Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

thực trạng giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp ở tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.41 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài:
Thực trạng giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp ở tỉnh
Hưng Yên
Giáo viên hướng dẫn : Cô Hoàng Mộc Lan
Sinh viên : Lê Ngọc Thắng
Lớp : K46-Tâm lý học
Hà Nội, 04 - 2005
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành tơi cô giáo Hoàng Mộc Lan và các thầy cô trong Khoa đã hướng
dẫn chúng em tận tình, cùng với sự giúp đỡ của cơ quan Công an thị xã, công
an tỉnh Hưng Yên.
Trong quá trình chúng em thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng em
cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Tâm lý học trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã trang bị cho chúng
em những kiến thức Tâm lý cũng như kỹ năng bài và nghiên cứu Khoa học trong
thời gian học tập và thực tập vừa qua.
2
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
Chương I : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI GIÁO DỤC TRẺ EM VỊ
THÀNH NIÊN
1. TÊN ĐỀ TÀI:
Giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp.
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt qúa trình đánh giá cách mạng Việt Nam Đảng ta luôn chú
trọng yếu tố con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy


sự phát triển kinh tế - xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ xây
dựng đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng - dân chủ - văn minh. Việc xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ đạo đức thể chất… cũng trở nên
quan trọng và bức thiết. Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn
mạnh : “Đáp ứng yêu cầu của con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Qua nghiên cứu tình hình tội phạm, thực trạng đang diễn biến phức tạp,
có chiều hướng gia tăng cả về số vụ và tính chất mức độ phạm tội. Tình hình trẻ
em phạm tội và các loại tệ nạn xã hội trong nhà trường xảy ra nghiêm trọng ở
hầu hết các địa phương trong cả nước với con số làm nhức nhối trong nhân dân,
đó là số trẻ em (vị thành niên) phạm tội trung bình hàng năm chiếm từ 8 - 10%
tổng số tội phạm, mà trước năm 1986 chỉ có 4,1%. Trước tình hình đó tâm lý
học pháp lý có nhiêm vụ nghiên cứu đưa ra nhiều giải pháp hữu hiệu trong hoạt
động giáo dục cải tạo kẻ phạm tội nói chung và trẻ em vị thành niên nói riêng
nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như các hành vi vi phạm pháp luật
khác để bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức xã hội và của công
dân. Điều quan trọng nhất ở nước ta khẳng định được “Tâm lý học tư pháp là
một chuyên ngành còn mới mẻ trong hệ thống khoa học tâm lý, nhiêm vụ của
tâm lý học tư pháp nghiên cứu những cơ sở tâm lý của hành vi tuân thủ pháp
luật (ý thức pháp luật, đạo đức, ý thức xã hội, những chuẩn mực xã hội, nhân
3
cách của người phạm tội là vị thành niên nói riêng” và có ý nghĩa hết sức to lớn
trong việc phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Ở Việt Nam những chương trình nghiên cứu về “giáo dục cải tạo trẻ em vị
thành niên” trong những năm qua là rất nhiều, có thể xếp đề tài đó theo các thời
kỳ như sau : Từ năm 1954 - 1974 công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.
Từ 1975 đến nay là thời kỳ cả nước độc lập thống nhất xây dựng chủ

nghĩa xã hội, đưa dất nước phát triển. Mỗi một thời kỳ đều có một đặc điểm
riêng, do những đặc điểm có sự chi phối riêng song vấn đề giáo dục cải tạo trẻ
em vị thành niên có nhiều thay đổi, chuyển dịch.
- Từ năm 1954 đến năm 1975 mức độ phạm tội của trẻ em vị thành niên là
rất ít
- Từ năm 1975 đến 1995 mức độ phạm tội của trẻ em vị thành niên có
chiều hướng gia tăng.
- Từ năm 1977 đến nay trẻ em vị thành niên phạm tội tăng cao. Ngành
Tâm lý học Việt Nam phát triển là một khoa học có cách nhìn nhận mới từ cách
hiểu việc giáo dục, cải tạo trẻ em vị thành niên trên phương diện lý thuyết thuần
tuý đến cách hiểu việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên trong thực tế sáng
tạo với các chương trình có giá trị lớn như : Tâm lý học pháp lý, Tâm lý học đại
cương, tâm lý học gia đình… đặc biệt trong Hiến pháp, các Bộ Luật hình sự (sửa
đổi) đã mở ra giải pháp phòng chống tội phạm nói chung và giải pháp giáo dục
trẻ em vị thành niên, giúp họ nhanh chóng tái hội nhập cộng đồng.
1.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Nghiên cứu thực trạng về trẻ em vị thành niên phạm pháp ở Hưng Yên.
Tìm hiểu môi trường xã hội, gia đình đối với giáo dục cải tạo trẻ em vị
thành niên phạm pháp.
Thực trạng trẻ em vị thành niên phạm pháp ở Hưng Yên với những hoạt
động tích cực của các ngành các cấp, các đơn vị công an, trường học.
4
Với trách nhiệm của mình góp phần giáo dục cải tạo các trẻ em hư, phạm
pháp.
1.3. Mục đích nghiên cứu:
Ngành tâm lý học tư pháp có vai trò rất quan trọng trong giáo dục và cải
tạo người phạm tội là vị thành niên tiến bộ trở lại hoà nhập cộng đồng. Viện
nghiên cứu về giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên mang tính nhân văn, nhân
đạo. Nhà nghiên cứu tâm lý học, sinh viên khoa tâm lý học cần tập trung vào
mối quan tâm của gia đình, xã hội, phân tích những yếu tố văn hoá, xã hội từng

