2006, khi được hỏi về các thử nghiệm và tình dục đã trả lời: "Khi bạn
thực sự yêu ai, bạn phải biết anh ta có thực sự yêu bạn không. Lúc đầu bạn
25
không thể biết nhưng có rất nhiều cách để tìm hiểu điều đó (Thử thách). Ví
dụ như vấn đề chúng em vừa trải qua (có thai và nạo phá thai)". Trong số
những động cơ của cá nhan muốn tao lập một mối quan hệ lâu dài với đối
phương không ít có nhưng trưòng hợp mong muốn có con để tạo ra một sự
gắn kết nhất định nào đó với người mình yêu. Động cơ tâm lý này thường
xuất phát và diễn biến ở Phụ nữ. Một nghiên cứu của GS.TS Nguyển Quý
Thanh về "Hiện tượng mang thai ngoài hôn nhân" đã chỉ ra số phụ nữ muốn
có con với hy vọng rằng bạn tình, người yêu sẽ cưới họ chủ yếu ở nhóm
chưa từng co chồng và mong muốn có chồng. Chị L. công nhân 30 tuổi nói:
"Em với anh ấy yêu nhau có đến hơn hai năm, cứ mỗi lần em giục cưới là
anh ấy nói từ từ, chưa đủ tiền Em cũng sợ anh ấy thôi hẳn nên em liều có
con. Lúc em nói em nghĩ là em có con, anh ấy phải bàn làm lễ cưới ngay ".
Giới trẻ là đô tuổi đang trải qua hay trong quá trình xác lập cuộc sống xã hội
và tình dục, họ có những lo lắng nhất định về chất lượng và ý nghĩa các mối
quan hệ mà họ đang tham gia với cá nhân khác, trong hướng tiếp cận này
phụ nữ thể hiện nhiều sự lo ngại đối với tính bền vững của đối phương nhiều
hơn ở nam giới.
Động cơ muốn thực hiện hành vi tình dục chỉ để tìm hiểu về nhau trước
khi tiến tới cuộc sống hôn nhân hoặc đóng vai trò như một phép thử thực tế
để kiểm tra tính bền vững mối quan hệ với người bạn tình tương lai. Hành vi
tình dục trước hôn nhân có thể là phép thử để kiểm tra khả năng sinh sản của
hai người. Động cơ này thường trở thành nhu cầu của giới nam nhiều hơn ở
giới nữ. Nhìn từ góc độ đàn ông, "kiểm tra" khả năng sinh sản của người con
gái trước khi đi đến hôn nhân là đặc biệt quan trọng. Nhìn từ góc độ phụ nữ,
"kiểm tra" không chỉ liên quan đến khả năng sinh sản mà còn cả sự đáng tin

cậy và cam kết của người con trai. Như vậy quan hệ tình dục trước hôn nhân
dẫn tới sự biến đổi một cách sâu sắc cảm nhận của hai giới và ít nhiều nó

×