Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp – Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của công ty TNHH Công nghiệp và Thương Mại Hà Nội(HATRICO)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.54 KB, 90 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
MỤC LỤC
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn.
HATRICO : Công nghiệp và Thương mại Hà Nội.
TSLĐ : Tài sản lưu động.
DT : Doanh thu.
DN : Doanh nghiệp.
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đai hóa.
NPV : Giá trị hiện tại ròng.
CBCNV : Cán bộ công nhân viên.
VNĐ : Việt Nam đồng.
USD : Đô la Mỹ.
NK : Nhập khẩu.
XK : Xuất khẩu.
VLĐ : Vốn lưa động.
LNST : Lợi nhuận sau thuế.
WTO : Tổ chức thương mại thế giới.
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
1
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp


53B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài.
Là một ngành công nghiệp nặng quan trọng, giữ vai trò then chốt trong
sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền Công nghiệp gang thép mạnh là
sự đảm bảo ổn định và đi lên của nền kinh tế một cách chủ động, vững chắc.
Sản phẩm thép là vật tư, nguyên liệu chủ yếu, là “lương thực” của nhiều
ngành kinh tế quan trọng như ngành cơ khí, ngành xây dựng; nó có vai trò
quyết định tới sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trên thế
giới đa số các nước thành công về phát triển kinh tế luôn xác định ngành thép
là ngành kinh tế mũi nhọn, hàng đầu và tập trung đầu tư cho nó phát triển.
Hiện nay trình độ quản lý là một trong những yếu tố quan trọng để phát
triển doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi doanh nghiệp phải quản lý
và sử dụng nguồn vốn cũng như tài sản của doanh nghiệp mình một cách có
hiệu quả. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Là một doanh nghiệp non trẻ, trên con đường vươn ra biển lớn của
mình, mặc dù đã và đang có những bước phát triển nhanh chóng nhưng trong
thời gian trở lại đây cũng đang gặp không ít khó khăn phần vì cạnh tranh
ngày càng gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài, phần vì chưa có đường
hướng phát triển thực sự đúng đắn. HATRICO có thể phát triển được hay
không còn phụ thuộc vào việc sử dụng các nguồn lực của công ty để đề ra các
chiến lược kinh doanh sắc bén nhất, hiệu quả nhất. Công tác quản lý TSLĐ,
một trong các chiến lược quản trị chủ yếu của các doanh nghiệp thương mại
hiện nay.
Do đó công tác quản lý và sử dụng tài sản là vấn đề hết sức quan trọng,
cấp bách và cần thiết đối với doanh nghiệp. Chính vì vậy mà trong thời gian
thực tập tại công ty TNHH Công Nghiệp và Thương Mại Hà Nội
(HATRICO), em đã đi sâu vào nghiên cứu hiệu quả sử dụng tài sản lưu động

và lựa chọn đề tài : “NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU
ĐỘNG CỦA CÔNG TY TNHH CÔNG NHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI HÀ
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
NỘI (HATRICO)” với mong muốn đưa ra được những biện pháp để có thể
nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tại doanh nghiệp.
2. Mục đích và ý nghĩa nghiên của đề tài.
Vận dụng những lý thuyết đã học vào thực tiễn nhằm củng cố. Bổ sung
vào hoàn thiện các lý thuyết đã học.
Hệ thống hóa các kiến thức về công tác tài chính trong một doanh
nghiệp.
Đi vào tìm hiểu tình hình sản xuất và tài chính của các doanh nghiệp trẻ
hiện nay. Từ đó đánh giá và phân tích hoạt động sản xuất công tác quản lý tài
chính của doanh nghiệp một cách khách quan trên thị trường.
Thông qua việc đánh giá và phân tích tìm ra lợi thế cạnh tranh cũng
như các điểm yếu, từ đó đề xuất một số biện pháp hoàn thiện khâu quản lý tài
sản, tài chính và thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: công tác quản lý và sử dụng
vốn lưa động của công ty HATRICO.
Phạm vi của đề tài này là thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn lưa động của công ty HATRICO trong giai đoạn 2011-2013.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện nội dung của bài viết em đã sử dụng các biện pháp nghiên
cứu sau:
Phương pháp so sánh.
Phương pháp tỷ số.

Phương pháp liệt kê và phân tích.
5. Kết cấu của đề tài.
Chuyên đề thực tập này gồm có ba phần:
Phần mở đầu: Giới thiệu sự cần thiết, ý nghĩa, đối tượng, phạm vi
nghiên cứu, phương pháp, nội dung của đề tài nghiên cứu.
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
Phần nội dung của đề tài: phần này gồm 3 chương
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG. Phần này là những lý luận chung
về doanh nghiệp, về tầm quan trọng của việc nghiên cứu hiệu quả sử dụng tài
sản lưu động cũng như nội dung và phương pháp để nghiên cứu đánh giá.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
CỦA CÔNG TY TNHH CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI HÀ NỘI
(HATRICO). . Đây là phần thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp. Trong
chương này bên cạnh việc giới thiệu về lịch sử hình thành, quá trình phát
triển, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp là việc đi sâu
vào tìm hiểu tình hình sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp trong ba
năm 2011, 2012, 2013; phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản lưu
động của doanh nghiệp trong ba năm này.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
TÀI SẢN LƯA ĐỘNG CỦA CÔNG TY TNHH CÔNG NHIỆP VÀ
THƯƠNG MẠI HÀ NỘI (HATRICO). Chương này bao gồm phương
hướng hoạt động của doanh nghiệp trong năm 2014 và những giải pháp để
nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp trên cơ sở lý
luận và phân tích thực tiễn của hai chương trên.
Phần kết luận: Nêu bật sự cần thiết trong việc công tác quản lý và sử