giai đoạn lịch sử, trình độ hiểu biết pháp luật, và ý thức tuân thủ pháp luật để
giúp trẻ em phạm tội, chủ động cải tạo, hoàn lương, trở thành thành viên tốt,
sống có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với tâm lý học tư pháp, rất quan tâm đến môi trường cải tạo trẻ em
phạm pháp, đó là yếu tố môi trường xã hội tốt, tổ ấm gia đình, hoàn cảnh sống
được thể hiện ở sự đầu tư của bố mẹ, trẻ em tiến bộ phần lớn phụ thuộc vào sự
chăm sóc của người lớn không phải chỉ là đầu tư tiền bạc mà đầu tư thì giờ tâm
trí tình cảm. Đối với con cái thì nhu cầu hàng đầu là được trưởng thành tiến tới
tự lập.
Để làm việc này chúng ta những sinh viên tâm lý xác định đúng và nhìn
nhận rõ ràng nguyên nhân vì sao một số các em vị thành niên hư phạm tội. Việc
giáo dục cải tạo ra sao? Phương pháp nào đúng, hữu hiệu hơn - nắm và hiểu đầy
đủ kiến thức pháp luật, tuyên truyền mọi người ý thức tuân thủ pháp luật qua đó
khẳng định chế độ nhà nước ta, Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý xã hội bằng
pháp luật, có nhiều ngnàh có vai trò quan trọng trong xây dựng và hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật.
1.4 Khách thể nghiên cứu.
Ngày nay vấn đề giáo dục cải tạo người phạm tội nói chung và trẻ em vị
thành niên phạm pháp nói riêng được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà Tâm lý học
quan tâm nghiên cứu và đưa ra các phương pháp giáo dục cải tạo thích hợp, đã
có những đóng góp xây dựng con người mới làm chủ và xây dựng đất nước. Vì
vậy những người phạm tội, trẻ em vị thành niên phạm pháp được giáo dục cải
5
tạo đó là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng con người
mới có đạo đức, trí tuệ trong thời kỳ đất nước đổi mới hiện nay. Nhiều nhà khoa
học, nhà giáo dục học, tâm lý học đã có thành công trong chiến lược xây dựng
con người mới.
Qua nghiên cứu giáo dục trẻ em vị thành niên phạm pháp chúng ta thấy
được sự hình thành phát triển nhân cách con người phạm tội khi được sự giáo
dục cải tạo là một nhiêm vụ nặng nề và lâu dài, đòi hỏi ở xã hội, gia đình và vai

trò cá nhân vị thành niên vì mục tiêu chung vì sự tiến bộ của trẻ em vị thành
niên.
Trên cơ sở nghiên cứu trẻ em vị thành niên cho phép chúng ta rút ra kết
luận là các nhà khoa học, nhà giáo dục học, nhà tâm lý học tiếp tục có nhiều đề
tài đóng góp vào việc xây dựng chiến lược giáo dục con người cho đất nước, có
giải pháp khả thi trong việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên.
Thực tế hàng năm có rất nhiều trẻ em vị thành niên phạm pháp đã được về
sống hoà nhập cộng đồng trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, góp
phần xây dựng đất nước giàu đẹp văn minh. Kết quả đó trước hết là sự quan tâm
đầy đủ của Đảng và Nhà nước đề ra các đường lối, chủ trương chính sách đúng
đắn, tại cộng đồng dân cư được sự quan tâm của xã hội, gia đình đối với việc
giáo dục trẻ em vị thành niên. Đó là sự đóng góp của các nhà tâm lý học ngày
càng có nhiều công trình nghiên cứu mới đề ra nhiều giải pháp đúng và trúng
trong việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên.
1.5. Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi là tỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm
đồng bằng Bắc Bộ có số dân đông, số trẻ em vị thành niên phạm tội ra sao. Vai
trò của cơ quan pháp luật và tình hình giáo duc, cải tạo ra sao, dư luận thái độ
của người dân Hưng Yên với việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm
pháp.
6
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Đặc điểmt trẻ em vị thành niên phạm pháp.
Điều 20 Bộ luật dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2000 qui định người từ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ
18 tuổi là người chưa thành niên.
Người chưa thành niên phạm pháp là người có những hiểu biết cần thiết
về Tâm lý học, về khoa học giáo dục cũng như về đấu tranh phòng chống tội
phạm của người chưa thành niên.
Để công tác giáo dục trẻ em vị thành niên có hiệu quả cần chú ý các vấn

đề sau :
- Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người chưa thành niên.
- Điều kiện sinh sống và giáo dục của gia đình, nhà trường.
- Có hay không có những người lớn tuổi xúi giục, dẫn dắt phạm pháp.
- Nguyên nhân và điều kiện phạm pháp.
Với mức độ phạm pháp tuỳ theo mà giáo dục tại gia đình hoặc giam giữ
cải tạo ở trại, trường giáo dưỡng do pháp luật qui định, công tác giáo dục tốt, tội
phạm được tha giam giữ. Ban Giám thị phối hợp với chính quyền, tổ chức xã hội
và phường xã để giúp đỡ người đó trở về sống bình thường trong xã hội.
Khái niệm trẻ em phạm pháp : Là trẻ em phạm tội theo tâm lý học tội
phạm đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội; trái với pháp luật và chịu hình phạt,
hành động gây nguy hiểm, đe doạ sự ổn định an ninh cho xã hội, gây hậu quả, vi
phạm quyền được pháp luật bảo vệ.
Nói đầy đủ hơn: Trẻ em phạm pháp trước hết là có hành vi hoàn chỉnh, nó
thoả mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm, chủ quan khách quan thông qua hành
độngk phương tiện công cụ gây án (có mục đích, có chuẩn bị, tội vô cùng lớn).
Về mặt chủ quan : mục đích và động cơ phạnm tội tất cả mọi hành vi,
hành động của con người đều ý thức hành động - Người làm pháp luật tìm động
7
cơ để tăng hoặc giảm nhẹ hình phạt. Động cơ biểu thị ra bên ngoài hành vi kẻ
phạm tội như : trả thù, cướp…
Khi xem xét đánh giá kẻ phạm tội 2 mặt. Thông thường nó thống nhất cả
chủ quan và khách quan. Để hiểu sâu về trẻ em phạm pháp ta cấn hiểu khái niệm
tội phạm được ghi tại điều 8 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong bộ
luật hình sự. Do người có năng lực trách nhiêm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá quốc phòng, an ninh trật
tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức

khoẻ, danh dự nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền lợi ích hợp pháp khác của
công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa”.
Vậy, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái với pháp luật
hình sự và phải chịu hình phạt.
Đặc điểm của trẻ em vi phạm pháp luật: Trẻ em vi phạm pháp luật có
hành vi trái với qui định của pháp luật và gây thiệt hại cho xã hội, như không
tuân theo những quy định của pháp luật. Pháp luật qui định một đằng một số
thanh thiếu niên lại làm một nẻo và có hành vi vi phạm đến tuân thủ pháp luật.
Xâm phạm tới những quan hệ xã hội và pháp luật bảo vệ, gây cho những quan
hệ xã hội những thiệt hại nhất định về vật chất hoặc phi vật chất. ví dụ như đua
xe máy, đánh võng…
- Tính có lỗi của hành vi trong hành vi vi phạm đều trái với pháp luật.
Biết sai nhưng vẫn làm đó là trái với pháp luật. Biết sai nhưng vẫn làm đó là cố
ý: là thực hiện hành vi trái pháp luật tuy nhiên thấy được tính nguy hiểm đã để
mặc cho hậu quả đó xảy ra.
- Vô ý : là dạng trẻ em thiếu kinh nghiệm sống, khi thực hiện hành vi trái
pháp luật không nhìn thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội. Mặc dù người đó
có thể hiểu rõ hậu quả do gia đình, xã hội thông tin, xong không chịu học, chịu
8
nghe, hoặc có thể cho rằng mình có thể khắc phục được hậu quả các loại phạm
pháp mà các em vị thành niên thường phạm tội.
+ Hành vi phạm tội: là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội được qui
định trong bộ luật hình sự do người có trách nhiêm hình sự thực hiện một cách
có ý hoặc vô ý xâm hại nhà nước xã hội chủ nghĩa. Có 4 đặc điểm không thể
thiếu được trong việc qui định người phạm tội.
+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã
hội là hành vi đã gây ra đe doạ gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội xã hội
chủ nghĩa được luật hình bảo vệ.
+ Tính có lỗi : Lỗi là thái độ chủ quan của một người đối với hành vi

nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả gây ra thể hiện dưới dạng cố
ý hoặc vô ý.
+ Tính quy định trong bộ luật hình sự. Các hành vi bị coi là phạm tội đều
phải được qui định trong bộ luật hình sự. Nếu không được quy định trong bộ
luật hình sự thì không bị coi là phạm tội.
+ Tính chịu hình phạt. Tính chịu hình phạt cùng với tính quy định trong
bộ luật hình sự là đặc điểm biểu hiện về mặt hình thức của tội phạm, phản ánh
nội dung của tội phạm là tính nguy hiểm cho xã hội và tính có lỗi. Đã là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi thì phải được qui định trong bộ luật hình sự và phải
chịu hình phát và ngược lại.
Với đặc điểm trên với lứa tuổi từ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi mà vi phạm
pháp luật với 4 đặc điểm trên thì gọi là trẻ em vị thành niên phạm pháp.
Để hiểu đầy đủ về trẻ em phạm pháp vị thành niên theo giáo trình môn
học luật hình sự của trường Trung học An ninh nhân dân I Bộ Nội vụ qui định
tuổi chịu trách nhiêm hình sự: Người từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiêm hình sự về những tội nghiêm trọng do cố ý. Người từ đủ
16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiêm hình sự về tội phạm điều 58 bộ luật hình
sự.
Trong bộ luật hình sự Việt Nam, người chưa thành niên (vị thành niên) là
người đã đến tuổi chịu trách nhiêm hình sự (đủ 14 tuổi) nhưng chưa đủ 18 tuổi.
9
Theo giáo trình Tâm lý học pháp lý của Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn khoa Tâm lý học đánh giá vấn đề người chưa thành niên phạm tội -
đánh giá dưới góc độ gia đình được phản ánh như sau :
Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 nền kinh tế nước ta đã có sự
chuyển đổi lớn: Từ nên kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Do vậy tốc độ tăng trưởng nền kinh tế cũng như đời sống của mỗi gia
đình được cải thiện rõ rệt. Nhưng đồng thời với sự phát triển của nền kinh tế là
sự phát triển của tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội. Đặc biệt, trẻ em vị thành
niên có hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội không chỉ tăng về số lượng mà còn

cả về hình thức và qui mô phạm tội. Theo số liệu của Tổng cục Cảnh sát nhân
dân - Bộ Công an, qua phân tích 1394 em phạm tội năm 1996 thì cơ cấu tội
phạm như sau : 45,6% phạm tội trộm cắp, 12,3% phạm tội hiếp dâm, 1,8% phạm
tội giết người, 1,6% phạm tội chống người thi hành công vụ và 10,6% phạm các
tội khác. So với giai đoạn 1954 đến năm 1986 thì số người chưa thành niên
phạm tội tăng lên rất nhiều. Về tệ nạn xã hội theo số liệu của cục phòng chống tệ
nạn xã hội - Bộ Lao động Thương binh - xã hội thì số thanh thiếu niên chiếm
85% tổng số người sử dụng ma tuý, trong đó 50,4% là trẻ em vị thành niên (tập
trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã trung tâm công nghiệp, dịch vụ…).
Trước hiện trạng trên, khoa tâm lý học - Trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn tiến hành đề tài nghiên cứu “ảnh hưởng của gia đình đến hành vi
phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên”. Qua kết quả điều tra tại trường Giáo
dưỡng số II Ninh Bình và trường phổ thông cơ sở Marie Quirie, qua điều tra 550
trẻ em tại trường giáo dưỡng số 2 Ninh Bình cho thấy 1/5 các em có bố mẹ hoặc
anh chị em đã, đang phạm tội; gần 20% những đứa trẻ được tập trung cải tạo là
có những người thân trong gia đình của mình từng phạm tội, có tiền án, đã và
đang ở trại cải tạo. Trong khi đó trên số liệu đối chứng ở trường Marie Quirie thì
không có một học sinh nào có bố, mẹ hoặc anh, chị, em đã và đang đi tù và cải
tạo. Kết quả trên có thể đánh giá chính xác một số nhân tố từ phía giáo dục gia
đình có ảnh hưởng tốt hoặc xấu tới trẻ như là một trong những nguyên nhân dẫn
tới hành vi phạm pháp luật của trẻ em vị thành niên.
10
1.2. Vai trò gia đình, xã hội với việc cải tạo trẻ em vị thành niên phạm
pháp.
* Định nghĩa : Hoạt động cải tạo là tổng hợp hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức và công dân nhằm từng bước, cải tạo, giáo dục trẻ em vị thành
niên tiến bộ, chấm dứt phạm pháp, hoặc hướng trở về với cộng đồng.
Đối với pháp luật giáo dục bằng hình phạt, là biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước mà kẻ phạm pháp phải thi hành nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người phạm tội. Mục đích của cải tạo, giáo dục phạm nhân được tổ chức