dụng tài sản lưa động của công ty HATRICO. Khái quát lại những kết quả đạt
được của đề tài từ đó đưa ra các kiến nghị đối với công ty cũng như với nhà
nước.
Đây là một đề tài tương đối phức tạp, nên em cũng không tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy để có thể hoàn
thiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn!
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÀI SẢN LƯU ĐỘNG VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG
1.1Khái niệm và kết cấu tài sản lưu động của doanh nghiệp:
1.1.1 Tổng quan về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt
động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Theo
Luật doanh nghiệp của Việt Nam (năm 2006) thì doanh nghiệp là một tổ chức
kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động
kinh doanh. Tức là thực hiện một, một số hay tất cả các công đoạn của quá
trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng các dịch vụ trên
thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể
kinh doanh sau : kinh doanh cá thể, kinh doanh góp vốn, công ty. Các doanh
nghiệp ở Việt Nam bao gồm những loại hình sau: Doanh nghiệp Nhà nước,
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên
doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh đều

hướng tới mục tiêu là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên để
đạt được mục đích này thì không phải là dễ, đặc biệt là trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Mỗi doanh nghiệp đều phải chịu sự tác động của hàng loạt
các yếu tố mạnh như: sự phát triển của công nghệ tạo ra các phương thức sản
xuất mới, phương thức quản lý mới; chịu sự ràng buộc của hệ thống pháp luật
bao gồm: luật, các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế quản lý tài chính để
đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp; chịu sức ép của
thị trường cạnh tranh. Quá trình hoạt động cũng như phương thức quản lý của
mỗi doanh nghiệp khác nhau là khác nhau. Vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tự
điều chỉnh hướng đi của riêng mình. Đặc biệt muốn phát triển bền vững, các
doanh nghiệp phải làm chủ và dự đoán trước được sự thay đổi của môi trường
để sẵn sàng thích nghi với nó. Có như vậy, thì mới có thể đưa ra được những
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
quyết định quản lý đúng đắn, kịp thời và đạt được mục tiêu của doanh nghiệp
mình.
Điều quan trọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp chính là hoạt động quản lý tài chính. Tài chính doanh nghiệp
được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong
nền kinh tế bao gồm quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, thị trường tài
chính và các thị trường khác, quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Một trong
những nội dung quan trọng của quản lý tài chính là các doanh nghiệp phải
biết xác định cơ cấu vốn và tài sản một cách phù hợp, từ đó có thể tiếp tục
hoạt động để sử dụng tài sản của mình nhằm đảm bảo và phát triển vốn của
doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất trên cơ sở phân tích về doanh thu và chi
phí. Quản lý tài chính tốt, sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể đứng vững trên thị
trường và đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp và lợi ích cho toàn bộ

nền kinh tế.
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của tài sản lưu động (TSLĐ) và sự cần thiết
phải quản lý TSLĐ.
1.1.2.1 Khái niệm:
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh
doanh, đều cần phải trả lời ba câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản
xuất như thế nào. Trong nền kinh tế thị trường, dưới áp lực của sự cạnh tranh
gay gắt, cùng với sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều thành
phần kinh tế,… các doanh nghiệp đều nhằm tìm ra lời giải đáp trên với mục
đích thu được lợi ích tối đa. Để làm được điều này trước hết doanh nghiệp
phải có vốn. Nó là yếu tố không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất và
kinh doanh.
Vốn là một biểu hiện bằng tiền, là giá trị của tài sản mà doanh nghiệp
đang nắm giữ. Tài sản và vốn là hai mặt hiện vật và giá trị của một bộ phận
nguồn lực sản xuất mà doanh nghiệp huy động vào quá trình sản xuất và kinh
doanh. Do vậy quản lý vốn và tài sản trở thành một nội dung quan trọng của
quản trị tài chính. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý vốn và tài sản là đảm
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
bảo cho quá trình sản xuất và kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả
kinh tế cao nhất. Tài sản trong doanh nghiệp bao gồm tài sản cố định và tài
sản lưu động (TSCĐ và TSLĐ), trong đó giá trị các tài sản lưu động của các
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thường chiếm một tỷ trọng lớn trong
tổng giá trị tài sản của chúng.
Đối với tài sản lưu động chúng ta có thể hiểu đó là những tài sản sử
dụng cho quá trình sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, có thời gian sử
dụng, luân chuyên, thu hồi trong một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. Tài