đặc biệt ở trại cải tạo, thông qua giáo dục trên nhiều lĩnh vực và tác động của lao
động cải tạo, dựa trên cơ sở tâm lý con người có khả năng thay đổi dưới tác
động của môi trường bên ngoài được tổ chức thông qua các hoạt động và giao
tiếp tại các trại cải tạo để đạt tới hiệu quả, làm cho phạm nhân có khả năng tự
điều chỉnh, tự điều khiển bản thân để giải quyết các mâu thuẫn tình huống theo
khuôn khổ pháp luật, đạo đức và luân lý trong qúa trình giáo dục cải tạo để trở
thành người tiến bộ, mau chóng hoàn nương, trở về hoà nhập cuộc sống cộng
đồng.
* Đặc điểm : Hoạt động cải tạo trẻ em vị thành niên gắn liền với sự quan
tâm của Nhà nước, của tổ chức xã hội về cơ sở vật chất, đội ngũ quàn giáo ảnh
hưởng trực tiếp tới kẻ phạm pháp.
Môi trường cải tạo giáo dục đặc biệt kẻ phạm tội ít được tiếp xúc với cuộc
sống cộng đồng.
Ở trại cải tạo một mặt sự giáo dục và các biện pháp giáo dục nhân cách
người quản giáo và sự quan tâm của họ tới phạm nhân cũng như lao động và ảnh
hưởng tích cực của lao động dẫn đến sự xuất hiện các phẩm chất tâm lý tích cực
ở phạm nhân. Mặt khác yếu tố trợ giúp như tình yêu gia đình và mong muốn
đoàn tụ, sở thích sáng tạo cá nhân, nguyện vọng chính đáng muốn học nghề,
tiềm năng sáng tạo của người phạm tội, mong muốn nâng cao trình đô học vấn
v.v… đó là những tác động tích cực vào phạm nhân trong qúa trình tái hoà nhập
xã hội của họ.
11
Đặc điểm nữa các chức năng của chế độ cải tạo cần phải xem xét trong sự
thống nhất, trong mối liên quan và giao thoa lẫn nhau.
Dưới góc độ Tâm lý học pháp lý cần nắm vững đặc điểm giáo dục cải tạo
kẻ phạm pháp trong đó có trẻ em vị thành niên phạm tội. Để đưa ra các hướng
mới trong việc nghiên cứu qúa trình tái hoà nhập xã hội của phạm nhân với sự
tham gia của các nhà tâm lý, các nhà tâm lý trị liệu để góp phần trong hoạt động
cải tạo đạt hiệu quả.
Trong quá trình này, các Nhà nghiên cứu cần quan tâm đến cả vai trò của

các tổ chức tôn giáo và người truyền đạo và xem họ như là một nhân tố tham gia
trong qúa trình tái hoà nhập của phạm nhân (trích trong giáo trình Tâm lý học
pháp lý do thày Nguyễn Hồi Loan và Đặng Thanh Nga biên soạn).
Để hoạt động cải tạo trẻ em vị thành niên có hiệu quả cần một loại giáo
dục cải tạo cơ bản sau đây :
Phân tích các diễn biến tâm lý của trẻ em vị thành niên phạm pháp thường
có biểu hiện, ngại học tập, ngại lao động, không tự chủ. Thích ăn chơi đua đòi,
hoặc do bạn bè lôi kéo quen ăn trộm cắp, nghiện hút, cờ bạc… Bởi vậy việc giáo
dục trong xã hội được xã hội hoá gia đình, nhà trường kết hợp giáo dục, phối
hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương giáo dục bằng học tập văn
hoá.
- Lao động, học nghề.
- Tham gia các hoạt động tập thể có lợi.
- Cá nhân tự khẳng định rằng họ có thể trở thành người tiến bộ.
Việc giáo dục cải tạo trong trại cải tạo được tiến hành bởi sự hướng dẫn,
chỉ bảo của người quản giáo với một số hoạt động sau:
- Xây dựng uy tín với phạm nhân.
- Xây dựng nhân cách mới cho phạm nhân bắt buộc cải tạo tốt, tiến bộ,
không sợ học tập, lao động, hiểu được học tập, lao động, học nghề có thể ra xã
hội hào nhập cộng đồng. Đây là thời kỳ chuyển biến quan trọng môi trường sống
hoàn toàn họ phải có kế họach chính cho kè phạm tội ăn năn hối lỗi, chịu cải tạo,
12
xây dựng phẩm chất mới để đáp ứng, chịu khó học tập, lao động học nghề, để
trở thành người tiến bộ. Việc áp dụng các phương pháp cưỡng chễ tâm lý vào
việc cải tạo và điều chỉnh hành vi phạm tội vô thức không có nghĩa là từ bỏ các
phương pháp truyền thống đã được kiểm chứng cũng như các phương pháp hiệu
đính sư phạm đang được áp dụng đối với người chưa thành niên có hành vi lệch
chuẩn. Ngược lại công tác giáo dục phòng ngừa chỉ có thể đảm bảo trong trường
hợp khi các phương pháp cưỡng chế tâm lý được củng cố trong hệ thống giáo
dục cải tạo và được thực hiện trên cơ sở lao động tập thể, học tập, công ích xã

hội. Thông qua qúa trình đó sẽ có khả năng hình thành các xu hướng mới có
định hướng xã hội tích cực ở phạm nhân; từ đó phải nói đến công tác giáo dục
trẻ em phạm pháp sau đây.
1.3. Nghiên cứu thực tiễn công tác giáo dục trẻ em vị thành niên phạm
pháp.
Khi trẻ em vị thành niên phạm phạm pháp được địa phương quyết định đi
cải tạo ở trường giáo dưỡng, thì sự tham gia của các em với hoạt động giáo dục
cải tạo có quy định chung và riêng song được tiến hành thông qua các hoạt động
sau:
- Hoạt động giáo dục cải tạo của người quản giáo trong trại giam: giáo
dục là yếu tố quan trọng quyết định đến sự hình thành nhân cách phạm nhân.
Những người cống hiến mình cho hoạt động nặng nề và nhân đạo đó là những
cán bộ quản giáo mẫu mực được thể hiện ở một số khía cạnh dưới đây:
+ Niềm tin của người quản giáo trong hoạt động giáo dục cải tạo phạm
nhân, Người quản giáo truyền bá cho phạm nhân thế giới quan đang được tiếp
nhận trong xã hội, cũng như một loạt các phẩm chất quan trọng khác. Lòng yêu
tổ quốc, lòng nhân đạo, tính trung thực… để hình thành phẩm chất này, nhà giáo
dục cần phải tin tưởng chắc chắn vào kết quả cuối cùng của công việc mình
đang thực hiện dù phải vượt qua khó khăn sẽ gặp phải. Niềm tin này của họ cần
được truyền cho phạm nhân “tồi tệ” nhất.
+ Giao tiếp của quản giáo trong hoạt động giáo dục cải tạo phạm nhân.
13
Đây là việc tổ chức giao tiếp với phạm nhân trong qúa trình giáo tiếp diễn
ra sự truyền đạt thông tin có định hướng. quan trọng không phải chỉ nói gì, mà
quan trọng cả việc nói như thế nào, và ai nói, có trường hợp quản giáo không thể
truyền thụ những tư tưởng của mình đến phạm nhân do có sự ngăn cách tâm lý,
trẻ em sợ quản giáo, sợ quát, mắng, mệnh lệnh. Điều đó chứng tỏ công tác giáo
dục trẻ em phạm pháp rất khó. Vai trò to lớn trong việc giải quyết vấn đề này, là
khả năng đặc biệt của người quản giáo nắm bắt các đặc điểm tâm lý riêng biệt
của người đối thoại.

+ Tổ chức hoạt động giáo dục cải tạo phạm nhân của quản giáo: Quản
giáo ở trại lao động cải tạo thường xuyên phải làm việc với phạm nhân. Để giải
quyết đúng đắn các nhiêm vụ sản xuất giáo dục, quản giáo cần phải là nhà tổ
chức giỏi, người có ý chí. Tài năng tổ chức của quản giáo thể hiện ở việc thành
lập tập thể phạm nhân, lãnh đạo tập thể này và lãnh đạo qúa trình sản xuất. Phải
biết đưa vào cuộc sống các ý định của mình và biết vượt qua sự chống đối bên
ngoài hoặc bên trong của những người xung quanh.
Bởi vậy phải tạo ra uy tín nhất định trong mắt của phạm nhân, nhất là trẻ
em vị thành niên. Có thể uy tín đầu tiên là kiến thức về công việc của mình, có
kiến thức chuyên môn, kỹ năng kỹ xảo, thứ hai là giải quyết sáng tạo các nhiêm
vụ giáo dục không có thành kiến. Thứ ba, tinh thần trách nhiêm cao đối với các
hành vi của mình cũng như hành vi của những người dưới quyền. Thứ tư, trình
độ văn hoá cao, phong cách riêng trong công việc có như vậy mới có hiệu quả
trong công tác giáo dục phạm nhân, trong đó có trẻ em vị thành niên phạm pháp.
+ Hoạt động thiết kế của quản giáo liên quan đến việc lựa chọn các đối
sách, phương hướng giáo dục, lập kết hoạch, chiến thuật và chiến lược giáo dục.
Sự phức tạp của qúa trình giáo dục đối với các phạm nhân thể hiện qua
một loạt khó khăn, phần đông phạm nhân không có đầy đủ phẩm chất của một
con người tốt, họ có sự lệch lạc trong nhận thức về pháp luật, về đạo đức, luân lý
và tinh thần. Phạm nhân có những phản đối ngầm hoặc ra mặt đối với qúa trình
giáo dục, các điều kiện cách ly ở trại lao động cải tạo không cho phép sử dụng
tất cả các biện pháp tác động giáo dục lên nhân cách. Trong số những phạm
14
nhân, có một số lượng lớn không muốn chấp nhận được giáo dục, vì vậy cần
phải có cách tiếp cận riêng biệt.
Đối với trẻ em vị thành niên việc học tập văn hoá, học nghề có thuận lợi
hơn phạm nhân lớn tuổi, cần áp dụng giáo dục riêng biệt. Ví dụ phương pháp
giáo dục của nhà sư phạm, nhà tâm lý học người Nga Ma ca Ren cô, dạy các em
học sinh hư, cá biệt có hiệu quả.
Đối với công việc cải tạo lao động đối với trẻ em vị thành niên, có biện

pháp và giao công việc thích hợp hơn, địa điểm, thời gian. Khối lượng công việc
đảm bảo hiệu quả công việc, thể hiện các điều kiện tâm lý xã hội và hiểu tâm lý,
tính cách trẻ em vị thành niên để đạt được thành công trong công tác giáo dục.
1.4. Phân loại ảnh hưởng của môi trường xã hội, gia đình trong việc
giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp.
a- Công tác giáo dục chung.
Vấn đề giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm tội là một vấn đề phức
tạp, khó khăn, lâu dài. Hiểu nó như thế nào và đánh giá nó như thế nào cho thoả
đáng. Với quan điểm tâm lý học pháp lý và kiến thức học trong tâm lý học cần
đề xuất một số vấn đề trong giáo dục, cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp.
Vấn đề tồn tại : Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan công tác
chăm sóc giáo dục trẻ em của gia đình và nhà trường phổ thông chưa quan tâm
đầy đủ tới công tác giáo dục trẻ em vị thành niên phạm pháp.
Như phân tích ở trên, có một số gia đình có bố, mẹ, anh chị em vi phạm
pháp luật, chưa gương mẫu khi các em hư mặc cảm, thiếu quan tâm để các em đì
vào tội lỗi, phạm pháp. Một số nhà trường chưa tiếp quản hết các em đang độ
tuổi đi học, có một nguyên nhân cơ bản là các cháu lười học. Việt phát triển đô
thị hoá các cháu bỏ học lên thành phố lang thang hoặc đánh giầy thuê, làm thuê
kíêm tiền. Có một số địa phương chưa làm tốt công tác quản lý xã hội, quản lý
nhân khẩu, để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo trẻ em. Mặt khác do nền kinh tế vận hành
theo cơ chế thị trường đòi hỏi Quốc hội cần liên tục xây dựng và ban hành các
luật, sửa đổi luật, có một bộ phận trong nhân dân chưa nắm và hiểu đầy đủ về
luật, trong đó có các em vị thành niên.
15
b. Một số đề xuất và vai trò của gia đình, nhà trường xã hội trong việc
giáo dục trẻ em vị thành niên
- Trước hết cần xác định gia đình và các thành viên trong gia đình, là đối
tượng của công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi người nhận thức được vai trò
chức năng của mình trong việc chăm sóc, quản lý giáo dục con em, coi trẻ em là
đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc đặc biệt. Phải có kiến thức trong việc giáo