sản lưu động liên tục vận động, chu chuyển trong chu kỳ kinh doanh nên nó
tồn tại ở tất cả các khâu, lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất của một doanh
nghiệp. Quản lý và sử dụng hợp lý các loại tài sản lưu động (TSLĐ) có ảnh
hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh
nghiệp đó.
1.1.2.2 Đặc điểm:
TSLĐ luân chuyển nhanh.
TSLĐ dịch chuyển một lần trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
TSLĐ hoàn thành một vòng tuần hoàn sau khi hoàn thành một quá trình
sản xuất kinh doanh.
Quá trình vận động của TSLĐ là một chu kỳ khép kín từ hình thái này
sang hình thái khác rồi trở về hình thái ban đầu với giá trị lớn hơn giá trị ban
đầu. Chu kỳ vận động của VLĐ là cơ sở đánh giá khả năng thanh toán, hiệu
quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
1.1.2.3 Sự cần thiết phải quản lý TSLĐ:
Các doanh nghiệp cần phải quản lý tốt và có hiệu quả TSLĐ vì:
• TSLĐ có thời gian luân chuyển ngắn và thường xuyên biến đổi, nhạy
cảm với những biến đổi của thị trường, của doanh nghiệp.
• Hiệu quả sử dụng TSLĐ có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý tốt TSLĐ giúp doanh nghiệp góp
phần giảm chi phí giá thành sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của mình trên
thị trường.
• Xác định nhu cầu tài sản lưu động hợp lý trong mối tương quan với
nhu cầu tài sản cố định, từ đó tránh được tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
TSLĐ. Sử dụng TSLĐ một cách hợp lý, tiết kiệm đáp ứng yêu cầu sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp được bình thường, liên tục.
Việc quản lý TSLĐ giúp doanh nghiệp nắm bắt tình hình về việc sử
dụng TSLĐ tại doanh nghiệp, từ đó dự báo và đưa ra các kế hoạch về TSLĐ
cũng như việc xác định nguồn tài trợ hợp lý cho TSLĐ của doanh nghiệp
trong kỳ kinh doanh.
1.1.3 Kết cấu của tài sản lưa động:
1.1.3.1 Theo lĩnh vực tham gia luân chuyển
- TSLĐ sản xuất: gồm tài sản dự trữ cho quá trình sản xuất (bao gồm:
nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ, đang dự trữ trong kho) và tài sản
trong sản xuất (giá trị sản phẩm dở dang).
- TSLĐ lưu thông: gồm tài sản dự trữ cho quá trình lưu thông (thành
phẩm và hàng hóa dự trữ trong kho hay đang gửi bán) và tài sản trong quá
trình lưu thông (gồm: tiền, các khoản phải thu).
- TSLĐ tài chính: là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn với các mục
đích kiếm lời (gồm: đầu tư liên doanh, đầu tư chứng khoán, .).
1.1.3.2 Theo các khoản mục trên bảng cân đối kế toán:
- Ngân quỹ: bao gồm tiền mặt tại két, tiền gửi ngân hàng và tiền đang
chuyển.
- Các khoản phải thu: phải thu của khách hàng, phải thu nội bộ, phải
thu khác, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, tạm ứng và chi phí trả trước.
- Dự trữ, tồn kho: gồm nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ phục
vụ cho quá trình sản xuất và kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm.
- TSLĐ khác: bao gồm các khoản tạm ứng chưa thanh toán, chi phí trả
trước, chi phí chờ kết chuyển, tài sản thiếu chờ xử lý và các khoản thế chấp,
ký cược và ký quỹ ngắn hạn.
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề này, e tập trung vào ngân
quỹ, các khoản phải thu và hàng tồn kho, dự trữ.
1.1.4 Vai trò của TSLĐ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh:
TSLĐ là một trong những điều kiện vật chất không thể thiếu được của
quá trình sản xuất. Trong cùng một lúc, TSLĐ của doanh nghiệp được phân

bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển. Muốn cho quá trình tái sản xuất được
liên tục doanh nghiệp phải đảm bảo đủ về nhu cầu TSLĐ. Nếu không quá
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
trình sản xuất sẽ bị gián đoạn, gặp nhiều trở ngại, tăng chi phí hoạt động đồng
thời dẫn tới kết quả kinh doanh không tối ưu.
Trong quá trình theo dõi sự vận động của TSLĐ, doanh nghiệp gần như
quản lý được toàn bộ các hoạt động diễn ra trong chu kỳ sản xuất và kinh
doanh. Vì vậy mà TSLĐ có ảnh hưởng lớn đến việc thiết lập chiến lược sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô TSLĐ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất. Với
một quy mô TSLĐ hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được chi phí và
tăng hiệu quả hoạt động, từ đó tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường.
Ngoài ra cơ cấu TSLĐ còn thể hiện được phần nào tình hình tài chính
hiện tại của doanh nghiệp. Cụ thể là khả năng sinh lời của các khoản đầu tư
ngắn hạn, tính an toàn cao hay thấp của các khoản phải thu, mức độ phụ thuộc
của doanh nghiệp đối với sự biến động của thị trường (nguyên, nhiên vật liệu
và hàng hoá, ).
1.1.5 Nguồn tài trợ TSLĐ của doanh nghiệp:
Để tài trợ cho TSLĐ người ta có thể sử dụng nhiều nguồn khác nhau.
Điều quan trọng chính là xác định hợp lý từng nguồn để có thể kiểm soát và
sử dụng một cách có hiệu quả. Sự hiệu quả, được thể hiện ở việc giảm chi phí
tài trợ, tạo sự phù hợp giữa chu kỳ của TSLĐ và kỳ hạn nguồn tài trợ. Có hai
nguồn tài trợ chính cho TSLĐ của một doanh nghiệp là:
1.1.5.1 Nguồn tài trợ ngắn hạn:
Bao gồm: vay ngắn hạn ngân hàng, tạo vốn bằng cách bán nợ, chiết
khấu thương phiếu và các khoản vốn chiếm dụng của các đối tượng khác như

các khoản thuế phải nộp nhưng chưa nộp, các khoản phải trả cán bộ công
nhân viên nhưng chưa đến hạn phải trả, các khoản đặt cọc của khách hàng và
mua chịu hàng hoá.
1.1.5.2 Nguồn tài trợ dài hạn:
Bao gồm: nguồn vốn chủ sở hữu (vốn góp ban đầu, vốn huy động thêm
bằng hai cách phát hành thêm cổ phiếu, lợi nhuận giữ lại) và vay dài hạn.
Mỗi nguồn tài trợ trên đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Nếu sử
dụng toàn bộ là nguồn tài trợ dài hạn thì doanh nghiệp ít phải chịu rủi ro về
khả năng thanh toán và không phải chịu rủi ro về lãi suất huy động. Tuy nhiên
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
huy động nguồn tài trợ dài hạn doanh nghiệp phải chịu phí tổn cao do chi phí
huy động của nguồn dài hạn thường cao hơn nguồn ngắn hạn và có thể dẫn tới
hiện tượng lãng phí vốn khi chưa tài trợ cho nhu cầu TSLĐ mới.
Ngược lại nếu sử dụng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho TSLĐ thì chi phí
huy động sẽ thấp hơn, tránh được những lãng phí khi không có nhu cầu mới.
Nhưng sử dụng nguồn này doanh nghiệp lại phải đối mặt với những rủi ro về
thanh khoản, rủi ro về biến động lãi suất. Do vậy các doanh nghiệp thường sử
dụng kết hợp cả hai nguồn trên để tài trợ cho nhu cầu TSLĐ. Tuy nhiên cũng
cần thấy rằng thông thường các doanh nghiệp không chọn duy nhất một mô
hình nào mà tuỳ từng thời kỳ doanh nghiệp có sự lựa chọn phù hợp.
1.2Hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp:
1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng TSLĐ:
Hiệu quả sử dụng TSLĐ là một phạm trù kinh tế phản ánh tình hình sử
dụng TSLĐ của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất trong kinh doanh,
với tổng chi phí thấp nhất. Hiệu quả TSLĐ được biểu hiện tập trung ở các mặt
sau:

• Khả năng sử dụng tiết kiệm, hợp lý TSLĐ của doanh nghiệp càng
cao, càng tăng so với mức sử dụng chung của ngành và so với kỳ trước đó.
Việc sử dụng tiết kiệm TSLĐ là một trong những chỉ tiêu cần được xem xét
khi tính hiệu quả sử dụng TSLĐ. Bởi nó giúp doanh nghiệp giảm chi phí,
không phải tài trợ thêm cho TSLĐ khi mở rộng quy mô, từ đó tăng lợi nhuận
và đáp ứng đầy đủ, thuận lợi cho quá trình sản xuất và kinh doanh.
• Tốc độ luân chuyển cao của TSLĐ trong quá trình sản xuất. Đây
cũng là biểu hiện của hiệu quả sử dụng TSLĐ vì nếu TSLĐ có tốc độ luân
chuyển cao thì khả năng thu hồi vốn cao và nhanh, tiếp tục tái đầu tư cho kỳ
sản xuất tiếp theo, chớp được cơ hội kinh doanh đồng thời tăng khả năng cạnh
tranh.
• Mặt biểu hiện nữa là khả năng sinh lời và khả năng sản xuất của
TSLĐ phải cao, không ngừng tăng so với ngành và giữa các thời kỳ khác
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
nhau. Điều này có nghĩa là một đồng giá trị TSLĐ phải đem lại một khoản
doanh thu cao (thể hiện khả năng sản xuất) và một khoản lợi nhuận cao (thể
hiện khả năng sinh lời).
Ngoài ra hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp còn là việc doanh
nghiệp có kết cấu tài sản hợp lý cùng với một kết cấu tối ưu của TSLĐ.
1.2.2 Phương pháp đánh giá:
Ngoài việc quan sát, thu thập, thống kê số liệu, tài liệu liên quan thì để
phân tích và đánh giá được hiệu quả sử dụng TSLĐ có nhiều phương pháp
trong đó có thể sử dụng hai phương pháp là: phương pháp so sánh và phương
pháp tỷ số.
1.2.2.1 Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong

phân tích hoạt động kinh doanh. Khi sử dụng phương pháp này thì chúng ta
phải lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh. Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ
được lựa chọn làm căn cứ để so sánh, được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục
đích của nghiên cứu mà lựa chọn gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh có
thể là:
• Tài liệu của năm trước (hay kỳ trước) nhằm đánh giá xu hướng phát
triển của các chỉ tiêu.
• Các mục tiêu đã dự kiến (như kế hoạch, dự toán, định mức) nhằm
đánh giá tình hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định mức.
• Các chỉ tiêu trung bình ngành, khu vực kinh doanh, nhu cầu đơn đặt
hàng, của doanh nghiệp nhằm khẳng định vị trí của mình và khả năng đáp
ứng nhu cầu,…
Các chỉ tiêu của kỳ được so sánh với kỳ gốc lựa chọn được gọi là chỉ
tiêu kỳ thực hiện và là kết quả mà doanh nghiệp đạt được.
Để phép so sánh có ý nghĩa thì điều kiện tiên quyết chính là các chỉ tiêu
được sử dụng phải đồng nhất. Trong thực tế thường điều kiện có thể so sánh
được giữa các chỉ tiêu kinh tế cần được quan tâm cả về mặt thời gian và
không gian. Về mặt thời gian thì các chỉ tiêu được tính trong cùng một
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
khoảng thời gian hạch toán phải thống nhất trên ba mặt là: phải cùng phản
ánh nội dung kinh tế, phải cùng một phương pháp tính toán và phải cùng một
đơn vị đo lường, về mặt không gian thì các chỉ tiêu cần phải được quy đổi về
cùng quy mô và điều kiện kinh doanh tương tự như nhau.
Thông thường, người ta sử dụng các kỹ thuật so sánh sau:
• So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế và kết quả so sánh biểu hiện