dục trẻ em, thực hiện tốt cuộc vận động do mặt trận phát động : “Người lớn
gương mẫu, trẻ em chăm ngoan” và “ông bà, cha mẹ mẫu mực, con trung hiếu,
cháu thảo hiền”.
- Chính quyền các cấp nhất là ở cơ sở quan tâm tới sự nghiệp giáo dục của
nhà trường phổ thông, tạo điều kiện các cháu trong độ tuổi được đến trường
không có trường hợp nào bỏ học, đứt học. Mặt khác chính quyền các cấp nhất là
ở cơ sở phải tăng cường công tác quản lý xã hội làm tốt công tác quản lý xã hội,
làm tốt công tác quản lý nhân khẩu, thường xuyên quan tâm giúp đỡ những gia
đình khó khăn. Thực hiện tốt chính sách xã hôị, thực hiện chỉ tiêu xoá đói, giảm
nghèo, không mặc cảm với gia đình và người lầm lỗi, tạo điều kiện để họ hoà
nhập cộng đồng không để kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo.
- Quản lý tốt công tác dịch vụ, kinh doanh, các hoạt động văn hoá xã hội
trên địa bàn dân cư. Mặt trận và các đoàn thể hoạt động mạnh, không để các em
tiếp xúc với các loại văn hoá độc hại. Cần hoạt động tốt để các em tham gia
đoàn thể, vui chơi, sinh hoạt lành mạnh.
Đối với các em vị thành niên có biểu hiện vi phạm pháp luật, cần kết hợp
giữa chính quyền, gia đình và nhà trường quản lý giáo dục để các em trở thành
người tốt.
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân tâm lý xã hội của trẻ em vị
thành niên phạm pháp, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các hoạt
động tư pháp, đối tượng tác động của những cán bộ công tác trong các cơ quan
tư pháp chủ yếu là những người đã thực hiện hành vi phạm tội. Nếu cán bộ tư
pháp không nắm vững được bản chất của người phạm tội, không nắm được
những đặc điểm tâm lý của qúa trình thực hiện tội phạm, thì họ không thể hoàn
16
thành tốt các chức năng chuyên môn của mình. Để đấu tranh phòng chống tội
phạm có kết quả tốt, ngoài việc nghiên cứu các quy luật tâm lý chung của qúa
trình trẻ em vị thành niên phạm tội, chúng ta cần nghiên cứu nguyên nhân tâm lý
xã hội nào dẫn con người đến thực hiện hành vi phạm tội.
Trong thực tế, hành vi phạm tội, luôn được nghiên cứu trong mối quan hệ

phối hợp “Môi trường - Người phạm tội”. Con người sinh ra không hề có sẵn
một chương trình xã hội đã được chuẩn bị, mà chương trình này được hình
thành ở con người bởi thực tiễn xã hội, trong qúa trình phát triển cá thể của họ
có đặc tính tâm lý của con người được hình thành nhờ hoạt động thực tiễn xã hội
của con người: Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga có công trình khoa học
của ông A.N.Lê-ôn-Chép đã nhận xét rằng : Nhân cách không phải là một chính
thể tạo ra do di truyền, nhân cách không phải bẩm sinh, mà nó được hình thành
dần dần. Nhân cách đó là sản phẩm của qúa trình phát triển lịch sử xã hội và qúa
trình phát triển gen di truyền của con người.
Khi nghiên cứu trẻ em vị thành niên phạm pháp, việc phân tích nhân cách
trong mỗi tác động qua lại với môi trường xã hội có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi
vì hành vi phạm pháp phát sinh không phải từ chính môi trường hoặc do chính
cá nhân, mà nó phát sinh do mỗi tác động qua lại giữa môi trường và cá nhân.
c- Vai trò giáo dục của gia đình;
Có thể nói gia đình là môi trường xã hội đầu tiên giúp cho trẻ sớm hoà
nhập với xã hội, vì vậy, để ngăn chặn sự phát triển sai lệch, sự nhận thức không
đúng đắn, và để cho một nhân cách phát triển một cách toàn diện, đồng thời
ngăn chặn trẻ em vị thành niên có hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm pháp
ngay trong phạm vi quản lý của gia đình thì trước hết gia đình phải :
- Các bậc cha mẹ phải có tấm gương cho con cái trong mọi việc làm của
bản thân mình.
- Cha mẹ phải tạo điều kiện cho con cái được vui chơi, được đến trường
học hành.
- Cha mẹ phải có lối sống thuỷ chung, lành mạnh, yêu thương lẫn nhau.
Ngoài ra chúng ta cần phải phát triển các trung tâm tư vấn giúp các em, các bậc
17
cha mẹ lựa chọn phương pháp, cách thức giáo dục con cái cho phù hợp với hoàn
cảnh của họ. Đặc biệt trang bị hay giúp đỡ trang bị kiến thức về gia đình cho
nam nữ thanh niên trước khi bước vào cuộc sống gia đình.
- Trẻ em vị thành niên, hướng thiện tự nguyện hoà nhập cuộc sống cộng

đồng, phấn đấu tiến bộ.
18
KẾT LUẬN
Việc giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp là một
đóng góp lớn trong chính sách quan tâm tới con người của Đảng và
Nhà nước. Bởi vì con người không là một thứ “vật chất” bị động, con
người có những khả năng to lớn: nghị lực, ý chí, tự do. Trong tâm lý
học tư pháp đã khẳng định con người có thể khắc phục vượt qua môi
trường không thuận lợi, đến với môi trường mới thông qua giáo dục
cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp sẽ hoàn lương trở thành con
người tốt, đó là những đóng góp quan trọng của môn Tâm lý học.
Thực tiễn của đất nước ta những năm vừa qua đã cho thấy rằng:
trong thời kỳ bao cấp tình hình vi phạm pháp luật trong nhân dân nói
chung và trẻ em vị thành niên nói riêng có giảm so với thời kỳ hiện
nay. Nhưng nghiên cứu về tâm lý học ta có quyền tự hào sau 18 năm
thực hiện đường lối do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Trên
đất nước ta diễn ra nhiều thay đổi lớn lao trên mọi mặt của đời sống
xã hội, đã và đang giành nhiều thành tựu to lớn trong qúa trình phát
triển kinh tế xã hội. Những năm qua ngành tâm lý học, một bộ phận
quan trọng của khoa học xã hội và nhân văn đã có bước phát triển
đáng kể. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng của ngành tâm lý học trong
đó có Tâm lý học pháp lý được áp dụng và tiến bộ hơn, sâu hơn của
đời sống xã hội. Có nhiều đóng góp nhằm hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật của Việt Nam ngày càng đầy đủ hơn, phong phú hơn. Đó là đời
sống pháp luật đang sống động, một trào lưu tâm lý xã hội mới đã
hình thành và ngày càng phát triển, trào lưu đề cao vai trò và những
giá trị của pháp luật đã không chỉ còn là khẩu hiệu “Sống và làm việc
theo pháp luật” mà đã trở thành nhu cầu tự thân mang tính khách
quan, phổ biến của đời sống xã hội và cả mọi người.
Từ lý luận đó theo tâm lý học nghiên cứu chủ đề: Giáo dục trẻ