khối lượng quy mô của các hiện tượng kinh tế.
• So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện kết
cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển và mức phổ biến của các hiện tượng kinh
tế.
• So sánh bằng số bình quân: số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt
đối, biểu hiện của tính chất đặc trưng chung về mặt số lượng, nhằm phản ánh
đặc điểm chung của một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể chung có cùng
một tính chất. Tuỳ theo mục đích và yêu cầu của phân tích, tính chất và nội
dung của các chỉ tiêu kinh tế mà người ta dùng kỹ thuật so sánh thích hợp.
Quá trình phân tích theo kỹ thuật của phương pháp so sánh có thê thực
hiện theo ba hình thức sau:
• So sánh theo chiều dọc: là quá trình so sánh nhằm xác định tỷ lệ quan
hệ tương quan giữa các giữa các chỉ tiêu từng kỳ của các báo cáo kế toán tài
chính, còn được gọi là phân tích theo chiều dọc.
• So sánh theo chiều ngang: quá trình so sánh nhằm xác định các tỷ lệ
và chiều hướng biến động giữa các kỳ trên báo cáo kế toán tài chính.
• So sánh xác định xu hướng và tính liên hệ của các chỉ tiêu: các chỉ
tiêu riêng biệt hoặc các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo được xem xét trong
mối quan hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và chúng có thể được
xem xét nhiều kỳ giúp cho ta thấy rõ hơn xu hướng phát triển của các hiện
tượng nghiên cứu.
Các hình thức sử dụng kỹ thuật so sánh trên thường được phân tích
trong báo cáo kế toán tài chính, nhất là bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
doanh, bảng cân đối kế toán và bảng lưu chuyển tiền tệ là các báo cáo tài

chính định kỳ quan trọng của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Phương pháp tỷ số.
Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để
phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so sánh với chỉ
tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp
dụng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện do nguồn thông tin kế toán - tài
chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn làm cơ sở để hình thành
những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh
nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; việc áp dụng công nghệ tin học ngày
càng rộng rãi với nhiều chức năng, công dụng mới cho phép tích luỹ dữ liệu
và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số; đồng thời phương
pháp này giúp nhà phân tích khai thác một cách có hiệu quả những số liệu và
phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục theo
từng giai đoạn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng TSLĐ, người ta sử dụng các tỷ số sau:
• Vòng quay TSLĐ:
Doanh thu
Vòng quay TSLĐ =
TSLĐ bình quân
Chỉ tiêu này cho biết TSLĐ luân chuyển được mấy vòng trong kỳ. Nếu
số vòng quay tăng thì TSLĐ luân chuyển với tốc độ cao, một điều rất có lợi
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vậy vòng quay TSLĐ càng tăng thì hiệu
quả sử dụng TSLĐ càng tăng và ngược lại.
• Kỳ luân chuyển TSLĐ: chính là số ngày bình quân cần thiết để TSLĐ
thực hiện một vòng quay trong kỳ.
Thời gian của kỳ phân tích
Kỳ luân chuyển TSLĐ =
Số vòng quay của TSLĐ trong kỳ
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B

12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
Với thời gian của kỳ phân tích được quy ước là một năm tương ứng với
360 ngày; 1 quý tương ứng với 90 ngày; 1 tháng tương ứng với 30 ngày. Thời
gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn,
hiệu quả sử dụng TSLĐ sẽ càng cao. Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển của
trình độ kinh doanh, công tác quản lý, tình hình tài chính của doanh nghiệp.
• Khả năng sinh lời TSLĐ:
LNST
Khả năng sinh lời của =
TSLĐ TSLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Chí tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của TSLĐ. Nó cho biết mỗi
đơn vị TSLĐ trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế.
• Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành:
TSLĐ
Khả năng thanh toán =
Hiện hành Nợ ngắn hạn
TSLĐ ở đây thông thường bao gồm tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ
chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho);
còn nợ ngắn hạn lại thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp,
các khoản phải trả, phải nộp khác,.v v cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời
gian nhất định, tới một năm. Tỷ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn
hạn của doanh nghiệp, nó cho biết được mức độ các khoản nợ của các chủ nợ
ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một
giai đoạn tương đương với thời hạn khoản nợ đó.
• Tỷ số khả năng thanh toán nhanh:
TSLĐ – Dự trữ
Khả năng =

thanh toán nhanh Nợ ngắn hạn
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh và nợ ngắn hạn. Tài sản
quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền
bao gồm tiền, chứng khoán, GTCG ngắn hạn và các khoản phải thu. Tài sản
dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn trong tổng TSLĐ và
dễ bị lỗ nhất nếu được bán ra. Do vậy tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho
biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán
tài sản dự trữ (hay tồn kho).
• Vòng quay tiền:
Doanh thu
Vòng quay tiền =
Tiền + chứng khoán dễ chuyển nhượng
Tỷ số này được xác định bằng cách lấy doanh thu trong năm chia cho
tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân (chứng khoán ngắn
hạn dễ chuyển nhượng). Tỷ số này cho biết, số vòng quay của tiền trong một
năm. Nếu tỷ số này càng lớn chứng tỏ trong một năm TSLĐ của doanh
nghiệp quay được càng nhiều vòng hơn và doanh nghiệp sử dụng TSLĐ có
hiệu quả hơn.
• Thời gian vòng quay tiền:
Số ngày trong kỳ
Thời gian =
Vòng quay tiền số vòng quay tiền
Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để tiền chuyển được một vòng.
Chỉ tiêu này càng thấp, thì hiệu quả sử dụng TSLĐ càng cao và ngược lại.
• Vòng quay dự trữ, tồn kho:

Doanh thu
Vòng quay dự trữ =
Giá trị dự trữ bình quân
Đây là chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất và kinh
doanh của doanh nghiệp. Vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa
doanh thu trong năm và giá trị dự trữ (nguyên vật liệu, vật liệu phụ, thành
phẩm dở dang, thành phẩm) bình quân. Tỷ số này cao chứng tỏ doanh nghiệp
đang hoạt động hiệu quả và ngược lại.
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
• Thời gian vòng quay dự trữ:
Số ngày trong kỳ
Thời gian =
Vòng quay dự trữ số vòng quay dự trữ
Chỉ tiêu này sẽ cho biết kỳ đặt hàng bình quân của doanh nghiệp là bao
nhiêu ngày.
• Kỳ thu tiền bình quân:
Khoản phải thu x 360
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu
Kỳ thu tiền dùng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ
sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu
lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp
và các khoản trả trước. Tuy nhiên, nếu tỷ số này cao thì không tốt cho doanh
nghiệp. Nó cho thấy vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng trong khâu thanh toán
hoặc do khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp kém.
1.2.3 Nội dung quản lý TSLĐ:

1.2.3.1 Quản lý, dự trữ hàng tồn kho:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thông thường
phải dự trữ một lượng hàng hoá nhất định để cho doanh nghiệp có thể hoạt
động một cách liên tục. Hàng hoá tồn kho bao gồm ba loại chính: nguyên liệu
thô, sản phẩm dở dang và sản phẩm hoàn thành. Nguyên liệu thô là những
nguyên liệu và bộ phận, linh kiện rời do các doanh nghiệp mua và sử dụng
trong quá trình sản xuất.
Trong sản xuất nếu các doanh nghiệp mua nguyên liệu với số lượng
quá lớn hay quá nhỏ thì đều không đạt hiệu quả tối ưu, bởi nếu mua với số
lượng quá lớn thì doanh nghiệp sẽ phải chịu nhiều chi phí tồn trữ và rủi ro do
hàng hoá bị hư hao, mất mát. Mặt khác, nếu mua hàng hoá với số lượng quá
nhỏ có thể dẫn đến gián đoạn sản xuất và làm tăng những chi phí không cần
thiết và không đạt hiệu quả cao.
Do đó, doanh nghiệp sẽ có lợi khi mua vừa đủ nguyên liệu để tạo ra
một miếng đệm an toàn giữa cung ứng và sản xuất. Tồn kho trong quá trình
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
sản xuất là các loại nguyên liệu nằm trong từng công đoạn của dây chuyền
sản xuất. Thông thường không thể có sự đồng bộ hoàn toàn giữa các công
đoạn sản xuất của doanh nghiệp, bởi các bộ phận sản xuất không thể có cùng
công suất hoạt động trong mọi thời điểm. Bởi vậy, mỗi công đoạn sản xuất
đều có một lượng tồn kho riêng. Nếu không có một lượng nguyên liệu hay
bán thành phẩm dự trữ nào đó thì một công đoạn sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào
các bộ phận đứng trước nó. Do đó, các loại nguyên vật liệu tồn kho có tác
dụng tạo ra sự thông suốt và tính hiệu quả trong quá trình sản xuất. Dây
chuyền sản xuất càng dài, các công đoạn sản xuất càng nhiều sẽ dẫn tới nhu
cầu tồn kho càng lớn.

Khi tiến hành sản xuất xong, hầu như các doanh nghiệp chưa thể tiêu
thụ hết sản phẩm, phần thì do có độ trễ nhất định giữa sản xuất và tiêu dùng,
một phần do phải có đủ lượng hàng mới xuất được. Lúc này, sản phẩm hoàn
thành tồn kho tạo ra khoảng an toàn cần thiết giữa sản xuất và tiêu thụ. Những
doanh nghiệp thường có đặc điểm kinh doanh mang tính mùa vụ và có quy
trình chế tạo tốn nhiều thời gian thì có lượng sản phẩm hoàn thành tồn kho
lớn bởi nhu cầu đối với sản phẩm trong những mùa tiêu thụ vượt quá năng lực
sản xuất của doanh nghiệp và ngược lại. Do đó các doanh nghiệp này cần có
sản phẩm dự trữ.
Lý thuyết mô hình EOQ, mô hình độ lớn của đơn hàng tối ưu, mô hình
này được dựa trên giả định là những lần cung cấp hàng hoá là bằng nhau. Khi
doanh nghiệp bắt đầu tiến hành dự trữ hàng hoá sẽ kéo theo hàng loạt các chi
phí như chi phí bốc xếp hàng hoá, chi phí bảo quản, chi phí đặt hàng, chi phí
bảo hiểm, v v. nhưng tựu chung lại có hai loại chi phí chính là chi phí lưu
kho và chi phí đặt hàng.
Chi phí lưu kho (chi phí tồn trữ) đó là những chi phí liên quan đến việc
tồn trữ hàng hoá bao gồm: chi phí hoạt động (gồm chi phí bốc xếp hàng hoá,
chi phí bảo hiểm hàng hoá, chi phí do giảm giá trị hàng hoá, chi phí hao hụt
mất mát và chi phí bảo quản, ) và chi phí tài chính (bao gồm chi phí sử dụng
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
vốn như trả lãi tiền vay, chi phí về thuế và khấu hao).
Nếu gọi số lượng mỗi lần cung ứng hàng hoá là Q thì dự trữ trung bình
sẽ là Q/2 và C
1
là chi phí lưa kho đơn vị hàng hoá thì tổng chi phí lưa kho của
doanh nghiệp (T