em vị thành niên phạm pháp hiện nay ở nước ta Mặt trận tổ quốc và
Bộ Công an đã có đề án: “Phát động toàn dân tham gia phòng ngừa,
19
phát hiện, tố giác tội phạm, cảm hoá giáo dục, cải tạo người phạm tội
tại gia đình và cộng đồng dân cư”.
Từng bước ngành tâm lý học có trách nhiêm nghiên cứu, phân
tích chỉ rõ những ưu điểm, khuýêt điểm trong việc giáo dục cải tạo
trẻ em vị thành niên phạm pháp, và đóng góp vào việc đẩy lùi tình
trạng phạm pháp trong nhân dân nhằm duy trì an ninh, an toàn xã hội
và đảm bảo công bằng xã hội.
Phương hướng dự định tiếp theo của tâm lý học tư pháp cần tiếp
tục tuyên truyền mạnh mẽ về tác hại của hành vi phạm pháp đối với
đời sống xã hội để nhân dân nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tích
cực tham gia phòng chống tội phạm, đặc biệt chú ý tới việc giáo dục
cảm hoá đối tượng trẻ em vị thành niên phạm pháp.
- Ở địa phương, đơn vị, trường học và gia đình không ngừng
khơi dậy truyền thống tinh thần phòng chống tội phạm mạnh mẽ, đặc
biệt ở các nơi dân cư phức tạp. Nhờ đó hạn chế được tội phạm, tình
làng nghĩa xóm ngày càng gắn bó, đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau,
tạo đà để tiếp tục triển khai làm tốt nhiệm vụ giáo dục cải tạo trẻ em
vị thành niên phạm pháp ngày một tốt hơn, mang lại niềm tin trong
nhân dân.
Kết quả đã đạt được qua nghiên cứu trên khẳng định môn Tâm
lý học tư pháp nói riêng và ngành Tâm lý học nói chung đã có đóng
góp quan trọng vào thực tiễn công tác giáo dục cải tạo trẻ em vị thành
niên phạm pháp.
NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN.
Tại thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên về giáo dục cải tạo trẻ em
vị thành niên phạm pháp.
Đề xuất những ý kiến đối với các cơ quan pháp luậ, các cấp

Đảng, chính quyền, đoàn thể và gia đình trong công tác giáo dục cait
tạo trẻ em vị thành niên.
GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU:
20
1. Giáo dục cải tạo trẻ em vị thành niên phạm pháp có vai trò to
lớn trong chính sách quan tâm đối với con người của Đảng và Nhà
nước, các địa phương và gia đình chủ động cùng cơ sở trại giáo
dưỡng quan tâm giáo dục, không mặc cảm với trẻ em vị thành niên
phạm pháp, có dư luận nghiêm khắc để giáo dục trẻ em, đón nhận và
giúp đỡ các em hoà nhập cộng đồng, tránh khuynh hướng mặc cảm.
2. Trong việc xây dựng các qui chế về nếp sống văn minh mới,
người thiếu niên mới xã hội chủ nghĩa, gia đình no ấm, hạnh phúc.
Trong gia đình ngày nay, các biện pháp giáo dục gia trưởng,
độc đoán không còn phổ biến thích hợp nữa, quan hệ giữa cha mẹ và
con cái đã trở lên dân chủ hơn, các bậc cha mẹ đã kết hợp nhiều biện
pháp giáo dục khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đối với
con cái. Gia đình đóng vai trò quan trọng vào nhiệm hạn chế, giảm
đối tượng trẻ em vị thành niên phạm pháp.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp an két
2. Phương pháp phỏng vấn
3. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
4. Phương pháp thống kế toán học.
21
CHƯƠNG II. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. VÀI NÉT VỀ ĐỊA PHƯƠNG NƠI TIẾN HÀNH NGHIÊN
CỨU:
Tỉnh Hưng Yên nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc Châu thổ đồng
bằng Bắc Bộ, phía đông giáp Hải Dương, phía Nam giáp Thái Bình, phía
Bắc liền kề với Hà Nội và Bắc Ninh, phía Tây giáp Hà tây và Hà Nam.

Đây là mảnh đất phù sa màu mỡ, có truyền thống văn hiến của nước ta.
Hưng Yên có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, thị, gồm 160 xã, phường,
thị trấn với diện tích 923.329 km
2
và dân số 1.079.446 người, với thành
tưu đã đạt được trong công cuộc xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại
hoá. Tỉnh Hưng Yên phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 10%
năm, công nghiệp tăng trên 20% dịch vụ tăng 18%, nông nghiệp tăng
4,5%. Cơ cấu kinh tế hình thành nông nghiệp - công nghiệp, xây dựng -
dịch vụ 34% - 30% - 36%. Thu nhập bình quân đầu người trên 500 USD.
Là một tỉnh đã tham gia câu lạc bộ trên 1000 tỉ của nước nhà, phát triển
nông nghiệp, giá trị thu được trên 1 ha canh tác đạt 37 triệu đồng, tỷ lệ
phát triển dân số 1,1%, tạo việc làm cho 1,5 vạn lao động bình quân trên
năm, tỷ lệ hộ nghèo còn 3,6%, trên 40% số làng được công nhận là làng
văn hoá, 100% xã phường phổ cập trung học cơ sở, thị xã Hưng Yên và
đô thị Phố Nối phổ cập trung học phổ thông trong độ tuổi trên 80%
phòng học phổ thông kiên cố cao tầng. Trên 75% cơ sở Đảng trong sạch
vững mạnh, chính quyền, đoàn thể vững mạnh.
Tuy nhiên trong quá trình đô thị hoá, cũng như việc tái lập tỉnh, thị
xã Hưng Yên là thủ phủ của tỉnh, tình trạng Hưng Yên có lợi thế gần
Thủ đô có điều kiện thực hiện công nghiệp hoá, phát triển đô thị nhanh,
đương nhiên có một số mặt trái là trở thành giai cấp công nhân thì không
cần ruộng đất, thực trạng có nhiều gia đình thu đất thì mất việc làm, tiền
đền bù, sử dụng không hợp lý, khi đồng tiền trượt giá, hoặc mua sắm,
xây nhà là hết tiền.
22
Nền kinh tế thị trường, các quy luật khắt khe của nó đang gõ của
vào lĩnh vực giáo dục, vào các trường học, khuynh hướng tiêu cực phát
triển. Các em vị thành niên một số mặc cảm, thụ động luôn ám ảnh việc
không có tiền thì không có bằng cách nào mua nổi kiến thức. Sự phân