1
) là:
Q
T
1
= C
1
2
Chi phí đặt hàng (chi phí hợp đồng) gồm chi phí quản lý giao dịch và
vận chuyển hàng hoá. Chi phí đặt hàng cho mỗi lần đặt hàng thường ổn định
không phụ thuộc vào số lượng hàng hoá đi mua. Nếu gọi D là toàn bộ lượng
hàng hoá cần sử dụng trong một đơn vị thời gian (năm, quý, tháng) thì số
lượng lần cung ứng hàng hoá sẽ là D/Q và gọi C
2
là chi phí mỗi lần đặt hàng
vậy tổng chi phí đặt hàng (T
2
) sẽ là:
D
T
2
= C
2
Q
Gọi TC là tổng chi phí tồn trữ hàng hoá, ta sẽ có: TC = T
1
+ T
2
Q D
TC = C

1
+ C
2
2 Q
TC sẽ nhỏ nhất khi Q
* =
Vậy Q* là lượng hàng hoá dự trữ tối ưu
Điểm đặt hàng mới: về lý thuyết người ta có thể giả định là khi nào
lượng hàng kỳ trước hết mới nhập kho lượng hàng mới. Trong thực tiễn, hoạt
động hầu như không có doanh nghiệp nào để đến khi nguyên vật liệu hết rồi
thì mới đặt hàng. Nhưng nếu đặt hàng quá sớm sẽ làm tăng lượng nguyên liệu
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
tồn kho. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải xác định thời điểm đặt hàng mới.
Thời điểm đặt hàng mới sẽ được xác định bằng số lượng nguyên liệu sử dụng
mỗi ngày nhân với độ dài của thời gian giao hàng.
Trong thực tế, nguyên vật liệu sử dụng mỗi ngày không phải là số cố
định mà chúng luôn biến động không ngừng, đặc biệt là đối với những doanh
nghiệp sản xuất mang tính thời vụ hay sản xuất những hàng hoá nhạy cảm vói
thị trường. Do đó để đảm bảo cho sự ổn định của sản xuất, doanh nghiệp cần
phải duy trì một lượng hàng tồn kho dự trữ an toàn. Lượng dự trữ an toàn là
lượng hàng hoá dự trữ thêm vào lượng dự trữ tại thời điểm đặt hàng. Lượng
dự trữ an toàn sẽ được tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp.
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm

Long
1.2.3.2 Quản lý ngân quỹ và các tài sản có tính thanh khoản cao:
a) Sự cần thiết của việc giữ tiền mặt
Tiền mặt được hiểu là tiền tồn quỹ và tiền trên tài khoản thanh toán của
doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được dùng để trả lương, mua nguyên vật liệu,
mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ,.v v.
Tỷ lệ sinh lời trực tiếp trên tiền mặt rất thấp, thậm chí tỷ lệ sinh lời trên
tiền giấy trong két của doanh nghiệp và tiền trong tài khoản chi có tỷ lệ sinh
lời bằng không. Trong khi đó sức mua của tiền tệ luôn có khuynh hướng giảm
do chịu ảnh hưởng của lạm phát. Bởi vậy có thể nói tỷ lệ sinh lời thực trực
tiếp của tiền giấy và tiền gửi ngân hàng đối với tài khoản bảo chi sẽ có tỷ lệ
âm.
Quản lý tiền mặt sẽ có liên quan chặt chẽ đến việc quản lý các loại tài
sản gắn với tiền mặt như các loại chứng khoán thanh khoản cao. Các loại
chứng khoán gần như tiền mặt giữ một vai trò như một bước đệm cho tiền
mặt, vì nếu số dư tiền mặt nhiều doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán
thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng một cách
dễ dàng, ít tốn kém chi phí. Như vậy, trong quản trị tài chính người ta sử dụng
chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong
muốn.
Ta có thể thấy điều này thông qua sơ đồ luân chuyển sau:
Sơ đồ 1 : sơ đồ luân chuyển tiền mặt.
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc gửi tiền mặt là cần
thiết nhưng việc giữ đủ tiền mặt sẽ phục vụ cho hoạt động kinh doanh có
những lợi thế sau:

- Khi mua các hàng hoá dịch vụ việc có đủ tiền mặt, doanh nghiệp có
thể được hưởng lợi thế chiết khấu.
- Giữ đủ tiền mặt, duy trì tốt các chỉ số khả năng thanh toán ngắn hạn
có thể giúp doanh nghiệp có thể mua hàng với những điều kiện thuận lợi và
được hưởng mức tín dụng rộng rãi.
- Giữ đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp tận dụng những cơ hội thuận lợi
trong kinh doanh vì chủ động trong các hoạt động thanh toán chi trả.
- Việc có đủ tiền mặt giúp doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu trong
trường hợp khẩn cấp như đình công, hoả hoạn hay chiến dịch marketing của
đối thủ cạnh tranh, vượt qua khó khăn do yếu tố thời vụ và chu kỳ kinh
doanh.
Như vậy, chúng ta thấy tuy rằng tiền mặt tại quỹ và tiền gửi trong tài
khoản bảo chi của doanh nghiệp tại ngân hàng không sinh lời, nhưng việc
nắm giữ nó là rất cần thiết và điều cần thiết là chúng ta phải giữ một lượng
vừa đủ để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được duy
trì tốt đồng thời lại không gây lãng phí cho doanh nghiệp, đảm bảo được khả
năng sinh lời cho doanh nghiệp là lớn nhất.
b) Nội dung quản lý ngân quỹ và tài sản có tính thanh khoản cao:
• Xác định mức dự trữ tiền mặt tối ưa (theo mô hình baumol).
Người đầu tiên vận dụng mô hình EOQ vào quản trị tiền mặt là nhà
khoa học người Hoa Kỳ: William J. Baumol (1952). Mô hình này cho rằng
mỗi doanh nghiệp đều có một dòng lưu kim thuần ổn định, là kết quả của
dòng lưu kim chi phí, dòng lưu kim thu nhập trên phương diện kê hoạch.
Trong kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có một lượng tiền mặt và dùng nó
để trả cho các hoá đơn một cách đều đặn. Khi lượng tiền mặt này hết, doanh
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long

nghiệp phải bán các chứng khoán có khả năng thanh khoản cao để lại có được
lượng tiền như ban đầu.
Có hai loại chi phí cần được xem xét trong trường hợp này: thứ nhất -
khoản thiệt hại tiền lãi do số tiền được giữ dưới dạng tiền mặt hoặc chính là
chi phí cơ hội cho việc lưu giữ tiền mặt tại quỹ của doanh nghiệp và thứ hai
chính là chi phí trong mỗi lần giao dịch chứng khoán.
Nếu gọi M là cán cân tiền mặt, thì cán cân tiền mặt trung bình (mức dự
trữ tiền mặt trung bình) là M/2. Vậy số tiền lãi bị bỏ qua vì duy trì cán cân
tiền mặt trung bình (C
1
) là:
M
C
1
= i
2
Với i là lãi suất sinh lời của các công cụ được giao dịch trên thị trường
tiền tệ.
C
b
chi phí cho một lần bán chứng khoán thanh khoản cao và M
n
là tổng
mức tiền mặt giải ngân hàng năm. Vậy chi phí cho mỗi lần giao dịch chứng
khoán (C
2
) là:
M
n
C

2
= i
M
TC là tổng chi phí dự trữ tiền mặt.
Ta có: TC = C
1
+ C
2
M M
n
TC = i + i
2 M
Tổng chi phí sẽ nhỏ nhất khi :
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS.Phạm
Long
M
*
=
Vậy M
*
sẽ chính là mức dự trữ tiền mặt tối ưu.
Từ công thức trên cho thấy nếu lãi suất càng cao thì người ta càng giữ ít
tiền mặt, và ngược lại nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao họ càng
giữ nhiều tiền mặt.
Trong thực tiễn, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp rất hiếm
khi lượng tiền vào, ra của doanh nghiệp lại đều đặn, và dự kiến trước được, từ
đó tác động đến mức dự trữ cũng không thể đều đặn như việc tính toán trên.

Bằng việc nghiên cứu và phân tích thực tiễn, các nhà kinh tế học đã đưa ra
mức dự trữ tiền mặt dự kiến dao động trong một khoảng, tức là lượng tiền dự
trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất đến giới hạn cao nhất. Nếu lượng tiền mặt ở
dưới mức thấp (giới hạn dưới) thì doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có
lượng tiền mặt ở mức dự kiến,và ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử
dụng số tiền vượt quá mức giới hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt
về với mức dự kiến.
• Hoạch định ngân sách:
Để xác định nhu cầu chi tiêu và nguồn thu ngân quỹ. Kế hoạch này
thường được xây dựng dựa trên cơ sở từng tháng, từng tuần hay mỗi ngày.
Yếu tố quan trọng được một ngân sách tiền mặt có ý nghĩa dựa trên tính xác
thực của những dự báo về doanh số bán
Trước hết, chúng ta phải xác định về doanh thu bán hàng trong kỳ. Một
khi đã dự báo được doanh thu bán hàng, doanh nghiệp có thể dự thảo được
ngân sách tiền mặt bằng cách ước tính thời điểm cụ thể sẽ thu hồi tiền bán
hàng. các khoản chi tiêu có liên quan đến sản xuất, mua nguyên vật liệu và
doanh số bán hàng tương lai. Việc dự báo này phải được dựa trên nhiều yếu tố
như chính sách kinh tế - xã hội, môi trường cạnh tranh và nhu cầu của thị
trường về sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp và dựa theo cả những thống kê
SV: Vũ Hữu Việt Lớp: Tài chính doanh nghiệp
53B
22

×