hoá giàu nghèo, sự khác biệt ngày càng xa giữa nông thông và thành thị,
đã tạo nên những sự nghịch cảnh, sự chênh lệch lớn trong thu nhập, chi
phí của các tầng lớp nhân dân.
Tình trạng có sự phân biệt giai tầng xã hội nảy sinh, cán bộ đặc
biệt là doanh nghiệp lương trên 1 triệu đồng, nông dân thu nhập vẫn còn
rất thấp, dư thừa lao động. Tuy nhiên khi đến làng nghề, đến các doanh
nghiệp tư nhân chưa thích ứng với từng lao động mới xuất hiện. Mọi
người ở mọi nơi đến tụ tập, cờ bạc xuất hiện một số mặt trái phạm tội,
thậm trí có cả phạm tội có tổ chức như một số cháu trộm cắp lấy đinh ốc
cầu Yên Lệnh, lấy nắp cống tại các công viên, một số con nhà giầu sống
phè phỡn trác táng ăn tiêu xa xỉ tiêu sài 1 ngày bằng 1 tháng, 1 năm của
em nghèo, đã đập vào nhận thức lớn trẻ, một số em đua đòi, hành động
mất phương hướng và tội lỗi.
Các nhóm bỏ học lên thành phố lang thang, một số em bị đứt học
bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo hư hỏng, dẫn đến phạm pháp ngày một tăng.
Hiện nay tình hình hoạt động của một số tội phạm và các tệ nạn xã hội,
nhất là nạn nghiện ma tuý, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ ma tuý ngày
càng gia tăng trong thanh, thiếu niên. Bên cạnh các tệ nạn xã hội ma tuý,
mãi dâm, cờ bạc, trộm cắp, mê tín dị đoan là mặt trái của thị trường nó
đã tác động làm suy thoái đến phẩm chất đạo đức của một số thanh, thiếu
niên trong tỉnh Hưng Yên. Tỉnh Hưng Yên có 10 trại tạm giam tại 10
huyện thị và 1 trại giam của tỉnh. Trong 5 năm qua công an trong tỉnh đã
bắt giữ 384 đối tượng vi phạm pháp luật trong độ tuổi thanh thiếu niên,
năm 2000 giảm 22,3% tội phạm, năm 2002 tăng, năm 2003 - 2004 giảm.
Vì thế khi tiến hành nghiên cứu thực tế, khi tiền hành phát phiếu
điều tra, ngoài số em vị thành niên phạm pháp tại trại tạm giam tỉnh và
23
thị xã. Chúng tôi cũng đã tham khao9r trao đổi với đồng chí Giám thị,
cán bộ trại giam, các em và các gia đình của thị xã Hưng Yên với mong
muốn có được số liệu đánh giá thực trạng, khách quan hơn.

Trên đây là một vài nét sơ lược về các cơ sở tiến hành điều tra,
nghiên cứu. Một số điểm chung mà chúng tôi nhận thấy là dù ở địa điểm,
thời gian nào thì các em vị thành niên phạm pháp, cũng như các gia đình,
các cán bộ cơ quan trại tạm giam, các cơ quan có liên quan tại địa
phương rất tận tình giúp đỡ chúng tôi trong việc trả lời phiếu và chỉ dẫn,
cung cấp tin phục vụ trong công tác nghiên cứu của chúng tôi.
2.2. Thực trạng số các em vị thành niên vi phạm pháp luật và tai
tệ nạn xã hội tại tỉnh Hưng Yên.
Trong những năm qua đặc biệt từ năm 1997 tỉnh Hưng Yên được
tái lâpu, tỉnh Đoàn Hưng Yên đã chủ động với công tác ngăn chặn tội
phạm và tệ nạn xã hội trong lứa tuổi thanh thiếu niên. Qua tổng hợp báo
cáo thống kê của tỉnh Đoàn, Tỉnh Hưng Yên với dân số 1.099.446 người
Thanh thiếu niên chiếm 70% trong đó số từ 16 tuổi trở xuống có 600.000
em. Thực hiện việc ngăn chặn tội phạm và tai tệ nạn xã hội trong thanh
thiếu niên những năm qua báo cáo phản ánh đã bắt giữ 389 đối tượng là
trẻ em vị thành niên phạm pháp, tham gia cảm hoágiáo dục 913 em lầm
lỗi, con số trẻ em hư quá lớn ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội của
địa phương.
Để làm rõ thực trạng trẻ em vị thành niên phạm pháp của tỉnh
Hưng Yên, chúng tôi đẵ nắm số liệu tại Toà án tỉnh và trại giam tỉnh,
con số đối tượng vị thành niên phạm pháp đến trại tạm giam 3 năm qua
là 194 đối tượng.
Năm 2000 có 33 đối tượng
Năm 2001 có 39 đối tượng
Năm 2002 có 47 đối tượng
Năm 2003 có 44 đối tượng
Năm 2004 có 31 đối tượng
24
Với thực trạng trên, qua nghiên cứu đề tài chúng tôi đã cố gắng tập
trung làm rõ thêm thực trạng, nguyên nhân trẻ em vị thành niên phạm

pháp thông qua nghiên cứu thực tế tại trại giam tỉnh Hưng Yên.
2.3. Cơ cấu tội phạm.
Qua làm việc với Ban quản lý trại giam, qua phân tích 194 đối
tượng trẻ em vị thành niên phạm pháp, 5 năm qua thì cơ cấu tội phạm
như sau:
58% phạm tội trộm căp, 10% phạm tội hiếp dâm, 2% phạm tội giết
người (trong đó nhiều trường hợp mượn xe máy người lớn đâm chết
người), 1% phạm tội chống người thi hành công vụ, 5% phạm tội tập thể
phá tài sản công dân và tập thể, 24% phạm tội khác. Với ơ cấu trên so
với cơ cấu tội phạm là vị thành niên trong toàn quốc có một số điểm
tương đồng ở cơ cấu tội phạm như cơ cấu phạm tội trộm cắp là đông
nhất, tiếp theo là tội hiếp dâm, tội tụ tập phá hoại tài sản công dân và
Nhà nước.
Trong công tác phòng chống và các tệ nạn xã hội ở Hưng Yên đã
tích cực tuyên truyền vận động, con cháu không mắc vào tội phạm,
không mắc vào tệ nạn xã hội như hút, trích ma tuý, cờ bạc, góp phần làm
giảm tỷ lệ cơ cấu tội phạm so với toàn quốc. Thông qua con số tội phạm
là trẻ em vị thành niên được so sánh trên. Tuy nhiênb kết quả so sánh đó
có thể khập khiễng trong thực tế, nhưng nó là căn cứ khoa học cho chúng
tôi nghiên cứu và rút ra kết luận:
Thực trạng số trẻ em vị thành niên trong tỉnh Hưng Yên vi phạm
pháp luật và phạm pháp là tương đối cao, là một trở ngại khó khăn trong
việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ, đòi hỏi mọi người quan tâm đầy đủ,
có trách nhiệm cao trong việc giáo dục cải tạo các cháu tiến bộ trởlại hoà
nhập với cộng đồng, góp phần tích cực ngăn chặn tội phạm và tai tệ nạn
xã hội trong thanh thiếu niên.
25

×